khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016

“Anh không chết đâu anh” trong lòng một Việt Nam tự do, dân chủ - Tác giả Vann Phan



Khác với những nhà viết sử, những người phê bình lịch sử, khi đề cập tới giai đoạn hiện đại trong lịch sử Việt Nam, có thể sẽ phải đồng ý rằng ngày 30 Tháng Tư 1975 đã đánh dấu cái chết của Miền Nam tự do nhưng đồng thời ngày đó cũng đã khởi đầu cho tiến trình phục sinh đất nước Việt Nam.

Nói cách khác, trong cái chết của Miền Nam tự do đã có sự khởi đầu của mầm sống tương lai cho một đất nước Việt Nam thống nhất và không Cộng Sản.

Hay, quan trọng hơn, biến cố ngày 30 Tháng Tư năm 1975 phải được coi là một kinh nghiệm mang tính “mở mắt” cho toàn thể dân tộc Việt Nam từ Nam chí Bắc. Thật vậy, trong khi sự kiện Cộng Sản Bắc Việt độc tài, đảng trị đánh chiếm được Miền Nam Việt Nam tự do đã khiến cho dân chúng Miền Nam Việt Nam - từ người dân lao động khờ khạo cho tới giới trí thức mơ mộng hão huyền - phải “sáng mắt ra” trước một chế độ Cộng Sản phi nhân bản và xa rời thực tế thì sự kiện này cũng làm cho người Cộng Sản Việt Nam - từ giới lãnh đạo chóp bu cáo già ở Trung Ương Ðảng cho tới người dân quê ngu dốt - phải tỉnh ngộ khi nhận chân được rằng dân chúng Miền Nam Việt Nam, dù dưới chế độ tự do, dân chủ còn non trẻ của họ, thật sự đã được sống tự do hơn, no ấm hơn và hạnh phúc hơn rất nhiều so với những kẻ từng vượt đường Trường Sơn từ Miền Bắc xa xôi tới “giải phóng” cho họ, trái ngược hẳn với các tín điều căn bản mà những người Cộng Sản đã tôn sùng từ bao thập niên qua.

Bài viết sau đây có mục đích làm sáng tỏ nhận định rằng, trong khi biến cố ngày 30 Tháng Tư năm 1975 có tầm vóc lịch sử lớn lao, thì biến cố này cũng còn ảnh hưởng sâu đậm tới vận mệnh của dân tộc, bởi vì nó vừa đánh dấu cái chết của Miền Nam tự do mà cũng vừa đánh dấu khởi điểm của tiến trình phục sinh đất nước Việt Nam. Và trong tiến trình phục sinh đất nước này, người ta không thể không kể đến những hy sinh to lớn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua hơn hai thập niên chiến tranh trong việc bảo vệ chiếc vườn ươm mầm tự do, dân chủ tại Miền Nam để dân tộc có thể lấy đó làm đà tiến lên trên con đường xây dựng một nước Việt Nam thật sự tự do và dân chủ.

Lịch sử coi ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là ngày Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Những bộ quân sử viết về ngày này coi đây là ngày tan rã của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Dù là sụp đổ hay là tan rã, những từ ngữ này đều nói tới sự chấm dứt của một cuộc sinh tồn, tức là cái chết của một thực thể đang hiện hữu.

Nhưng, đối với người Việt Nam trên cả hai miền đất nước từng lâm vào một cuộc chiến tranh - vẫn thường được mệnh danh là “cuộc chiến tranh ý thức hệ” - trong suốt ba thập niên kể từ năm 1945, những hệ lụy từ cái chết đó mới là điều quan trọng cho dòng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, điều được coi như là chiến thắng của người Cộng Sản Việt Nam lẫn chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế không quan trọng mấy so với những hệ lụy từ cái chết của Miền Nam Việt Nam, mà trên thực tế là cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trong ngày 30 Tháng Tư năm 1975 định mệnh đó.

Thật vậy, ngày nay, sau ba thập niên hồi tưởng và suy nghiệm về biến cố ngày 30 Tháng Tư năm nào cùng những hậu quả của nó, những người Việt Nam bình thường - không bị mù quáng vì các tư tưởng lệch lạc hay thành kiến bất công - có thể sẽ đi đến nhận định sau cùng rằng “chính những hy sinh lớn lao và cao cả của người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam hơn ba thập niên trước đây đã tạo dựng mầm sống cho dân tộc Việt Nam hôm nay.”

Vai trò gìn giữ đất nước và bảo vệ tự do, dân chủ của người lính Cộng Hòa

Các thành phần sĩ quan quân đội và cảnh sát của Việt Nam Cộng Hòa, trong thời gian bị bắt đi “học tập cải tạo” sau ngày Miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng Sản, vẫn thường được các cán bộ chính trị Cộng Sản bảo cho biết rằng quân đội cùng các lực lượng Cảnh Sát Miền Nam Việt Nam chỉ là đội ngũ những “lính đánh thuê” cho “Ðế Quốc Mỹ” và là những thành phần đã “lầm đường, lạc lối” trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua. Thật ra, đó chỉ là lý của kẻ thắng chứ không phải là chân lý.

Ðiều đau xót là, giờ đây, dưới ánh sáng của lịch sử soi rọi, chính các thành phần trong Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt trong cuộc “kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” vừa rồi mới là những kẻ lầm đường, lạc lối, bởi vì họ đã bị Ðảng Cộng Sản Việt Nam lừa phỉnh, lợi dụng và ép buộc vào chỗ phải đổ máu xương và hy sinh gian khổ cho tham vọng đánh chiếm Miền Nam Việt Nam của họ.

Hậu quả sau cùng của đường lối hiếu chiến và thiển cận này là đưa đẩy Việt Nam - không phải là một nửa nước mà là toàn thể đất nước - tới tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng và bế tắc chính trị chưa từng có trước đây, để rồi hiện nay Cộng Sản Việt Nam lại bị buộc phải tìm cách đi vào con đường kinh tế tự do và dân chủ đa nguyên là con đường mà Quốc Gia Việt Nam hồi trước 1954 và Việt Nam Cộng Hòa từ sau Hiệp Ðịnh Genève 1954 đã không ngừng theo đuổi nhưng cứ bị những người Cộng Sản ra sức phá hoại.

Những gì mà Cộng Sản đang làm hiện nay trên đất nước Việt Nam là bằng cớ không thể chối cãi cho sự sai lầm tai hại của những người Cộng Sản trước đây trong cuộc chiến. Về mặt kinh tế, họ đang tranh thủ chạy theo chế độ kinh tế thị trường đầy lợi nhuận để có thể được tư bản ngoại quốc đổ vốn vào đầu tư, tất cả đều là từ những nước trong hệ thống kinh tế tư bản mà trước khi chiếm được Miền Nam Việt Nam hồi năm 1975 những người Cộng Sản Việt Nam đã không ngừng chê bai và mạt sát. Từ sau khi đổi mới, Cộng Sản Việt Nam đã lần lượt gia nhập hai tổ chức kinh tế tư bản quan trọng, đó là Hiệp Hội Các Quốc Gia Ðông Nam Á (ASEAN) và Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO), một tổ chức kinh tài quốc tế quan trọng mà Việt Nam chính thức trở nên thành viên thứ 150 vào đầu năm 2007.

Về mặt quân sự, sau khi đã thấm những bài học lịch sử với bậc thầy Trung Quốc qua những vụ như Hoàng Sa, Trường Sa, biên giới phía Bắc, và mới đây là vụ dâng đất, cắt lãnh hải cho Trung Quốc, Cộng Sản Việt Nam đang ra sức tiến tới việc hợp tác quân sự với Hoa Kỳ là kẻ thù cũ trong cuộc chiến tranh vừa qua. (1) Về mặt chính trị, những người Cộng Sản Việt Nam đang bị áp lực hết sức nặng nề của những phần tử bất đồng chính kiến và chống đối tại Việt Nam, gồm toàn những nhân vật tên tuổi trong nước và có uy tín quốc tế, đòi phải cải tổ hệ thống chính trị độc đảng để đổi sang chế độ dân chủ đa nguyên, y hệt như thể chế chính trị của hầu hết các nước tự do, dân chủ trên thế giới ngày nay vậy. (2)

Lực lượng Hải Quân giữ yên lãnh hải

Dù những nhận định và tình cảm đối với tập thể quân đội của Miền Nam Việt Nam có khác biệt nhau, dân chúng ở cả hai miền Nam, Bắc có thể sẽ phải đồng ý với sự thật này: quân đội Miền Nam Việt Nam là thực thể chiến đấu cho sự sinh tồn của Miền Nam tự do cho dù thực thể này vẫn nằm trong tập thể gọi là “quân, dân, cán, chính” dưới quyền lãnh đạo của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nói cách khác, quân đội Miền Nam còn thì Miền Nam còn, quân đội Miền Nam mất thì Miền Nam mất. Cộng Sản Bắc Việt hay Mặt Trận (Dân Tộc) Giải Phóng Miền Nam (Việt Nam), trong cuộc chiến tranh đánh chiếm Miền Nam Việt Nam vừa qua, đã không đối đầu với ai khác hơn là quân đội Miền Nam và đã không sợ ai khác hơn là các thành viên thuộc “đảng kaki” của Miền Nam, bởi vì đó chính là tập thể duy nhất có tổ chức và kỷ luật khả dĩ đối đầu được với Ðảng Cộng Sản Việt Nam.

Vai trò của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - mà trước đó lần lượt được gọi là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - trong cuộc chiến đấu chống Cộng tại Việt Nam là vai trò thực sự lớn lao trong một đất nước đang có chiến tranh. Từ thời Quốc Trưởng Bảo Ðại cho đến thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm (của Ðệ Nhất Cộng Hòa) và rồi thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (của Ðệ Nhị Cộng Hòa), dù mang danh xưng khác nhau, nhưng tập thể quân đội đó vẫn chỉ có chung một sứ mạng là bảo vệ Miền Nam Việt Nam chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt, đồng thời gúp xây dựng nền dân chủ cho đất nước, tóm lại là để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân chúng Miền Nam Việt Nam.

Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, từ 1954 đến 1963, những người chiến sĩ của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa đã là thành phần tiên phong trong sứ mạng đánh dẹp nội loạn và chống Cộng Sản xâm lấn. Dù muốn, dù không, Tổng Thống Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Ðình Nhu vẫn trông cậy vào những người lính Cộng Hòa trong sứ mạng bảo quốc, an dân, nghĩa là chiến đấu chống các lực lượng Cộng Sản, dù từ ngoài Bắc xâm nhập vào (tức quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt) hay là du kích tại miền Nam (tức quân Mặt Trận Giải Phóng), đang tìm mọi cách lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để áp đặt quyền thống trị của Cộng Sản Việt Nam lên đầu dân chúng Miền Nam Việt Nam.

Ðến thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (và sau đó là các Tổng Thống ngắn ngày Trần Văn Hương và Dương Văn Minh), từ 1966 đến 1975, những người lính Cộng Hòa lại càng đảm đương thêm nhiều trọng trách hơn trong cuôc chiến đấu chống Cộng Sản mà vào thời điển này đã không hề che giấu ý đồ thôn tính Miền Nam qua một cuộc xâm lấn mà họ vẫn ưa gọi là “cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước” để “giải phóng” Miền Nam Việt Nam khỏi “ách kềm kẹp của Mỹ-Ngụy” nhằm dánh lừa dân chúng ở cả hai miền Nam, Bắc và cộng đồng quốc tế.

Phần này không có mục đích đề cao vai trò của quân đội Miền Nam, tức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, qua các trận đánh lớn hay các chiến tích lịch sử đã tạo nên những thiên anh hùng ca bi tráng trong quân sử của quân đội đó qua Cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa rồi. Phần này cũng không có dụng ý bào chữa cho cuộc thất trận bất ngờ của quân đội Miền Nam trước các lực lượng Cộng Sản từ Miền Bắc tràn xuống để thực hiện cuộc hành quân sau cùng của họ trong chiến dịch được gọi là “Chiến Dịch Hồ Chí Minh lịch sử” vào những ngày đầu của năm 1975. Các đề tài đó nằm trong nhiệm vụ của những nhà phê bình, những kẻ viết hồi ký chiến tranh, những học giả và những sử gia.
Phần này chỉ có mục đích nói lên sứ mạng bảo vệ chiếc vườn ươm mầm dân chủ và tự do của quân đội đó trong suốt hơn hai thập niên chiến tranh khốc liệt tại Miền Nam Việt Nam, để rồi khi những người lính Cộng Hòa kia phải buông súng thì đó cũng chính là lúc cái mầm dân chủ và tự do tại Miền Nam Việt Nam - mà họ từng xả thân bảo vệ - đã đủ sức mạnh mà đâm chồi, nảy lộc, mọc cành, ra lá để gây muôn vàn khó khăn và, sau cùng, có thể dẫn tới việc giải thể chế độ dộc tài, đảng trị của Cộng Sản Việt Nam trên cả hai miền Nam và Bắc, trước kia từng là hai thực thể chính trị và kinh tế hết sức khác biệt nhau mà các lãnh tụ Cộng Sản tại Hà Nội đã ra sức thống nhất làm một sau chiến thắng năm 1975 và gọi hai thực thể này dưới một cái tên chung là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. (3)

Cộng Sản Việt Nam đổi thịt, thay da

Trong mấy năm gần đây, nếu những người Việt hải ngoại nào có dịp về thăm viếng quê hương Việt Nam thì, không nhiều thì ít, sẽ phải lấy làm ngạc nhiên trước những đổi thay đáng kể của cảnh vật và sinh hoạt dân chúng so với mấy năm đầu sau khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Nhà cửa, phố xá, đường lộ và cầu cống tại các thành thị đều được tân trang hoặc xây cất thêm. Những vùng quê cũng thay hình, đổi dạng nhờ các công trình xây dựng mới, kể cả việc điện khí hóa nông thôn. Ðời sống kinh tế của dân chúng cũng rõ ràng là được cải thiện hơn nhiều với sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ kinh doanh, buôn bán tư nhân và với việc bành trướng các công-ty, xí nghiệp cũng như các ngành công, kỹ nghệ đa dạng do người Việt Nam làm chủ hay do tư bản ngoại quốc từ các nơi, kể cả Mỹ là kẻ thù cũ, kéo đến đổ vốn đầu tư vào làm ăn tại Việt Nam. Ðiều nổi bật hơn cả là sự phát triển cùng cực của ngành du lịch với hằng trăm, hằng nghìn khách sạn và nhà hàng mới được xây dựng tại các thành thị tấp nập hay dọc theo các bãi biển đông người. Những ngoại kiều mang quốc tịch Liên Xô, Hungary, Tiệp Khắc... đều biến đi đâu mất cả mà thay vào đó là những du khách đến từ Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Nhật, Nam Hàn, Trung Quốc, Ðài Loan, Hồng Kông, Singapore, Mã Lai Á, Úc Ðại Lợi... (4)

Ðó là về mặt hình thức và vật chất. Về mặt tinh thần, những cán bộ Cộng Sản từ các cấp chính quyền, các nhân viên công lực từ công an phường tới cảnh sát giao thông đều bớt đi vẻ dữ dằn như từng thấy trước đây, và thậm chí nay còn có vẻ thân thiện hơn với du khách và dân chúng địa phương nữa. Sự theo dõi, kềm kẹp dân chúng như từng được thấy trong những ngày đầu Miền Nam mới được “giải phóng” thì nay hoặc không được nhìn thấy công khai nữa hoặc đang phai nhạt dần. Ðời sống tinh thần của dân chúng tại các thành thị và thôn làng xem ra có vẻ thoải mái hơn hai, ba thập niên về trước rất nhiều.

Mặc dù các tổ chức nhân quyền trên thế giới, trong đó có Human Rights Watch (Canh Giữ Nhân Quyền) và Amnesty International (Ân Xá Quốc Tế), vẫn còn nhiều điều phải ta thán về chính quyền Cộng Sản Việt Nam trong các vấn đề đàn áp tôn giáo (như bách hại và bỏ tù các tăng, ni, các Phật tử, các linh mục Công Giáo, các tín đồ Tin Lành, Cao Ðài, Hòa Hảo, hay các giáo dân người Thượng trên Cao Nguyên Trung Phần...), mức độ bách hại và đàn áp cũng không đến nỗi quyết liệt và tàn bạo như từng xảy ra đối với giáo dân xứ đạo Bùi Phát ở Phú Nhuận, Gia Ðịnh, hay các con chiên ở Nhà Thờ Vinh Sơn thuộc Quận 10, Sài Gòn, trong mấy năm đầu khi Cộng Sản mới chiếm được Miền Nam Việt Nam. Và mặc dù các nhân vật chống đối và những người bất đồng chính kiến, trên diễn đàn hay trên mạng lưới điện toán, vẫn còn bị bắt bớ hay giam giữ dài dài, mức độ tù đày và hành hạ các đối tượng này xem ra vẫn không thể nào đem so sánh với chuyện cả trăm nghìn người thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội Miền Nam Việt Nam - từ quân nhân, viên chức chế độ cũ cho tới các nhà tu hay thành viên các đảng phái chính trị - cùng một lúc bị bắt đưa vào giam giữ trong các trại tù khổ sai mệnh danh là “trại cải tạo” trên khắp nước qua hằng chục năm trời mà không hề được tòa án xét xử.

Cộng Sản Việt Nam có gì khác với các nước Cộng Sản còn lại kia không?

Những người Quốc Gia lưu vong và những người Việt hải ngoại từng may mắn được hưởng những quyền tự do dân chủ và hấp thụ những kiến thức về văn hóa và khoa học từ báo chí truyền thông hay ngay tại các học đường Âu Mỹ hãy công bằng mà nhận định rằng, so với ba chế độ Cộng Sản khác còn lại của thế giới, là các chế độ tại Trung Quốc, Bắc Hàn và Cuba -hai đàn em nhỏ bé của Cộng Sản Việt Nam là Lào và Căm Bốt không đáng kể - thì chế độ Cộng Sản tại Việt Nam tương đối “cởi mở” nhất.

Trong thời đại hiện nay, phải nói rằng Cộng Sản Bắc Hàn là một xã hội hết sức nghiệt ngã, bởi vì quốc gia đó, dưới cả hai triều đại của cha con chủ tịch họ Kim, là một xã hội khép kín đầy những bí mật mà thế giới bên ngoài không hiểu hết được. Ðây là một đất nước mà chính quyền sẵn sàng để cho dân chúng chết đói đặng tập trung tài nguyên cho nhà nước sản xuất vũ khí - kể cả phi đạn và vũ khí nguyên tử - nhằm dọa nạt dân chúng trong nước và để thỏa mãn tham vọng diệu võ, dương oai với các nước khác, đặc biệt là Nam Hàn và Nhật Bản là hai quốc gia láng giềng gần gũi nhất.

Bắc Hàn lại là một nước mà chế độ cha truyền, con nối trở nên cực kỳ lộ liễu, với việc Chủ Tịch Kim Nhật Thành chết đi để lại “ngôi báu” cho con là Kim Chánh Nhất. (Trong khi đó, ông Hồ Chí Minh của Việt Nam muốn làm được như vậy thì cũng phải cất công chờ đợi tới ba thập niên sau khi mình qua đời, và người con lại phải mang họ khác, tức là họ Nông.) Với một đất nước như vậy, thật chẳng lạ lùng gì khi hằng chục nghìn dân chúng Bắc Hàn hiện nay đang liều mạng sống, dùng đường bộ trốn sang Trung Quốc hay tìm thuyền vượt biển tới Nam Hàn.

Hơn một thập niên sau khi nước đàn anh khổng lồ Liên Xô - chiếc nôi của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thành trì của chủ nghĩa Cộng Sản - bị xóa tên trên bản đồ thế giới và chủ nghĩa Cộng Sản bị chôn vùi dưới những tảng băng miền Tây Bá Lợi Á, Cộng Sản Cuba, một mình một cõi tại Tây Bán Cầu, vẫn còn là một quốc gia độc tài về chính trị và lạc hậu về kinh tế chỉ vì cái tự ái đặt không đúng chỗ của Chủ Tịch Fidel Castro, cha đẻ của Cộng Sản Cuba.

Ngày nay, trong khi những kẻ bất đồng chính kiến tại đảo quốc Cộng Sản này liên tục bị bách hại và tù đày thì dân chúng Cuba ngày càng nghèo nàn, lạc hậu đến nỗi ngay cả phố phường, nhà cửa tại nhiều nơi trong thủ đô Havana nom cũng loang lổ và tiều tụy, có lẽ vì không được sơn phết hay sửa sang gì kể từ khi cuộc cách mạng vô sản thành công vào năm 1959. Hồi mùa Hè năm 2006, khi Fidel Castro lâm trọng bệnh và không thể cai trị được nữa, nhà độc tài lại trao cho em ruột là Raul Castro - quân hàm đại tướng, đang là bộ trưởng Quốc Phòng - làm quyền chủ tịch Cuba, cũng là một một hình thức “cha truyền con nối” khác mà chỉ ở các nước Cộng Sản độc tài, độc đảng mới có.

Thông Tấn Xã Reuters mới đây đưa tin rằng nhà nước Cuba, vì thiếu tiền, đã giành lấy phần lớn số lợi nhuận có được qua dịch vụ du lịch trong nước khiến cho kỹ nghệ du lịch tại Cuba hiện nay không ngóc đầu lên nổi bởi vì các công ty du lịch tại đây đã phải đua nhau tăng giá để “bù lỗ” cho những khoản phải cống nạp cho nhà nứơc. Nửa thế kỷ sau khi được “giải phóng” khỏi tay nhà độc tài Batista, mỗi năm vẫn còn hằng nghìn dân chúng Cuba tiếp tục tìm mọi cách bỏ nước ra đi - hầu hết là vượt biển tới Hoa Kỳ - để mong trốn chạy khỏi một chế độ độc tài khác: chế độ Cộng Sản Cuba của hai anh em nhà họ Castro: anh làm chủ tịch nước, em làm bộ trưởng quốc phòng kiêm tư lệnh quân đội.

Trung Quốc, với chủ nghĩa Cộng Sản “cải lương” dưới quyền đạo diễn của các kép chánh từ Mao Trạch Ðông đến Ðặng Tiểu Bình, phải nói là quốc gia đạt được nhiều tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật nhất trong số các quốc gia Cộng Sản còn sót lại của thế giới ngày nay. Ðất nước Trung Hoa bây giờ đã trở nên giàu có qua những “bước nhảy vọt” phi thường từng chuyển đổi Hoa lục từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Chỉ mới vài ba thập niên “hiện đại hóa” mà thôi, Trung Quốc đã từ một quốc gia đói, nghèo biến thành một cường quốc có hạng của thế giới trên cả hai lãnh vực nguyên tử và không gian. Những tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật này của Trung Quốc có thể được giải thích là do ở đầu óc thương mại truyền thống của dân “Ba Tàu” cộng với những mầm mống tự do kinh doanh sẵn có bên trong nước này như Ma Cao, Hồng Kông và ngay sát nách của họ là Ðài Loan, hoặc xa hơn nữa là Singapore.

Tuy nhiên, về đời sống chính trị, đất nước của các vị “con Trời” vẫn còn là một trong những quốc gia có chế độ đàn áp con người tệ hại nhất, mà hai nạn nhân danh tiếng của họ từ trước tới nay vẫn là phong trào đòi tự do, dân chủ của sinh viên, học sinh tại Thiên An Môn năm 1989 và các thành viên của môn phái Pháp Luân Công từng bị đàn áp liên tục từ hồi đầu thập niên 1990 cho tới nay. Các nạn nhân kế tiếp của chế độ này là những nhà báo và những kẻ bất đồng chính kiến mà việc bắt bớ, giam cầm họ đang là mộ sự phỉ nhổ lên các giá trị về dân chủ và nhân quyền của thế giới. (5) Theo báo cáo mới nhất của Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, trong năm 2005, một mình Trung Quốc không thôi mà đã xử tử đến 80 phần trăm số can phạm bị kêu án tử hình toàn cầu, dĩ nhiên một số không nhỏ các tử tội này là những thành phần chống đối nhà cầm quyền Bắc Kinh.

Một điểm tương đồng quan trọng giữa Cộng Sản Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam là cả hai đảng này, vì lý do sinh tồn, đều đã khôn lanh tới mức dám phản bội ngay cả chủ nghĩa Cộng Sản (Mác-xít Lê-nin-nít) do các ông thầy của mình là Các-Mác (Karl-Marx) và Lê-Nin (Lenin) truyền dạy qua hành động mạnh tay dứt bỏ gần hết các giáo điều chính của chủ nghĩa này và chỉ giữ lại một khoản duy nhất là tính độc đảng chuyên chế đặng có thể độc quyền cai trị đất nước trên căn bản lâu dài. (6) Nếu không làm chuyện bội phản như vậy, làm sao mà Cộng Sản Trung Quốc ngày nay lại trở nên một thành viên của Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO), một cơ chế kinh tài quốc tế sặc mùi tư bản mà Cộng Sản Việt Nam cũng đã lấy làm vô cùng vinh dự khi được gia nhập, dù là đi sau Trung Quốc tới mấy năm.

Một điều lạ lùng đến độ mỉa mai trong trường hợp của Việt Nam là sau 30 năm ra sức “đánh Tây, đuổi Mỹ,” gây ra không biết bao nhiêu là chết chóc và tàn phá cho dân tộc để triệt hạ cho bằng được cái mà họ vẫn thường gọi là “chủ nghĩa tư bản bóc lột” và thực hiện cho bằng được cái gọi là “xã hội chủ nghĩa giàu mạnh,” những người Cộng Sản Việt Nam ngày nay lại quay ra ôm chầm lấy cái chủ nghĩa tư bản đó, cầu thân và xin xỏ quyền lợi với chính những kẻ thù cũ mà mới cách đó chỉ chừng sáu, bảy năm thôi, họ từng tỏ ra khinh miệt, cay cú và căm thù hầu như đến tận xương tủy. (7)

Thế nghĩa là sao? Cái hình ảnh của đất nước Việt Nam ngày nay, từ thành thị đến thôn quê và từ Nam ra tới Bắc, trông thật chẳng khác nào cái hình ảnh của Miền Nam Việt Nam thời trước năm 1975, với cảnh tượng đường sá nhộn nhịp, buôn bán tấp nập, và nhà cửa cũng như cơ sở kinh doanh của tư nhân mọc lên khắp nơi giữa tiếng “nhạc vàng” (từng bị cấm tiệt) du dương, réo rắt và tiếng nhạc nhạc disco quằn quại, xập xình. Những gì mà một xã hội tư bản cỡ Mỹ, Nhật đang có - từ chiếc điện thoại di động cho tới cái thẻ tín dụng - thì dân chúng Việt Nam ngày nay đều có, và những đồng đô-la Mỹ xanh xanh kia, một thời bị những người Cộng Sản mô tả là đồng tiền “tanh tưởi,” đồng tiền “bóc lột,” nay lại đang đươc sùng bái khắp nơi. Chưa hết, mới đây thôi, khi tỷ phú Mỹ Bill Gates, Chủ Tịch công ty điện toán Microsoft khổng lồ của thế giới, sang thăm Việt Nam, dù chỉ một ngày, ông đã được từ vị thủ tướng cho tới các sinh viên, học sinh Việt Nam hân hoan đón chào và được hoan nghênh nồng nhiệt từ Hà Nội cho tới Bắc Ninh.

Phải biết rằng, trên đất nước Việt Nam Cộng Sản, chỉ sáu, bảy năm sau khi sách, báo bằng tiếng Anh (và cả tiếng Pháp nữa) đều bị tịch thu và dân chúng hầu như bị cấm học tiếng Anh -thứ ngôn ngữ của bọn “thực dân mới” và bọn đế quốc bóc lột - dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc, trong đó có đám cán bộ, đảng viên, lại đổ xô nhau đi học tiếng Anh, và các lớp học Anh ngữ tại những Hội Việt-Mỹ lúc nào cũng đông đúc học viên. (8) Rồi trước sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của đồng phật-lăng (franc) - và sau này là đồng Euro - thơm tho, Cộng Sản Việt Nam đã hân hoan gia nhập vào khối những quốc gia nói tiếng Pháp (Francophone) do trùm “thực dân cũ” là Pháp cầm đầu, lâu lâu khối này lại chọn Hà Nội để làm nơi tổ chức hội họp, bàn thảo. Thêm vào đó, con cái các cán bộ, đảng viên của Cộng Sản Việt Nam ngày nay lại tấp nập đua nhau đi “tham quan” rồi đi du học tại Mỹ, tại Anh, tại Úc, tại Pháp... vốn là những nơi mà mới cách đó dăm bảy năm người Cộng Sản vẫn cho là những lò đào tạo các nền “văn hóa đồi trụy” để phục vụ cho những xã hội bị coi là đầy dẫy những cảnh “người bóc lột người” đáng ghê tởm. Như vậy là thế nào? Dĩ nhiên là chỉ còn một vài điều khác biệt là lúc đó - trước khi Cộng Sản chiếm được Miền Nam - Việt Nam đang có chiến tranh, và bây giờ thì chiến tranh đã chấm dứt rồi nhưng dân chúng Việt Nam thì vẫn chưa được hưởng những quyền tự do, dân chủ như dân chúng tại Miền Nam Việt Nam trước khi Sài Gòn sụp đổ, bởi vì chế độ chính trị tại Việt Nam, cho tới giờ phút này, vẫn còn là một chế độ độc tài, độc đảng.

Tác nhân của những đổi thay tại Việt Nam ngày nay

Ðến đây, một vài câu hỏi cần phải được nêu lên: Do đâu mà có những “đổi mới” và những tiến bộ trong các hoạt động kinh tế lẫn trong đời sống chính trị như vậy tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay? Phải chăng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam dưới tay các lãnh tụ như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, Nông Ðức Mạnh... tự nó biết chuyển mình theo thời thế mà kịp thời thực hiện những bước thay đổi về kinh tế và chính trị để cho dân chúng được sung túc hơn, thoải mái hơn, tự do hơn? Câu trả lời sẽ là “không,” tuyệt đối “không,” nếu một tác nhân quan trọng là nếp sống dân chủ và nền kinh tế tự do của Miền Nam Việt Nam từ 1975 trở về trước không ảnh hưởng sâu đậm lên và tác động mạnh mẽ tới nếp suy nghĩ và hành động của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và chính quyền của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Vậy thì, cái tác nhân quan trọng kia trong tiến trình thay da, đổi thịt của chủ nghĩa xã hội (Cộng Sản) tại Việt Nam ngày nay là gì? Xin thưa, đó chính là cái mầm mống tự do, dân chủ đã được ươm, cấy và trồng sẵn tại Miền Nam Việt Nam mà khi mới bước vào để “giải phóng” nơi đây thì những người Cộng Sản Việt Nam - những đảng viên, những chính ủy, những cán bộ, những bộ đội, những dân công, những công an, những tay nằm vùng, vân vân - đã không thể nào tránh khỏi bị nhiễm phải. Cái mầm mống tự do, dân chủ ấy rất da dạng và được tìm thấy nhan nhản trên khắp mọi cơ sở, mọi tụ điểm, mọi nẻo đường, mọi hang cùng, ngõ hẻm của Miền Nam Việt Nam trong những ngày đầu Quốc-Cộng chính thức đối mặt nhau, đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Mầm mống này có thể là nếp sống bình dị của người dân “Nam Bộ” tại Xóm Cái Tàu ở An Xuyên (Cà Mau), là cái lễ độ của các em học sinh trường Trung Học Phan Châu Trinh tại Ðà Nẵng, là sự uyên bác và tính chuyên nghiệp cao của các quân y sĩ Việt Nam Cộng Hòa đang bị đưa đi tập trung cải tạo tại Sông Bé (Phước Long), là nét vừa đa tình, lãng mạn vừa bình dị trong lời nhạc của bản “Duyên Kiếp” do nhạc sĩ Lam Phương sáng tác và được nữ ca sĩ Thanh Tuyền trình bày, là thói quen tự mình bỏ tiền ra mua sắm máy dò tìm cá biển để ra khơi đánh cá mà sinh sống của các ngư dân Phan Thiết, hay, cụ thể hơn một chút, là chuyện các vị dân cử tại Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa, tuy mang tiếng là bọn đào kép diễn tuồng cho “Nhà Hát Tây” ở Sài Gòn nhưng trong số đó vẫn có không ít người từng chống (Tổng Thống Nguyễn Văn) Thiệu, chửi (nước bạn đồng minh) Mỹ thẳng thừng mà không hề bị bắt giam hay bách hại...

Chẳng bao lâu sau khi những người Cộng Sản từ Miền Bắc Việt Nam tiến vào làm chủ các căn cứ quân sự, đồn bót, công sở, trường học, xí nghiệp và cơ sở xã hội từ Bến Hải tới Cà Mau, những người dân Miền Nam Việt Nam - từng khờ khạo nghe theo những lời tuyên truyền, dụ gạt đường mật của Cộng Sản mà biểu tình, chống đối chính quyền Miền Nam đặng làm suy yếu sức chiến đấu của quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa để cho Cộng Sản dễ dàng và mau lẹ thôn tính Miền Nam - đã bắt đầu “sáng mắt ra” khi họ kinh hoàng nhận thấy bộ mặt thật của chủ nghĩa Cộng Sản ngày càng lộ rõ. Những biện pháp độc tài và vô nhân đạo như tập trung cải tạo hằng trăm nghìn sĩ quan và viên chức cũ của Việt Nam Cộng Hòa, xua đuổi hằng triệu dân chúng thất nghiệp và nghèo khó từ các thành thị đi khai khẩn đất hoang ở những vùng kinh tế mới khô cằn và đầy bệnh tật, tịch thu tài sản và tiền bạc làm ra từ mồ hôi và nước mắt của đám người bị gọi là bọn “tư sản mại bản” tại Miền Nam... đã được đem ra thi hành để trừ khử cho bằng được cái gọi là “tàn tích của Mỹ-Ngụy” còn sót lại tại Miền Nam Việt Nam. “Chủ nghĩa công thần” và phân biệt lý lịch được triệt để áp dụng để loại bỏ những tài năng của đất nước sinh ra từ các gia đình “ngụy quân, ngụy quyền” và đưa lên hàng thượng đẳng một giai cấp thống trị mới trong xã hội là giai cấp cán bộ nhà nước, bộ đội và anh hùng, liệt sĩ cách mạng.

Nhưng điều bất ngờ hơn hết là những ảnh hưởng về xã hội, kinh tế và chính trị trong cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa hai kẻ đối nghịch nhau về ý thức hệ này lại mang tính hỗ tương, nghĩa là nếp sống và văn hóa của người chinh phục cũng bị nếp sống và văn hóa của kẻ bị trị chi phối. Nói cách khác, cách sống dễ dãi, phóng khoáng và tự do, dân chủ của người dân Miền Nam Việt Nam hiền hòa - hiện là gia cấp bị trị - cũng đã tạo ảnh hưởng mạnh mẽ lên nếp suy nghĩ và hành động đám người thuộc giai cấp cai trị từ Miền Bắc vào. Vì chủ nghĩa Cộng Sản vốn mang tính không tưởng, nghĩa là không thể nào đem ra áp dụng được, cho nên, theo thời gian, những nét đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội và cả chính trị của Miền Nam Việt Nam bắt đầu tác động ảnh hưởng lên, trước hết là trên đám cán bộ thừa hành từ Bắc Bắc Phủ và sau nữa là trên các đảng viên Cộng Sản trung ương từ Hà Nội được bổ nhiệm vào cai trị trong Nam.

Miền Nam thắng ngược Miền Bắc

Skyraider xuất kích giữ không phận và yểm trợ quân bạn dưới đất.

Năm 1985, nhân kỷ niệm 10 năm ngày Cộng Sản chiến thắng tại Việt Nam, lần đầu tiên, các nhà báo Tây phương - trong đó có các phóng viên và ký giả thuộc các đài truyền hình và báo chí Mỹ- được mời sang Việt Nam để quan sát những gì mà Cộng Sản Việt Nam quảng cáo là những thay đổi và tiến bộ to lớn mà họ đã thực hiện được tại Việt Nam, nhất là tại Miền Nam Việt Nam là vùng đất mà họ đã có công “giải phóng” khỏi tay “thực dân mới” là Mỹ.

Kurt Andrsen, trong bài báo ngày 15 Tháng Tư, 1985 nhan đề “Một Xứ Sở Bị Kềm Kẹp và Bưng Bít”(A Pinched and Hermetic Land) trên tạp chí Time, tường thuật như sau về tình hình 10 năm sau ngày Cộng Sản chiếm được Miền Nam Việt Nam:

“Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới... Cuộc khủng hoảng (kinh tế và chính trị) đã buộc nhà cầm quyền phải đưa ra những biện pháp cải cách. Hiện tại, một hệ thống kinh tế tự do có giới hạn đang được áp dụng, cho phép nông dân và ngư dân được bán ra các sản phẩm thặng dư [vượt chỉ tiêu] để kiếm lời. Vì thế, có trường hợp một nhà trồng tỉa giàu óc kinh doanh tại Miền Bắc đã kiếm tiền nhiều gấp năm lần người con trai của bà đang làm công nhân viên nhà nước tại Hà Nội. Năm 1983, sau nhiều năm đói kém, lần đầu tiên Việt Nam có đủ lương thực nuôi sống chính dân mình. Mặc dù tại Hà Nội chuyện nuôi lợn riêng là bất hợp pháp, nhiều cư dân tại thủ đô của Việt Nam vẫn tìm cách chăm sóc một đàn lợn con tại nhà; gia chủ chỉ cần bán ra một con lợn thịt không thôi cũng có thể thu vào lợi tức tương đương với lương cả một năm trời của một công nhân viên cấp cao...”

So sánh cuộc sống của dân chúng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc, Andersen viết:

“Hai miền của Việt Nam được chính thức thống nhất với nhau vào năm 1976, nhưng sự khác biệt vẫn rõ nét. Nhìn chung, cuộc sống tại Miền Bắc dường như bị kềm kẹp nhiều hơn, hàng hóa không có mấy... Ðồng thời, thỉnh thoảng vẫn có tình cảm ganh tị với Miền Nam đang được sống thoải mái hơn. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), nhà cầm quyền đã triệt hạ hầu hết nếp sống say sưa và trụy lạc, nhưng đô thị này vẫn buôn bán cuồng nhiệt... 'Một đất nước nhưng nằm dưới hai hệ thống cai trị,' vẫn là lời giải thích đầy nuối tiếc và mang tính tuyên truyền cho những khác biệt Nam-Bắc đó. Ấy vậy mà một số nếp sống Tây phương vẫn xâm nhập được ra tới ngoài Bắc. Các băng nhạc pop của Mỹ được đem chơi khắp nơi. Và điều lạ lùng hơn hết là các du khách người Mỹ hiếm hoi, dù đến bất cứ nơi đâu, cũng đều được dân chúng đối đãi với lòng kính phục và ngay cả với thiện cảm rõ rệt nữa.”

Một thập niên sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt, cảm tưởng chung của các nhà báo Tây phương và các du khách sau những chuyến viếng thăm Việt Nam, ngoài những điều khác, là nhận định rằng miền Bắc Việt Nam đã thắng Miền Nam về quân sự, nhưng Miền Nam Việt Nam đã thắng ngược lại Miền Bắc về kinh tế, và không chừng sẽ còn thắng luôn về chính trị nữa - ý nói tới phong trào đổi mới tư duy và hành động đang chớm nở tại Cộng Sản Việt Nam vào thời điểm đó.

Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì trường hợp mà văn hóa và nếp sống của lớp người bị chinh phục đã làm thay đổi văn hóa và nếp sống của lớp người đến chinh phục. Chẳng cần nhìn đâu cho xa, trên đất nước Trung Hoa thời phong kiến, người Mông Cổ và người Mãn Thanh đã bị Hán hóa gần như hoàn toàn khi họ đem binh mã sang chiếm đóng Trung Nguyên và lập ra các triều đại Nguyên và Thanh tại Trung Quốc. Ngày nay, từ Miền Nam Việt Nam ngược trở ra Miền Bắc, chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam đã thay hình, đổi dạng. Ðại Hội Ðảng Cộng Sản Việt Nam Lần Thứ Sáu năm 1986 đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong tiến trình “đổi mới” của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, một mặt là để theo đuôi phong trào perestroika do Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev đề xướng tại Liên Xô, nhưng mặt khác cũng chính là vì ảnh hưởng ngày một mạnh của nếp sống tự do, dân chủ mà nhân dân Miền Nam Việt Nam trước đây từng được hưởng. (9)

Hồi mới vào Nam, những người Công Sản tuy bề ngoài vẫn lộ vẻ coi thường những người Miền Nam chiến bại, nhưng bên trong họ vẫn thầm thán phục và kính nể nếp sống văn minh và phồn thịnh tại vùng đất mà họ vẫn cho là mình có sứ mạng phải tiến vào “giải phóng” vì cứ tưởng lầm rằng dân chúng tại đây thật sự đang bị kềm kẹp, bóc lột và khổ đau dữ lắm. (Nhạc sĩ Cộng Sản Huỳnh Minh Siêng, trong nhạc phẩm “Tiến Về Sài Gòn,” chẳng đã mô tả dân chúng tại thủ đô Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là đang “rên xiết đêm ngày“đó sao?) Ðây chính là hậu quả tai hại của hơn hai thập niên tuyên truyền, nhồi sọ và phỉnh gạt con người mà Cộng Sản Việt Nam đã dùng để lừa dối chính mình và kẻ khác, cho nên phần lớn chiến thắng vừa rồi trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam của họ chẳng qua chỉ là do người Cộng Sản đã biết khéo léo tự lừa dối mình và sau đó lừa dối được dân chúng Miền Nam Việt Nam và các đồng minh khờ khạo của Việt Nam Cộng Hòa trên khắp thế giới.

Hai ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên, những người Cộng Sản cũ của Việt Nam, có thể là những người biết rõ hơn ai hết cái tác động ghê gớm của những trò lừa dối này. Những tên tuổi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cỡ Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Luật Sư Trương Như Tảng cũng biết rõ điều này. Các chính khách, trí thức và văn nghệ sĩ của Miền Nam Việt Nam trước đây có cảm tình với Cộng Sản và mong ước Việt Nam Cộng Hòa chóng “tiêu diêu” cỡ Trịnh Công Sơn, Ðoàn Văn Toại và Linh Mục Chân Tín cùng một số tăng, ni Phật Giáo chuyên chống chính phủ ắt hẳn phải thấm điều này. Ngay như ở bên Mỹ, Joan Baez, và về sau - trong một chừng mực nào đó - là cả Jane Fonda cùng một số cựu chiến binh phản chiến nữa, cũng đã thấy cái đó. Mà nếu không thấy cái đó thì không thể giải thích được tại sao mà sau năm 1975 hằng triệu người Việt Nam đã phải liều chết ra đi trên những con thuyền gỗ mong manh và lậu nước để mong được tới những bến bờ tự do vừa xa xôi vừa bấp bênh như thế.

Những chiến sĩ Mũ Ðỏ từ trên không đạp xuống đầu giặc.

Ai đã mở mắt cho dân chúng Miền Nam Việt Nam? Ai đã mở mắt cho dân chúng Miền Bắc Việt Nam? Ai đã mở mắt cho dân chúng Mỹ, dân chúng Pháp, dân chúng Anh, dân chúng Thụy Ðiển...? Ai đã mở mắt cho Tổ Chức Khoa Học, Giáo Dục và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)? Và sau cùng, ai đã mở mắt cho Ðảng Cộng Sản Việt Nam từ cấp cán bộ quèn cho tới cấp cán bộ Trung Ương Ðảng? Xin thưa: kẻ đó chính là nền dân chủ và nếp sống tự do của Miền Nam tự do mà Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh biết bao nhiêu xương máu trong suốt gần ba thập niên để gìn giữ cho tới khi tài nguyên cạn kiệt mới chịu buông xuôi. Mà hễ đã nói đến máu xương, đã nói đến hy sinh này nọ thì phải nói tới những công lao to lớn và hy sinh cao cả của những người lính Cộng Hòa, kể cả những người đã để lại danh thơm trong quân sử cũng như những anh hùng không tên tuổi của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Một chút lịch sử: Bước thăng trầm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Từ năm 1950 cho tới năm 1975, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã có những thời điểm và giai đoạn lịch sử tưởng chừng như là nguy kịch đến nơi rồi, nhưng họ vẫn đứng vững cho tới năm 1975 để hà hơi, tiếp sức cho cái mầm dân chủ, tự do của đất nước mà giờ đây đang trở thành mầm sống và nguồn hy vọng của dân tộc Việt Nam thống nhất. Hồi năm 1954, sau khi quân đội Liên Hiệp Pháp (trong đó có Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam) bị bại trận tại Ðiện Biên Phủ, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam đã có nguy cơ bị tan rã nếu ông Ngô Ðình Diệm không kịp thời về chấp chánh, nắm giữ quyền thủ tướng chính phủ.
Thiếp Giáp Binh cùng tùng thiết lùng địch.

Sau Hiệp Ðịnh Geneva, trong hai năm 1954 và 1955, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam cũng đã gặp phải nguy cơ bị chia năm, xẻ bảy nếu chính quyền Ngô Ðình Diệm không đánh dẹp được quân đội riêng của các lực lượng, phe nhóm bất hợp tác khác trong nước mà Thực Dân Pháp đã dung dưỡng nhằm thao túng chính trường Miền Nam sau khi họ phải rút về.

Kể từ cuộc khủng hoảng Phật Giáo vào mùa Hè năm 1962, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã gặp phải nguy cơ suy sụp - nhưng rồi vẫn đứng vững - vì du kích quân thuộc cái gọi là Mật Trận Giải Phóng Miền Nam đã thừa lúc dân chúng tại các thành thị Miền Nam Việt Nam mải mê xuống đường đánh phá chính phủ Ngô Ðình Diệm mà tăng cường những vụ tấn công trực diện vào các tỉnh lỵ, quận lỵ tại Miền Nam, tràn ngập nhiều chi khu và chiếm đóng nhiều quận lỵ trên toàn quốc.

Sau khi Tổng Thống Diệm bị các tướng lãnh trong quân đội Miền Nam - có sự giật dây của chính quyền Kennedy vì Mỹ vẫn đổ lỗi cho chính phủ của Ông Diệm là đã gây ra cuộc khủng hoảng Phật Giáo làm suy yếu cuộc chiến đấu chống Cộng tại Miền Nam Việt Nam - đảo chánh rồi ám sát vào cuối năm 1963, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã thật sự phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trước các cuộc tấn công gia tăng ác liệt của Cộng quân. Các bản tin chiến sự cho hay Cộng quân, lợi dụng tình trạng hỗn quan, hỗn quân tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, đã gia tăng các cuộc tấn công lấn chiếm trên toàn quốc, khiến cho lãnh thổ quốc gia tại Miền Nam Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, với nhịp độ thất thủ có lúc lên đến chóng mặt là mỗi tuần mất đi một quân lỵ và mỗi tháng mất đi một tỉnh lỵ.

Nhưng, từ năm 1965 trở đi, sau khi mọi xáo trộn đã qua và kể từ lúc phe quân nhân thực sự nắm giữ quyền chính trị và quân sự tại Miền Nam Việt Nam - với danh xưng mới là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - thì quân đội Miền Nam Việt Nam đã phục hồi lại phần lớn năng lực đã mất để có thể mở các chiến dịch hành quân tảo thanh Việt Cộng và bình định nông thôn trên bốn vùng chiến thuật. Cũng trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đã trực tiếp can dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam qua việc các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, không vận, bộ binh, không quân và hải quân Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh khác như Ðại Hàn Dân Quốc, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan,... tham gia chiến đấu chống lại Cộng quân bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 là một đòn nữa giáng vào quân đội Miền Nam Việt Nam khi hằng chục sư đoàn Cộng quân gồm quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt và quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đồng loạt mở cuộc “tổng tấn công, tổng nổi dậy” bất ngờ trong thời gian hưu chiến nhân dịp Tết, đánh vào nhiều tỉnh lỵ và thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững và lần lượt tái chiếm hết những phần đất bị Cộng quân tạm chiếm, kể cả cố đô Huế, và xóa tên nhiều đại đơn vị của Cộng quân.

Chiến đấu từng khu phố để bảo quốc an dân.

Quân đội này lại còn hùng mạnh hơn lên khi đồng minh Hoa Kỳ quyết định tăng cường võ trang các chiến cụ tối tân cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để họ có thể tự mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam Việt Nam đặng quân Mỹ có thể yên lòng và có thêm chính danh mà rút về nước trong một chiến lược mới được gọi là “kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh” do Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia lúc bấy giờ là Tiến Sĩ Henry Kissinger đề xướng.

Rồi cuộc tổng tấn công Mùa Hè năm 1972 của Cộng quân lại diễn ra sau khi Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội quyết định rằng Cộng quân phải lấn cho bằng được càng nhiều đất càng tốt, giành cho bằng được càng nhiều dân càng hay để họ có thể chiếm lợi thế trên bàn hội nghị bốn bên lâm chiến đang diễn ra tại Paris, Pháp, nhằm “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình” tại Miền Nam Việt Nam. Dù bị tấn công bất thình lình và bước đầu bị mất đi thành phố Quảng Trị tại Vùng 1 Chiến Thuật và quận (chi khu) An Lộc tại Vùng 3 Chiến Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một lần nữa, lại cả thắng trong “mùa Hè đỏ lửa” ấy, lấy lại hầu hết những đất đai và dân chúng đã mất vào tay Cộng quân trước đó.

Hội nghị hòa bình tại Paris kết thúc với Hiệp Ðịnh Paris (Ba Lê) 1973, theo đó chính quyền Nixon, vì quá nóng lòng muốn lấy lại các tù binh đang bị Cộng Sản Bắc Việt giam giữ cũng như để thỏa mãn đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh và rút quân đội về nước của các nhóm phản chiến đang lên cao tại Mỹ, đã ép buộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải nhân nhượng nhiều điều hết sức thất lợi cho sự sống còn của Miền Nam Việt Nam sau này qua bản văn chung cuộc của Hiệp Ðịnh Paris 1973.

Cái chết của Miền Nam Việt Nam và cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh trong đó cả hai bên lâm chiến đều không ai có đủ điều kiện - quân sự và chính trị - một mình đứng ra đảm đương cuộc chiến mà phải nhờ đến các thế lực bên ngoài. Rồi khi một trong hai bên nào đó thình lình bị đồng minh bỏ rơi - như trường hợp của Việt Nam Cộng Hòa - thì kẻ bị bỏ rơi đương nhiên phải thua trận.

Vì bị Hoa Kỳ bỏ rơi nửa chừng sau khi dân chúng và chính phủ của nước đồng minh này không chịu đựng nổi những tổn thất kéo dài về nhân mạng và tiền bạc trong cuộc chiến, Việt Nam Cộng Hòa - hay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - đành phải chết đi một cách tức tưởi. (Ở đây, người viết thấy cần phải nói lên cảm nghĩ rằng phần đông những người lính Cộng Hòa cũ, sau nhiều năm suy nghĩ về sự bỏ rơi kia, đã thôi không còn oán hận gì người bạn chiến đấu Mỹ năm xưa. Ðại đa số dân chúng Miền Nam Việt Nam bây giờ đều hiểu rằng một dân tộc giàu có và đáng sống như dân tộc Mỹ mà dám hy sinh cả trên 50,000 mạng người -hầu hết là những thành phần trẻ ưu tú- trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam thì ngần ấy những hy sinh là đã quá đủ rồi. (10)

Lẽ ra, những thanh niên Mỹ kia phải được quyền vui hưởng cuộc đời đầy ắp tương lai xán lạn nơi quê nhà thay vì phải rời bỏ mái ấm gia đình để rồi bỏ thân trên những chiến trường đèo heo, hút gió trong một cuộc chiến bị phần lớn thế giới vì lầm mê mà lên án như thế. Hơn nữa, như bức tượng tại đài kỷ niệm chiến binh Việt-Mỹ tại Little Saigon ở Orange County, Miền Nam California, đã cho thấy, chính nhờ những hy sinh xương máu cao cả và sự yểm trợ đắc lực của hằng trăm nghìn chiến binh Mỹ trong hơn một thập niên dài chiến đấu mà người lính Cộng Hòa đã có thể giữ vững tay súng đặng bảo vệ cái mầm dân chủ, tự do kia cho được vẹn toàn.) Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - hay những người lính Cộng Hòa - khi chết đi, đã để lại một di sản vô giá cho toàn thể dân tộc Việt Nam, đó là mầm mống dân chủ, tự do ngay trong lòng người dân Việt và trên khắp các ruộng đồng, phố xá, vườn tược, đường sá, cầu cống, chợ búa, nhà thương, học đường, chùa chiền, thánh đường, nhà thờ... tại Miền Nam Việt Nam.

Chính cái nếp sống tự do, dân chủ của dân chúng Miền Nam Việt Nam đã làm cho người dân trong Nam, ngay từ những ngày đầu Sài Gòn sụp đổ, không ngần ngại bác bỏ chủ nghĩa Cộng Sản từ ngoài Bắc đem vào bằng cách hễ ăn gạo thì nói ăn gạo, ăn bo-bo thì nói ăn bo-bo, chứ không tìm cách dùng những mỹ từ để che đậy cái đói, cái khổ của mình cho vừa lòng quân thống trị. Chính cái nền kinh tế thị trường theo kiểu tư bản của Miền Nam Việt Nam đã đánh gục hầu hết những mô thức kinh tế theo kiểu công trường, hợp tác xã, xí nghiệp quốc doanh, bù lỗ, bao cấp... của Cộng Sản Việt Nam. (11) Và, trên một chừng mực nào đó, chính các sinh hoạt tự do, dân chủ đa đảng của Miền Nam Việt Nam từ trước năm 1975 đã dạy cho một số không nhỏ cán bộ, viên chức Cộng Sản Việt Nam dần dần biết thản nhiên từ bỏ Ðảng tịch, từ bỏ chức vụ để đứng về phía dân chúng đối kháng chế độ Cộng Sản độc đảng, đòi tự do, dân chủ đa nguyên trên cả hai miền Nam, Bắc như hiện nay.

“Mây ngậm ngùi xuống thấp, Hồn kiêu hãnh dâng cao.”
Các anh là những người chiến binh “bất tử.”


“Anh không chết đâu anh” trong lòng một Việt Nam tự do, dân chủ

Những gì sẽ xảy ra nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và tiền thân của quân đội này không hiện hữu hay quân đội này phải bị tan rã ngay từ các thời điểm 1954, 1963, 1965, 1968, hoặc ngay cả vào năm 1972? Ðiều kỳ diệu là, ngay cả trong những giờ phút khó khăn nhất của Miền Nam Việt Nam khi cuộc chiến tranh xâm lược và phá hoại của Cộng Sản đang lên tới cao điểm với những cuộc tấn công liên tục ngoài chiến trường và những chiến dịch gây xáo trộn cùng bất ổn triền miên trong quần chúng ở hậu phương, dân chúng Miền Nam, dưới sự bảo vệ vững chắc và nhờ những hy sinh vô bờ bến của người lính Cộng Hòa nơi tuyến đầu khói lửa cũng như trên khắp các mặt trận khác, vẫn có được cái xa xỉ là tiếp tục sinh hoạt bình thường, tiếp tục mua bán, kinh doanh làm giàu, và tiếp tục ăn học thành tài để trở thành những chuyên gia rường cột của đất nước mai sau.

Và điều may mắn lớn lao nhất cho dân tộc là sự thể quân đội này đã thoát hiểm và sống còn đến trên hai thập niên, cũng vừa đủ thời gian cho mầm tự do, dân chủ đâm chồi và bén rễ trên quê hương Việt Nam khiến cho Cộng Sản Việt Nam ngày nay chỉ còn là một cái vỏ trống không, và tất cả những giáo điều cùng lý luận của chủ nghĩa Cộng Sản đều lâm vào ngõ bí khi các vị “thánh tổ” của chủ nghĩa này từ bên trời Âu lần lượt lăn đùng ra chết. Dĩ nhiên là Cộng Sản Việt Nam vẫn còn giữ lại một điều duy nhất, đó là nguyên tắc độc đảng, mà nếu họ lại bỏ đi nữa thì cái câu “trong bụng mỗi người dân An Nam đều có một ông quan” - vốn do một quan chức thực dân Pháp nham hiểm thốt lên từ hồi đầu thế kỷ trước - hóa ra chẳng có ý nghĩa gì hết hay sao? (12)

Dẫu sao, ba thập niên sau ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, khi nghĩ về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cái chết tuy đầy uất ức nhưng cũng đầy hào hùng của quân đội này vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, người ta vẫn thấy rằng cái tinh thần mà quân đội đó mang theo vào mỗi trận đánh, mỗi chiến trường trên khắp các nẻo đường đất nước từ Nam chí Bắc - xin đừng quên những Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, Nguyễn Văn Ðương, Nguyễn Ðình Bảo, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn... - vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc và sẽ là mầm phục sinh cho một đất nước và một dân tộc đã trải qua gần hết mọi cuộc bể dâu trong đời. Hay, nói như Nhật Trường Trần Thiện Thanh, một người lính Cộng Hòa và cũng là một ca, nhạc sĩ tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua nhạc phẩm “Anh Không Chết Ðâu Anh”: “Không, anh không chết đâu anh. Chưa, anh chưa chết đâu anh...”




Ghi chú:

(1) Bản tin của thông tín viên Reuters, Paul Eckert, từ Á Châu gởi đi ngày 5 Tháng Sáu, 2006, viết rằng Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Donald Rumsfeld cho hay quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt tới một “mức độ mới” và rằng hai kẻ thù cũ trên chiến trường sẽ gia tăng những cuộc trao đổi quân sự và huấn luyện.

Ông Rumsfeld và Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phạm Văn Trà đã đồng ý gia tăng “những cuộc trao đổi trên mọi cấp bậc quân sự và sẽ tăng cường thêm mối quan hệ quân sự giữa đôi bên qua nhiều cách.” Hai bên cũng đã đồng ý khởi sự việc huấn luyện y tế qua một chương trình quân y do Ngũ Giác Ðài đài thọ, và tăng cường hợp tác trong vấn đế tháo gỡ bom mìn.

Các mối quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, 31 năm sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt và 11 năm sau khi khởi sự bình thường hóa quan hệ đôi bên, đã nồng ấm dần dần với những cuộc viếng thăm bến cảng Việt Nam của các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ. Ông Rumsfeld là vị bộ trưởng quốc phòng thứ nhì đến thăm viếng Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản kể từ khi đồng minh Nam Việt Nam sụp đổ vào năm 1975, với lần thăm viếng gần đây nhất của ông là vào năm 1995 tại Hà Nội với tư cách cá nhân. Các cuộc đàm phán quân sự giữa đôi bên diễn ra chưa đầy một tuần sau khi hai nước ký một thỏa hiệp mậu dịch mới dọn đường cho Việt Nam gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO) vào cuối năm 2006.

(2) Các nhân vật bất đồng chính kiến và chống đối Cộng Sản Việt Nam từ sau cuộc thống nhất Nam-Bắc vào năm 1975 bao gồm Viện Trưởng Viện Triết Học Hoàng Minh Chính, Thượng Tọa Thích Quảng Ðộ, Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Linh Mục Chân Tín, Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế, Tướng hồi hưu Trần Ðộ, nhà văn Dương Thu Hương... Các chức sắc và nhân vật Công Sản Việt Nam bỏ sang hàng ngũ người Việt tự do gồm có cựu Ðại Tá Bùi Tín, phó tổng biên tập Báo Nhân Dân của Cộng Sản Việt Nam, Ông Vũ Thư Hiên, con trai của Ông Vũ Ðình Huỳnh (từng là bí thư của Chủ Tịch Hồ Chí Minh) và là tác giả Ðêm Giữa Ban Ngày, quyển sách tố cáo những sai lầm và bê bối của các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam, Luật Sư Trương Như Tảng, cựu bộ trưởng Tư Pháp của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam) và Ông Võ Nhân Trí, một nhà kinh tế và xã hội hàng đầu của chế độ Cộng Sản Việt Nam... Thêm vào đó, một số các sĩ quan cao cấp và giới lãnh đạo cũ của Cộng Sản, kể cả cựu Tướng Trần Ðộ và cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt cùng các sĩ quan quân đội đã về hưu, hiện đang quay sang chỉ trích các chính sách sai lầm và độc đoán của nhà nước Cộng Sản Việt Nam, hoặc đòi hỏi phải có thêm nhiều cải cách sâu rộng hơn nữa trong nước, nhất là về mặt chính trị.

(3) Một điều mà những người Cộng Sản Việt Nam đã không tiên liệu được khi đánh chiếm Miền Nam Việt Nam - và sau đó vội vã thống nhất hai miền Nam-Bắc với nhau bất chấp sự can ngăn của cộng đồng thế giới, nhất là từ phía các chuyên gia kinh tế - là sức phá hoại mạnh mẽ của hệ thống xã hội tư bản tự do ở Miền Nam chống lại hệ thống xã hội theo kiểu Cộng Sản của Miền Bắc. Nói cách khác, chính cái xã hội tự do, cởi mở của Miền Nam - vốn nặng về thực tế vật chất và nhẹ về lý tưởng hay ý thức hệ - đã làm ung thối xã hội Miền Bắc khép kín - vốn nặng về lý tưởng quốc tế viển vông mà nhẹ về thực tế no cơm, ấm áo cho dân tộc mình - rồi sau đó làm ung thối luôn toàn thể cái gọi là “con người xã hội chủ nghĩa” mà Ông Hồ Chí Minh và những kẻ nối nghiệp đã cất công xây dựng và trịnh trọng mang từ Miền Bắc vào Miền Nam, với ý nghĩ là sẽ làm khuôn mẫu cho dân “Nam kỳ” mà bề nào nom cũng có vẻ hiền lành hơn dân “Bắc kỳ.”

Sự thực là Sài Gòn, tiêu biểu cho Miền Nam Việt Nam, là một thành phố “bất trị” trong ý nghĩa nghiêm chỉnh nhất về kinh tế và xã hội. Nhà báo Tim Larimer, trong một bài báo đăng trên Tạp chí Time nhan đề “Sài Gòn Bay Vút” (Saigon Soars), số ra ngày 2 Tháng Sáu năm 1997, viết như sau về sức quật khởi của thành phố mang tên Sài Gòn hơn hai thập niên sau ngày thành phố này bị kẻ chiến thắng đổi tên: “Sau bao nhiêu năm dài, ít nhất cũng có một điều rõ ràng: những kẻ đến đây để 'thuần hóa' thành phố mãnh hổ này (Sài Gòn) đành kết thúc số phận là để bị nó thuần hóa mình. Và giờ đây, thành phố mãnh hổ này đang gầm rống dữ dội với lòng tự tin, không còn kiệt sức và bại trận nơi chiến trường nữa nhưng đã phục hồi sinh lực, giơ cao các móng vuốt lên khỏi những suy thoái và thảm họa đổi đời.”

Ðể hiểu nếp sống tự do, dân chủ ở Miền Nam Việt Nam đã gây khó khăn như thế nào cho việc phát triển chủ nghĩa xã hội tại Miền Nam, xin hãy đọc Steven Erlanger qua bài báo nhan đề “Việt Nam, Cạn Kiệt vì Giáo Ðiều Chủ Nghĩa, Ðang Cố 'Tổ Chức Lại' Hệ Thống Cai Trị của Mình” (Vietnam, Drained by Dogmatism, Tries a 'Restructuring' of Its Own), được đăng tải trên nhật báo The New York Times, số ra ngày 24 Tháng Tư năm 1989:
“Vào lúc Ðại Hội Ðảng lần thứ 6, hồi cuối năm 1986, đã rõ ràng là các nỗ lực của giới lãnh đạo Việt Nam nhằm chuyển đổi nền kinh tế tư bản dựa trên thị trường của Miền Nam sang nền kinh tế cộng sản cổ điển của Miền Bắc đã là một thất bại thê thảm. Cả hai mô thức quốc hữu hóa và tập thể hóa kinh doanh đều đã bị cưỡng chống mạnh mẽ... Và những vi phạm đạo đức của Ðảng ngày càng gia tăng khi những cán bộ từ Miền Bắc vào đã bị Miền Nam dụ dỗ làm bậy.”

(4) Seth Mydans, trong một bài báo được đăng trên tờ The New York Times hồi Tháng Năm năm 2000, viết như sau về thành phố Sài Gòn trong lễ kỷ niệm gọi là “25 năm giải phóng miền Nam” lồng trong cảm nghĩ của vài nhân vật từng công khai ủng hộ cuộc chiến tranh được mệnh danh là “kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” của Cộng Sản gần ba thập niên trước đây:

“Người ca sĩ đứng tuổi với mớ tóc dài và nhà họa sĩ để râu vừa lắc lắc mấy cục nước đá trong chiếc ly của mình vừa suy gẫm về sự chuyển mình của đất nước họ.

“Cũng như những chiến sĩ dạn dày tuổi lính và các cựu chiến binh từng diễn hành sáng nay với mề-đay trên ngực, hai nhân vật này - các anh hùng chống chiến tranh năm xưa-nói về hòa bình, về những tiến bộ và về tinh thần quốc gia hôm nay vào dịp kỷ niệm năm thứ 25 ngày cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt...

“Tiếng nhạc rock vang động dội lại từ phía một đại lộ thời Pháp thuộc, trong khi hằng chục nghìn dân chúng đi dạo chơi nhân ngày nghỉ lễ đã làm nghẽn kẹt các con đường ở trung tâm cái thành phố thay đổi nhanh chóng này, thành phố mà trước kia là Sài Gòn.

“Nhưng hai người bạn đồng chí này, cạnh chai rượu uýt-ki hầu như đã cạn, dường như không thể tách mình ra khỏi một hình ảnh vẫn mải ám ảnh họ: hình ảnh một Mỹ kiều giàu có đi bộ trên đường phố, tay trong tay cùng với một phụ nữ Việt Nam xinh đẹp.

“Theo lời ca sĩ Trịnh Công Sơn thì, trong thời chiến trước đây, hình ảnh đó tiêu biểu cho cái nghèo nàn của đất nước và sự suy đồi trong đạo lý, mặc dù đó vẫn là một hình ảnh lãng mạn vì ông cũng phải nhìn nhận là có thể có tình yêu trong đó.

“Nhưng bây giờ, theo lời Trịnh Cung, nhà họa sĩ, đây là ví dụ nổi bật nhất về tính thực tiễn và ham chuộng vật chất hiện đang cấu xé tâm hồn Việt Nam: 'Lấy tiền, càng nhiều càng tốt, là điều dân chúng mong muốn. Họ muốn có một cuộc đời mới, một cuộc sống mới giàu sang, và thẳng thắn mà nói, họ không cần biết xã hội phê bình như thế nào về họ.'” (Seth Mydans. “An Ageless Saigon Basks in Peace” [Một Sài Gòn Chẳng Hề Già Tắm Mình trong Hòa Bình]. The New York Times, 1 Tháng Năm, 2000.)

(5) Thông Tấn Xã Reuters, trong bản tin đánh đi ngày 1 Tháng Hai, 2006, cho hay các nhà lập pháp Hoa Kỳ đã nói tại phiên nhóm khởi đầu của khóa họp nhằm cứu xét các luật lệ khống chế bớt các công ty Mỹ đang hoạt động tại các nước có chế độ đàn áp dân chúng rằng các công ty đó đã giúp Trung Quốc kiểm duyệt mạng lưới Internet... Ủy Hội Nhân Quyền Quốc Hội đã nghe các chuyên gia nói về cách thế những công-ty khổng lồ như Google Inc., Yahoo Inc., Microsoft Corp., và Cisco Systems Inc. đang làm cho công việc canh chừng mọi hoạt động quần chúng của 30,000 cảnh sát Internet tại Trung Quốc trở nên dễ dàng hơn.

Trong một bản tin khác vào ngày 15 Tháng Hai, Hãng Reuters cho biết thêm rằng “từ mấy tháng qua, Yahoo Inc. đã hai lần bị cáo buộc là cung cấp bằng cớ cho nhà cầm quyền (Trung Quốc) bắt bớ và buộc tội chính trị hai khách hàng người Trung Quốc của dịch vụ Internet do công-ty Hoa Kỳ này cung cấp.

(6) Cộng Sản Việt Nam, cũng như Cộng Sản Trung Quốc, có thể là vì tự ái - kiểu Fidel Castro - nên đã không công khai nhìn nhận sự phản bội ý thức hệ này, và dường như họ vẫn cứ muốn dân chúng trong nước tiếp tục tin rằng họ vẫn còn trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản và thế giới cứ tiếp tục gọi họ là Cộng Sản, chứ không phải bằng một danh hiệu nào khác. Tính thực tiễn cao độ (và không còn lý tưởng gì nữa) của người Việt Nam và người Trung Hoa thời nay bảo cho họ biết rằng “mèo đen hay mèo trắng, nèo nào cũng vậy thôi, miễn là nó bắt được chuột.”
Một du khách Mỹ từng đến viếng thăm Việt Nam, xưng danh là Jack, viết về chế độ Cộng Sản tại Việt Nam như sau trong một lá thư được đăng trên tờ The Quaker Economist hồi năm 2002: “Chính phủ (Việt Nam) chỉ còn là một chính phủ xã hội chủ nghĩa có trên danh xưng - và họ chỉ còn giữ lại một điều duy nhất là “độc đảng” mà thôi.” (Jack. “Listening to Vietnam” [Lắng Nghe Việt Nam]. The Quaker Economist, 11 Tháng Mười, 2002.)

(7) Theo các tài liệu lịch sử, Việt Nam nổi tiếng “mê” Mỹ không phải chỉ từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trở đi nhưng là kể từ thời Ông Hồ Chí Minh còn cộng tác với tình báo Mỹ (Office of Strategic Services, OSS) chống quân chiếm đóng Nhật Bản tại Bắc Việt hồi Thế Chiến Thứ 2, với việc Ông Hồ xin được Mỹ giúp lấy lại độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp -nhưng, rủi thay, lúc đó Mỹ vẫn còn “mê” Pháp lắm nên đã làm ngơ - và việc ông Hồ lấy ý và lời văn từ bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa Kỳ để lồng vào bài diễn văn đọc trong ngày 2 Tháng Chín năm 1945 là ngày ông và phong trào Việt Minh tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hà Nội.

Năm 1999, nhân chuyến quân đội Mỹ đến Việt Nam để cứu trợ nạn nhân bão lụt lần đầu tiên kể từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Ðại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, là Lê Văn Bằng, có phát biểu như sau: “Hoa Kỳ là nước số một trên thế giới mà chúng tôi (Việt Nam) cần tới để trợ giúp chúng tôi trong các vấn đề an ninh, trong các vấn đề quân sự cũng như trong các vấn đề kinh tế& Nhưng dẫu sao thì dư âm của cuộc chiến (vừa qua giữa đôi bên) vẫn chưa phai tàn.” (Elizabeth Becker trích dẫn trong “Vietnam Circles Slightly Closer to Military Ties to U.S.” [Việt Nam Nhích Gần Hơn Chút Nữa tới Quan Hệ Quân Sự với Mỹ]. The New York Times, 17 Tháng Tư, 2000.)

Hồi năm 1997, cũng trên tờ The New York Times, có một bài báo của Craig R. Whitney nói về ảnh hưởng áp đảo của nếp sống tư bản tại Miền Nam đối với Miền Bắc, đặc biệt là với Hà Nội:

“Sài Gòn, như hầu hết số 5 triệu dân sinh sống tại đây vẫn còn gọi nơi này bằng cái tên đó, theo lẽ thì đã phải biến thành Hà Nội sau khi những người Cộng Sản Việt Nam thắng cuộc chiến tranh tại Việt Nam hồi năm 1975. Thay vào đó, Hà Nội nay đã trở thành Sài Gòn... Ngoại trừ chuyện không có bóng dáng các chàng GI (lính Mỹ), Hà Nội hiện nay sống và phô bày bộ mặt mình trước toàn thể thế giới y hệt như Sài Gòn ngày xưa vậy -một đô thị cuồng nhiệt, đang biến hình và đang được những động lực mạnh mẽ ngoài vòng cương tỏa thúc đẩy.” (Craig R. Whitney. “Hanoi Now, Meet Saigon Then” [Hà Nội Bây Giờ Cũng Như Sài Gòn Năm Xưa]. The New York Times, 28 Tháng Chạp, 1997.)

(8) Seth Mydans viết trên tờ The New York Times: “Mặc dù những hệ lụy của cuộc chiến, Việt Nam coi bộ vẫn bị thu hút vì Mỹ quốc. Có lúc, dường như toàn bộ đất nước này đang ra sức học tiếng Anh, thứ ngôn ngữ của giao thương. (Seth Mydans. “Vietnam Finds an Old Foe Has New Allure” [Việt Nam Thấy Kẻ Thù Cũ Có Hấp Lực Mới]. The New York Times, 13 Tháng Tư, 2000.)

(9) Xem lại Craig R. Whitney: “Sài Gòn, như hầu hết số 5 triệu dân sinh sống tại đó vẫn còn gọi nơi này bằng cái tên đó, theo lẽ thì phải biến thành Hà Nội sau khi những người Cộng Sản Việt Nam thắng cuộc chiến tranh tại Việt Nam hồi năm 1975. Thay vào đó, Hà Nội nay đã trở thành Sài Gòn.” (Craig R. Whitney. “Hanoi Now, Meet Saigon Then” [Hà Nội Bây Giờ Cũng Như Sài Gòn Năm Xưa]. The New York Times, 28 Tháng Chạp, 1997. Tài liệu đã dẫn.)

(10) Những tài liệu mới nhất cho biết tổng số quân nhân Mỹ hy sinh trên các chiến trường tại Miền Nam Việt Nam, Miền Bắc Việt Nam, Lào và Căm-Bốt trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam là 58,000. Một số ít các quân nhân khác vẫn còn bị coi là mất tích vì chưa kiểm kê được.

(11) Cũng trong bài báo nhan đề “Việt Nam, Cạn Kiệt vì Giáo Ðiều Chủ Nghĩa, Ðang Cố 'Tổ Chức Lại' Hệ Thống Cai Trị của Mình” (Vietnam, Drained by Dogmatism, Tries a 'Restructuring' of Its Own) trên nhật báo The New York Times, số ra ngày 24 Tháng Tư năm 1989, Steven Erlanger lại viết: “Chính sách nông nghiệp mới hiện nay là tái phân phối đất đai đã bị hợp tác hóa trước đây cho từng gia đình riêng rẽ đặt căn bản trên các khế ước mới mang tính lâu dài, với nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước được ấn định sẵn. Chính phủ khuyến khích cá nhân đầu tư vào kinh doanh, và chính phủ cũng hứa hẹn rằng người dân cùng con cái họ có thể tiếp tục quyền sở hữu những gì họ đã làm ra.”

Trong một bài báo trên tờ The New York Times hồi năm 2000, Seth Mydans viết: “Dennis de Tray, đại diện cao cấp tại Việt Nam của Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF), nói rằng đất nước này (Việt Nam) có kiểu mẫu thành công riêng của họ để phô trương khi họ mở ngỏ nền kinh tế -đó là một quyết định được đưa ra cách nay một thập niên-chấm dứt hợp tác hóa nông nghiệp... Rồi ông de Tray đưa ra nhận xét: 'Họ đi từ tình trạng suýt chết đói tới vị trí của một nước xuất cảng gạo lớn hàng thứ nhì trên thế giới hầu như chỉ qua một đêm thôi'.” (Seth Mydans. “Vietnam Finds an Old Foe Has New Allure” [Việt Nam Thấy Kẻ Thù Cũ Có Hấp Lực Mới]. The New York Times, 13 Tháng Tư, 2000. Tài liệu đã dẫn.)

(12) Kẻ được coi là đã đưa ra câu nói “trúng tim đen” của dân Việt Nam kia là Alexandre Varrène, công sứ Pháp tại Bắc Kỳ, một quan cai trị thực dân nổi tiếng lỗi lạc vì thông hiểu cả tiếng Việt lẫn chữ Hán (Nho) và chữ Nôm. Trên cương vị đại diện hành chánh của mẫu quốc tại xứ Bắc Kỳ nằm dưới quyền trực trị của Pháp hồi thập niên 1920, ông Varrène đã có rất nhiều cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu tâm tư cũng như tình cảm của người dân An Nam bị trị tại vùng đất vẫn luôn được coi là chiếc nôi của nền văn hóa Việt Nam. Dĩ nhiên là với cá tính thiên bẩm đó, một người Việt Nam lúc nào cũng tài giỏi tương đương với một người Nhật Bản - mà bây giờ cũng có thể là một người Trung Quốc hay một người Hàn Quốc - nhưng hai người Việt Nam trở lên thì ta đành chịu thua thiên hạ, đơn giản chỉ là vì ta thiếu tinh thần đoàn kết - nhất là vào những lúc đang có quyền lợi và không phải đối diện với nguy biến - và chỉ thích làm anh hùng cá nhân mà thôi.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét