khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

Chuyện Chiếc Cầu Trên Sông Mỹ Thuận - Tác giả Cao Vị Khanh

Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suông sẻ gì đâu.

Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của người em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn đưa tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ cồn cào cả người. Có lạ không. Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ xì. Cứ như vậy mà dằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê !

Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài-gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng? Tôi nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường tiểu học với cái sân chơi lầy lội, ngôi trường trung học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu mà sao cứ … nhớ ơi là nhớ !

Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.

Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận. Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền tây. Quốc lộ số 4 từ Sài-gòn xuôi nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng tây nam đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm. Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nỗi. Bởi vậy mà  khách giang hồ  qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần…ầm ĩ.

Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền tây còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên … sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt tình ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc sắc. Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.

Ờ, những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.

Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài-gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi…Đứa bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông. Bở ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao đơn hòan tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu. Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn. Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoác hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích. Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh dở bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều. Gặp mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẩm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.

Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có kết cuộc.

Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên trung học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột. Năm học lớp đệ tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam. Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại. Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt, chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…” Nghĩ cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên. Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi huyên thuyên dẩn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì dẩy nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa nhau vào Văn thánh miếu, chỗ thờ ông thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề non hẹn biển. Còn cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng. Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long , Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”. Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi. Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67 gì đó, tôi từ Sài-gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết. Chỉ biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận. Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt. Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu. Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khóai rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.

Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.

Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực thì xâm “ hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xâm “thù người hại bạn” đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán.Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.

Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.

Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa đời hương phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.

Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời. Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phức cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hể thiêng liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.

Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng chẳng thua gì Kim môn kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi giây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suông sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”. Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.

Và nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?

Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.

Trường Viễn Đông Bác Cổ Có Ảnh Hưởng Đến Phạm Quỳnh Như Thế Nào? - Tác giả Tạ Chí Đại Trường


Phạm Quỳnh nổi tiếng về hai mặt: chính trị và văn hoá. Cuộc đời làm chính trị với hai chức Thượng thư đã đem lại kết quả thê thảm cho ông trong biến cố Tháng Tám 1945. Đó là cái giá phải trả cho những con người hành động, nhất là khi họ nổi bật trên đám đông không phải chỉ về mặt chính trị. Nhưng sự nghiệp văn hoá của ông có kết quả lâu bền và rộng rãi hơn. Đông Hồ Lâm Tân Phác đã thấy tạp chí Nam Phong được cả “người không đồng chí cũng một lòng tôn trọng.” Người Cộng sản nắm quyền đất nước, theo thói quen tự cho chỉ mình là đúng, đã tìm cách triệt hạ ông, nhưng trong một lúc buông lỏng cũng lại để lọt những lời Nguyễn Công Hoan biện minh cho Phạm Quỳnh. Tất nhiên không cần kể chương trình giáo dục của VNCH có dành phần cho Nam Phong và Phạm Quỳnh, phát sinh sách vở đầy dẫy phục vụ học đường. Tuy nhiên trong khi tìm hiểu sự nghiệp Phạm Quỳnh, người ta thường chỉ đặt trọng tâm vào việc phân tích những điều đạt thành, trong tình hình tiến triển của đất nước mà ít chú ý đến các nguyên nhân tác thành qua thời gian. Các luận văn về Phạm Quỳnh thường trình bày sự nghiệp của ông theo lối dàn trải trên bình diện rộng mà không cho thấy những tiến triển trong tư tưởng của ông, nói cách khác, các nghiên cứu đã mang tính chất tĩnh hơn là động - mà cho dù không thấy có cũng nên nói ra. Cho nên nếu lưu tâm đến một lịch sử về sự nghiệp Phạm Quỳnh thì thiết tưởng không thể bỏ qua lúc khởi đầu của ông.

Trường ốc thật ra cũng là khởi đầu đáng kể trong sự nghiệp của một con người. Chính vì thế mà người ta thường chen nhau vào các trường danh tiếng. Tuy nhiên trường Bảo hộ mà Phạm Quỳnh tốt nghiệp thủ khoa (1908), có là danh tiếng với người đương thời, vẫn không phải là nơi đào tạo người có ước vọng cao xa. Mười hai năm sau (1920), khi lớp sinh viên đầu tiên của trường Đại học Đông Dương tốt nghiệp, Phạm Quỳnh vẫn phải ra công đả phá lối suy nghĩ “học làm mướn”, “học kiếm tiền” của các cô cậu tân khoa. Vậy thì ở đây phải kể lúc khởi đầu của Phạm Quỳnh là vào lúc ra đời: Trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác Cổ.
Trong tình trạng riêng biệt của mình, chúng tôi không thể nào nắm được những dữ kiện dù đơn giản nhất về cái Viện nghiên cứu danh tiếng này, ví dụ năm thành lập chẳng hạn. Nói chi đến vấn đề tổ chức, hoạt động nghiên cứu kinh qua những giai đoạn nào, nhất là ở đây, về tình hình sinh hoạt của các nhân viên hành chính cấp dưới để hiểu rõ môi trường Phạm Quỳnh dù muốn hay không vẫn phải ép mình vào, từ đó được mài dũa để có tiếp nhận phản ứng ra sao. Thật là táo bạo, nhưng ở đây chúng tôi chỉ muốn đề xuất một hướng tìm tòi chứ không có tham vọng giải quyết nó.
Vả lại cũng chẳng phải mình chúng tôi có ý tưởng này. Trong lúc suy nghĩ chúng tôi đã gặp kẻ đồng điệu là ông Đoàn Văn Cầu khi ông giới thiệu Hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh (1997): “Kiến văn quảng bác của tiên sinh được hun đúc phần lớn ở Trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác cổ...” Có thể coi đó là kết quả của trực giác, chợt nổi lên rồi lại chìm lấp vì đường hướng phục vụ và tính chất thời đại đã dẫn Phạm Quỳnh đi theo lối khác nơi ông phục vụ trong chín năm trời. Người giới thiệu đã nêu lên một ý thoảng qua rồi chuyển sang chú ý đến những thành tựu to lớn khác của Phạm Quỳnh như bất cứ ai cũng phải công nhận.
Chín năm (1908 - 1917) vẫn không là lâu so với 15 năm làm chủ bút Nam Phong (1917 - 1932), 13 năm làm quan (1932 - 1945), nhưng vị trí khởi đầu thật là quan trọng. Chúng ta không rõ ngạch trật của ông ở VĐBC, nhưng người ta đã dùng một từ thông dụng lúc bây giờ để chỉ vai trò của ông: thông ngôn. Và khi đi Paris, thấy mấy trường Đại học, ông cũng nhận mình “ở trường thông ngôn ra, học được mấy ông hương sư ở Tây sang.” Nghĩa là ông cũng chỉ là một công chức cấp thấp trong ngạch hành chính thuộc địa lúc bấy giờ. Tuy nhiên, hãy tưởng tượng Phạm Quỳnh sau khi vác đơn xin việc được cử vào làm ở một toà Sứ tỉnh, hay cao hơn, làm ở Phủ Thống sứ Bắc Kì, Phủ Toàn quyền Đông Dương, tính chất hoàn toàn thư lại của những nơi ấy sẽ đào tạo ông nên con người ra thế nào? Không ở trong ngạch Tây để chờ thâm niên mà nóng ruột nhảy sang ngạch Ta để làm ông Tham, ông Huyện... thì với tham vọng của ông, chức Thượng thư hẳn đạt tới cũng không khó. Nhưng ông đã làm nhân viên hành chính của Trường VĐBC, một nơi có những hoạt động khác lạ với công sở hành chính. Sự lựa chọn này là do nguyên nhân nào thúc đẩy?
Năm 1922 nhân chuyến được cử đi tham dự cuộc “Đấu xảo” Marseilles, kể chuyện lên Paris gặp ông M. (Maltre?), cựu Giám đốc Trường VĐBC, Phạm Quỳnh nhắc chuyện ông ta lúc làm chủ khảo kì thi tốt nghiệp 1908 đã cho điểm vớt bài thi chữ Hán để ông khỏi bị đánh rớt (mà lại đậu thủ khoa!), và xác nhận rằng chính ông M. đã đưa ông vào làm viêc ở VĐBC. Ở đó có những người chỉ suốt ngày lo đi đào bới đất đai hay có ngồi trong phòng cũng mân mê tượng này, hòn đá nọ... so sánh, vặn hỏi chứ không phải “sáng vác ô đi, tối vác về.” Dù có người là công chức hành chính thực sự, họ cũng để thì giờ đi dò hỏi phong tục tập quán của dân quê, nhân tiện đi kinh lí cũng ghé mắt nhìn xem đình này miễu nọ chứ không phải chỉ đánh tổ tôm tài bàn hay tệ hơn, đòi hối lộ. Với cung cách làm việc đó, trong không khí trang trọng khác với lề lối sống bình thường gật gù ngâm thơ bình văn nhàn tản của Đông Phương đó, những tay thư lại trong Trường hẳn phải “học” được một chút gì. Trừ những người của lớp sau như Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Huyên... đi hẳn vào khoa học nhân văn, xã hội nên không lạ với lề lối làm việc nghiên cứu, chúng ta thấy có những công chức thực sự của Trường đã bằng vào thực tế của sở làm mà bước qua ngành nghiên cứu. Phạm Quỳnh mà ở lâu năm trong VĐBC thì cũng sẽ trở thành một ông Nguyễn Văn Tố khác, ông này mang tính chất cựu học được cải biên bởi Trường VĐBC rất rõ rệt trong sự nghiệp của mình.
Ông Nguyễn Thiệu Lâu trong một hồi kí về Nguyễn Văn Tố tuy có ý ca tụng nhưng cũng lộ cho ta thấy một nhược điểm “nhà nho” của viên trưởng ngành hành chính này: ông Lâu, Cao học Địa lí Sorbonne, viết bài nghiên cứu đem nạp bị ông Tố đè ra bôi quẹt sửa văn pháp, ngữ nghĩa! Ông Giám đốc Coedes cũng bị như vậy. Tất nhiên thời Tứ thư Ngũ kinh đã qua, nhưng óc tầm chương trích cú của ông Tố lại có dịp núp sau lối truy tầm tài liệu của khoa học mới thông qua những ngày ông làm việc ở VĐBC. Điều đó thấy rõ trong những bài nghiên cứu của ông trên tạp chí Tri Tân cùng với những bài tranh chấp, bắt bẻ người khác. Nhóm Phong Hoá Ngày Nay tinh ý nhận ra tính chất rượu cũ bình mới ấy nên đã độc ác chế riễu là “ông tờ a tờ b” (từ cách đánh số trang của các sách xưa).
Phạm Quỳnh đã không ở suốt đời trong VĐBC. Nhưng “một chút” chín năm sao không có ảnh hưởng đến con người cầu học cầu tiến ây? Thi tốt nghiệp, ông không biết chữ Hán đến nỗi bài làm bị cho điểm vớt, thế mà “sau ngày vào làm việc ... ở Bác cổ (ông đã) gia công học chữ Hán trong mấy năm”, cuối cùng 5 năm sau đã được nhận lãnh dịch sách tiếng Pháp sang chữ Hán (cùng Nguyễn Bá Trác). Ông M. nói trên, khi gặp lại đã ngỏ ý tiếc rằng Phạm Quỳnh không ở lại trường để chuyên trị về cổ học Trung Hoa và Việt Nam vì xét rằng Phạm Quỳnh “cũng có tư cách riêng về đường khảo cứu.” Rồi lại cũng chính Phạm Quỳnh thú nhận “nhiều khi tỏ ý tiếc”... Điều biện minh cho sự lựa chọn của mình chứng tỏ Phạm Quỳnh vẫn phải chịu sự ràng buộc của thời đại, lúc mà tinh thần khảo cứu vốn vẫn không phải là thứ quen thuộc với người Việt, sự nghiệp khảo cứu vẫn chưa được coi trọng để phải dấn thân cả đời vào đó. Phạm Quỳnh vẫn là một người An Nam của thời đại, cho nên một năm sau khi vào Trường, được cử làm phụ giáo Ecole des langues orientales ở Paris đã từ chối “vì mới cưới vợ.” Chút lưu luyến với VĐBC đã khiến cho ông đi thăm các Viện bảo tàng Guimet, Louvre, dân tộc học... và nảy sinh nhiều ý tưởng chỉ có thể thấy ở một người từng quen với sinh hoạt nơi khảo cứu: “Chuyến này về, có thì giờ phải nên khảo về hoạ học Trung Quốc, Nhật Bản mới được...” ông không thực hiện được ý nguyện bất chợt đó nhưng những kiến thức khoa học nhân văn thu thập được và tinh thần khảo cứu vẫn lộ ra trong sự nghiệp của ông.
Tạp chí Nam Phong nổi tiếng với người dân thường đương thời qua tấm bích chương “Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc” trong Thế chiến I và đó cũng là bằng chứng để người Cộng sản thuyết phục quần chúng về hành vi “theo Tây” của Phạm Quỳnh và để biện minh cho việc họ giết ông. (Chớ tưởng rằng chỉ người dân “ít học” mới bị mắc lừa: Trong không khí “ái quốc" nồng nhiệt như thế cùng với khả năng chiến thắng của người Cộng sản dâng cao, không ít những nhà trí thức đã hùa theo đả phá ông.) Người Pháp cũng sử dụng hình ảnh Con Rồng Annam để phục vụ cho ý đồ chính trị của họ khi ca tụng những nhân vật bản xứ có công tích nổi bật, ví dụ với trường hợp Đỗ Hữu Vị chẳng hạn. Con rồng là từ chuyện Lạc Long Quân - Âu Cơ trong truyện tích khởi đầu lập quốc của dân Việt. Và từ đó đi đến những chuyện về 18 đời Hùng Vương không xa, nhất là khi Nam Phong cổ động một tinh thần ái quốc không cắt đứt với truyền thống (hiểu theo nghĩa hình thành của một giai đoạn) qua những luận thuyết của ông chủ bút, qua những thu nhặt văn thơ, truyện tích trong quá khứ, củng cố niềm tin bình dị đã trở thành căn bản đến lúc bấy giờ - và cho đến lúc này. Thế mà thật ngạc nhiên khi đến gần cuối đời của Nam Phong (1931), ta còn đọc được câu này trong bài “Bàn về cái tinh thần lập quốc":... [T]ự đời Trưng Vương, Triệu Ẩu, nước còn là bộ lạc, có lẽ cái tinh thần ấy [tinh thần lập quốc] còn phảng phất mà chưa chung đúc lại thành quốc hồn” (chúng tôi nhấn mạnh). Ngược lại chín năm về trước, khi thăm điện Panthéon (Paris), ông đã đặt vấn đề “nửa huyền” (bí) trong hành trạng Hai Bà Trưng như lịch sử và truyền thuyết cũ vẫn kể. Thoát ra ngoài không khí chung của tinh thần truyền thống qua tin tưởng của dân chúng, dựng nên bởi các trí thức bản xứ như thế, hẳn là dấu vết của quan niệm lịch sử mới từ Trường VĐBC đã ăn sâu vào tâm trí ông cựu nhân viên hành chính của Trường thành một khẳng định không phai mờ qua mười mấy năm rời bỏ nó.
Tuy nhiên tinh thần Trung Hoa cũ, kiến thức chung chung đào tạo ở trường Bảo hộ đã khiến Phạm Quỳnh hướng về những vấn đề tổng quát: bàn văn học, triết học, mĩ học, văn chương kim cổ. Với chí nguyện “an thường thủ phận mà làm một nhà khảo cứu có lẽ không bằng khua môi múa mép mà làm một nhà ngôn luận”, ông đã rời Trường VĐBC, ta không thể đòi hỏi khác được. Nhưng sao ta không chịu thấy hiển nhiên là khi bàn về quốc học, nghiên cứu tục ngữ ca dao, Truyện Kiều, Phạm Quỳnh đã đứng ở vị trí trung gian giữa căn bản được đào tạo, hoàn cảnh trí thức bản xứ đương thời và sự thúc đẩy của lối làm việc từ nơi khởi đầu vào đời? Sự lựa chọn đề tài, căn bản lí luận đã cho thấy ảnh hưởng của sự lôi kéo mới nơi ông.
Bàn về quốc học (1931) ông đã không chịu theo những người khác khăng khăng để tinh thần ái quốc nồng nhiệt lấn át sự kiện hiển nhiên. Chừng mực hơn Phan Khôi nhưng cũng cứng rắn không kém, ông quả quyết dân Việt từ xưa chưa có quốc học, hiểu theo nghĩa có những tư tưởng mang tính hệ thống làm nên riêng biệt là người Việt. Cũng không phải quá khích đến nỗi nhận rằng những tư tưởng đó phải là độc đáo, sáng tạo riêng biệt, từ trên trời rơi xuống, ông nhìn nhận mối tương quan văn hoá giữa các dân tộc là điều không tránh khỏi, nhưng theo ông, sự tiếp nhận không thể là lối bắt chước suông: Vương học của Nhật Bản không phải chỉ là bài tụng kinh sách Vương Dương Minh. Bài “Quốc học với quốc văn” (1931) có thể coi là một bài nghiên cứu về tương quan văn hoá giữa Việt Nam và Trung Hoa mà Việt là phía tiếp nhận, ông nói đến các nguyên nhân khách quan (vị trí địa lí của hai nước, so sánh sự khác biệt với Nhật Bản), nguyên nhân nội tại ở tinh thần người Việt đã dẫn đến kết quả tiêu cực như thế nào... Chắc Phạm Quỳnh chưa lưu ý đến các tìm tòi của những nhà dân tộc học dẫn đến các lí thuyết về giao lưu văn hoá, nhưng bài viết dựa trên các sự kiện cụ thể, mang một tinh thần phân tích đáng kính phục.
Chúng ta còn lưu ý đến một chức phận khác của Phạm Quỳnh: Phó hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội (1931). Chúng tôi lại cũng không đủ phương tiện để tìm hiểu về cái hội này, nhưng danh xưng (ngày nay gọi là địa lí) bao hàm một phần lãnh vực hoạt động mà Phạm Quỳnh có thể góp phần, không phải chỉ là với hư danh chức tước: phần địa lí nhân văn. Ông hiểu rõ điều đó như khi trình bày phần dẫn nhập trong bài nói chuyện ngày 19-12-1929 ở hội này với tựa đề “Le paysan tonkinois à travers le parler populaire”. Một phần của tựa đề “Người dân quê Bắc Kì...” chứng tỏ ông biết giới hạn vấn đề khảo sát trong một khu vực nhất định, nơi một tầng lớp người nhất định. Nhưng tầng lớp này là thành phần tuyệt đại đa số của dân Việt nên cũng là tiêu biểu cho tính cách Việt gần như chưa phải thay đổi vì thâm nhiễm văn hoá, lối sống Tây Phương qua sự chuyển tiếp ép buộc của người Pháp. Ông lượm lặt những câu ca dao, tục ngữ để làm chứng dẫn về cuộc sống thường nhật ảnh hưởng đến tâm tình của một người dân quê trung châu sông Hồng được ông gọi điển hình là Nguyễn, họ thông thường nhất của dân Việt. Chứng dẫn được trải dài từ lúc Nguyễn còn là cậu bé 7, 8 tuổi theo thầy đồ học Tam tự kinh, lớn một chút chăn trâu thổi sáo trong đồng, đến lúc thành chức việc làng ngồi ở chốn đình trung. Rồi không phải chỉ qua ca dao tục ngữ, nhân tiện ông cũng mở rộng kể về sinh hoạt đình, hội làng, cả đến một vài chi tiết lạ, theo ông, là những tục lệ còn rơi rớt từ “thời trung cổ” tới nay, ví dụ như hội làng La, vào đêm cuối nam nữ, trai gái tụ tập trong đình rồi đèn đuốc tắt hết một lúc lâu mới mở lại. Một tục lệ như thế thật không có gì trái lẽ hơn với đạo đức thanh giáo mà xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng từ lâu - và có lẽ cũng là trái với đạo đức thông thường của con người hiện tại. Thế mà con người vẫn được nhận xét là trầm mặc, kín đáo, không tránh khỏi lời chê cao ngạo, con người nho như một bậc quân tử, tây như một gentleman, con người đó sao lại chú ý - không những chú ý mà còn ghi chép, phát biểu về một thói tục “bậy bạ” chốn nhà quê, điều hơi khác thường ấy là bởi đâu?
Cái “bậy” là của phạm trù đạo đức, cái “lạ” là của phạm trù khoa học, Phạm Quỳnh biết phân biệt rõ ràng, điều ấy chắc chúng ta phải tìm nguyên nhân từ những năm tháng phục vụ ở Trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác Cổ vậy.

Saigon from the diaspora - Tác giả Ashley Carruthers





Tìm ra dấu hiệu của sự sống trên Sao Kim





Bệnh nhân phục hồi từ Kung Flu gặp vấn đề về phổi





Biển Đông: Các cường quốc châu Âu nỗ lực ngăn chận tham vọng của Tàu Cộng





Hán hóa Tân Cương: Chính sách "5 cùng" của Tàu Cộng





Hội nghị Bắc Đới Hà : Khó xử trong đối ngoại, nội bộ Bắc Kinh phân hóa mạnh





Ngành chế tạo máy bay của Pháp suy thoái nặng nề vì Kung Flu





A theory of regularity structures - Tác giả Martin Hairer





What maths is involved in stirring a cup of tea?





Is the US about to split the internet?

 

US Secretary of State Mike Pompeo says he wants a "clean" internet.
What he means by that is he wants to remove Chinese influence, and Chinese companies, from the internet in the US.
But critics believe this will bolster a worrying movement towards the breaking up of the global internet.
The so called "splinternet" is generally used when talking about China, and more recently Russia.
The idea is that there's nothing inherent or pre-ordained about the internet being global.
For governments that want to control what people see on the internet, it makes sense to take ownership of it.
The Great Firewall of China is the best example of a nation putting up the internet equivalent of a wall around itself. You won't find a Google search engine or Facebook in China.
What people didn't expect was that the US might follow China's lead.
Yet critics believe that is the corollary of Mr Pompeo's statement on Thursday.

Mr Pompeo said he wanted to remove "untrusted" applications from US mobile app stores.
"People's Republic of China apps threaten our privacy, proliferate viruses, and spread propaganda and disinformation," he said.
The first question that sprang to mind was: what are the Chinese apps that Mr Pompeo does trust? The assumption is very much that he's talking about ALL Chinese apps.
"It's shocking," says Alan Woodward, a security expert based at the University of Surrey. "This is the Balkanisation of the internet happening in front of our eyes.
"The US government has for a long time criticised other countries for controlling access to the internet… and now we see the Americans doing the same thing."
That might be a slight exaggeration. Mr Pompeo's reasons for "cleaning" the US network of Chinese companies is very different to authoritarian government's desire to control what is said online.
But it's true that if Mr Pompeo were to go down this road, it would be reversing decades of US cyber-policy.
If there is one country that has championed a free internet, based on the constitutional tenets of free speech, it is America.
President Donald Trump's administration has taken a different approach though, in part because of the legitimate security concerns that some Chinese companies operating in the US raise.

WeChat warning

Alex Stamos, former chief security officer at Facebook, told me that much-mentioned TikTok was just the tip of the iceberg in terms of Chinese apps to worry about.
"TikTok isn't even in my top 10," he told me.
The app Mr Stamos suggests the US should be more wary of is Tencent's WeChat.
"WeChat is one of the most popular messaging apps in the world… people run companies on We Chat, they have incredibly sensitive information."
Mr Pompeo has also namechecked WeChat as a potential future target.
It's hard not to view this through the prism of the US elections in November. Mr Trump's anti-China rhetoric isn't limited to tech.

Policy or posture?

So is this a policy position - or simply posture?
Mr Trump may also of course lose in November. The Democrats would probably take a more moderate position on Chinese tech.
But, as it stands, Mr Trump's vision of the US internet - an internet in the main free of China - makes it a far more divided place.
The great irony is that the internet would then look a lot more like China's vision.
Just look at TikTok itself. If Microsoft does buy the US arm there will be three TikToks.
A TikTok in China (called Douyin). A rest of the world TikTok. And a TikTok in the US.
Could that be a model for the future of the internet?

Đoàn Thanh Tuyền hát Tóc Xưa, nhạc Ngô Thụy Miêm phổ thơ Dương Văn Thiệt





The Atlantic Philanthropies in Vietnam





Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Lên Núi Tìm Chồng- Tác giả Trần thị Đông Phương





Giòng sông gốm Lái Thiêu - Ký ức một đời người với đất hồn quê





Thành quà đối ngoại của Donald Trump





US wildfires: What are the health risks of smoke pollution?





Boeing's 'culture of concealment' to blame for 737 crashes

 

Two fatal crashes of Boeing 737 Max aircraft were partly due to the plane-maker's unwillingness to share technical details, a congressional investigation has found.

It blames a "culture of concealment" at Boeing, but says the regulatory system was also "fundamentally flawed".

Boeing said it had "learned many hard lessons" from the accidents.

But families of the victims accused the company and the regulator of continuing to hide information.

The US report is highly critical of both Boeing and the regulator, the Federal Aviation Authority (FAA).

"Boeing failed in its design and development of the Max, and the FAA failed in its oversight of Boeing and its certification of the aircraft," the 18-month investigation concluded.

The Boeing 737 Max has been grounded since March 2019 after two crashes, in Indonesia and Ethiopia, caused the deaths of 346 people.

The nearly 250-page report found a series of failures in the plane's design, combined with "regulatory capture", an overly close relationship between Boeing and the federal regulator, which compromised the process of gaining safety certification.

"[The crashes] were the horrific culmination of a series of faulty technical assumptions by Boeing's engineers, a lack of transparency on the part of Boeing's management, and grossly insufficient oversight by the FAA."

Boeing said it had made "fundamental changes" to the company as a result of the accidents.

The FAA said it would work with lawmakers to "implement improvements identified in the report".

The report said Boeing had failed to share information about a key safety system, called MCAS, designed to automatically counter a tendency in the 737 Max to pitch upwards. Boeing was at fault for "concealing the very existence of MCAS from 737 pilots", it found.

MCAS was not in crew manuals and Boeing sought to convince regulators not to require simulator training for Max pilots, which would incur extra costs.

The MCAS system has been blamed for both crashes that came within months of each other, shortly after the plane went into operation.

'Halt the process'

"The FAA should immediately halt the recertification process for the 737 Max in light of this report," said Michael Stumo, whose daughter Samya Rose Stumo died in the Ethiopian crash in March 2019.

"The FAA and Boeing hid information before and are doing it again," he added.

"Both Boeing and the FAA have refused to provide their data that support their efforts to unground the plane. The Max should not fly until Boeing and the FAA provide this data, so independent experts and the public can confirm the aircraft is safe."

British national Zipporah Kuria, whose father was killed in the same crash, said it would be "grossly irresponsible" to recertify the 737 Max.

"My heart is shattered. My dad lost his life and I lost him," she said

"If I'd lost him because of a faulty sensor, I may have come to accept it as an incident, but I lost my dad to greed, corruption and lack of human decency.

"This is why we need to axe the Max. The public shouldn't continue bearing the cost for corner-cutters who do not seem to have a conscience."

'Captured' regulator

Paul Njoroge of Canada, whose entire family was killed on their trip to Kenya to visit grandparents, said the report documented "clear dereliction of duty by Boeing and the FAA in the design and certification process of the 737 Max".

"It is, therefore, clear that at Boeing, safety comes after cost-cutting, profit-maximisation and share price pumpage," he added.

"Further, the report has undoubtedly cast the FAA as a 'captured' regulator - the FAA is therefore an agency promoting Boeing and the industry, instead of promoting the safety of the flying public."

Regulators around the world are currently putting the modified 737 Max through its paces.

The FAA began test flights in June, while the European Union Aviation Safety Agency (EASA) started its own testing programme earlier this month.

EASA has maintained that clearance by the FAA will not automatically mean the plane is considered airworthy in Europe.

"Once the FAA and other regulators have determined the Max can safely return to service, it will be one of the most thoroughly scrutinised aircraft in history, and we have full confidence in its safety," Boeing said.

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

Phạm Duy và Steve Addis hát Hò Lơ





Phạm Duy hát Buồn Tàn Thu, nhạc Văn Cao





Phạm Duy đọc thơ Thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ





Phạm Duy hát Kể Chuyện Đi Xa





Phạm Duy hát Kỹ Vật Cho Em





Phạm Duy hát Bá Mẹ Phù Sa





Phạm Duy hát Dặn Dò





Phạm Duy hát Một Ngày Một Đời





NAM VANG Một buổi sáng trước hoàng cung