khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2022

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh Trong Mắt Lm Nguyễn Văn Khải

 

Về đời sống của Thiền sư TNH: ông xuất tu khỏi GHPGVNTN, ông lập môn phái riêng của ông, ông có gia đình, có vợ con. Ông chỉ nhận là Thiền sư chứ không nhận là người tu hành, là thượng tọa hay hòa thượng. Về mặt này, ông là người thẳng thắn!
Về sách vở của Thiền sư TNH: xét trên quan điểm tâm linh tôn giáo, cụ thể là phương diện triết học và Phật học, tôi không thấy có tư tưởng gì cao sâu, độc đáo.
Về cách tu tập: các trung tâm Làng Mai đã bắt chước theo cách tổ chức của Taizé và các đan viện Kitô giáo, tất nhiên có cải biên và thích nghi, nhưng mang nặng yếu tố tình cảm và tâm lý hơn là dựa trên một nền tảng triết học và Phật học uyên thâm.
Giới trí thức thiên tả nửa nạc nửa mỡ ăn chơi sa đọa ở Tây Phương, chẳng còn biết gì đến đức tin là gì, muốn chứng tỏ mình cũng là con người nhân bản và quan tâm đến tôn giáo thì thích sách ông và cách tu của ông như một cái mode thời thượng. Một vài ngày hay một vài tuần vào Làng Mai giống như một kiểu đi vào resort hạng sang khác lạ vậy thôi.
Giới trí thức Phật giáo và những nhà tu Phật giáo uyên thâm, những người dấn thân thật trong lãnh vực tâm linh thấy tư tưởng, những bậc thầy về thiền ở Tầu, ở Nhật, ở Hàn thấy tư tưởng của ông nhạt như nước ốc, cách tu tập của ông như trò trẻ con. Ở những nơi ấy sách vở và cách tu của ông không có đất sống. Các bạn có thấy có Trung tâm Làng Mai nào ở Nhật không? Không! Cả ở Hàn Quốc, Đài Loan cũng không!
Về đời sống dấn thân của Thiền sư: trước sau ông chỉ lợi dụng nỗi đau của đồng loại để làm lợi cho ông và môn phái của ông. Ông dường như không quan tâm đến vận mệnh dân tộc và đất nước. Trước 1975, ông chống VNCH, ông "phản chiến" cuộc chiến bảo vệ tự do và độc lập của Miền Nam. Ông không phản đối cuộc xâm lược của cộng sản Bắc Việt. Ông thân cộng và làm lợi cho cộng sản. Chính quyền VNCH nhân đạo nên chỉ trục xuất ông.
Ông đi đêm với CS bao nhiêu lần. Trước sau 1975 CS lợi dụng ông và ông lợi dụng CS được bao nhiêu lần. Năm 2005 CS thấy cần sớm được Hoa Kỳ đưa ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm về tự do tôn giáo (CPC), họ tổ chức cho ông một cuộc hồi hương như là "quốc sư" từ Bắc chí Nam với cả một bộ máy tuyên truyền của CS vào cuộc tung hô. Tưởng đã đến lúc thể hiện được vị thế của mình, sau đó ông đề nghị nọ kia dạy khôn CSVN, nhưng bị CSVN dạy cho ông một bài học.
Năm 2006, trước khi đến Việt Nam dự Hội nghị APEC, Tổng thống Bush đã đưa VN ra khỏi danh sách CPC. Thế là đến năm 2008, Thiền viện Làng Mai của ông ở Bảo Lộc, Lâm Đồng bị cộng sản thôn tính. Đến lúc ông bệnh gần chết, ông muốn được hồi hương, biết ông chẳng làm gì ở VN được nữa và CS cũng còn lợi dụng được chút tên tuổi của ông nên cho ông về...
Trước sau ông vẫn là người chỉ tìm quyền lợi của ông và môn phái ông. Ông lợi dụng Mỹ và lợi dụng cộng sản để làm điều ấy. Ông đánh bóng tên tuổi qua nỗi đau của đồng bào, đồng loại. Nhưng đến năm 2001 thì ông bị "hors-jeux" vụ bị khủng bố 11 tháng 9, từ đó ông mất điểm trong con mắt của những người Tây Phương vốn thích ông.
Thích ông là quyền của các bạn. Tôn vinh ông là quyền của các bạn. Phần tôi, tôi thích và tôi tôn vinh những người dám hy sinh vì dân vì nước bất kể họ là ai, cộng sản hay cộng hòa, Công giáo hay Phật giáo, người Việt hay người ngoại quốc.
Tuy nhiên, trong tư cách là linh mục Công giáo tôi lấy làm xấu hổ và đau đớn khi có người Công giáo chẳng biết gì cũng ăn theo "phong thánh" cho ngông, cả một trang mạng Công giáo cấp giáo phận cũng có bài về ông. Phần tôi, tôi tin thờ Chúa và tôi đi theo giáo lý của Ngài. Tôi không theo thói đời a dua a tòng tôn thờ thần tượng nhảm nhí!
Một người tu hành dấn thân thì lời nói và việc làm, tư tưởng và cuộc sống phải đi đôi với nhau và phải biết thương yêu và chia sẻ thân phận với đồng bào mình. Đức Đạt Lat Lạt Ma là người như vậy. Còn Thiền sư NTH tôi không thấy được như vậy và vì vậy ông cũng không có chỗ trong lòng người Việt quốc gia chân chính và hiểu biết. Ngay cả trong lòng các Phật tử quốc gia cũng không!

Võ Văn Ái nói về Thích Nhất Hạnh....

 

Lê Thị Huệ: Nói về Nhất Hạnh, hình như ông có thời gian rất thân với Thích Nhất Hạnh ?

Võ Văn Ái: Vâng, chúng tôi ăn chung mâm, ở chung nhà, cùng chung hoạt động trên thế giới cho hòa bình Việt Nam - nền hòa bình dân tộc không cộng sản – từ năm 1966 đến 1970. Nhưng chúng tôi biết và quen nhau từ đầu thập niên 50 ở Đà Lạt. Thời ấy tôi dạy tại trường Trung học tư thục Tuệ Quang ở Cây số 4 do thầy Thiện Tấn, là anh trai của ông, làm hiệu trưởng. Bi kịch của Nhất Hạnh là suốt đời ông đi tìm đệ tử, nhưng không tìm con người tự do. Ông là người hiền lành, tình cảm, nhiều thi tính, tuy độc tài ngầm, bị tham vọng và thanh danh làm hỏng. Phải chăng đời không nương chìu khi còn bé nên biến ông thành con người không giải thoát, nếu không nói là con người hằn thù (l’homme de ressentiment). Tôi đoán thế do nhận xét hai sự kiện. Một là ông rất thương mẹ, nhưng lại chủ tâm biến mẹ thành thánh mẫu trong giới tay chân thân cận. Chắc có gì bí ẩn trong gia đình thuở thiếu thời chăng ? Việc thứ hai xẩy ra vào cuối thập niên 40, thời ông là học tăng tại chùa Bảo quốc, Huế. Chẳng biết phạm lỗi gì rất nặng, nên bị đuổi ra khỏi chùa. Cố Hoà thượng T.T. gửi thư đến các chùa từ miền Trung vào tới Nam ra lệnh cấm không được chứa chấp ông. Thế nhưng ông vẫn giữ bộ áo tăng sĩ, không ra đời. Tôi nghĩ những hành động đi riêng sau này của ông đối với Phật giáo Việt, phải chăng là một cách “trả thù” sự ép chế trước kia ? Giữa lúc chiến tranh ngút ngàn năm 1966, ông rũ tôi lập một “Giáo hội Trẻ” chống lại “các ông già” trong nước. Tôi khuyên ông không nên, phải lo giải quyết chuyện chiến tranh trước đã. Kéo dây động rừng sẽ làm tan nát Phật giáo vào lúc Cộng sản Bắc Việt uy hiếp miền Nam. Nên chuyện bỏ qua.
 
Lê Thị Huệ: Who is Nhất Hạnh ? Xin lỗi tôi phải dùng tiếng Anh ở đây để phản ảnh vai trò bệ vệ quốc tế của Thích Nhất Hạnh
 
Võ Văn Ái: Ông là một nhà thơ, một nhà văn. Nghệ sĩ tính của ông mạnh hơn tính đạo sĩ. Đạo sĩ chỉ là khía cạnh trình diễn cải lương của ông ấy.
 
Lê Thị Huệ: Vụ xung đột giữa ông và ông Nhất Hạnh, ông có nghĩ là đời sống đã không công bằng với ông và với ông Nhất Hạnh ?
 
Võ Văn Ái: Có những lúc chúng tôi thấy cùng nhau đồng hành về một hướng trên quan điểm Phật giáo và dân tộc. Rồi đến lúc, cũng từ quan điểm Phật giáo và dân tộc, tôi không thể đồng hành với ông ấy nữa. Giản dị thế thôi. Tôi chia tay ông đầu năm 1970, sau 6 năm chia sẻ ngọt bùi. Không có xung đột. Đường ai nấy đi, tôi sòng phẳng và nói thẳng lý do với ông khi chia tay. Ông ấy biết rõ hơn ai về sự trao đổi lần cuối này vào một đêm tháng giêng năm 1970. Bài thơ đánh dấu sự chia tay ấy là bài “Nhật ký băng sa mạc Bắc Mỹ Châu” (đại khái thế, không chắc tôi nhớ đúng các chữ trong đề bài) đăng trên Tạp chí Văn ở Saigon năm ấy. Đọc lên chẳng ai biết chuyện riêng giữa chúng tôi đâu. Mặt khác tôi chưa hề công khai hóa việc này, ngoại trừ bức thư xin từ chức tôi gửi về Viện Hoá Đạo trong nước. Vì vậy tôi nói không có xung đột. Tuy nội tâm tôi khủng hoảng dữ dội. Trên phạm vi tư tưởng, tôi bị khủng hoảng hai lần. Năm 1955, tôi phát hiện người Cộng sản phục vụ Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh chứ không tranh đấu cho dân tộc. Lần này, 1970, niềm tin của tôi vào giới Tăng lữ bị khủng hoảng mà Nhất Hạnh là đại biểu. Cuộc chia tay giữa bằng hữu, bỏ đạo này theo đạo khác, chọn ý thức hệ này bỏ ý thức hệ kia là hành trình tự giác hay chọn lựa từng đời người. Chuyện bình thường. Vợ chồng khắn khít còn ly dị kia mà. Gần đây, nhân chuyến ông về Việt Nam, hai chúng tôi có lúc trở nên như to chuyện là vì các đệ tử cuồng tín của ông ấy do không hiểu nguồn cơn nên vọng động. Họ không hiểu rằng, từ năm 1970, Nhất Hạnh là đám mây đen đã bay mất trong đời tôi. Do không hiểu có người gán cho tôi hai chữ "phản thầy". Tôi không hề là đệ tử của Nhất Hạnh thì sao gọi "phản thầy". Mà phản gì ? Bất đồng ý kiến thì chia tay như thường xẩy trong xã hội dân chủ. Đã lâu, tôi không còn nghĩ tới ông ấy. Tuy nhiên sự biến bất ngờ xẩy ra khi ông và bà Phượng rời phi trường Charles de Gaulle lên đường về Hà Nội. Bỗng dưng bà Phượng, tức Chân Không, tuyên bố một câu xanh rờn với hãng thông tấn AFP liên quan tới Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) khiến tôi phải phản ứng. Lời tuyên bố của bà Chân Không được bản tin AFP phát hành chiều ngày 11.1.2005 có đoạn viết rằng: "Nhà sư (tức Sư Ông Thích Nhất Hạnh) không là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là Giáo hội đang bị chính quyền cấm không cho hoạt động từ năm 1981, vì Giáo hội này từ khước sự kiểm soát và điều khiển của Đảng Cộng sản. Hơn một năm trước đây, Công an Việt Nam đã mở cuộc đàn áp sâu rộng Giáo hội này, hàng giáo phẩm bị bắt quản chế và hàng trăm ngôi chùa bị phong tỏa. Khi được hỏi vì sao một số phong trào tôn giáo bị cấm đoán tại Việt Nam, Sư cô Chân Không trả lời: "Vì một số các Giáo hội này tàng trữ những lá cờ của chế độ cũ (sic). Còn chúng tôi, thì chúng tôi chẳng có một tham vọng chính trị nào cả". Hai ngày sau tại Hà Nội, ông Nhất Hạnh tuyên bố trên báo Nhân Dân phát hành ngày 13.1.2005, rằng: "Ông đã từng đấu tranh với những thái độ căng thẳng của chính quyền một số nước phương Tây về "vấn đề tôn giáo ở Việt Nam". Ông kể, ông đã từng nói với một số quan chức Hoa Kỳ rằng : "Người Việt Nam muốn được giải phóng khỏi cái mà người Mỹ gọi là sự giải phóng cho người Việt Nam". Sư Ông Nhất Hạnh, Giáo chủ Làng Mai, trong các chuyến về thăm và được Hà Nội cho phép tự đo thuyết giảng từ Bắc chí Nam qua các năm 2005, 2007, 2008 Phản ứng tôi thông qua thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế dây dưa tới chuyến đi Việt Nam của ông Nhất Hạnh cùng 100 Tăng thân Làng Mai. Trước đó tôi không có ý định nhắc tới phái đoàn của ông. Dù tôi biết rất rõ Hà Nội đang sử dụng lá bài Tuệ Sỹ - Lê Mạnh Thát trong nước, ngoài nước là lá bài Nhất Hạnh để được rút tên khỏi danh sách CPC (Countries of Particular Concern, danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo) mà chiếu theo Đạo luật 1998 của Quốc hội Hoa Kỳ các nước nằm trong danh sách này sẽ bị chế tài trên lĩnh vực kinh tế và tài chánh. Năm 1977, trên tạp chí Quê Mẹ lần đầu tiên chúng tôi đề cập tới ông Nhất Hạnh và bà Cao Ngọc Phượng qua vụ con tàu đi vớt người vượt biển mà ông bà thực hiện một cách vô trách nhiệm tại Singapore. Lên tiếng vì thảm cảnh người Vượt Biển lúc bấy giờ, chứ chẳng vì chuyện cá nhân. Tạp chí Quê Mẹ phản ảnh sự vụ sau khi hai tờ báo lớn Straits Times ở Singapore và New York Times ở Nữu Ước khui ra trước tiên. Nguyên tổ chức Hội nghị Thế giới cho Tôn giáo và Hoà bình (World Conference on Religion and Peace) bỏ ra sáu mươi nghìn Mỹ kim giao cho ông Nhất Hạnh tổ chức việc cứu người vượt biển Đông với chức vụ Giám đốc Điều hành, bà Phượng làm phụ tá. Tổ chức này có phòng ốc làm trụ sở ở Singapore, nhưng hai ông bà lại đi thuê villa ở riêng. Thay vì đi vớt người, thì hai ông bà thuê một chiếc tàu cũ bệ rạc không còn khả năng ra khơi, nên chỉ nằm tấp bờ. Bà Phượng đưa những người đã nhập trại tiếp cư ở Thái Lan lên tàu ấy cho có màu sắc “vớt người tị nạn”. Theo New York Times các người tị nạn ở Thái phải trả một khoảng tiền cho bà Phượng mới được đưa lên tàu. Tàu lại không có khả năng tới các quốc gia tị nạn thứ ba. Việc lôi thôi xẩy ra từ đó. Người tị nạn ngày ngày dưới sức nóng nhiệt đới ngồi trên bong nghe thơ Nhất Hạnh hay kinh tụng theo giáo phái Làng Mai (lúc ấy còn gọi là Làng Hồng) phát ra từ máy. Nhưng chờ mãi chẳng thấy tương lai định cư về đâu nên họ sinh ra bất mãn. Tôi còn trong tay bản phúc trình 28 trang của ông Homer Jack, Tổng thư ký Hội nghị Thế giới cho Tôn giáo và Hoà bình phúc trình việc bê bối và lấy quyết định cách chức hai ông bà Nhất Hạnh và Phượng đồng thời tống xuất họ khỏi Singapore. Sau này, có số người hiểu lầm rằng tôi tranh giành con tàu của ông ta. Họ đâu biết rằng con tàu chưa hình thành đã thất bại của ông Nhất Hạnh xẩy ra giữa năm 1977. Con Tàu Đảo Ánh Sáng do cơ sở Quê Mẹ xướng xuất vào cuối năm 1978 là sự biểu tỏ đồng tình của lương tâm thời đại, với sự tham dự của gần 200 nhân sĩ quốc tế. Từ con tàu của chúng tôi đẻ ra hàng loạt tàu đi vớt người khác ở Đức, ở Ý, ở Na Uy… Nhìn lại việc này, tôi thấy Quê Mẹ công khai hóa sự vụ là đúng, bởi liên quan tới sinh tử của phong trào Người Vượt Biển vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng ấy, cũng như cung cách làm việc tài tử cố hữu và vô trách nhiệm của hai người. Tuy nhiên loạt bài viết trên Quê Mẹ gây sốc cho giới Phật tử. Một số Phật tử quan niệm rằng cư sĩ (tôi) không được “phạm thượng” động tới Tăng sĩ là ông Nhất Hạnh. Thế nhưng cơ sở và tạp chí Quê Mẹ do tôi chủ trương không thuộc bất cứ đảng phái hay tôn giáo nào, kể cả Phật giáo, dù tôi là Phật tử. Một cơ quan ngôn luận phải làm đúng chức năng thông tin và hướng dẫn dư luận. Sau cuộc chia tay ông Nhất Hạnh, năm 1970, tôi đã làm đơn gửi Viện Hóa Đạo trong nước từ nhiệm tất cả mọi chức vụ trong giáo hội, mãi cho tới hai mươi hai năm sau, năm 1992, do Hoà thượng Thích Huyền Quang thúc đẩy tôi mới trở về với Giáo hội Phật giáo. Tuy nhiên, nếu vấn đề cần đặt lại, có thể là cách viết loạt bài thời ấy. Loạt bài này do ông nhà báo HTA của tòa soạn viết theo sự quyết định của Chủ biên Tin quốc tế là ông TN. Ký giả này xưa làm báo ở Saigon, nên cung cách viết cũng là cung cách viết của nền báo chí Saigon thượng vàng hạ cám trước kia. Đành rằng tôi trách nhiệm trong vai trò Chủ nhiệm, Chủ bút. Song phải nói thời gian khổ sở ấy, tôi vừa cáng đáng điều hành nhà in, vừa làm thợ chạy máy. Mỗi ngày lao động 18, 19 giờ nên không đọc hết các bài vở để nhuận chính. Sự khó khăn ở nhà in của tôi gián tiếp đến từ bà Phượng. Khoảng năm 1968 do thiếu nhân sự ở Văn phòng Phật giáo, bà Phượng gửi một nhân viên từ Saigon sang Paris giúp tôi. Do tin cẩn tôi không đặt vấn đề lý lịch. Mãi sau này, đầu thập niên 70 khi tôi thành lập nhà in làm kế nuôi thân và nuôi mộng làm báo văn hóa, làm nhà xuất bản. Nhân viên này theo tôi, vì anh bảo xưa anh là thợ in ở Saigon. Mua xong nhà in mới biết anh chẳng biết tí ti nghề nghiệp, khiến tôi phải tự học như một khổ ách trong đời. Đến khi nhà in bắt đầu chạy việc, thì một đêm anh ta phá hoại máy in mới mua, phá luôn máy cắt xén, là hai bộ phận cơ bản của một nhà in nhỏ. Rồi bỏ đi. Lúc ấy chúng tôi mới vỡ lẽ, hóa ra anh là người của bên kia, lâu nay nằm vùng trong cơ sở chúng tôi để bắn phát đạn cuối cùng vào lúc chúng tôi kiệt quệ. Do đó mà tôi trở thành thợ in bất đắc dĩ. Nói dài dòng như thế để hiểu rằng, tôi đã tin cậy vào Chủ biên Tin quốc tế TN và anh nhà báo nọ. Nên không xem lại bài viết để chỉnh đốn lời văn. Tuy sự kiện đưa ra đúng như sự thật.
 
Lê Thị Huệ: Có một điều tế nhị nhiều người không muốn nói, nhưng tôi nghĩ với những vấn đề của trí thức, nó chẳng phải là một điều gì ghê gớm. Có phải ông Nhất Hạnh muốn cách mạng Phật Giáo Việt Nam, có phải ông Nhất Hạnh đã yêu bà Chân Không và thăng hoa tình yêu ấy khi muốn Phật Giáo Việt Nam chấp nhận chuyện sư có vợ con. Với tôi, đây là một điều tốt cho tôn giáo của ông ấy. Tôi không phản đối điều này. Liệu có một sự thật nào đó trong câu chuyện này, hay đây chỉ là một lời đồn lừa dối
 
Võ Văn Ái: Nói rằng ông Nhất Hạnh muốn cách mạng Phật giáo Việt Nam thì không đúng. Đại sư Thái Hư mới là người xứng danh và là nhân vật lịch sử của Phật giáo từ những năm đầu Dân quốc thế kỷ XX ở Trung quốc, khởi xướng cuộc tân vận động của Phật giáo cận đại và hiện đại. Trước Dân quốc, Tăng sĩ bị xã hội khinh rẻ vì thiếu học, chỉ lo việc cúng kiến, mê tín, nên Đại sư Thái Hư gióng lên cuộc cách mạng Phật giáo trên ba lĩnh vực cơ bản là Cách mạng Giáo lý – Cách mạng Giáo chế - Cách mạng Giáo sản trong hoàn cảnh bế tắc và tiêu trầm của Phật giáo Trung quốc. Tư tưởng cách mạng này vượt biên cương chi phối toàn thể sinh hoạt Phật giáo từ Á sang Âu Mỹ. Nhờ những chuyến đi thuyết pháp của Đại sư Thái Hư mà các Hội Học Phật được thiết lập khắp Âu Mỹ Á đầu thế kỷ XX. Tại Việt Nam, Cư sĩ Lê Đình Thám cùng các Đại sư Phước Huệ, Trí Độ, v.v… do đọc sách của Thái Hư mà phát động Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam từ thập niên 20 đầu thế kỷ XX lan truyền khắp Nam, Trung, Băc kỳ. Sự xuất hiện uy dũng của Phật giáo Việt Nam hai thập niên 50, 60, là thành quả của phong trào Chấn hưng Phật giáo gợi hứng từ công trình, công đức và công hạnh kỳ vĩ của Thái Hư Đại sư. Bản thân ông Nhất Hạnh có một số phát kiến canh tân Phật giáo sau thời gian du học ở Mỹ. Tôi nghĩ ông chịu ít nhiều ảnh hưởng từ giáo phái Tin Lành và thần học Paul Tillich trong các phát kiến của ông. Tôi từng viết bài ca ngợi cuốn sách “Hiện đại hóa Phật giáo” của ông trên tạp san Hải Triều Âm ở Saigon giữa thập niên 60. Trái lại, Bùi Giáng thì chê Nhất Hạnh về cuốn sách này trong “Đi vào Cõi Thơ” do Ca Dao ấn hành, Saigon năm 1969, ở trang 63 như sau: “Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên. Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây phương”. Từ năm 64, 65 tại Saigon, ông thiết lập dòng Tiếp Hiện cho phép người tu lập gia đình, phát triển trong giới Phật tử thuộc Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Phú Thọ Hoà. Trong giới thân cận ông có một người không đồng ý là Nhất Chi Mai, tức cô giáo Phan Thị Mai tự thiêu cho Hòa bình năm 1966. Tôi còn giữ bức thư thủ bút của cô ấy về sự bất đồng này. Ông Nhất Hạnh dự tính công khai dòng Tiếp Hiện qua một cuộc họp báo ở Saigon, đưa Phạm Công Thiện làm người đầu đàn phát huy Dòng mới (thời gian này Phạm Công Thiện là Đại đức Thích Nguyên Tánh). Nhưng Phạm Công Thiện bỏ rơi cuộc họp báo rồi sau đi du học Mỹ, nên việc không thành. Khoảng năm 1967, thời ông đón bà Cao Ngọc Phuợng ở Việt Nam ra cùng sang ở Tokyo, nói là đi nghiên cứu “kinh tế hậu chiến”, ông viết thư cho tôi kèm cương lĩnh và giới luật Dòng Tiếp Hiện mong tôi tham gia thực hiện và phát triển dòng tu mới. Nhưng tôi không trả lời. Thực tế là vào giai đoạn giữa thập niên 60, ngoài Nhất Hạnh, tôi biết vài vị Tăng vai vế có khuynh hướng phát động phong trào Tân Tăng Nhật Bản tại Saigon, như cố Hoà thượng TMG là một. Nhưng sau vài thử nghiệm họ gặp phản ứng chống đối quá lớn của quần chúng Phật tử, nên phong trào vụt tắt. Sau này nhờ hoàn cảnh khách quan ở nước ngoài dễ phát triển hơn trong khung cảnh Làng Mai ở Pháp. Về giới Tân Tăng cho phép lấy vợ, thì Nhật Bản là nước tiên phong và có truyền thống từ thế kỷ XIII. Đọc truyện Kinkakuji của Yukio Mishima sẽ thấy bối cảnh của đời sống Tân Tăng này. Đại sư Thân Loan (Shiran, 1173-1262) tổ khai sáng Tịnh độ Chân tông Nhật bản (Jōdo-shinshū / Shin Buddhism), sau khi làm đệ tử ngài Pháp Nhiên (Hōnen) được Thầy cho phép lấy Ni cô Huệ Tín làm vợ, khởi nguồn cho chế độ Tăng lấy vợ của phái Chân tông Nhật bản. Hơn mười năm trước tôi đến thăm chùa Higashi Honganji (Đông Bản Nguyện tự) ở cố đô Kyoto là bản sơn của phái này. Vị sư dẫn tôi đi thăm chùa giải thích rằng : “Thấp thoáng sau lưng các vị Sư có bóng người đàn bà. Tại sao không công khai hóa mà cứ giấu giấu diếm diếm ?”. Rồi ông thuật cho tôi nghe việc ra đời của phái Tân Tăng của ngài Thân Loan. Chuyến thăm ấy tôi còn chú ý tổ chức Nhân quyền của Tịnh độ Chân tông ngay trong ngôi bản tự này. Có đến 450 nhân viên túc trực. Họ lo cho nhân quyền của giới cùng đinh BurakuminNhật bản, khoảng 3 triệu người sống trong cảnh kỳ thị xã hội. Ban ngày các sư đi làm lụng như người thường (cư sĩ) trong các công xưởng, văn phòng hay quán ăn. Về chùa khi lễ lượt mới mặc y áo tăng sĩ. Cuối thập niên 60, trong mấy năm dài chúng tôi chung sống với nhau dưới mái nhà làm trụ sở Phật giáo ở số 11, rue de Vénus, thị xã Maisons-Alfort, ngoại ô Nam Paris. Thời ấy, ông Nhất Hạnh và bà Cao Ngọc Phượng (sau này cạo đầu xuất gia lấy tên Chân Không) sống đời sống đôi cặp tự do, không giấu diếm, tuy ông không cổi áo công khai hóa ngoài xã hội. Cùng sống với chúng tôi lúc ấy có 7 vị Tăng và 6 cư sĩ. Sau này 5 trong số 7 vị Tăng này đã hoàn tục (một vị hiện sống ở Paris và một vị nay ở Saigon). Kinh Phật dạy y pháp bất y nhân, nghĩa là y vào Pháp Phật mà học và tu, đừng nệ tới con người. Người bình dân cũng nói ai tu nấy chứng. Quan điểm tôi, việc lấy vợ hay không chẳng quan trọng cho bằng đức hạnh, trình độ tu chứng và nỗ lực cứu đời.
 
Lê Thị Huệ: Đạo Bụt của ông Nhất Hạnh, ông nghĩ sao ?
 
Võ Văn Ái: Ông Nhất Hạnh có công giới thiệu đạo Phật theo giáo phái Làng Mai của ông ấy cho giới thị dân Âu Mỹ. Những người mà đời sống bị thúc bách, đè nén thường xuyên vì công ăn việc làm hay đời sống bon chen ở các thị trấn. Nên họ bị Stress. Các khóa tu học cuối tuần của đạo Bụt cấm dùng điện thoại, không được xem Tivi, bắt hít thở trong không khí miền quê hay rừng núi, vừa đi vừa hít thở thiền hành, tập cười, tập ôm nhau thân ái (Thiền Ôm) khi có nhu cầu, làm cho con người thư giản, làm an dịu thân tâm. Một lối tu tập Yoga. Song tiến xa hơn vào đời sống tâm linh của đạo Phật, thì dường như Đạo Bụt không thành công. Tôi gặp một số bạn Tây phương thích thú theo học giáo phái Làng Mai nhưng bỏ nửa chừng để quay sang đường lối tu tập Phật giáo Tây Tạng. Đạo Bụt của ông dịu dàng, thiên về tự kỷ ám thị hơn là khai mở chân tâm. Đánh một tiếng chuông mỉm miệng cười, dán những câu thơ / kệ trong phòng tắm, phòng ngủ, trẻ em đi học về ôm mẹ nói “Mẹ ơi, con thương mẹ lắm”, v.v… có cái gì rất Pavlov, không tự nhiên. Chứng tỏ phương pháp này xuất phát từ những con người sống quá lâu trong dồn nén, ẩn ức, bất bình thế sự, không thỏa mãn tình dục. Trong truyền thống tu học Phật giáo của giới xuất gia từ nghìn xưa thì các bộ Luật Sa di và Sa di ni nghiêm túc, trang nghiêm, cẩn trọng và có phương pháp hơn nhiều. Đạo là thông lưu không trở ngại. Thiền là hành động tự nhiên hơn sự giải thích bằng ngôn ngữ hay cử điệu. Một cái vỗ vai với người bạn, một ánh mắt đối với mẹ sẽ ý nhị và làm thay những câu nói hay cử động cải lương kia. Ngay việc sử dụng chữ Bụt thay cho chữ Phật thường dụng trong quần chúng Việt Nam qua nhiều thế kỷ, tôi thấy như có gì trình diễn, cải lương, lập dị hơn là một thay đổi có tính bản thể. Sự thất bại của đạo Bụt thấy rõ ở các nước Á châu như Nhật Bản, Nam Hàn, Việt Nam. Mười mấy năm trước, chuyến đi thuyết trình của ông Nhất Hạnh tại Nhật thất bại nên ông không còn trở lại. Hai Thượng toạ Hộ Tùng Nghĩa Tình và Hoàn Sơn Chiếu Hùng mà tôi gặp tại Tâm Quang Viện ở Tokyo, thành viên Phật giáo Quốc tế Hiệp lực và ở trong ban tổ chức chuyến đi một tháng cho ông Nhất Hạnh nói với tôi như thế. Hỏi lý do, hai vị bảo rằng người Nhật không chấp nhận lối Pháp đàm và cách trình bày về Phật giáo của ông Nhất Hạnh. Loại “Thiền ôm hít thô sơ” chạm trán với dòng Thiền thâm hậu Nhật Bản vốn có truyền thống tu chứng thành nếp văn hoá tâm linh cao cả, ắt phải tiêu ma. Cho nên đạo Bụt của ông Nhất Hạnh chỉ thành công phần nào tại các nước phương Tây cho giới thị dân và giới cựu quân nhân Mỹ có vấn đề tâm thần sau cuộc chiến khủng khiếp tại Việt Nam. Đó là nói chuyện trong thế giới. Trở về cố hương, Huế là pháo đài của ông Nhất Hạnh, chùa Từ Hiếu là sở hữu kế thừa của ông. Trước chuyến về Việt Nam lần đầu năm 2005, đa số Phật tử Huế xem ông là thần tượng, nếu không là Bụt sống. Họ xem Làng Mai như cõi Tịnh độ. Thế nhưng hành xử của ông khi được tiếp xúc, cùng với cung cách giáo phái Làng Mai đã thất bại nặng nề tại Huế. Tôi chợt nhớ lời phê bình của Bùi Giáng nhắc tới lúc nãy. Một Tăng sĩ ở Huế viết thư cho tôi có câu : “Chư Tăng ở Huế rất náo nức và hả dạ ngày Thầy Nhất Hạnh mới trở về. Nhưng nay khi Thầy Nhất Hạnh ra đi thì ai nấy đều ê chề, oán hận thấu trời xanh, mà không nói được nên lời”. Chuyến đầu về Huế năm 2005 hàng bao nhiêu nghìn Phật tử đón rước, thế nhưng mấy lần sau rất tiêu điều theo lời thuật của Phật tử Huế. Phải chăng đạo Bụt và người dạy đạo Bụt thích hợp với một số thị dân Âu Mỹ, nhưng không hợp với tạng người Việt ? Sự mơ mộng hão huyền của ông còn thấy qua lời ông khuyên Tổng thống George W. Bush ngày quân khủng bố Al Qaida đánh sập hai cao ốc Twin Towers ở New York (11.9.2001). Ông lên tiếng trên truyền thông báo chí khuyên Tổng thống Bush đi gặp Ben Laden, hai bên hãy lắng nghe nhau để giải quyết việc đời theo cái điệu “Hiểu và Thương” của giáo phái Làng Mai ! Nội bộ những tín đồ Làng Mai còn chưa “hiểu và thương” nhau, nói chi những người ở xa vạn dặm ? Ở đây tôi không muốn đào sâu việc trước ba nghìn người chết thảm thương trong vụ Twin Towers ở New York, ông Nhất Hạnh chẳng quặn lòng, lại nhân dịp ấy đưa những con số khổng lồ mấy trăm nghìn dân Bến Tre bị chết vì không quân Hoa Kỳ oanh tạc ! Cộng đồng người Việt Tị nạn đã phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ vụ tuyên bố tuỳ hứng này. Ông Nhất Hạnh giải quyết “chính trị thế giới” hay “đạo lý thế giới” như vậy quả là “tuyệt tác”. Song không kém phần ngây thơ nếu không nói lẩm cẩm. Giá dụ cách thế ấy là chìa khoá cho nhân loại đại đồng, hẳn trái đất đã là Thiên đường hay Niết Bàn từ bao đời, Chúa Jesus, đức Phật, Khổng Khưu, Lão Tử… chắc đã lấy hưu non từ lâu ? Tôi bỗng nhớ lời Mai Thảo phê bình cuốn sách “Nói với Tuổi Hai mươi” [8] của Nhất Hạnh trên tạp chí Nghệ Thuật. Cuốn sách gây sôi nổi một thời trong giới trẻ ở Saigon, mà mục tiêu nhằm đánh phủ đầu Phạm Công Thiện với ý thức nổi loạn chống thế hệ cha anh làm cho đất nước điêu linh hai mươi năm trường, mà họ Phạm viết trong sách “Ý thức Mới trong Văn nghệ và Triết học”. Ông Nhất Hạnh khuyên Tuổi Hai Mươi “ Thương nhau, chúng ta sẽ tìm thấy con đường. Thương nhau, chúng ta sẽ làm nên lịch sử”. Mai Thảo phê thứ triết lý ấy khác chi nói “sau cơn mưa trời sẽ nắng” ! Còn Bùi Giáng thì phản ứng bằng bài viết “Nói với tuổi Chín mươi”.
 
Lê Thị Huệ: Ông Nhất Hạnh là người Việt đầu tiên thành công trong việc mang Phật Giáo Việt Nam ra cùng thế giới ? Ông có đồng ý với điểm này không ?
 
Võ Văn Ái: Vâng, trong số hàng trăm Tăng Ni Việt ra hải ngoại hoạt động tôn giáo hơn ba chục năm qua, thì ông Nhất Hạnh và bà Thanh Hải Vô thượng sư coi như nổi tiếng nhất trên thế giới. Một nhận xét mà tôi thường suy nghĩ vẫn chưa tìm ra lời đáp, là khi các nhà tôn giáo lớn Ấn Độ (Vivekananda, Krishmanurti…), Trung quốc (Thái Hư Đại sư…), Nhật Bản (Suzuki, và rất nhiều Thiền sự được gửi ra nước ngoài), Tây Tạng (Đức Dalai Lama) sang phương Tây hoạt động, họ góp công nói lên niềm tin phương Đông họ theo đuổi, vén mở các điều Tây phương còn mù mờ. Những điều Tây phương cần thông tỏ cho việc tỉ giảo và hoà đồng. Không bao giờ các vị này móc nối các tín ngưỡng Tây phương vào pha trộn với giáo lý của họ. Trái lại, ông Nhất Hạnh cũng như bà Thanh Hải Vô thượng sư thì luôn nỗ lực ghép đức Phật vào với Chúa Jesus để truyền đạo. Một nỗ lực hoà đồng tôn giáo ? Muốn lôi cuốn tín đồ đạo khác thần phục mình ? Muốn làm Giáo chủ cả hai tôn giáo ?
 
Lê Thị Huệ: Là một trí thức ngang ngửa với Nhất Hạnh, đã từng là bạn của Nhất Hạnh, ông cho tôi hỏi một câu, sự thành công, cái hấp lực của ông Nhất Hạnh nằm ở đâu, ở điều ông ấy viết hay như một nhà thơ, hoặc ở lời ông ấy giảng hay như một ông thầy chùa.
 
Võ Văn Ái: Sự thành công đặc biệt của ông ấy kết hợp giữa tài văn thơ với bộ áo ông thầy tu. Cổi bộ áo thấy tu ra, ông sẽ không thành Krishmanurti. Chuyện tuy phụ nhưng thành yếu tố chủ yếu cho sự thành đạt của ông ta, đó là âm hưởng của cuộc nổi dậy Phật giáo năm 1963 cộng với sự vang động chiến tranh Việt Nam trong lòng thế giới. Mặt khác, hiện nay, từ cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI nhân loại lâm cuộc khủng hoảng văn hóa và tinh thần rất lớn. Con người khao khát một niềm tin, chờ đợi một niềm tin. Ai dám đứng ra chỉ đường dẫn lối, mang lại một niềm tin, tất con người nối đuôi đi theo. Ở Mỹ chắc chị nhớ phong trào ông Guru Rajneesh, người Ấn độ, chứ ? Đã có thời ông ta lôi kéo hàng chục hàng trăm nghìn người theo ông tu học, kể cả giới thượng lưu bác sĩ, kỹ sư, luật gia… nối đuôi xe Limousine đến học đạo với ông... Cho tới ngày ông ta bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ, phong trào mới chấm dứt. Nói gì đâu xa, cách đây không lâu, tôi có những bạn bác sĩ, kỹ sư, thương gia… bỗng một sớm bỏ vợ, bỏ con, bỏ nhà cửa đi theo bà Thanh Hải Vô Thượng sư. Mỗi lần bà này thuyết pháp có cả chục nghìn người đi nghe. Nghe nói người ta xin uống nước tắm của bà ấy ?! Đến khi bà để tóc, ăn mặc thời trang, lấy chồng, mà tín đồ vẫn cứ mê. Tôi có người bạn bác sĩ fan của bà ở Dallas nói với tôi rằng mỗi khi gặp khó khăn ông chỉ niệm danh hiệu bà là mọi sự qua khỏi. Đấy, niềm tin của con người. Tôi có dịp xem trên truyền hình Pháp về một phái thờ đá, thờ búp bê bên Mỹ. Xem ra cũng bộn tín đồ. Cái chính hiện nay là con người khao khát một niềm tin, chờ đợi một niềm tin, và con người còn vô minh. Chị đóng kịch giỏi chị sẽ tha hồ thu hút tín đồ làm nạn nhân. Chị đạo cao đức trọng, chị sẽ cứu vớt hàng hà sa số chúng sinh.

Thực trạng thưởng Tết của nhà giáo?





Iran, Nga, và Tàu tập trận ở Ấn Độ Dương





Sài Gòn 1976 đón Tết "hòa bình" đầu tiên





Thứ Năm, 20 tháng 1, 2022

Đi chùa rằm tháng Chạp





Rộn ràng chợ hoa Tết ở Little Sài Gòn





Sửa soạn đường hoa Nguyễn Huệ đón Tết Nhâm Dần





Việc nhà báo Phạm Đoan Trang nhận giải nhân quyền “như cái tát vào mặt chính quyền”





Tóm tắt nhanh: Lịch sử tranh chấp quần đảo Hoàng Sa





Lính Đài Loan nói sẵn sàng chết vì đất nước





Bỉ: Trùm buôn người Việt Nam bị án 15 năm tù





Vùng trồng rau, củ quả Tết ở Quảng Nam thất thu





1,3 triệu lao động Việt Nam sẽ thất nghiệp trong năm 2022





Thứ Tư, 19 tháng 1, 2022

Vì sao người Việt Nam ở nước ngoài về nước qua ngả Campuchia?





Giải mã liên hệ kinh tế Nga-Thổ Nhĩ Kỳ





Zero Covid của Tàu cộng đe dọa tăng trưởng thế giới





Những hạn chế của Liên minh 25 năm giữa Trung Quốc và Iran





Vì sao Đức tìm cách "bóp nghẹt" ngành công nghiệp hạt nhân Pháp ?





Ba ván đấu bên ngoài sân Open Australia của Djokovic và hệ lụy với sự nghiệp đỉnh cao





Putin đơn độc trong giấc mộng đại cường

br/>
br/>

Mỹ bất ngờ phô trương vũ khí mạnh nhất tại Châu Á để răn đe đối thủ





Kung Flu tại Pháp: Đợt dịch thứ 5 sắp chấm dứt ?





Sản xuất giày từ bã cà phê và nhựa tái chế : tham vọng chinh phục thế giới của chủ start-up gốc Việt





Diễn văn tại Nghị Viện Châu Âu : “Nước cờ" quan trọng trong cuộc tái tranh cử của TT Pháp





Biển Đông: Tàu cộng đẩy mạnh yêu sách “Tứ Sa” thay cho “Đường Lưỡi Bò” ?





Bắc Kinh tích cực trong hồ sơ hạt nhân Iran vì lợi ích trước mắt và lâu dài





TNLT Nguyễn Văn Oai mãn hạn tù: “Dù gì nhà tù lớn cũng đỡ hơn!”





Tàu nói Mỹ bóp méo luật quốc tế ở Biển Đông





Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn





Hoàng Oanh hát Bến Giang Đầu, nhạc Lê Trọng Nguyễn





Cơn gió bụi - Tác giả Lê Nguyễn Nga


Một không khí nặng nề với sự hốt hoảng quanh vùng Saigon Chợ lớn và Gia định. Trên gương mặt của mọi người, từ già đến trẻ, ai cũng đều ngơ ngác, sợ hãi và gần như là đang chờ đợi một hung tin, một đoàn quân hung bạo sắp đến. Vài chiếc xe thiết giáp nằm trên vài con đường, với những xác của chiến sĩ VNCH vẫn còn nằm tại đây. Các anh đã chết để bảo vệ quê hương với những viên đạn cuối cùng. Can đảm thay người chiến sĩ Cộng Hoà! Những người chiến sĩ còn lại đa số cởi bỏ quân phục, bỏ súng và đang ngồi chờ đợi những gì sẽ đến với số phận mình. Tôi đang ngồi trong nhà. Đóng cửa, khóc cho số phận tôi và số phận của đất nước Việt Nam. Tôi thầm nghĩ, thôi cuộc đời đã chấm dứt rồi!

Sau hơn một tuần lễ. Chính quyền mới ra lệnh các nhân viên công sở và công nhân hãng xưởng, trở lại làm việc. Chúng tôi đến trình diện tại nhiệm sở. Chúng tôi không dám mặc đồng phục của Hàng Không Việt Nam. Ai cũng tìm lấy chiếc quần đen và chiếc áo chemise trắng mặc vào.
Vô đến nhiệm sở với những người bạn, những gương mặt sợ sệt, nói chuyện để hỏi nhau, ai còn ở lại, ai đã ra đi. Chúng tôi bị đi học tập tại chỗ. Tôi rất sợ, vi gia đình tôi, có một anh trai là thiếu tá, và một anh rể là thiếu tá không quân. Cả hai anh đều là phi công và đã ra đi. Bài giảng đầu tiên, người ủy viên Cộng Sản đã nói. Mở đầu anh ta chỉ trích “ngụy quân, ngụy quyền” mà đặc biệt nói mạnh về tội của “mấy tên giặc lái” (phi công). Ngày hôm sau chạy về bên nhà mẹ tôi. Căn nhà đã bỏ trống, tôi thu dọn tất cả quần áo sĩ quan, quần áo khaki của anh tôi. Tôi phải chờ đêm đến, đem tất cả đồ đạc của anh tôi ra gốc cây, rồi bỏ nơi đó. Anh Lê Trọng Nguyễn, làm chức vụ cao trong Hãng Xưởng Lọc Dầu Mekong của Nguyễn Ngọc Linh. , Anh bị coi như là một tư chức cao cấp, phải đi cải tạo chung với “ngụy quyền”. Anh LTN còn phải nhận thêm một tội nữa là tội của một nhạc sĩ đã làm ra nhiều bài nhạc uỷ mị, sau nầy gọi là “nhạc vàng”. Anh LTN cũng đi học cải tạo thêm một tuần chung với anh chị em văn nghệ sĩ thời đó. Nhưng được học tại Saigòn. Sáng đi học cả ngày, tối đi về nhà.
Những chuyến baỵ Air VN đã ngưng hoạt động trên 3 tháng. Nhân viên ngồi chờ lệnh, chờ người thủ trưởng của chính quyền mới đến để tiếp thu. Vào khoảng tháng 7 năm 1975, đường bay được mở lại với Hồng Thập Tự Quốc Tế, (International Red Cross). Một phản lực cơ 707 rất lớn. Lá cờ của Thụy sĩ ngang nhiên được tô đậm trên thân chiếc phi cơ.
Đối với người dân VN nói chung, và chúng tôi nói riêng, đoàn đại diện Red Cross là hiện thân của “Tình Người”. Họ là hình bóng của Thiên Thần trong khoảng thời gian nầy. Họ đến để rước các người có quốc tịch Pháp về nước và Ấn Kiều đưa trả về Ấn Độ. Nhìn họ rước nhiều người ra đi. Chúng tôi cùng khóc, khóc cho thân phận mình còn ở lại.
Đời công chức, sống bằng lương hàng tháng, từ vài tháng nay chúng tôi đã sống bằng “tự mình lo” có nghĩa là kiếm được gì thì sống như vậy. Bộ đội và người miền Bắc đã vào và bắt đầu đi tim kiếm để mua đồ đạc, cái gì cũng mua. Việc đầu tiên chúng tôi phải lo bán là bán chiếc xe hơi vì không có xăng để chạy. Bán xong chiếc xe hơi Simca, đủ tiền để chúng tôi đi mua 2 chiếc xe đạp. Ôi! Thời sung sướng nay con đâu! Suốt ngày những bài hát Việt cộng oang oang ngoài cửa nhà:
“Mùa xuân nầy về trên quê ta
Khắp đất trời đẹp tươi như hoa …”
Thật là mỉa mai. Tôi bịt lỗ tai và bước ra hiên để đóng cửa lại. Giọt mưa còn đọng trên mái nhà rớt xuống mặt tôi hay giọt nước mắt của tôi! Đồng hồ, rađio của gia đình ngày xưa không xài, đã bỏ vào garage. Bây giờ đem ra bán với giá rất cao. Nhờ vậy mà sống được qua những ngày đầu của cuộc đổi đời nầy. Đặc biệt các phụ nữ miền Bắc đi tìm kiếm mua quần áo của các phụ nữ miền nam, và miền nam thì cái gì cũng đem ra bán để đổi lấy gạo cơm cho gia đình.
Cũng là may, ngày xưa cứ mỗi tháng lãnh lương đi may áo mới, nên bây giờ có được một số áo dài, từ từ đem ra bán. Tôi đem áo dài hoa đủ màu, đem ra “chợ trời” bán để kiếm tiền mua sữa ( sữa ngoại quốc rất mắc) cho 2 đứa con 3 tuổi và 2 tuổi.
Từ 5 tháng trước, các sĩ quan đã được lệnh đi trình diện cải tạo với lời tuyên truyền là phải đem theo lương thực trong mười ngày. Nhưng đã mười tháng rồi chưa được về. Các người vợ, người mẹ mới rõ hơn về sự nói láo của cả một chế độ CS, từ trên xuống dưới. Vài tháng kế đó, nhiều gia đình bị “đánh tư sản” và bị đuổi đi ra ngoài làm ruộng gọi là đi “kinh tế mới”. Lần đầu tiên đổi tiền. Mọi người chỉ đổi được 200 tiền VC, còn bao nhiêu thì đưa nhờ người khác đổi, hoặc là hủy bỏ!
Sự thật đau lòng. Hình ảnh của một đoàn người đi “tiếp thu” măc quần áo xốc xếch giống như những người ở rừng sâu về! Vào đến văn phòng, ngồi co hai chân lên, chúng ta gọi là ngồi “chồm hổm”. Nói chuyện bằng những danh từ rất tự cao tự đại, nói khoác, như là biết tất cả sự việc. Nhưng thật ra là đầu óc trống rỗng. Than ôi! tôi nghĩ trong bụng: đây là những lớp người tiêu biểu cho chế độ mới, đây là những người cầm vận mệnh của lớp tuổi thanh niên Việt Nam!
Tương lai của thế hệ trẻ sẽ đi về đâu?
Tôi được Hàng Không VN chỉ thị huấn luyện cho một vài người đến làm việc. Trong lúc làm, một chị cán bộ kêu tôi đến xem chị đang làm list Tài Chánh, chị ta nói chị đang làm danh sách “chè, que”. Tôi ngẩn người, sau một lúc tôi mới biết là làm list cho các cheques (checks) của chế độ cũ để lại. Nhưng rồi sau sáu tháng lưu nhiệm, tôi đã được “cám ơn”, về nhà nghỉ việc. Tôi đã hoàn toàn thất nghiệp. Tôi tự hỏi những cơn giông bão miền Trung, rồi đến những con mưa ngập đường Sàigòn, có não lòng bằng cơn mưa trong lòng tôi chăng ? Tôi phải tự sống còn nên chuyển qua việc buôn bán, qua đường giây chuyển ngân, và mua thuốc tây bằng cách gửi quà về VN, đem về bán sỉ tại chợ Tân Định. Thời gian nầy, tôi nhờ chị Hồng, tức là bà bác sĩ Kim Thanh Xuân, một người bạn làm chung Air VN, đã đến sinh sống tại Pháp 2 năm nay. Chị Hồng gửi thuốc tây cho tôi bán để kiếm lời và sống qua ngày. Tôi tạm sống qua ngày. Mỗi tuần tôi dành thì giờ đến tâm tình với nhóm bạn tôi: An phạm và Bùi T Lang, Minh Thăng, để tâm sự và rồi tìm cách kiếm sống cho gia đình và cho chính mình.
Khi tôi ra ngoài chợ, hay xem Tivi, thấy được những tiếng Việt Nam mới rất kỳ quái, xuất hiện trên “thị trường văn chương mới”. Tại các nơi buôn bán, tôi thấy có khách người miền Bắc tìm kiếm mua rađio cũ, anh ta nói muốn mua một “cái đài”. Các người trong chợ lúc đầu không hiểu là anh muốn mua một cái ra-đio nhưng sau nầy họ đều hiểu và buôn bán qua lại vui vẻ. Ban ngày thì lo kiếm sống. Tối về, niềm vui duy nhất là nghe đài BBC và VOA để biết tin tức ngoại quốc. Đôi khi đang xem tivi bị trục trặc, phải ngưng, chúng tôi được báo tin là “sự cố kỹ thuật”. Vào làm việc với người thủ trưởng, ông ta muốn nói làm nhanh lên thì lại nói là “khẩn trương”. Một bữa tiệc đãi các người khách với các món ăn ngon, trong những nhà hàng sang trọng, các thủ trưởng nói là bữa tiệc thật “hoành tráng”. Một số cán bộ, bộ đội đã bắt đầu thích uống cà phê trong tiệm. Vào trong quán gọi ngay một ly cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc” ( cafe fin). Cá nhân tôi đã không còn tiền để có thể ăn sáng mỗi ngày như xưa, nên vào cửa hàng quốc doanh. Tôi thấy ở đây bán phở với 2, 3 giá khác nhau. Giá rẻ nhất, đó là “phở không người lái” tức là phở với nước súp không có thịt. Danh từ thô thiển đã được phát xuất từ tầng lớp “cách mạng” từ lâu rồi. Có thể từ trong thôn quê miền Bắc những danh từ quá khác biệt và không thể tưởng tượng được. Xã hội, nền văn minh của Bắc và Nam khác nhau xa quá. Những người “cách mạng” nầy không dùng ngôn ngữ trong sách vở văn chương Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, là những cử chỉ khi nói chuyện thì quá ư là không lễ phép chút nào. Một chế độ mà từng lớp người nòng cốt phải là “chuyên chính vô sản” và có thể là không được đi học nên đã sanh ra những danh từ mới nầy. Một ông thủ trưởng chức vụ là bác sĩ đã đến tiếp thu một bịnh viện, nhưng mỗi tuần ông bác sĩ phải đi học “bổ túc văn Hóa” vì ông ta chưa học hết lớp 6. Là những chứng nhân của cuộc “đổi đời”, chúng tôi chứng kiến những câu chuyện nầy, chúng tôi rùng mình. Nguy hiểm thay, những người nầy sẽ là những người sẽ “giáo dục” đàn con của chúng ta. Nghe thật là đau đớn. Thật là cười ra nước mắt, khi nghĩ đến các con mình phải tiếp nhận sự dạy dỗ của những người đại diện cho “đỉnh cao trí tuệ” nầy.
Năm 1976, tôi lại sanh được một con gái, đặt tên là Minh Thư. Chồng tôi đưa tôi đến sanh tại dưỡng đường Saint Paul như mấy lần trước. Nhưng hôm nay đến, dưỡng đường Saint Paul chỉ còn là bốn bức tường và những chiếc giường. Những máy móc tối tân đã bị tháo gỡ đem về miền Bắc. Nằm trên giường sanh, tôi lo sợ thiếu thuốc, phải nhờ người nhà từ ngoại quốc gửi về. Sau cuộc đổi tiền, vật giá vẫn leo thang đã làm người đân càng nghèo hơn trước nhiều. Chợ trời là nơi buôn bán để kiếm ăn qua ngày. Trộm cắp và lường gạt nhiều hơn trước. Ông chồng tôi ngày nào cũng dạy 3 đứa học trò đến học nhạc, xong là xách xe đạp đi tìm các bạn: Mai Thảo, Phạm Đình Chương, nhà văn Hoàng Hải Thủy ở các quán nhậu đã hẹn hò. Sau nầy tôi mới biết, không phải chỉ nhậu không thôi, mà các nhóm nầy họp để tìm đường đi, không phải ra đi “tìm đường cứu nước” như ông HCM, mà ý muốn là tìm đường vượt biên.
Những năm 79- 80 chồng tôi và tôi vẫn có dịp gặp gỡ các bạn nghệ sĩ. Thỉnh thoảng gặp nhau nơi một villa sang trọng trên đường Yên Đỗ. Đó là tư gia của cha mẹ người bạn tên NXN. Anh NXN, một sinh viên tốt nghiệp từ Pháp về. Chúng tôi thỉnh thoảng họp mặt với các văn nghệ sĩ Thái Thanh, Phạm Đình Chương, Mai Thảo và hai anh bạn nữa. Có một đêm đang vui, chị Thái Thanh hát nhạc xưa. Các ông đang say mê đàn hát, tôi sợ quá phải chạy ra đóng chặt cửa lại, nếu không thì sẽ bị đem về bót. Anh LTN không bao giờ nghĩ đến chuyện ra đi một mình vì anh nặng tình vợ con. Cuối cùng nhà văn Mai Thảo đã đi được sang Mỹ, kế đến là nhạc sĩ Phạm Đình Chương cũng ra đi êm xuôi.
Bạn bè còn lại là anh Hoàng Hải Thủy và Nguyễn Duy Liễu, chủ bút Saigon Post. Chúng tôi có dịp đến chơi nhà anh chị HHT, một nơi rất ấm cúng của đôi uyên ương tuyệt vời. Và sau đó ít lâu, anh HHT đã bị bắt và đi tù lâu dài. Việc này làm Anh Lê Trọng Nguyễn rất lo sợ. Thường là vậy, bạn bè cũng sẽ bị lây. Anh HHT bị tù và đem đi nhốt cách biệt ở một nơi xa. Anh LTN trở thành kẻ cô đơn thêm nữa nên tính tình càng xuống dốc. Đã có một lần tôi có ý định bỏ lại tất cả, ôm ba đứa con ra đi, để anh lại với Mẹ già và một người cháu. Anh LTN kinh hoàng, bớt đi ra ngoài đường để uống rượu. Nhiều người bị bắt quá, anh sống trong lo sợ phập phòng. Anh bắt đầu làm đàn guitar mandoline để bán.
Tôi sống trong nỗi khổ nhưng cố gắng tìm nguồn an ủi là đến chơi gần gũi với các bạn. Tôi tìm được niềm vui nơi các bạn HangKhongVietNam: An Phạm, có chồng là anh Hiệp đi cải tạo lâu dài. BTlang, Minh Thăng và vài bạn nữa. Gặp gỡ nhau cùng với anh Nguyễn Duy Liễu. Nhân dịp nầy anh Liễu đã làm bài thơ “Let’s Come Closer”, và anh LTN đã phổ nhạc thật hay. Anh Liễu là thầy dạy Anh Văn cho các con của An Phạm. Cuộc đời đau khổ bên nhau, niềm vui chưa được lâu dài thì một người bạn thân yêu của chúng tôi, Minh Thăng cùng hai con đã chết, và hai con của An Phạm đã mất trên đường đi vượt biên tìm tự do. Ôi! Cái giá của tự do, người Việt Nam đã phải trả quá đắt!
Năm 1981 tôi nhận được tin gia đình từ USA, với giấy bảo lãnh của ODP (Orderly Departure Program) duới sự bảo lãnh của mẹ tôi. Tôi đã có giấy nhập cảnh và đang chờ xuất cảnh. Chạy giấy xuất cảnh là một chuyện rất gian nan. Một nhân vật cao cấp tôi được quen, vì tôi làm bên Hàng Không và ông làm bên Bộ Nội Vụ ông là người rất tên tuổi, ông Năm Thạch. Kế đến là ông Đại tá Mai ( đại tá vc làm trong phi trường ). Mấy ông nầy đã gặp tôi và bằng lòng giúp tôi. Tôi nhận được giấy xuất cảnh, vào tháng 10 năm 1982. ( Khi chúng tôi đi phỏng vấn anh LTN cố gắng đưa vào 2 tờ giấy chứng nhận anh đã làm cho MACV- 1965-68). Chúng tôi được xuất cảnh, và được lên danh sách chuyến bay, sẽ ra đi trong 3 tuần tới. Nhưng thật là trở ngại, tôi đang mang bầu và sắp sanh, phải tự chạy đến văn phòng HKVN, bây giờ toàn người mới, tôi xin đình hõan chuyến bay nầy.
Đầu tháng 12, 1982, tôi sanh được một cháu trai, đặt tên Lê Trọng Phúc. Ngày đầy tháng của cháu Phúc, bạn bè nhiều người đã trốn thoát, chỉ còn anh Hoàng Hải Thủy đến cho một hộp sữa ngoại quốc, món quà nầy, lúc đó thật đầy tình thương và rất quý giá.
Tôi đã dời được chuyến bay, ra đi vào 3 tháng sau, ngày 11 tháng 3, 1983. Một sáng thật đẹp trời, chúng tôi đã đến phi trường Tân Sơn Nhất làm đủ thủ tục xuất ngoại. Họ khám xét tỉ mỉ quá làm anh LTN cũng khiếp vía, xanh mặt tưởng bị bắt ở lại. Tiếng khóc của trẻ thơ cũng làm chúng tôi thêm bối rối. Sau cùng chúng tôi đã ra khỏi vòng đai kiểm soát của Công An. Cả gia đình đã bước lên phi cơ. Các người tiếp viên đến giúp buộc giây an toàn cho các con nhỏ.
Tiếng nổ của phản lực. Kế đến là tiếng báo tin của tíếp viên là phi cơ sắp sửa cất cánh. Không khí hơi khó thở. Một giờ sau, tiếp viên hàng không nói là phi cơ sắp đáp xuống phi trường. Tiếng bánh phi cơ chạm vào đất, ngay lúc đố chúng tôi biết là đã hoàn toàn đến Bangkok.
Anh Lê Trọng Nguyễn, bình tĩnh hơn, uống một ngụm nước, cười và nói: “Yên rồi, đã ra khỏi Việt Nam rồi”. Niềm vui pha lẫn niềm cay đắng của một gia đình phải bỏ xứ ra đi, chỉ mong được hai chữ tự do cho hiện tại, và xây đắp tương lai cho những đứa con của mình.

Thứ Hai, 17 tháng 1, 2022

Ấn Độ: Dân vẫn tụ tập tắm sông thiêng dù Kung Flu tăng vọt





Làm linh vật Cọp cho mùa Tết Nhâm Dần





Robot bồi bàn độc đáo ở Iraq





Đội đua xe toàn nữ lần đầu tiên tham dự giải đua Dakar





Tiếng chuông trên đường phố New York





Một cao niên người miền Bắc nói gì về cộng sản?





Một cái nhìn đúng về Phạm Nhật Vượng - Tác giả Anthony Nguyễn

 

Tôi không nhìn từ khía cạnh một người bình thường với khát vọng làm giàu cho bản thân. Mà đó là lợi ích cho quốc gia, dân tộc này. Hãy tự hỏi Phạm Nhật Vượng và VinGroup: Người tài trí hay tội đồ?

Tôi đã kinh doanh, làm việc với rất nhiều doanh nhân nổi tiếng trên thế giới, đọc và nghiên cứu gần như tất cả lịch sử chính trị của nhân loại. Nên tôi sẽ có cái nhìn nhiều điểm chung với tầng lớp tri thức, làm doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nếu chỉ đánh giá Phạm Nhật Vượng và Vingroup khát vọng, kinh doanh làm giàu hay sự nổi tiếng thì không có gì đáng nói, cũng sẽ giống như sự ra đời, phát triển như những doanh nghiệp thông thường khác ở Việt Nam.

Nhưng hiện nay, sau hơn 20 năm quay về Việt Nam kinh doanh và xây dựng doanh nghiệp của ông Vượng tới quy mô này, lựa chọn ngành dọc và sản phẩm như hiện nay thì nó không còn là riêng vấn đề cá nhân ông ta và nội bộ đời sống của công ty này. Nó càng không phải rất hình thức như gần đây nhiều người nói: Bộ mặt quốc gia, hình ảnh quốc gia, tự hào dân tộc, hay sự tỏa sáng của người Việt. Những từ ngữ này chỉ là của nội bộ công ty này và một bộ phận dân trí còn chưa được mở rộng khai sáng hơn để hiểu bản chất vấn đề vai trò của ông Vượng, của Vingroup, sự đóng góp hay gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.

Tôi không vội nói về quy mô, vì so với các tập đoànkinh doanh đa ngành quốc tế thì Vingroup tạm quy đổi khoảng $15 tỉ và chỉ bằng 1/6 của Deawoo của Hàn Quốc cách đây 15 năm khi sụp đổ. Cũng như nó vẫn nhỏ so với các tập đoàn đa quốc gia khác ở EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc. Tạm bỏ qua vấn đề quy mô, mà thực sự nó được xây dựng và tăng quy mô tài sản dựa trên buôn bán gì và đang sản xuất gây thiệt hại một cách bản chất cho Việt Nam ngay những năm vừa rồi và tương lai hàng chục năm nữa.

Trước tiên nói về sự phát triển một cách ngắn gọn: Sau khi ông Vượng rời Ukraine, chuyển giao Technocom và nhận thấy cơ hội quay về Việt Nam kinh doanh sau giai đoạn bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ 1995. Bắt đầu phát triển bằng thu mua đất để phát triển ngành bất động sản, việc nhận thấy cần có kho quỹ về đất để có sự chuẩn bị xây dựng hàng loạt các dự án bất động sản đình đám sau này, đặc biệt sau giai đoạn 2006, ông Vượng đã ngấm ngầm liên kết với quan chức, công an, quân đội để cưỡng chế, cướp đất đai của người dân để có một kho quỹ đất làm giàu trên sự oan ức của người dân khắp nơi ở Việt Nam. Ai lên tiếng đều bị công an, truyền thông bịt miệng, bắt bớ. Ông ta không phát triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ và tạo ra giá trị thặng dư cho quốc gia, cho người dân như Apple, Microsoft, Facebook… Ông ta làm giàu dựa trên sự tham nhũng của quan quyền, lỗ hổng thể chế chính trị của Việt Nam.

Trong mắt một người như tôi, ông Vượng không phải loại tài trí ngút trời, xoay chuyển càn khôn gì. Chỉ là một loại trục lợi, làm giàu dựa trên nguồn tài nguyên đất – nguồn tài nguyên gần như cuối cùng của Việt Nam. Quy mô càng tăng lên hàng chục tỉ đôla, thì sự bị tước đoạt sở hữu đất của người dân càng tăng lên. Nó còn là phát súng cho hàng ngàn doanh nghiệp kinh doanh bất động sản như kiểu FLC gây oan trái khắp nơi. Một loại làm giàu ký sinh chứ không thực tài trí. Có chăng là làm thay đổi hình ảnh đẹp hơn ở các góc thành phố trải dài trên khắp Việt Nam mà không đi đôi với tạo ra giá trị thặng dư, đóng góp vào cân bằng ngân sách lõi cho quốc gia.

Tiếp theo hai năm gần đây, ông Vượng cho mở ra nhà máy sản xuất ôtô Vinfast, sản xuất điện thoại V-smart. Đây mới là VẤN ĐỀ LỚN NHẤT tôi muốn bàn đến. Tôi không đánh giá chất lượng sản phẩm ông ấy tạo ra, vì thực ra ông ấy chẳng tạo ra gì, chỉ đi mua về, lắp ráp, dán logo của Vin lên để làm thương mại. Ông Vượng không thực sự sản xuất gì, vì không sở hữu người tài nào, nắm giữ chìa khóa trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm trên.

Vậy việc nhập toàn bộ phụ tùng, máy móc, phương tiện để lắp ráp ôtô Vinfast, điện thoại V-smart đã tiêu tốn đến hiện nay khoảng $3 tỉ. Với chuyển giao công nghệ cũ từ châu Âu và một phần phụ tùng từ Trung Quốc, ông ta trực tiếp làm giảm cán cân thương mại, gây thâm hụt thương mại vì các đơn hàng nhập khẩu quốc tế. Tiền thanh toán không phải là VND, mà phải bằng USD, Euro, JPY – là các ngoại tệ mạnh mà Việt Nam hàng năm phải trông chờ vào nguồn kiều hối duy nhất để giữ được lãi suất, không đổ vỡ thị trường giá cả ở Việt Nam.

Nói cho thật đơn giản để khai dân trí với ngay cả giới tri thức và người dân rằng: Ông Vượng sau 20 năm lấy đất của dân bán được một đống tiền tính bằng VND thì tiếp tục lấy USD từ hệ thống ngân hàng quốc gia, phát hành trái phiếu bằng USD có sự bảo lãnh của chính phủ để có tiền nhập tất cả mọi thứ về lắp ráp ra ôtô và điện thoại. Chưa bao giờ ông Vượng và Vingroup xuất khẩu được một cái gì mang lại ngoại tệ cho đất nước này. Chỉ khi nào mang lại ngoại tệ mạnh mới thực sự tạo ra giá trị thặng dư cho quốc gia, mới trực tiếp đóng góp vào sự giàu có, phát triển của dân Việt.

Với việc mua máy móc, chuyển giao công nghệ thải từ châu Âu thế hệ thập niên 1990, ông Vượng không bao giờ bán nổi ôtô, điện thoại bên ngoài lãnh thổ Việt Nam – kể cả khu vực Đông Nam Á và Phi châu. Như vậy hiện nay ông Vượng vẫn đang dùng tiền, quan hệ với lãnh đạo Việt Nam chỉ để bán hàng nội địa những thứ ông ta mang về gây thiệt hại hàng tỉ đôla của người dân. Ông Vượng đang gián tiếp dùng công cụ thuế để bán ôtô, điện thoại – giảm thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng nhập khẩu tại chỗ từ sản phẩm ông ta lắp ráp lên.

So với việc ông ta góp một phần nhỏ làm thay đổi một vài góc thành phố thì việc gây oan sai khắp nơi – đặc biệt gây thiệt hại trước mắt khoảng $3 tỉ cho quỹ ngoại hối quốc gia mà không thu lại một đồng ngoại tệ nào – ông ta trong mắt tôi và nhiều người trí thức khác là tội đồ của nhân dân. Không phải loại tài trí đáng khen tặng.

Hãy nhớ rằng vào thời kỳ Park Chung Hee, ông Tổng thống tầm vóc, quả cảm của Hàn Quốc đã giao nhiệm vụ cho những tập đoàn như Huyndai phải đi kiếm ngoại tệ về xây dựng, phát triển, làm giàu cho quốc gia, cho người dân. Vingroup và ông Vượng đang làm ngược lại, chỉ có hình ảnh đánh bóng, lừa người dân và là công cụ mị dân lòe bịp của chính quyền về sự thịnh vượng giả tạo.

Hãy ghi nhớ ông Vượng không sản xuất được cái gì có chìa khóa trí tuệ trong tay. Ông ta còn thua xa cả Đặng Lê Nguyên Vũ – Trung Nguyên, nơi hàng năm mang về hàng trăm triệu đôla cho đất nước. Nếu người dân mua xe và điện thoạt của Vin lắp ráp, nghĩa là đang gián tiếp gây thâm hụt dự trữ ngoại tệ quốc gia, tăng nợ nần và ủng hộ kinh doanh không trí tuệ của ông này!

Phỏng Vấn Trần Phong Vũ





Con đường khổ luyện của người nhái Đài Loan





Bệnh viện Tuệ Tĩnh xin Bộ Y tế ứng tiền để trả nợ lương nhân viên





Trống Đồng Đông Sơn và Hồn Việt ở Nam California





Kung Flu: Phương Tây và muôn kiểu "bủa vây" người phản đối tiêm chủng





Nhạc sĩ Thanh Tùng : Nồng nàn tình yêu và tuổi trẻ





Tàu cộng độc tài lấn chiếm Biển Đông, giúp Cuba đàn áp biểu tình