khktmd 2015
Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2022
Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022
Thứ Năm, 19 tháng 5, 2022
Thứ Tư, 18 tháng 5, 2022
Thứ Ba, 17 tháng 5, 2022
‘Phương Án II’ và Tang thương Cát Lái - Tác giả Gs Nguyễn Văn Tuấn
Thời nay, ít ai biết rằng cảng Cát Lái vào thập niên 1970s từng là nơi chứng kiến hơn 200 người chết vì đã tìm đường vượt biên theo tổ chức của Nhà nước. Tôi không chắc là ngài Thủ tướng có biết chuyện tang thương này.
Dạo đó (1978), Nhà nước lên một kế hoạch đưa người Hoa vượt biên theo cách thức có tên là “Phương Án II”. Theo đó, Nhà nước thu vàng và tiền của dân để đóng tàu cho họ vượt biên, với lời hứa là công an sẽ không ngăn cản hay bắn chết khi họ còn trong vùng biển Việt Nam. Sự ra đời của Phương Án II (PA2) này được ghi lại trên giấy trắng mực đen của Ban 69:
“Cay cú trước thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc của nhân dân ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá ta từ phía Tây nam, đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật đổ từ bên trong phối hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn kiều’ tạo nguyên cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta; vừa kích động người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn kiều’. Để phá tan một nguy cơ có thể gây ra tình hình phức tạp về chính trị, Trung ương chủ trương giải quyết đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra nước ngoài theo con đường Liên Hợp Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi các địa phương sản xuất theo khả năng của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực hiện PA2 này”.
Chỉ non 1 năm (từ 8/1978 đến 6/1979) có 15 tỉnh thành tổ chức vượt biên theo PA2. Số người ra đi là khoảng 134000 người, và Nhà nước thu được 16181 kg vàng cùng 164505 USD, 538 xe hơi, 4154 căn nhà hay gian nhà. (Tuy nhiên, địa phương báo cáo chỉ có 60,000 người đi, và Nhà nước đã thu về 5612 kg vàng cùng 57000 USD, 235 xe hơi, 1749 nhà và gian nhà). Báo cáo láo đã có từ thời đó.
Một trong những sự kiện bi thảm nhứt trong những chuyến tàu vượt biên bán chánh thức này là vụ Cát Lái. Giữa tháng 7/1979, dưới sự canh gác của công an, một nhóm người chờ lên tàu vượt biên. Chiếc tàu vượt biên mới đóng có 3 tầng, dài 30 m và rộng chỉ 10 m. Những người mua vé tầng dưới thì do diện tích quá nhỏ, nên cảm thấy ngột ngạt, và họ phải trèo lên tầng trên. Số người ở tầng trên quá nhiều làm cho con thuyền bị mất cân bằng, chao đảo, dẫn đến hỗn loạn trên thuyền, và sau cùng là chìm. Đa số những người đi trên tàu là người Hoa làm nghề buôn bán, nên họ không biết bơi lội. Thật ra, dù biết bơi lội thì họ vẫn khó sống sót, nhứt là khi ở trong 2 tầng dưới của tàu.
Phải đến 3 ngày sau, nhà chức trách mới kéo con tàu lên. Nhà chức trách đếm được 227 người chết, chỉ có chừng 40 người sống sót. Một viên sĩ quan cứu hộ kể về những trường hợp mẹ con cùng chết:
“Chúng tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu tử”.
Nhưng Cát Lái không hẳn là sự kiện duy nhứt, vì trong thực tế có vài sự kiện Cát Lái khác ở các tỉnh Bến Tre (1 tàu chìm, 54 người chết); Long An (1 tàu chìm, 38 người chết); Nghĩa Bình (1 tàu chìm, 78 người chết); và bi thảm nhứt là Tiền Giang (3 tàu chìm, 504 người chết). Tính chung, Phương Án II đã trực tiếp hay gián tiếp gây cho 902 cái chết.
Chuyện buồn quá khứ, chỉ nhắc lại để biết và hiểu một chút về câu nói sự thành công của người Việt [còn sống sót] ở Mĩ là “thành công của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước”.
Tôi Đi Tìm Việt Nam - Tác giả Dr. Huynh Wynn Tran
Bài Thơ Không Đề Của Nguyễn Đức Sơn - Tác giả Phạm Cao Hoàng
Đầu thập niên 90, thỉnh thoảng Nguyễn Đức Sơn đi xe đạp từ Bảo Lộc về Đà Lạt. Khó mà hình dung nổi làm sao anh có thể đạp xe trên một đoạn đường dài như vậy, một đoạn đường mà nếu đi xe đò cũng phải mất khoảng 3 tiếng. Thế mà anh vẫn đi một cách bình thường. Hỏi anh đạp xe có mệt không thì anh cười hì hì, “Không mệt, mà còn khỏe ra”.
Nhà tôi ở Đức Trọng, trước khi đến Đà Lạt phải qua chỗ tôi ở, nên trên đường đi anh thường ghé lại thăm tôi. Lần nào ghé lại anh cũng mang cho tôi một ít trà do anh trồng . Tôi quí những gói trà đó lắm, vì đó là tấm lòng của anh. Có khi anh ở lại với tôi một bữa, nhưng phần lớn là chỉ trò chuyện năm mười phút hoặc nửa tiếng rồi lại tiếp tục cuộc hành trình bằng chiếc xe đạp mini cọc cạch của mình. Anh ghé lại chỗ tôi có lẽ là do thuận đường chứ không phải vì mối thân tình, vì anh thuộc lớp đàn anh cả về tuổi đời lẫn tài năng và kinh nghiệm trong lĩnh vực văn chương.
Tôi từng nghe nhiều giai thoại về anh nên mỗi lần gặp anh tôi chú ý quan sát và lắng nghe để có một cách nhìn riêng của mình về con người thuộc loại controversial này. Có nhiều ý kiến trái ngược về cá tính và cách sống của Nguyễn Đức Sơn. Riêng tôi, tôi tôn trọng cá tính và sự chọn lựa trong cách sống của anh, quí trọng tài năng của anh. Từ những lần tiếp xúc ấy, tôi có thể biết một chút vế anh: hiền lành, thông minh, đọc nhiều, hiểu rộng, có một trí nhớ rất tốt, mê đạo Phật, ăn chay trường. Hầu như anh có rất ít nhu cầu gì về vật chất. Anh ăn uống rất ít, số giờ ngủ mỗi ngày cũng rất ít, ít đến mức nếu hôm nào anh ở lại chơi là Cúc Hoa nói đùa với tôi, “Chuẩn bị đêm nay thức cùng Nguyễn Đức Sơn”.
Những đêm thức cùng Nguyễn Đức Sơn ấy, tôi nghe anh đọc một số bài thơ anh viết sau 1975, nghe anh say mê nói về triết lý Phật Giáo, về Ernest Hemingway, về John Steinbeck. Anh chê John Steinbeck là kẻ bất tài. Anh kể chuyện về các con của anh, trong đó có một đứa đã ăn lá cây rừng độc và chết như thế nào. Anh ca ngợi chị Phượng, hiền thê của anh, như một người phụ nữ tuyệt vời, và anh thường nhắc đến người cha của mình với sự ngưỡng mộ đặc biệt. Anh kể chuyện anh trồng thông, chuyện anh chống lại những kẻ lấn chiếm rừng thông của anh. Càng về khuya, anh càng sôi nổi. Hai ba giờ sáng mà vẫn thấy anh tỉnh táo, không có dấu hiệu gì là mệt mỏi hay buồn ngủ. Khuya quá, tôi nhắc anh cần phải đi ngủ để có sức ngày mai đạp xe tiếp, và anh vui vẻ dừng câu chuyện ngay. Sáng ra, chia tay, nhìn bóng anh lầm lũi đạp xe đi, lòng tôi gợn một nỗi buồn mà tôi cũng không hiểu vì sao mình lại buồn. Bóng dáng anh và chiếc xe đạp mini cũ kỹ sau này ám ảnh tôi trong nhiều năm.
Bẵng đi một thời gian lâu tôi không thấy anh ghé lại, cho đến ngày tôi đi Mỹ định cư cũng không có dịp chào anh. Tôi vẫn nhớ về anh với những đêm gần như thức trắng và những gói trà tình nghĩa của anh, nhưng không biết cách nào liên lạc.
Gần đây, qua anh Đinh Cường, tôi có được số điện thoại cầm tay của Nguyễn Đức Sơn. Tôi chọn một tối thứ sáu, để bên quê nhà là sáng thứ bảy, gọi về thăm anh.
Điện thoại bên kia đường dây đổ chuông.
- Vui lòng cho tôi nói chuyện với anh Nguyễn Đức Sơn.
Một giọng đàn ông trả lời cộc lốc:
- Lão đang ngồi trên núi đây.
Đúng là chàng rồi. Tôi vừa mừng, vừa buồn cười. Vẫn là cái cách nói chuyện rất Nguyễn Đức Sơn ấy.
- Phạm Cao Hoàng đây anh Sơn ơi.
- Đ.M. Hôm trước có người quen cho tôi số điện thoại của ông, tôi gọi hoài mà không liên lạc được.
- Chắc là trục trặc sao đó.
Tôi trò chuyện với anh gần một tiếng đồng hồ. Đúng ra, tôi nghe anh nói là chính. Vẫn là chuyện trồng thông, chuyện mấy đứa con. Tôi rất muốn nghe anh đọc thơ nên đề nghị:
- Anh đọc cho nghe một bài thơ của anh đi. Cũ mới gì cũng được.
- Tôi đọc ông nghe bài này, không nhớ là cũ hay mới.
Anh bắt đầu đọc một bài lục bát nói về tình cảm của anh đối với người cha đã qua đời. Nghe xong bài thơ, tôi bàng hoàng... Những bài thơ viết về mẹ thì nhiều, nhưng viết về cha lại quá ít. Trong số ít ỏi này, theo tôi, bài thơ Nguyễn Đức Sơn vừa đọc là một tuyệt tác ở đề tài này.
Tôi đề nghị anh đọc lại để tôi chép. Anh vui vẻ đồng ý, đọc chậm từng câu.
xưa ông nội đến nơi này
sóng xanh mơ mộng những ngày thanh niên
sáng chiều bơi lội như điên
tập cha vào cõi vô biên một mình
nước vô mặt mũi lềnh bềnh
cha gần ngộp thở nên kình lại luôn
bây giờ biển cũ mênh mông
dẫu con về thở cũng không kịp rồi
một ngàn tư tưởng xa xôi
rừng cao một khoảnh cha ngồi ru con.
Tôi hỏi anh tựa đề bài thơ là gì và viết năm nào. Anh nói không nhớ viết năm nào và cũng không đặt tựa đề cho bài thơ.
Tâm trạng của Nguyễn Đức Sơn trong bài thơ cũng là tâm trạng của nhiều người trong chúng ta.
Hình ảnh người cha trong bài thơ là một người cha nghiêm khắc, thương con, bắt con phải khổ công rèn luyện để sau này có thể vững vàng bước chân vào đời
sáng chiều bơi lội như điên
tập cha vào cõi vô biên một mình
“Bơi lội như điên” và “vào cõi vô biên một mình” là những ẩn dụ, nói đến cái cách người cha chuẩn bị cho con bước chân vào cuộc đời.
Nhưng con thì không nhận ra tình thương đó.
nước vô mặt mũi lềnh bềnh
cha gần ngộp thở nên kình lại luôn
Trong hai câu này anh tiếp tục dùng ẩn dụ để mô tả sự vất vả của anh trong thời kỳ đi học. “Kình” là một từ địa phương thường dùng ở Trung bộ và Nam Trung bộ, đồng nghĩa với “cự”. Đại khái là cha bắt học nhiều, mệt quá, nên anh cự lại luôn. Thật ra, tôi không nghĩ là Nguyễn Đức Sơn đã từng kình/cự lại người cha của mình về việc này, nhưng đây chỉ là một cách để nói rằng khi còn nhỏ anh đã không hiểu được tình thương của cha. Chữ “kình” anh đưa vào câu thơ này thật ngộ nghĩnh và dễ thương.
Lớn lên, nên người, hiểu được, ân hận, thì lúc đó muộn rồi, cha đã không còn nữa.
bây giờ biển cũ mênh mông
dẫu con về thở cũng không kịp rồi
Đây là hai câu thơ hay nhất của bài thơ. “Biển cũ mênh mông” và “thở” là những ẩn dụ tuyệt vời. Chỉ có những thi sĩ tài hoa như Nguyễn Đức Sơn mới viết được những câu thơ xuất thần như vậy.
Bài chỉ có 10 câu, chặt chẽ và điêu luyện từng câu, từng chữ.
Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao những lần Nguyễn Đức Sơn nhắc đến người cha của anh thì anh luôn dành cho ông sự ngưỡng mộ đặc biệt.
Thứ Hai, 16 tháng 5, 2022
Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2022
Nếu là ông Phạm Minh Chính, tôi sẽ không nói câu này: "Thành công của người Việt tại Mỹ cũng là thành công của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước" - Tác giả Gs Nguyễn Văn Tuấn
"Mẹ nó" - Tác giả Gs Nguyễn Văn Tuấn
Mấy năm sau 1975 tôi hay nghe những cách nói mới được 'du nhập' từ miền ngoài. Một trong những chữ đó là 'Mẹ nó' hay 'Con mẹ nó' mà theo tôi hiểu là một cách chửi thề. Sau này, tôi mới biết rằng cách chửi thề đó là do người miền ngoài học từ bên Tàu. Chữ Hoa có ý nghĩa tương đương là "tā ma de", vốn là một câu chửi thề phổ biến nhứt trong tiếng Hoa. Như vậy, "Mẹ nó" chỉ là một mệnh đề chửi thề bắt chước từ Tàu.
Russia is furious that Finland is joining NATO but can’t do much about it, Nguyễn Bá Trạc dịch
Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine đã thúc đẩy Phần Lan gạt bỏ những lo ngại lâu nay về việc khiêu khích Nga và tìm kiếm tư cách thành viên NATO, một bước lùi chiến lược lớn đối với Nga.