khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2016

Mấy tên Công An Mạng phá phách sáng đêm: Bây giờ bên Thành Hồ đã hơn 7 giờ sáng chúa nhật ngày 19/6/2016- kỷ niệm 50 năm Ngày Quân Lực VNCH- Các con về nhà nhớ đứng nghiêm chỉnh chào Cờ Vàng trước khi ăn sáng rồi đi ngáo nghen. Gặp các con sau



Công An Mạng: Nồi cám heo đây, múc ra bát xơi cho ấm bụng buổi sáng !



Áo Dài Mini Sống Lại Giữa Sài Gòn - Tác giả Trịnh Thanh Thủy



Một ngày tháng tư, đi dạo một vòng mall Phúc Lộc Thọ ở Little Saigon California, Hoa Kỳ, cái nhìn của tôi bỗng đậu lại ở chiếc áo dài tà ngắn trông ngộ nghĩnh với chiếc quần thun bó màu đen tiệp với thân áo đen pha hoa văn vàng, nâu ở tay và đáy tà áo thật trang nhã. Vào cửa tiệm hỏi, tôi được bà chủ cho biết đó là loại “Áo dài cách tân” đang được ưa chuộng như thời trang hiện đại ở trong nước. Bà xúi tôi cứ mặc thử không hề gì. Sau khi thử áo, tôi thấy loại áo dài này, may bằng thun cát co giãn vừa phải, không quá dày hay quá mỏng, dễ thích hợp với mọi khổ người. Màu sắc tạo nét trẻ trung và sự tiện lợi cho người mặc, khiến đi đứng ít vướng víu vì tà ngắn. Áo lại ôm sát toàn thân khiến phô bày được vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ. Cửa tiệm ấy, bán quần áo thời trang kèm thêm nhiều áo dài may sẵn đủ cỡ, cả truyền thống lẫn cách tân.

Gần đây, ngày Xuân ở Việt Nam chợt tươi mát rực rỡ pha chút lạ lẫm với hình ảnh những thiếu nữ và em bé gái tung tăng dạo phố, chơi xuân trong chiếc áo dài tà ngắn, tay lửng, đủ màu sắc, mặc chung với quần Jean hay quần bó. Thời trang mùa xuân và mùa hè cho các thiếu nữ Việt Nam năm nay, 2016, được quảng cáo trên các trang mạng là “Chiếc áo dài cách tân” đủ họa kiểu, loại vải và màu sắc.

Vào ngày 18 tháng 3, 2016, báo Tuổi Trẻ ở Việt Nam, có tổ chức một cuộc toạ đàm mang tên “Nét đẹp áo dài truyền thống và áo dài cách tân”. Buổi toạ đàm quy tụ một số các nhà nghiên cứu và am hiểu về áo dài cùng đại diện của 2 Công ty cổ phần tập đoàn may mặc. Mục đích chính để tạo cơ hội và thời gian cho các diễn giả và khách tham dự bàn luận về hai trường phái áo dài hiện nay là áo dài truyền thống và áo dài cách tân. Sự tiện lợi cũng như bất tiện được nêu ra khi đưa áo dài vào đời sống hằng ngày. Đồng thời sự gợi ý, mặc áo dài thế nào cho đẹp và phù hợp với các vóc dáng, các lứa tuổi. Dòng sản phẩm tơ lụa nào để áo dài thêm mềm mại, thướt tha cũng được nhắc đến. Các nhà sản xuất cũng có ý định đưa sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế.


blank


Khoan nói tới việc chê khen của người ngắm áo mà chúng ta thử nhìn kỹ xem cái mốt áo dài thời trang này trông như thế nào.

Chiếc áo dài cách tân này trông giống chiếc áo dài Mini trước 1975 ở Sài Gòn phải không các bạn? Tà áo ngắn trên đầu gối, vạt hẹp hay vừa. Tay may kiểu Raglan (Ráp lăng) không phải tay thường, nên ôm sát được bờ vai. Tay lửng, dài, bồng hoặc ngắn. Đặc biệt đường eo được mổ lên cao, phô chút đường tam giác quyến rũ của chiếc eo thon. Cổ áo tùy người chọn, thấp hoặc cao, phần lớn là cổ tròn, vuông, thuyền, khoét nông hay sâu. Quần thường là Jean lưng cao, mặc sát, ôm mông, bụng hay quần bó, ôm lấy thân hình người mặc. Chất liệu thì đủ loại vải, gấm, nhung, ren, tơ, lụa hay thun. Hoa văn thì đa dạng, vẽ thêu hay in đều được.

Ngắm xong chiếc áo, ý kiến người xem bắt đầu nổi lên. Bất đồng, phản kháng hay ưng ý, thích thú hoặc cùng lắm thì có người nhún vai phán “Không có ý kiến” vì chiếc áo dài sau bao năm đã bị sửa tới sửa lui, trải qua biết bao nỗ lực cách tân khi dài, khi ngắn, khi rộng, lúc hẹp đã đời rồi, nói nữa thêm thừa.

Tự ngàn xưa, chiếc áo dài được thiết kế cho cả nam lẫn nữ mặc. Theo thời gian áo dài được thay đổi, cách tân, lúc thì cổ cao, lúc không có cổ. Tà áo thì khi dài khi ngắn, khi hẹp, khi rộng, lúc hai, ba tà. Sự cách tân không ngừng nghỉ của chiếc áo dài đã tốn bao nhiêu giấy mực tranh cãi.


Người bảo thủ cho rằng, đã gọi là áo dài thì đương nhiên chiếc áo phải có một độ dài nhất định, ít nhất phải chạm gối, khiến người con gái Việt Nam khi di chuyển, tà áo bay sẽ tạo được sự thướt tha, mượt mà. Chiếc áo dài từ lâu nổi tiếng nhờ vẻ thanh lịch, vừa kín đáo, e ấp, vừa tôn được vẻ đẹp mảnh mai, nhã nhặn của người phụ nữ Việt. Cái đẹp nằm trong sự hấp dẫn kín đáo mà thôi. Sự cách tân cốt chỉ để phô ra vòng 1, 2, 3 là điều đáng khinh miệt và không chấp nhận được. Nhất là các ca sĩ, người mẫu nổi tiếng cố tình khoe áo cách tân, đã góp sức phá hoại hình ảnh đẹp đẽ của chiếc áo dài khi chọn trình diễn những chiếc áo dài thay đổi quá mức, khiến hình ảnh thùy mị, dịu dàng của áo dài trở nên phản cảm một cách thê thảm. Điều chướng mắt hơn cả là chất liệu vải may áo dài ngày càng bị mỏng hoá đến độ trong suốt đã đánh mất sự đoan trang, thanh lịch của người mặc.


blank


Trong cuốn sách “Kể chuyện chín mùa, mười ba vua triều Nguyễn” của ông Tôn Thất Bình có ghi, “Chiếc áo dài ngoài vẻ đẹp văn hoá còn có một ý nghĩa đạo lý. Hai tà áo (hai vạt) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Cái yếm che trước ngực nằm giữa những chiếc áo ngoài tượng trưng cho hình ảnh mẹ ôm ấp con vào lòng. Năm khuy cài nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.” Vì thế chiếc áo dài gói gọn giá trị tinh thần và văn hoá quốc hồn, quốc tuý, dù có cách tân thế nào cũng vẫn phải giữ nét đẹp truyền thống của nó.

Kẻ ủng hộ bảo, chiếc áo dài cách tân mặc thấy “sướng”, nhất là giới trẻ. Tuổi trẻ năng động, vùng vẫy, thích mốt thời trang đã quen, lại có đầu óc cởi mở, tỏ ra thích chiếc áo dài này. Quần bó, quần jean các cô mặc hàng ngày vừa gọn gàng, tiện lợi, lại ôm vòng các đuờng cong gợi cảm được mặc chung với áo dài cải cách, sao không thử mặc vào, tung tăng dạo phố. Tay ngắn, tay lửng, cổ rộng, cổ thuyền thoáng mát hợp với không khí hừng hực nóng ẩm nhiệt đới của Việt Nam. Diện áo dài cách tân đi làm, không bị gò bó, đỡ thêm cái khoảng “stress” nặng nề vì quần là áo lượt, đóng khung, đóng bộ. Đi chơi trẻ trung, vừa thu hút mắt nhìn phái nam, vừa tươi mát với sắc màu rực rỡ, thật “đã”. Ngồi không sợ tà áo lê lết, đi không sợ chiếc quần rộng lụng thụng cản trở bước chân. Lên đồi, xuống dốc, ngồi xe gắn máy chả sợ vướng víu, bụi bặm dơ dáy, cả áo lẫn quần. Nói tóm lại lối thời trang cách tân này cho người ta cảm giác “sướng và thoải mái” khi mặc.

Những ý kiến trung dung đã đưa đến một kết luận chung cho chiếc áo dài. Sự cách tân mang lại làn gió mới nhưng nên giữ nét truyền thống mà không rườm rà. Cách tân, cách điệu, nhưng đừng tùy tiện, bóp mép, làm xấu đi hình tượng đẹp sẵn có của nó. Cái gì cũng cần có giới hạn cho đúng với ý nghĩa của chiếc “áo dài”.

Sự pha trộn Âu và Á cũng như đa văn hoá toàn cầu ngày nay, khiến chiếc áo dài cách tân thể hiện sự dễ dãi trong việc may lẫn việc mặc. Là con gái của một ông bố chủ nhà may ngày xưa, khi mặc chiếc áo dài cách tân vào, tôi lại nghĩ khác. Chiếc áo dài cách tân hôm nay đã đi những bước thật ngắn gọn trong việc đơn giản hoá chiếc áo dài Mini hay truyền thống của ngày xưa rất nhiều. Những khuy áo hay nút bấm đã được thay bằng cái phẹc-mơ-tuya đằng sau lưng như một cái áo đầm Tây Phương. Tuy nhiên sự may vá theo kiểu hàng loạt đã làm hỏng mất tà áo của thân sau vì chiếc phẹc-mơ-tuya đã để lại cuối đường xẻ một đường trũng hếch lên phía mông sau áo, trông thật vụng về.



blank


Tôi còn nhớ ngày mới lớn bố tôi dạy tôi may và cắt chiếc áo dài rất công phu và qua nhiều công đoạn. Chưa nói đến việc đo và cắt khó thế nào, nội việc ngồi tập may tà áo cũng phải mất một thời gian dài ngồi trước máy may, đạp sao cho đường chỉ thật thẳng tắp. Chiếc tà Nam, Trung hay Bắc phải may sao cho ôm, không vểnh ra. Luôn(khâu) tay, phải sao cho khéo không được lộ chỉ khâu. Khuy áo phải máy, lộn vải và vê sao cho tròn. Chỉ cô thợ may nào khéo tay, bố tôi mới giao cho việc chuyên môn làm từng bộ khuy vải. Những hàng bị co giãn phải ngâm qua đêm, sau đó ủi thẳng thớm mới dám cắt may cho khách. Một chiếc áo dài đẹp và hoàn hảo được may theo số đo và ni tấc của người mặc là một công trình tỉ mỉ. Còn việc mặc sao cho đẹp lại là một việc tế nhị khác. Khi đo bao giờ bố tôi cũng dặn khách phải mặc chiếc áo ngực như thế nào cho đứng áo và áo ngực mặc khi đo, phải cùng là một áo ngực khi đi thử áo. Gặp khách hàng khó tính, không biết lựa vải, khi may xong, hoa văn quá to chiếm hết chiều ngang thân áo hoăc vải mua quá cứng, mặc vào trông quá mập và thô kệch, bèn chê trách thợ may không khéo là những nỗi oan mà người thợ may phải chịu.

Chiếc áo cách tân may sẵn ngày nay, có đủ cỡ, đủ loại vải, phần lớn là thun có thể co giãn. Rộng một chút thì lấy size lớn hơn, hẹp chút, ôm vào người cứ chọn đúng size của mình, thật dễ. Đường may chẳng cần khéo. Đường tà chẳng cần luôn tay cho dịu, chỉ cần máy đạp vèo một phát là xong. Không cần cài khuy bấm, móc miếc, cho mệt mà sợ lên cân một tí thì bung, kéo cái phẹc-mơ-tuya cái rột, vừa nhanh, vừa gọn. Giá lại rẻ gấp mấy lần tiền công may và mua vải. Muốn mặc, ra chợ mua lúc nào cũng có  , lại chẳng cần sắm quần, có sẵn mấy cái Jean và thun bó đồng màu, thế là có thể lên đường dạo phố du xuân.

Cuối cùng tôi cũng “tậu” một chiếc áo dài cách tân về mặc nhưng định bụng mặc chung với quần lụa mềm thay vì Jean hay thun bó. Có lẽ tôi chưa chấp nhận được ý tưởng mặc chiếc áo dài cách tân đi với chiếc quần thun bó hay Jean. Dường như mặc như vậy, tôi thấy nó còn quá cứng, thiếu đi nét mềm mại cần có của người phụ nữ Việt Nam chăng? Có thể tôi thuộc phe trung dung, thích có áo dài truyền thống để đi lễ, đi hội họp ở các nơi trang trọng và cũng thích luôn chiếc áo dài cách tân để đi làm hay đi dạo phố, chơi xuân.




Tập Tầm Vông Tay Không Tay Có - Tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa



Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực để cứu vãn kinh tế - mà không xong.

Tuần qua, có hai chuyện tưởng như không liên hệ gì lại khiến thiên hạ chú ý đến Trung Quốc.

Đầu tiên là sau ba năm làm việc với giới hữu trách Bắc Kinh để giải quyết mối quan ngại về các thị trường cổ phiếu Thượng Hải và Thẩm Quyến, hôm 14, hệ thống MSCI đã từ chối đưa cổ phiếu Trung Quốc vào danh mục chỉ số chứng khoán của các thị trường đang lên.

Về bối cảnh thì dưới tên gọi nguyên thủy là Morgan Stanley Capital International, MSCI có chức năng định giá các chỉ số chứng khoán toàn cầu gọi là global stock indexes, là loại thông tin khách quan hướng dẫn giới đầu tư tài chánh. Cổ phiếu của Trung Quốc thuộc loại yết giá bằng ngoại tệ, không bằng đồng tiền của xứ này, đã nằm trong danh mục Emerging Market Index của MSCI với tỷ trọng là 26%. Từ ba năm nay, Bắc Kinh muốn đưa cổ phiếu loại A-Share, yết giá bằng đồng Nguyên, vào danh mục của MSCI. Tổ chức này nghiên cứu tiến độ cải cách theo chiều hướng tự do và minh bạch hơn để từng bước đưa loại cổ phiếu ấy của Trung Quốc vào danh sách cổ phiếu có thể được giao dịch trên các sàn quốc tế. Hai năm qua, MSCI thấy việc cải cách thị trường của Trung Quốc thiếu tiến triển và từ năm ngoái thì làm việc thêm với Bắc Kinh để cùng cải thiện quy cách làm ăn. Sau cùng thì họ từ chối, và hẹn là sẽ xét lại vào năm Tháng Sáu năm tới.

Nghĩa là nhịp độ cải cách của Bắc Kinh còn quá chậm nên chưa thể đưa cổ phiếu nội địa vào hệ thống giao dịch quốc tế để huy   động vốn của giới đầu tư. Chi tiết chuyên môn ấy cho thấy nền kinh tế có sản lượng thứ nhì trên thế giới chưa có khả năng sánh vai các nước đang phát triển và thị trường nội địa vẫn còn quy cách làm ăn hạn chế vì nhà nước duy trì việc kiểm soát tư bản và vẫn can thiệp vào thị trường.

Đâm ra vừa muốn huy động tư bản vừa ngăn nạn tẩu tán tư bản, Bắc Kinh hụt mất cả hai. Một ngày sau là hôm 15, tỷ giá đồng Nguyên so với Mỹ kim đã tuột đến mức thấp nhất kể từ 2011.

Chuyện thứ hai đáng chú ý là hôm 15, Bắc Kinh loan tin rằng bà vợ và con trai của Chu Vĩnh Khang, là Giả Hiểu Hiệp và Chu Bân, bị lãnh án tù về tội tham nhũng. Mẹ bị tù chín năm, con bị tù 18 năm. Hai ngày sau, đến lượt một người cháu lãnh 12 tấm lịch sẽ bóc trong tù về tội biển thủ.

Cho tới Đại hội khóa 17 vào cuối năm 2012, Chu Vĩnh Khang là nhân vật thần thế của đảng Cộng sản Trung Hoa. Ông ngồi trong Thường vụ Bộ Chính trị, làm Trưởng ban Chính Pháp Trung ương, phụ trách về an ninh, tình báo và tòa án, chỉ đạo cả hai bộ Công an và Quốc an, sau khi đã điều khiển các tập đoàn dầu khí nhà nước. Thế rồi do lệnh của Tập Cận Bình, ông bị điều tra, tống giam và Tháng Sáu năm ngoái thì lãnh án tù chung thân vì nhiều tội, từ tham ô đến tiết lộ bí mật của nhà nước. Chưa kể tới Bí thư Trùng Khánh là Bạc Hy Lai và hai viên tướng cao cấp nhất là Từ Tài Hậu và Quách Bá Hùng, một trong chín lãnh tụ tối thượng của đảng đã bị hạ bệ và ngày nay gia tộc gần xa đều vào tù, chuyện khá hy hữu.

Chu Vĩnh Khang là con cọp dữ nhất trong mẻ lưới chống tham nhũng được gọi là “đả hổ đập ruồi” của Tập Cận Bình.

Chiến dịch đã kéo dài lan rộng và trở thành một vụ thanh trừng chính trị rộng lớn hơn là thanh lọc các đảng viên bị biến chất vì tham nhũng. Dưới chế độ độc tài và bưng bít thông tin thì tham nhũng trở thành thuộc tính, là hiện tượng không thể diệt trừ hay ngăn chặn được. Nhưng họ Tập vẫn ra lệnh tiến hành khiến bộ máy hành chánh công quyền bị tê liệt trong khi ông lặng lẽ tập trung quyền lực cho cá nhân, từ an ninh đến quốc phòng lẫn kinh tế.

Thật ra, hai biến cố MSCI và Chu Vĩnh Khang cho thấy một nét chung về kinh tế Trung Quốc, từ nay xin gọi là Trung Cộng.

***

Nếu có thể vẽ hai đường tuyến là đà gia tăng của chiến dịch diệt trừ tham nhũng và sự sa sút của đồng Nguyên, ta thấy ra một mối liên hệ: tình trạng kinh tế quá bấp bênh của Trung Cộng.

Đồng Nguyên bị mất giá ngay trong thị trường nội địa là vì hai lý do: kinh tế suy trầm và hệ thống tài chánh suy nhược. Tập Cận Bình đã thâu tóm quyền lực ngay trong lãnh vực quản lý kinh tế, xưa nay thuộc thẩm quyền của Tổng lý Quốc vụ viện là Thủ tướng Chánh phủ.

Tham vọng của ông là vừa kích thích kinh tế, vừa quốc tế hóa vai trò của đồng nội tệ và trong một chừng mực nhất định thì cho giảm giá đồng Nguyên để tìm lợi thế xuất cảng nhờ bán hàng rẻ hơn. Nhưng dù họ Tập có múa may cách mấy, ông vẫn không vượt qua được hai trở ngại. Thứ nhất là kinh tế toàn cầu vẫn èo uột – và năm nay còn có thể bị suy trầm nữa sau đợt Tổng suy trầm 2008-2009. Vì vậy, mức tiêu thụ hàng xuất cảng của Trung Cộng không tăng mạnh, và xứ nào càng lệ thuộc vào xuất cảng là càng điêu đứng. Xuất cảng của Trung Cộng chiếm tỷ lệ quá cao của Tổng sản lượng, là 36%, so với 14% của Mỹ và 16% của Nhật.

Lý do thứ hai là hàng chế biến của Trung Cộng đang có chiều hướng lên giá vì sức ép về lương bổng gia tăng và vì lạm phát trong khi nhiều xứ khác cũng đã có sản phẩm tương tự để cạnh tranh. Hai trở ngại ấy lại có tác dụng cộng hưởng: hạ giá đồng bạc thì nhất thời dễ xuất cảng hơn nhưng lại nhập cảng với giá cao hơn và gây rủi ro lạm phát. Biện pháp kích thích trong ngắn hạn lại gây khó khăn cho dài hạn chứ không hề có chuyện lấy ngắn nuôi dài.

Tức là kinh tế Trung Cộng đang mất ưu thế cạnh tranh đã có từ ba thập niên, lại đang đi vào chu kỳ suy giảm như mọi nền kinh tế đang phát triển khác sau giai đoạn khởi phát.

Khốn nỗi, trong giai đoạn chuyển tiếp giữa đoản kỳ với trường kỳ, đảng và nhà nước chẳng thể làm bất cứ gì mà không gây hậu quả chính trị. Tập trung quyền lực cũng có nghĩa là tập trung trách nhiệm. Và thị trường không còn tin tưởng gì vào khả năng quản lý của chế độ. Kết quả? MSCI lắc đầu, đồng Nguyên mất giá và vàng lên giá!

Giữa thế kỷ 19, Đế quốc Anh nã pháo vào Trung Quốc để đòi nhà Mãn Thanh mở cửa thị trường và khởi đầu cho trăm năm nhục nhã của nước Tầu, nhưng cũng là trăm năm buôn bán với thế giới bên ngoài. Trăm năm sau đó, Mao Trach Đông thống nhất Trung Hoa dưới chế độ bế quan tỏa cảng, chẳng khác gì Thanh triều, và Mao Hoàng đế cào bằng tất cả trong sự ổn định chính trị của một bãi tha ma khiến kinh tế lụn bại. Khác với các Hoàng đế triều Thanh từ Đạo Quang trở đi, là những ông vua bất lực trước sự tung hoành và tưng bừng làm ăn của các lãnh tụ địa phương, Mao Trạch Đông là Hoàng đế toàn quyền, kể cả trên đầu của các đồng chí.

Giữa hai ngả hợp tan, Mao chọn ngả “hợp”, nhưng làm kinh tế lụn bại. Đặng Tiểu Bình lên lãnh đạo thì chọn con đường “trung đạo” mà vẫn vô đạo về kinh tế. Tức là, áp dụng kinh tế thị trường có chọn lọc để củng cố vai trò của tư bản nhà nước và tay chân là đảng viên cán bộ. Việc mở ra kinh tế thị trường có đưa tới tăng trưởng, nhưng là tăng trưởng thiếu phẩm chất. Và khi hết đà tăng trưởng thì hậu quả của tình trạng thiếu phẩm chất đang phát tác: môi sinh bụ hủy hoại, xã hội bị động loạn vì nạn bất công, và cường hào ác bá tiếp tục tung hoành dưới sự bảo vệ của đảng.

Tập Cận Bình muốn chấp dứt tệ nạn ác bá này ở bên trong, nhưng ở bên ngoài thì số cầu lại không tăng.

Muốn tránh tình trạng lầm than thời Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình khuyến khích người dân làm giàu mà cơ chế chính trị của Trung Cộng lại giúp đảng viên cán bộ làm giàu nhanh hơn, qua tham nhũng. Chu Vĩnh Khang là điển hình của kẻ tập trung đặc quyền chính trị và đặc lợi kinh tế cho thân tộc. Khi thanh trừng họ Chu và thân nhân, Tập Cận Bình muốn mọi đảng viên cán bộ phải hiểu ra một thay đổi lớn: dùng quyền lực để thu thập tiền tài là điều không thể chấp nhận được.

Nhưng thông điệp cách mạng ấy lại xuất phát với hiện tượng quyền lực tập trung cũng chẳng sai khiến được thị trường, hay các tổ chức quốc tế góp phần vào sự vận hành của thị trường. Và không thể vực dậy một nền kinh tế sa sút.

Đâm ra, hai tay hai gậy, Tập Cận Bình có thể đánh cọp chứ không thể đẩy cỗ xe kinh tế ra khỏi vũng lầy hiện tại.


Nguyễn Tất Trung - đứa con rơi của Hồ Chí Minh







Nồi Chè Của Ông Tướng - Tác giả Khôi An



Không hiểu chị tôi đã nghe tin về ông bằng cách nào.

Thời đó, đầu thập niên tám mươi, mọi phương tiện truyền thông đều thuộc về nhà nước Cộng Sản, quanh năm suốt tháng báo chỉ đăng tin “nước ta đang trong thời kỳ quá độ…” Kiểu dùng chữ như vậy mọi người phải chịu đựng mãi nên đỡ thấy quái đản. Người đọc cứ tự điền vào chỗ trống thành “nghèo quá độ”, “đói quá độ” hay “láo quá độ”… tùy theo câu.

Vậy mà, một buổi tối, đột nhiên chị tôi nói “Em có biết Tướng Lê Minh Đảo không? Ông tướng đánh trận Xuân Lộc đó. Nghe nói ổng mới chết trong tù rồi! Tội quá, ổng còn trẻ lắm!”

Trước ngày miền Nam thất thủ tôi không biết ông Lê Minh Đảo. Sau đó, tôi có nghe loáng thoáng người lớn rỉ tai nhau về trận đánh ác liệt bảo vệ ngõ vào Sài Gòn trong những ngày đầu tháng Tư, 1975 tại Xuân Lộc. Tôi cảm phục những người chiến đấu đến cùng, nhưng điều đó sớm chìm vào những hỗn độn của cuộc đổi đời. Vả lại tôi còn nhỏ quá, chẳng biết nghĩ gì hơn.

Cũng như thế, tối hôm đó, sau khi nghe chị tôi nói, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau trong niềm xót thương lặng lẽ.

Một thời gian sau, tôi lại nghe một người bạn nói “Ông Lê Minh Đảo còn sống. Ổng chỉ bị mù thôi.”

Ở trong tù mà bị mù thì chắc còn khổ hơn chết. Tôi thở dài – trẻ con Việt Nam sớm biết thở dài – rồi thầm đọc một lời cầu nguyện. Cho ông và những người tù chính trị đang bị đọa đày.

*

Đến năm 1993, khi đang ở Mỹ, nghe tin Tướng Lê đã sang theo diện HO và mắt vẫn sáng, tôi ngạc nhiên và vui lắm. Mừng cho ông cuối cùng cũng có những ngày bình an sau gần hai thập niên tù ngục.

Nhiều năm sau, khi internet cung cấp mọi tin tức mà ngày trước không dễ kiếm, tôi đã lên mạng tìm xem mặt Tướng Lê và nghe ông nói. Tôi muốn biết về ông. Không phải qua những lời kể, mà bằng cảm nhận của chính tôi.

Và tôi đã gặp được đoạn phim buổi nói chuyện của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo với Việt Dzũng. Buổi phỏng vấn khá dài nhưng tôi nhớ nhất là khi ông nói về sự hy sinh của người lính. Giọng ông hơi lạc đi khi nhắc đến tình bạn của hai người lính trẻ và sự đơn sơ, không hận thù trước bờ sinh tử của họ.

Phút nghẹn ngào của Tướng Lê đã làm tôi bồi hồi. Tôi ngỡ tim ông đã cứng và nước mắt ông đã kiệt sau mấy chục năm ngang dọc trên chiến trường và mười bảy năm trong tù. Tôi ngỡ ông sẽ nói nhiều về những chiến công và những đóng góp của ông trong hai mươi năm gìn giữ miền Nam. Nhưng ông nói về các điều khác, như cái chết của người lính trẻ và sự hy sinh của chiến binh. Hơn hai mươi năm đã qua, ông vẫn tự trách mình, môi ông run run khi nói “…chúng tôi cũng không lo được cho họ một cách đầy đủ…” Có lẽ chưa bao giờ ông ngưng buồn về chuyện đó. Tài làm tướng của ông đã làm tôi phục. Nhưng vết thương mấy chục năm trong lòng ông mà tôi vừa chứng kiến đã làm tôi quý mến ông.

Đầu tháng Tư, 2015 tôi viết lại chuyện của những sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ bốn mươi năm trước. Họ tụ tập tại một chung cư cũ kỹ ở Houston, khắc khoải nhìn về miền Nam đang vuột mất. Người sinh viên năm xưa cứ nhắc đi nhắc lại niềm hy vọng bùng lên khi đám người Việt trẻ theo dõi sự anh dũng của những chiến sĩ Xuân Lộc, dù bị dồn tới chân tường.

Vì thế, tôi tìm xem lại những khúc phim của tháng Tư xưa. Tôi thấy lại khói lửa điêu tàn. Tôi gặp lại các chiến sĩ anh hùng. Và Tướng Lê Minh Đảo, mắt nảy lửa, nghiến răng thề quyết chiến.

Rồi tôi giật mình, nhận ra rằng những người trai dũng mãnh ấy nay đã già, và tôi cũng đang già. Mai này khi chúng tôi ra đi, đàn con gốc Việt còn biết gì về quê cha đất tổ? Phải chăng điều đó tùy thuộc vào những gì chúng tôi làm hôm nay?

Thế hệ trẻ cần nghe những điều thật từ những người thật. Sẽ tốt biết bao nếu họ được gặp gỡ những nhân vật lịch sử như Tướng Lê Minh Đảo.

Thế là tôi lần mò đi tìm Tướng Lê.

Tôi không có mối quen biết xa gần nào với ông, cũng chẳng có chức tước ở bất cứ hội đoàn nào. Vậy mà tôi thấy chuyện mời ông đến vùng Thung Lũng Điện Tử thật tự nhiên, nhẹ nhàng. Có lẽ tôi linh cảm rằng vị tướng, người sau hơn hai mươi năm vẫn khóc cho lính, rất quan tâm tới lớp trẻ.

Sau hai tuần hỏi thăm nhiều người, cuối cùng tôi may mắn có được sự giúp đỡ tận tình của một người chị làm báo. Tôi được một cái hẹn nói chuyện với Tướng Lê. Mười giờ sáng, một ngày đầu tháng Tư, 2015.

Gần tới giờ hẹn, tôi thấy hơi hồi hộp. Thật tình tôi sẽ buồn chút thôi nếu Tướng Lê từ chối sang California nói chuyện. Nhưng tôi sẽ buồn nhiều nếu thực tế quá khác với những cảm nghĩ ở trong lòng.

*

Ông đến San Jose chiều 27 tháng Tư, 2015 trên chuyến bay từ Arizona. Từ xa, tôi thấy ông trong chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii màu vàng nhạt có hoa xám, đang dáo dác nhìn quanh.

“Thưa Bác! Con là Kh.A.”

Ông cười. Chúng tôi bắt tay nhau. Giản dị như đã quen từ trước.

Ông cho biết đã lên máy bay ngay sau khi dự buổi lễ kỷ niệm bốn mươi năm miền Nam bị cưỡng chiếm với cộng đồng Việt-Mỹ ở Pheonix, Arizona. Tôi hỏi ông có mệt không, ông nói “Không sao đâu. Bác giờ như một kho sách cũ, chỉ lo không đủ giờ để trao lại kiến thức cho những người đi sau…”

Tối hôm đó, chúng tôi mời ông ghé chơi nhà một người bạn. Khi bước vào nhà, trên salon có một cây đàn guitar kiểu mới, chỉ có khung sắt mà không có thùng đàn. Tôi thấy mắt ông ngời lên một sự thích thú gần như trẻ thơ. Ông bước nhanh tới, nâng cây đàn lạ mắt, vuốt nhẹ lên những sợi dây.

Khi chúng tôi mời ông đánh một bài, ông xòe bàn tay ra nhìn, cười nhẹ rồi nói:

- Ở tù bị thương, hư tay rồi. Giờ lại già nữa, đánh kém lắm.

Chúng tôi không nài ép, chỉ lẳng lặng nhìn ông vừa nói chuyện vừa lơ đãng lướt tay trên cần đàn. Một lúc sau, như hứng khởi, ông hát

“Trùng dương dâng sóng, biển khơi như thét gào. Cuốn đi cánh hoa đào dạt trôi nơi nao… “

Bài hát đó ông sáng tác trong tù, ngày nghe tin người bạn cùng trại mất hết vợ con trên đường vượt biển.

“Còn sống tôi còn khóc, tôi còn thương quê hương tôi …”(*)

Giọng ông nhẹ và buồn. Tôi nghe, và nghĩ rằng ông đang nói những điều tận đáy lòng.

*

Sáng 29 tháng Tư, Tướng Lê bắt tay vào chuẩn bị cho buổi nói chuyện ngay sau ly cà phê sớm. Ông sắp xếp ý nghĩ, soạn phần trả lời cho các câu hỏi các sinh viên đã gởi đến, và ghi xuống một loạt các quyển sách nói về chiến tranh Việt Nam để giới thiệu đến các sinh viên.

Mãi tới giờ ăn trưa tôi mới có dịp nói chuyện với ông. Vì có quá nhiều điều muốn hỏi, tôi buột miệng:

- Bác ơi, có bao giờ Bác hối hận đã làm cho các con Bác kẹt lại với Cộng Sản sau ngày mất miền Nam không? Các con Bác có bao giờ trách Bác không?

Nói xong, tôi hơi bối rối vì đã hỏi một câu khá nặng nề trong lúc ông đang nghỉ ngơi. Nhưng ông trả lời ngay:

- Đó là một quyết định rất đau lòng, nhưng Bác chưa bao giờ hối hận. Bác ra lệnh cho anh em binh sĩ quyết đánh, gia đình của họ đều ở lại, có lẽ nào Bác lo cho con Bác ra đi? Bác có thể thu xếp cho gia đình mình, nhưng làm sao thu xếp được cho mọi gia đình của những người đang tin vào Bác? Nếu Bác cho vợ con đi trước, lính của Bác biết là giờ chót Bác có thể lên máy bay đi bất cứ lúc nào. Như vậy họ còn tin tưởng để đánh hay không? Như vậy Bác có công bằng với họ hay không? Bác chấp nhận định mệnh của Bác và gia đình, nếu có phải chết thì chết cùng nhau. Bác muốn đối xử công bằng để sau này con bác không phải xấu hổ với con em của những người từng nghe lời Bác mà liều chết. Bác muốn con bác sau này không phải nhìn Bác mà nghĩ ông già mình ngày xưa từng gạt lính.

Trầm ngâm vài giây, rồi ông tiếp:

- Năm 1979, lúc Bác đang bị Cộng Sản đày đọa, nghe tin gia đình đi thoát hết sau năm lần vượt biên bị tù, Bác trút được gánh nặng khủng khiếp trong lòng. Bác tạ ơn trời đã cho Bác ân huệ được lương tâm yên ổn, được trọn vẹn mọi bề. Từ đó, Bác không còn phải lo lắng, đau khổ cho số phận của vợ con trong nanh vuốt của kẻ thù nữa. Bác không sợ kẻ thù dùng các con thơ để khống chế mình nữa. Bác được tự do.

Còn các con Bác, tụi nó cũng hiểu và không trách Bác. Trong bốn năm kẹt lại, tụi nó đã học được rất nhiều. Những kinh nghiệm sống đó làm cho chúng biết thương người, biết khiêm nhường, biết quý những điều tưởng như là tầm thường. Các con của Bác có thể tự hào rằng mình đã hiểu biết về Cộng Sản và đã vượt thoát khỏi ngục tù của họ. Đó là một tài sản mà Bác nghĩ các con Bác nên hãnh diện đã có được.

Tôi uống một ngụm trà, nuốt xuống cái nghèn nghẹn ở cổ. Tôi nghĩ, trước khi tử chiến ở Xuân Lộc, nếu ông lo cho gia đình đi thì đó cũng là chuyện thường tình. Không ai trách được ông. Nhưng Tướng Lê không phải là người làm những chuyện thường tình...

Thời vừa bị chiếm, mạng sống của người miền Nam rất nhỏ, thêm dịch bệnh hoành hành làm trẻ con chết rất nhiều. Nếu chỉ một trong chín người con ông có mệnh hệ nào, nỗi dằn vặt sẽ ám ảnh ông suốt đời. Nhưng Thượng Đế đã gìn giữ gia đình ông vẹn toàn. Cám ơn Thượng Đế, Tướng Lê cần và xứng đáng với ơn huệ của ngài.

Hôm sau, ngày 30 tháng 4, 2015, ông và người thông dịch miệt mài chuẩn bị cho buổi nói chuyện lúc 6 giờ chiều. Trưa đến, tôi nhắc ông đi ăn nhưng ông dùng dằng mãi vẫn chưa đứng lên được. Thấy vậy tôi đành khuân về mấy ổ bánh mì thịt nguội. Ông gặm bánh mì, uống beer và cười nói vui vẻ, hài lòng vì buổi nói chuyện được chuẩn bị chu đáo.

Cuôc gặp gỡ với sinh viên diễn ra thành công và cảm động. Tướng Lê đã nhắn nhủ lớp trẻ bằng những điều ông đúc kết suốt nửa cuộc đời trong chiến tranh cộng với mười bảy năm trong tù ngục. Những chia sẻ của ông thiết tha, sâu sắc nhưng cũng rất thực tế, phù hợp với tâm hồn và đời sống của giới trẻ.

Buổi họp kết thúc khá trễ nên chúng tôi chỉ ghé tiệm kem ăn tráng miệng rồi về.

Mãi đến đêm, tôi mới chợt nhận ra rằng bữa ăn “đàng hoàng” nhất của Tướng Lê ngày hôm đó là ổ bánh mì. Vì ông đã không đụng đến đĩa thức ăn do các em sinh viên mời lúc chiều, ông nói muốn tập trung để nói chuyện với các em.

*

“Con gián làm mồi câu tốt lắm, con à.”

Buổi chuyện trò của tôi và Tướng Lê ngày hôm sau bắt đầu bằng câu chuyện đời thường như thế. Ông kể thời ông ở Cần Thơ, ông thường bắt gián ở đằng sau một tiệm ăn ở gần nhà rồi đem ra bến Ninh Kiều câu cá.

Biết rằng lúc đó ông đã lên tới cấp Tá, tôi hỏi:

- Chắc Bác câu cá cho vui hả Bác?

- Câu cá về ăn chớ! Nhà Bác đông con, lương của Bác thì khá so với lính, nhưng chẳng dư dả gì đâu, con. Lính mình hồi đó cực lắm con à, một tháng lương mua được một tạ gạo. Còn lương Bác cũng chỉ tạm đủ lo cho vợ con.

Hoàn cảnh lính và những hy sinh của gia đình lính thì không nói sao cho xiết, con à. Gần một triệu người đã chết và bị thương trong cuộc chiến, còn số người chịu mất mát sau lưng họ thì không biết đếm bằng cách nào! Bác cứ nghĩ con người ta ai cũng bằng xương bằng thịt, nếu Bác chết trận, mười người trong gia đình Bác đau đớn bao nhiêu thì những cái chết trong gia đình lính cũng đau bấy nhiêu. Hồi ở Chương Thiện, có một người lính đi phục kích, vợ con bị địch câu pháo trúng vô nhà, chết hết. Anh ta về, ngồi gục mặt trước đống gạch nát, Bác đứng đó mà chỉ biết đặt tay lên vai anh ta, không tìm được lời nào an ủi. Vậy mà hai bữa sau, anh ta trở lại đơn vị, tiếp tục đánh giặc…

Cái nhíu mày của ông làm tôi nghĩ ruột ông đang thắt lại, nên tôi chuyển qua đề tài khác:

- Thời Bác ở trong quân đội, di chuyển nhiều nơi, cả nhà đều đi theo hả Bác?

Nụ cười nhẹ làm những vết nhăn trên trán ông dãn ra.

- Ờ! Bác bận rộn quá nên đi đâu Bác cũng cố gắng đem gia đình theo để được ở gần càng nhiều càng tốt. Khi nào có dịp nghỉ, Bác dắt vợ con đi chơi. Nhưng sau này, Bác ở đóng quân ở Long Bình thì tụi nhỏ đi học ở Sài Gòn, cuối tuần nếu Bác không đi hành quân thì mới được gặp. Có một lần Bác dắt tụi nhỏ đi coi chiếu bóng về, tụi nó than đói bụng. Ở tỉnh lỵ đâu có hàng quán ban đêm, Bác lại không muốn sai lính nên tự nấu chè cho tụi nó ăn. Nấu nước sôi, đập vô một củ gừng, quậy đường cát, rồi xé bánh tráng bỏ vô. Bánh tráng mà mình hay ăn đồ cuốn đó. Bánh tráng coi mặn mặn vậy mà nấu chè ngon lắm! Bữa nào con làm thử đi!

Ông vừa nói vừa gật đầu để thêm phần… thuyết phục. Tôi tròn mắt nhìn ông. Chỉ là một kỷ niệm vui, không màu mè, bóng bẩy, nhưng ông làm tôi cảm động lẫn ngạc nhiên. Một vị Tư Lệnh tự nấu chè cho con ăn khuya? Nồi chè mà tôi không cần thử cũng biết là không thể ngon. Nhưng nó làm tôi thương người cha ở trong ông, và tự hào vì quân lực VNCH đã có một vị chỉ huy như ông. Ôi, nồi chè của ông Tướng!

Càng nói chuyện với ông, tôi càng thấy ông rất “không thuờng tình”. Ông không dè dặt, thận trọng như thường thấy ở những người từng chứng kiến nhiều mưu mô, tráo trở. Ông không có cái trầm ngâm, chán chường của một người nếm quá nhiều đau thương. Ông nhiệt tình, hăng hái, và thật. Như thể cuộc đời ông chưa từng bị dập vùi, như thể ông còn rất trẻ và còn tin tưởng rất nhiều vào con người.

Và, ông hoàn toàn không có cái xa cách của người xem mình là quan trọng. Vì thế, tôi đã hỏi ông một câu mà trước khi gặp ông tôi không nghĩ là mình dám hỏi:

- Bác ơi, ngày 30 tháng Tư 1975, sau khi miền Nam thất thủ, Bác có bao giờ nghĩ đến chuyện tự sát hay không?

- Lúc đó, mỗi người có một quyết định riêng, không ai đúng ai sai. Riêng Bác, Bác không có ý định tự tử. Các con Bác đã mất quá nhiều, Bác không muốn chúng phải mất cha. Nếu bị giặc Cộng giết, Bác chấp nhận nhưng Bác không tự mình làm điều đó với các con. Hơn nữa, Bác không có cái uất ức, đau khổ của một bại tướng vì Bác chưa bao giờ nghĩ là mình thua. Mình chỉ tạm thời khó khăn vì những thế lực quốc tế đẩy mình tới đó, nhưng Bác muốn sống để xem mọi sự xoay vần tới đâu.

*

Nếu chỉ được dùng một từ để diễn tả Tướng Lê, tôi sẽ chọn “lãng mạn”.

Những quyết định cực kỳ cứng rắn, những hành động hết sức can đảm của ông đều bắt nguồn từ những tình cảm sâu xa. Chỉ có người rất lãng mạn mới đủ tin yêu để làm những điều phi thường như ông đã làm. Ông để vợ con cùng ở lại đương đầu với Cộng quân là vì ông yêu sự “công bằng” mà ông đã nhắc đến mấy lần trong câu trả lời ngắn. Ông tử chiến vì ông hết lòng tin vào sứ mạng gìn giữ miền Nam. Ông không sợ chết vì ông không muốn phụ lòng những người lính đã nằm xuống và những người lính đã dựa vào ông mà đứng lên từ những căn nhà cháy ra tro của họ.

Cống hiến của ông cho đời giống như những viên kim cương, tuyệt sáng và tuyệt cứng. Nhưng chúng đã được hun đúc từ phần lõi là những tình cảm tinh tuyền, và những giọt nước mắt. Sẽ không có kim cương nếu không có phần lõi đó.

Lịch sử Việt Nam có Tướng Phạm Ngũ Lão gạt nước mắt, chia tay mẹ già đi đánh giặc. Có Tướng Trần Khánh Giư bỏ gánh than, từ giã đời ở ẩn để trở về cứu nước. Có biết bao chuyện nhờ dân gian ghi lại mà ngày nay chúng ta được biết.

Cho nên, tôi muốn ghi lại nồi chè bánh tráng của Tướng Lê Minh Đảo. Ghi lại lúc ông chấp nhận để các con ông cùng chung số phận với gia đình lính. Ghi lại lòng thương yêu và quý trọng vô bờ của ông với binh sĩ và vợ con của họ. Về lời ông nói, đùa mà rất thật “nếu trời cho sống đến hơn trăm tuổi, tôi vẫn muốn cống hiến thời giờ và sức lực cho Việt Nam tới phút cuối.”

Năm nay Tướng Lê đã tám mươi ba. Vinh, nhục, yêu, ghét, thăng hoa, đày đọa … ông đều đã trải. Vì thế, tôi viết bài này không phải cho ông. Mà để lưu lại vài mẩu chuyện về Ông Tướng Lãng Mạn cho mai sau. Để góp một chút tin yêu bởi vì làm người Việt Nam rất buồn. Để cho chính tôi nhớ gương của Tướng Lê, lạc quan trong khó khăn và cố gắng làm những điều tốt đẹp nhất trong khả năng của mình, hầu mong mai sau con cháu không phải ngần ngại nhận mình là Việt.

Khôi An

(*) Lưu Đày – Nhạc và lời của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo

Bài dịch tiếng Anh “Tướng Lê Minh Đảo tại Đại Học Stanford” và những câu trả lời sinh viên trên trang của SVSA (Stanford Vietnamese Student Assocication):
http://svsa.stanford.edu/blackapril.html#leminhdao

Dân Hà Nội không tin vào các chứng nhận thực phẩm



Bà cựu thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp cho rằng, kết quả kiểm nghiệm có thể mua; các chứng nhận sạch, an toàn, GAP không cần kiểm mẫu... có thể xin được, theo tin báo Tiền Phong.

Nói về chuyện an toàn thực phẩm ở Việt Nam, bà Nguyễn Thị Hồng Minh, cựu thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp cho hay, một cuộc khảo sát nhỏ cho thấy, nếu như tại Sài Gòn có khoảng hơn 70% người tiêu dùng tin vào các chứng nhận “thực phẩm sạch,” thì ở Hà Nội chỉ hơn 30% người tin tưởng. Nguyên nhân là do các cơ quan cấp chứng nhận không quản lý, giám sát những sản phẩm được chứng nhận.

Còn ông Nguyễn Tiến Lập, luật sư, công ty luật Nhật Quang & Cộng Sự, cho rằng ngành thực phẩm Việt Nam hiện chịu quản lý của ba bộ: Công Thương, Y Tế, Nông Nghiệp, tưởng sẽ chặt chẽ nhưng lại chẳng có mấy người tin vào hệ thống kiểm soát của nhà nước này.

Không ít vụ việc cơ quan quản lý lấy mẫu kiểm nghiệm, nhưng khi có kết quả, bên nói độc hại, bên lại nói an toàn, người dân chẳng biết tin ai còn nhà sản xuất phải chịu thiệt hại. Điển hình như vụ cá biển nhiễm chất penol gây xôn xao dư luận vừa qua.

Trong khi đó, việc cấp phép chứng nhận các tiêu chuẩn sạch, an toàn chỉ chú trọng hình thức, nhiều đơn vị phấn đấu, cam kết đủ điều để được cấp chứng nhận sạch, an toàn, khi có chứng nhận rồi họ đều bỏ những cam kết ban đầu. Họ chủ yếu sử dụng chứng nhận như thứ “bùa hộ mệnh” để bán sản phẩm của mình.

Bà Minh cho hay, do mất niềm tin vào thực phẩm, xã hội trở lại xu hướng tự cung tự cấp, tự trồng rau, chăn nuôi tại nhà. Nhưng các hộ gia đình chẳng thể nào tự cung tự cấp toàn bộ các loại thực phẩm. Họ vẫn phải tìm đến các nguồn cung khác của thị trường, nên không còn cách nào khác là làm cho thực phẩm trên thị trường minh bạch hơn.



Cá ngáp chờ chết, tranh của Nguyễn thanh Bình






Lão nông học tập tấm gương Hồ Chí Minh, tố cáo tham ô, tham nhũng







Giáo dân tha hồ vọc nước ở nhà thờ Thủ Thiêm







New Year Concert 2013 by Wiener Philharmoniker with the conductor Franz Welser Moest







Bolero of Maurice Ravel by Wiener Philharmoniker







Rhapsody In Blue, George Gershwin







Sống qua 3 chế độ, chỉ thấy cộng sản đốt nhà, cướp đất của dân







Ella Fitzgerald hát Summertime Summertime, nhạc của George Gershwin







Ngay sau chiến dịch đồng hành tuyệt thực cùng Trần Huỳnh Duy Thức thì mới đây Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm vừa phát động chiến dịch Trưng cầu dân ý 2020 với rất nhiều tên tuổi nhân sĩ trí thức Việt Nam cùng ký tên ra tuyên bố vận động cho chiến dịch này.



                                            


Áp lực từ Trung Quốc được cho là nguyên nhân khiến ASEAN rút lại những lời lẽ cứng rắn về Biển Đông trong Tuyên bố ngày 14/6 sau cuộc họp với Bắc Kinh tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. .




                                          


Nhà thờ Domain de Marie (Đà Lạt) vào những ngày Hạ về, 2016







Công An CSVN: họ là ai?







Thuộc địa của Tàu Cộng tại Hà Tĩnh: Formosa







Đòan Quân Ta Đã Về Đây: BÀI CA CHIẾN THẮNG







Alien Life - Are There Real Life Aliens ?







Adorable Deep Sea Fish has Incredible Eyes







Surprise: Earth has two moons







Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016

LAM PHƯƠNG & Những cuộc tình vây quanh - Tác giả Nguyễn Ngọc Ngạn



Văn nghệ sĩ lớp trước thường có những chuyện tình bên lề để tô điểm cho cuộc sống và làm nguồn cảm hứng sáng tạo. Điều này cũng dễ hiểu: Họ có tên tuổi, có hoàn cảnh gặp gỡ dễ dàng, có điều kiện giao tiếp rộng rãi và nhất là tự bản chất, người nghệ sĩ vốn rất nhạy bén trong rung cảm cho nên đôi khi khó cưỡng lại được sức quyến rũ của một bóng hồng.
Nói tổng quát thế thôi, chứ thật ra thì vẫn là do bản tính trời sinh, hay đúng hơn là định mệnh an bài ở mỗi cá nhân. Có người mang số đào hoa, cả một đời ngụp lặn trong bao nhiêu mối tình. Người khác thì lại sống khô khan lúc nào cũng thui thủi một mình. Chỉ có điều, đối với tôi, thì người mang số đào hoa chính là loại người trời bắt khổ chứ chẳng sung sướng gì, vui trong chốc lát rồi thường xuyên nặng trĩu ưu tư:
“Chém cha cái số hoa đào.
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!”

Cổ nhân đã than như thế thì chứng tỏ đào hoa không phải là điều đàn ông nên mơ ước
!
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn.”
Câu hát của Trúc Phương chắc chắn là một định luật không cần bàn cãi. Ca dao có câu:
“Ông trời sao nỡ bất công
Người hai ba vợ, người không vợ nào!”
Câu này, thoạt nghe ta cứ tưởng là tiếng than của người đàn ông không lấy được vợ! Nhưng thực ra đó là tiếng kêu thống thiết của người đàn ông đau khổ vì phải chịu đựng đến mấy bà vợ trong khi nhìn những chàng trai độc thân thảnh thơi rong chơi không chút vướng bận!
Nhưng đã tin là định mệnh an bài thì đành chịu. Chúng ta không hoan nghênh nhưng cũng chẳng nên trách người đa mang bởi đó hoàn toàn là số mệnh!
Dân gian thường cho rằng nghệ sĩ nói chung đều đa tình. Điều ấy không đúng. Trên thực tế, chẳng phải nghệ sĩ nào cũng giống nhau. Điển hình là Phạm Duy và Văn Cao, hai nhạc sĩ tài hoa vào bậc nhất Việt Nam, là bạn của nhau và cùng đặt chân vào con đường nghệ thuật một thời điểm với nhau. Trong khi Phạm Duy thì chằng chịt chuyện tình mà Văn Cao thì suốt đời cơm nhà quà vợ, không để ý đến bất cứ người đàn bà nào khác từ khi ông cưới cô Nghiêm Thúy Băng năm 1947, khi ông 24 tuổi, rồi cứ thế thủy chung bên nhau đến mãn đời.
Nhà văn Lê Văn Trương lấy khá nhiều vợ. Nhưng ông tha thiết nói với bà vợ cả:
– Trong tim anh chỉ có em thôi. Những người đàn bà khác anh chung sống, chẳng qua chỉ là tình văn nghệ, chứ lúc nào anh cũng chỉ yêu có mình em!
Câu nói huề vốn ấy chẳng biết có xoa dịu được chút nào những buồn phiền trong lòng bà vợ cả hay không, chỉ biết một điều là xã hội Việt Nam vốn không có cái nhìn quá khắt khe đối với lối sống phóng khoáng của nghệ sĩ. Nhà văn Hồ Trường An, người biết nhiều và viết nhiều về thế giới sân khấu, trong cuốn Theo Chân Những Tiếng Hát, khi nhắc lại chuyện tình tai tiếng của Phạm Duy năm 1955, đã đề nghị rằng:
Chúng ta nên thông cảm! Họ là nghệ sĩ, họ sống bằng trái tim đam mê, cho nên đôi lúc họ sống lệch qua khuôn phép và lề thói!”
Tôi thấy cần thêm vào một câu là chúng ta phải cám ơn những bà vợ bao dung, biết duyên phận mình khi lấy chồng nghệ sĩ là phải rộng lượng mắt nhắm mắt mở, làm ngơ cho ông chồng bay bướm. Mà cũng nhờ vậy, chúng ta mới có bao nhiêu tác phẩm tuyệt vời để lại, những tác phẩm được tạo thành hoàn toàn do sự rung động của trái tim bên lề! Phạm Duy thú nhận trong Hồi Ký: “Tôi cần tình yêu để viết nhạc.” Và ông đã làm đúng như thế. Bằng những mối tình “ngoài luồng”, ông cho chúng ta một loạt tình ca thật đặc sắc như: Ngày Đó Chúng Mình, Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài, Nghìn Trùng Xa Cách, Đường Em Đi, Cỏ Hồng, Nha Trang Ngày Về, Phượng Yêu…
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ cũng nổi tiếng hào hoa và cũng nhờ nguồn cảm hứng ở những bóng hồng đi qua đời ông mà ông viết Tà Áo Cưới, Tạ Tình, Ai Buồn Hơn Ai. Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm yêu cô gái đang mang bầu mà người bạn ông gửi ông nuôi trên Đà Lạt, nhờ vậy khi chia tay ông mới viết được ca khúc tuyệt tác là Gọi Người Yêu Dấu. Tương tự như thế, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có bài Một Đời Yêu Em và Người Yêu Của Lính viết riêng cho Hoàng Oanh, nhạc sĩ Thanh Sơn viết Đà Lạt Hoàng Hôn riêng cho Thanh Tuyền, nhạc sĩ Trúc Phương viết Hai Chuyến Tàu Đêm cho cô gái tên Thắm ông tình cờ gặp trên xe lửa, nhạc sĩ Trường Sa viết Rồi Mai Tôi Đưa Em để chia tay một người tình ngắn hạn.
Còn nhiều lắm, nhưng tôi không thể kể hết bởi đó không phải là nội dung chính của bài này.
Tôi đã có lần thưa với khán giả và độc giả: Tôi may mắn được làm việc chung với hầu hết các nhạc sĩ của Miền Nam, trong đó có nhạc sĩ Lam Phương là người gần gũi và thân quí nhất. Không thân sao được khi mà Thúy Nga đã thực hiện cho riêng ông đến 5 chương trình Paris By Night thu hình, chưa kể hàng loạt live shows trên khắp thế giới. Gần đây, trong nước cũng rầm rộ tổ chức những chương trình chủ đề Lam Phương. Những bản nhạc một thời bị nghiêm cấm gắt gao, bây giờ hầu như mỗi ca sĩ nổi tiếng quốc nội đều có trong tay một CD nhạc Lam Phương. Bầu show mời Lam Phương về, nhưng dĩ nhiên anh từ chối. Anh cười bảo:
– Chừng nào anh Ngạn về thì tôi về!
Chưa về Việt Nam, nhưng tháng 7/2016 tới đây, Thúy Nga sẽ đưa anh về làm 2 shows lớn ở Singapore. Ca sĩ đi show là chuyện bình thường. Nhạc sĩ đi show nhiều như anh Lam Phương là chuyện độc nhất vô nhị xưa nay chưa từng có. Lý do đơn giản là vì nhạc của anh được mến chuộng một cách rộng rãi và cá nhân anh là một huyền thoại mà ai cũng muốn gặp.
Tiểu sử và cuộc sống của nhạc sĩ Lam Phương thì mọi người đều đã biết. Hôm nay, tôi chỉ viết lại vài chuyện tình, và dĩ nhiên, cũng chỉ những chuyện tình có tác động trực tiếp tới sự nghiệp sáng tác của tác giả mà thôi. Tôi tin rằng, khi hiểu rõ xuất xứ của từng nhạc phẩm, chẳng những ca sĩ hát sẽ hay hơn mà thính giả cũng sẽ thưởng ngoạn một cách sâu sắc hơn vì cảm thông nỗi niềm với tác giả. Những chuyện tình này, tôi cũng đã từng đề cập đến trên sân khấu Paris By Night, nhưng thường chỉ lướt nhanh qua vì không đủ thì giờ. Hôm nay xin viết lại một lần, nhân nhạc sĩ Lam Phương bước vào tuổi 80, và từ nay chắc sẽ không phải nhắc đến nữa!

6

Người con gái đầu tiên đi vào cuộc đời tình cảm của Lam Phương là nữ ca sĩ Bạch Yến, thua anh 5 tuổi. Bạch Yến cùng quê ở Miền Tây, 11 tuổi đoạt giải nhất Huy Chương Vàng giọng ca nhi đồng do Đài Phát Thanh Pháp Á tổ chức. Lớn lên, Bạch Yến hát cho phòng trà Hòa Bình, cùng thời điểm với Bích Chiêu, chị của Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Lưu Bích. Thời ấy, Đệ Nhất Cộng Hòa cấm nhảy đầm, nên khách đến chỉ ngồi nghe và say mê tiếng hát Bạch Yến qua những nhạc phẩm ngoại quốc ăn khách nhất của thập niên 1950 và 60 như Bernadine, It’s Now Or Never, Calypso Italiano, The River of No Return, April Love v.v… Về phía nhạc Việt, Bạch Yến cũng hát nhiều như Bến Cũ, Đón Xuân, nhưng nổi bật nhất, trở thành dấu ấn của Bạch Yến, là bài Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương viết từ năm 1939.

Bạch Yến được mời qua Mỹ biểu diễn trên chương trình truyền hình Ed Sullivan
Bạch Yến được mời qua Mỹ biểu diễn trên chương trình truyền hình Ed Sullivan

Anh Lam Phương lúc ấy đã khá nổi đình nổi đám bởi anh có vóc dáng cao, khuôn mặt đẹp trai và đóng phim từ khi mới lớn. Cá nhân tôi, mười mấy tuổi, cũng đã từng say mê anh trong phim Chân Trời Mới bên cạnh nữ tài tử Mai Ly và kịch sĩ Vũ Huân. Anh lại là tác giả một loạt ca khúc rất phổ biến. Ngay cả bản nhạc vui là Nắng Đẹp Miền Nam cũng bán ra ồ ạt sau khi Kim Hoàng hát trên các sân khấu và đài phát thanh. Từ một cậu bé xác xơ ở Rạch Giá, lang thang lên Sàigòn vừa đi học vừa đi làm, Lam Phương mau chóng làm giàu sau khi sáng tác bài Kiếp Nghèo! Cái thế của anh lúc ấy mạnh lắm, quen cô nào cũng dễ dàng. Bạch Yến có thể nói là tình yêu buổi đầu rất trong sáng của anh.

Năm 1961, Bạch Yến 19 tuổi, sang Pháp để học hỏi thêm về ca nhạc. Bốn năm sau, cô được Ed Sullivan mời sang Mỹ. Show Ed Sullivan lúc ấy cực kỳ ăn khách, giới thiệu tất cả những ban nhạc và ca sĩ hàng đầu của Mỹ, Anh và thế giới, có show thu hút đến 35 triệu người xem. Bạch Yến lên hát show này và rồi được mời nán lại đi lưu diễn khắp Mỹ châu thêm 10 năm nữa, bên cạnh những nghệ sĩ lừng danh của Hoa Kỳ như Bob Hope, Bing Crosby, Pat Boone v.v… Có thể nói, Bạch Yến là ca sĩ Việt Nam duy nhất hiện diện bên cạnh những nghệ sĩ quốc tế trong hơn một thập niên. Ai đã xem phim Green Berets do tài tử John Wayne đóng vai chính, chắc hẳn vẫn còn nhớ tiếng hát Bạch Yến trong cuốn phim chiến tranh đó.

Ở lại Việt Nam, anh Lam Phương tuy có nhớ Bạch Yến nhưng chắc rồi ngày tháng trôi qua cũng làm phôi phai hình ảnh cô gái Miền Nam xinh xắn ấy.


5

Bỗng dưng Bạch Yến trở về, làm sống dậy mối cảm xúc tưởng đã chết hẳn trong lòng người nhạc sĩ đa cảm. Nghe tin Bạch Yến trở về sau hơn 10 năm xa cách, Lam Phương xao xuyến viết bài Chờ Người rất đặc sắc. Tôi nhớ khoảng năm 1973, ngồi ở quán café tại Mỹ Tho, tôi giật mình nghe Elvis Phương trình bày ca khúc này mà lúc đầu tôi không ngờ là của Lam Phương, bởi giai điệu của nó lách thoát hẳn ra khỏi dòng nhạc quen thuộc của anh, nhất là một bài buồn viết theo hợp âm trưởng (major) là chuyện ít có:

“Chờ em, chờ đến bao giờ
Mấy thu thuyền đã xa bờ.

Mười năm trời chẳng thương mình
Để anh thành kẻ bạc tình
Cầu xin cho mây về vui với gió
Dù có qua bao đắng cay
Muôn đời anh vẫn chờ em.”


Bạch Yến về nhưng không ở lại. Cô trình diễn một vài shows lớn tại Sàigòn rồi lại đi. Tôi nhớ lúc ấy tôi vừa được biệt phái về Sàigòn dạy học sau mấy năm ở lính, tôi hăm hở đi coi show Bạch Yến và mua băng về nghe vì rất thích những bản nhạc ngoại quốc cô hát, cộng với lối trình diễn đầy đam mê của Bạch Yến trên sân khấu. Những ca khúc mà thế hệ tôi ai cũng biết như La Vie En Rose, Malaguena, Ne me quitte pas (If You Go Away)… Cùng thời gian ấy, tôi cũng được nghe Chờ Người của Lam Phương nhưng không hề biết Lam Phương viết bài này cho Bạch Yến!

Nỗi xót xa khi chia tay lần thứ hai này thúc đẩy Lam Phương viết thêm một loạt tình khúc lời ca rất não nề như: Tình Bơ Vơ, Thu Sầu, Trăm Nhớ Ngàn Thương, Tiễn Người Đi, Tình Chết Theo Mùa Đông. Bài nào cũng thống thiết bi ai:

Về làm chi, rồi em lặng lẽ ra đi
Gom góp yêu thương quê nhà
Dâng hết cho người tình xa!

(Tình Bơ Vơ)

Hoặc:

Người từ ngàn dặm về mang nỗi sầu
Nhịp cầu Ô Thước tìm đến mai sau…

(Thu Sầu)

Hoặc:

Rồi đây chốn xa xăm biết người nhớ tôi những gì!”
(Tiễn Người Đi)

Hồi thập niên 1970, nghe những bài này, tôi đâu có hiểu tại sao tác giả lại viết toàn những lời chia ly như vậy! Mãi 20 năm sau, gặp Lam Phương lần đầu tiên năm 1993 ở Paris, tôi mới được anh giải thích là những lời ấy anh nói với Bạch Yến khi Bạch Yến giã từ Sàigòn quay lại Mỹ. Tôi cười bảo anh:

– Như thế thì anh và tôi và tất cả thính giả đều phải cám ơn Bạch Yến đã bỏ anh đi lần thứ hai, anh mới có những nhạc phẩm này. Giá như Bạch Yến ở lại, chưa chắc anh đã giải quyết được gì!

Chắc là vậy! Anh Lam Phương cũng đồng ý ngay với tôi. Mộng không thành thì mộng mới đẹp. Con cá bắt hụt bao giờ cũng là con cá lớn! Bởi vì lúc Bạch Yến từ Mỹ trở về sau hơn 10 năm xa cách, thì Lam Phương đã lập gia đình với kịch sĩ Túy Hồng rồi. Vậy còn níu chân Bạch Yến ở lại làm gì nữa! Thôi thì cứ giữ mối quan hệ trong sáng từ thuở nhỏ, chẳng đẹp hơn hay sao! Anh đã từng hãnh diện viết cho duyên vợ chồng của anh với Túy Hồng bài Ngày Hạnh Phúc chan hòa tình yêu:

“Từ khi sánh vai nên đôi bạn hiền
Đêm về nghe con khóc vui triền miê
n…”
(Ngày Hạnh Phúc)

Bài hát này đã trở thành ca khúc tiêu biểu được hát trong bất cứ đám cưới nào ở Việt Nam. Đó cũng là một thành công lớn mà chính Lam Phương không ngờ tới.

Nhắc đến Bạch Yến, tôi nhớ có lần tôi được mời làm MC cho show Lam Phương ở San Jose, cách đây hơn 10 năm. Hôm ấy có Bạch Yến từ Paris qua. Chị lên sân khấu không hát mà chỉ kể chuyện cũ về anh Lam Phương. Chị nói rất khéo, rất duyên và nhất là không hề cho khán giả biết Lam Phương đã từng say mê mình và viết bao nhiêu bản nhạc cho mình. Chị chỉ nhận là người quen của Lam Phương từ thuở mới lớn mà thôi! Tôi rất nể Bạch Yến ở điểm đó, khác hẳn với nhiều bà, nhiều cô cứ tự nhận là người yêu của Trịnh Công Sơn. Tôi đã gặp ít nhất ba bà cùng nói với tôi một câu:
– Trịnh Công Sơn viết bài Biển Nhớ để tiễn tôi đi xa!

Bóng hồng thứ hai xâm chiếm trái tim Lam Phương và cũng nhờ đó, Lam Phương để lại cho chúng ta nhiều bài hát xuất sắc, đó là nữ ca sĩ Minh Hiếu.


Ca sĩ Minh Hiếu
Ca sĩ Minh Hiếu


Theo nhà văn Hồ Trường An thì Minh Hiếu có khuôn mặt đẹp tựa như nữ tài tử Elizabeth Taylor. Giọng cô trầm và lạ, nghe rất quyến rũ. Thời ấy, buổi đại nhạc hội nào mà có Thái Thanh, Minh Hiếu, Thanh Thúy, Duy Khánh, Hùng Cường và Nhật Trường thì có thể bảo đảm bầu show hốt bạc. Tài tử Nguyễn Long say mê Thanh Thúy, nhưng Thanh Thúy hờ hững không đáp lại. Nguyễn Long viết truyện phim “Thúy Đã Đi Rồi” và nhờ Minh Hiếu đóng vai chính tức là vai Thúy. Phim không thành công lắm vì Nguyễn Long chưa có kinh nghiệm về kịch bản lại kiêm luôn đạo diễn. Từ đó, Minh Hiếu không đóng phim nữa.

Một buổi trình diễn văn nghệ ở Nha Trang, Lam Phương rủ Minh Hiếu ra bãi biển sau buổi hát. Lam Phương lưu lại kỷ niệm buổi gặp gỡ lãng mạn ấy bằng bài Biển Tình:

Nằm nghe sóng vỗ từng lớp xa
Bọt tràn theo từng làn gió đưa
Vầng trăng sáng với tình yêu chúng ta
Vượt ngàn hải lý cũng không xa…”


Mỗi lần nghe bài này, tôi đều nhớ đến “Nha Trang Ngày Về” của Phạm Duy. Hai cuộc tình cũng diễn ra ở một bãi biển và cùng được ghi lại bằng ca khúc. Nhưng lời ca của Lam Phương rất thơ mộng trong khi lời ca của Phạm Duy nặng hẳn về trần tục:

“Lớp sóng mơn man thịt mềm da ngát hương…”
(Nha Trang Ngày Về)

Điều này thì chính nhạc sĩ Phạm Duy nêu lên trong Hồi Ký của ông. Trong Nha Trang Ngày Về, ông viết rõ:

“Bờ biển sâu hai đứa tôi gần nhau…”

Ngược lại, trong Biển Tình cũng hai đứa gần nhau, nhưng nhạc sĩ Lam Phương và người tình chỉ “nằm nghe sóng vỗ từng lớp xa” chứ không nhắc gì đến da thịt cả!

Bài thứ hai Lam Phương viết tặng cho Minh Hiếu là một bài rất hay lồng trong hoàn cảnh thời chiến, đó là Biết Đến Bao Giờ:

“Đời là vạn ngày sầu, biết tìm vui chốn nào
Đôi ta quen bao lâu, nhưng tình đã có gì đâu

Từ khi anh là lính chiến, ít về thăm ghé nhà em…”


4


Lam Phương tuy không phải là lính tác chiến, nhưng từ ngày mới lớn đi quân dịch cho đến ngày mất Miền Nam năm 1975, anh đều ở trong quân đội. Từ Ban Văn Nghệ Bảo An, đổi thành Hoa Tình Thương và sau cùng là Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Vì công tác liên tục nên quả thật anh cũng khó khăn lắm mới có dịp ghé thăm người tình. Anh viết Biết Đến Bao Giờ là viết cho anh, cho Minh Hiếu, nhưng cũng là viết cho cả triệu người lính Miền Nam lúc bấy giờ.

Cao điểm nhất của Lam Phương để ghi dấu chuyện tình với Minh Hiếu là bài Em Là Tất Cả:

“Em ơi suốt đêm thao thức vì em.
Vì lời giã từ lúc anh ra về…


Bài này quá phổ biến, quá nhiều ca sĩ hát, nhất là trong các đĩa karaoke. Nó nổi tiếng đến độ nhiều người tự động đổi tên nó thành: “Thao Thức Vì Em”! Tôi nhớ có lần đi show, tôi hỏi cô ca sĩ sắp ra sân khấu:

– Cháu hát bài gì để chú giới thiệu?

– Thưa chú bài Thao Thức Vì Em của Lam Phương.

Tôi ngạc nhiên bảo:

– Theo chú biết thì Lam Phương không có bài nào tên là Thao Thức Vì Em…

Mà quả thật, trên nhiều đĩa karaoke và thậm chí trên bản nhạc in lại, người ta thản nhiên ghi tựa là Thao Thức Vì Em! Hễ có dịp, tôi đều đính chính lại để tôn trọng tác giả, bởi tác giả đã đặt tên bài hát đó là Em Là Tất Cả.

Người đẹp thứ ba mà Lam Phương gặp gỡ và say đắm là ca sĩ Hạnh Dung trong Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Cô không nổi tiếng lắm bởi cô là nhân viên dân chính do Biệt Đoàn tuyển dụng và chỉ hát cho lính nghe. Tuy vậy, chuyện tình Lam Phương – Hạnh Dung cũng để lại cho chúng ta những tình khúc rất đặc sắc mà giờ này vẫn được tán thưởng nồng nhiệt như buổi ban đầu Lam Phương mới sáng tác. Chẳng hạn như bài Bọt Biển ghi dấu kỷ niệm hai người hẹn hò bên bờ đại dương, hoặc bài Giọt Lệ Sầu, Lam Phương viết khi thấy tình yêu bế tắc. Bế tắc có nghĩa là sẽ chẳng đi đến đâu, cho nên ngay từ buổi đầu gặp gỡ, Lam Phương đã không giấu được niềm lo âu qua các tác phẩm anh viết tặng Hạnh Dung:

“Nhè nhẹ đôi chân lại gần đây em
Tựa vào vai anh nghe sóng xô trên biển xanh
Nhè nhẹ đôi tay nâng lấy mộng lành
Vì tình đôi ta tha thiết nhưng quá mong manh!”
(Bọt Biển)

Đã biết là tình quá mong manh nhưng hai người vẫn lao vào! Thậm chí có lúc anh đã phải chán nản sáng tác bài Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi:

“Thôi là hết em đi đường em
Tình duyên mình có bấy nhiêu thôi
…”

Bài này thật ra anh viết để tự nhắc nhở hay đúng ra là thúc giục mình nên chấm dứt mối quan hệ éo le ấy, chứ lúc anh viết thì hai người vẫn chưa chia tay nhau.

Quyết định chấm dứt cuộc tình nhưng có những lúc anh thấy mình khó cưỡng lại được trái tim yếu mềm của mình nên anh phải cầu xin ơn trên giúp anh chịu đựng. Đó là lý do anh viết bài Lạy Trời Con Được Bình Yên:

Lạy trời con được bình yên
Tình yêu đó giết con trong ưu phiền

Ôi! Mấy đêm nay, tôi cố quên người
Lại càng yêu thêm!”


Một lần, Lam Phương theo Biệt Đoàn ra công tác ngoài Côn Đảo, trình diễn cho các đơn vị quân đội ngoài ấy. Đêm cuối cùng mọi người gặp nhau họp mặt liên hoan để tiễn chân các cô ca sĩ sáng mai về Sàigòn trước. Lam Phương tạm biệt Hạnh Dung vì anh phải tạm nán lại Côn Đảo vài hôm nữa. Anh viết bài Phút Cuối rất cảm động:

Chỉ còn gần em một giây phút thôi
Một giây nữa thôi là xa nhau rồi
Người theo cánh chim về vui với đời
Để lòng thương nhớ cho kiếp đơn côi!”


Đáng nói nhất là một lần Lam Phương đi công tác trên Đà Lạt. Anh đi một mình không có Hạnh Dung. Anh ray rứt nhớ người yêu bởi Hạnh Dung và anh đã từng hẹn hò nhiều lần tại thành phố sương mù này. Ngồi trong căn nhà trọ lưng chừng đồi nhìn xuống khu phố đìu hiu ngày chủ nhật, anh tha thiết nhớ Hạnh Dung và viết ngay bài Thành Phố Buồn, ca khúc mà tôi vẫn giới thiệu là đã mang lại nguồn lợi tức khổng lồ cho tác giả. Anh bán được hơn 12 triệu, có lẽ là con số kỷ lục trong rừng nhạc tại Miền Nam. Không biết anh có chia cho Hạnh Dung vài triệu hay không, bởi chính Hạnh Dung là nguồn cảm hứng cho bài hát này!

“Thành phố buồn nhớ không em
Nơi chúng mình tìm chút êm đềm

Quỳ bên em trong góc giáo đường
Tiếng kinh cầu dệt mộng yêu đương
Chúa thương tình, sẽ cho mình, mãi mãi gần nhau”.


Ba dòng nhạc Lam Phương viết cho ba người tình đều hay như nhau, nhưng lời ca thể hiện rõ ba hướng khác nhau: Nhạc viết cho Bạch Yến thì đau xót nuối tiếc, viết cho Minh Hiếu thì nồng nàn nhớ nhung, viết cho Hạnh Dung thì lo âu mệt mỏi vì viễn ảnh tương lai tăm tối. Tâm trạng của Lam Phương khi ở bên cạnh Hạnh Dung thật giống với ý thơ của Thanh Tâm Tuyền:

Ôm em trong tay
Nhớ em ngày sắp tớ
i!”

Mà Lam Phương lo âu là phải! Khi mất Miền Nam, Lam Phương quyết định ra đi vào phút chót. Thật ra thì ngày 28 tháng 4, Hạnh Dung đã rủ anh đi. Nhưng anh gạt nước mắt khước từ. Sáng 30 tháng 4, thấy cả thành phố nhốn nháo, anh mới cùng Túy Hồng và các con vội vã lên tàu Trường Xuân. Đặt chân đến Mỹ, Lam Phương rơi lệ viết bài Chuyện Buồn Ngày Xuân để tự trách mình đã bỏ rơi người tình Hạnh Dung, mặc dù việc này cả anh và Hạnh Dung đều đã đoán trước. Khi chỉ mới tạm biệt nhau ở Côn Đảo, anh đã viết trong bài Phút Cuối một câu tiên tri:

“Biết em sẽ buồn vì mình chẳng có ngày mai!”

Nghe nhạc tình Lam Phương, có lúc tôi đã tự hỏi: “Lam Phương thật sự có đắm đuối trong tình yêu như anh diễn tả qua các nhạc phẩm của anh hay không? Theo tôi đoán thì không! Đó chỉ là cách bày tỏ cảm xúc đôi khi quá mãnh liệt, bằng lời ca quá bi lụy khiến người nghe có cảm tưởng lúc nào Lam Phương cũng “khóc thầm” vì yêu mà chưa chắc anh đã thật sự nhỏ nước mắt vì tình! Khi chúng ta nghe Chuyện Tình Buồn do Phạm Duy phổ thơ cho Duy Quang hát, có những câu ray rứt:

Ngày nhà em pháo nổ
Anh cuộn mình trong chăn
Như con sâu làm tổ
Trong trái vải cô đơn!”


Chúng ta hình dung ngay tác giả bài thơ ấy ắt phải đau đớn phờ phạc lắm khi nghe tin người yêu đi lấy chồng! Nhưng chưa hẳn! Hồi còn ở tuổi thanh niên, tôi có quen một ông thi sĩ làm bài thơ rất não nề trong ngày người yêu lên xe hoa. Bài thơ gửi đăng báo làm tôi mủi lòng đến rơi lệ! Tôi xót xa chạy lại thăm để an ủi thì thấy ông đang mặc quần đùi ngồi nhậu ngoài sân, miệng cười oang oang, rõ ràng chẳng nhớ nhung gì người tình vừa sang ngang. Cho nên, cái rung động của người nghệ sĩ đôi khi chỉ chợt đến chợt đi, chứ chưa chắc đã sâu thẳm như thiên hạ lầm tưởng.

Trường hợp nhạc sĩ Lam Phương, tôi biết chắc một điều là anh rất dễ xúc động, nhưng không hẳn anh đã lụy tình như những lời ca anh viết. Nguồn cảm hứng sáng tác thường đến với anh quá nhanh, quá dễ, dù nguồn cảm hứng ấy chỉ là một giai nhân lướt qua cuộc sống của anh trong khoảnh khắc! Có lẽ nghệ sĩ khác người thường ở điểm đó. Đây nhé: Anh quen một cô nữ sinh ở Sàigòn, anh viết ngay bài Xin Thời Gian Qua Mau:

“Buồn nào hơn đêm nay
Buồn nào hơn đêm nay
Khi ngoài kia bão tố đầy trời!”


Sau này, sang Paris, anh chỉ nghe nói nữ ca sĩ Họa Mi chia tay chồng nhưng anh chưa hề gặp Họa Mi. Thế mà anh cũng xúc cảm viết bài Em Đi Rồi thật sướt mướt!

Rồi cũng ở Paris, người ta đặt anh viết nhạc cho cuốn phim kể chuyện một cô gái ở Miền Nam đi theo Mặt Trận Giải Phóng, về sau quá hối hận vì biết mình lầm đường một thời gian dài. Câu chuyện rất đơn giản mà Lam Phương sáng tác được bài Cho Em Quên Tuổi Ngọc vào hàng tuyệt tác. Chưa hết, cũng ở Paris, anh đang chung sống với bạn gái, thì tình cờ một hôm người bạn anh dẫn về một cô bạn gái khác. Anh giật mình thấy cô bạn kia xinh đẹp quá, rồi ngay sau đó anh đẩy trí tưởng tượng đi xa y như anh vừa gặp tiếng sét ái tình! Nhờ vậy, anh mới viết được bài Tình Đẹp Như Mơ thật hay:

“Tình yêu từ đâu mà tình yêu vội vã chiếm tim ta?
Chỉ một lần qua mà đêm đêm hình bóng mãi bên ta!”


Như thế thì đủ thấy sự nhạy bén trong trái tim Lam Phương lúc nào cũng sẵn sàng rung động, sẵn sàng nhỏ máu. Anh chưa bị mổ tim là may lắm rồi!

Nếu lùi lại xa hơn, năm 19 tuổi, Lam Phương đi quân dịch (bây giờ trong nước gọi là đi nghĩa vụ quân sự). Đêm mãn khóa, anh viết bài Tình Anh Lính Chiến có những câu tràn ngập tình cảm như sau:

“Mai nếu đời ngăn chia ngàn lối
Đừng quên nhé những ngày bên nhau
Nói gì cạn niềm vui rồi ngày mai ta lên đườn
g”.

Những lời gắn bó như thế, ai cũng tưởng là anh viết cho người tình, hóa ra chỉ là mấy ông bạn cùng dự khóa huấn luyện ở Quang Trung! Như thế thì đủ thấy thấy trái tim Lam Phương dễ rung động tới mức nào! Đó cũng là cái tài trời ban cho anh để anh biến những cảm xúc trong tim, dù rất nhỏ, thành những nốt nhạc có sức làm say đắm lòng người.

*Người đàn bà thứ tư cho Lam Phương một khúc rẽ triệt để, một bước ngoặt lớn lao trong sự nghiệp sáng tác, chính là vợ anh, kịch sĩ Túy Hồng. Tôi cứ nhắc anh là phải cám ơn chị Túy Hồng vì nhờ sự hắt hủi của Túy Hồng anh mới viết được một ca khúc hay nhất hải ngoại, đó là bài Lầm:

“Anh đã lầm đưa em sang đây
Để đêm trường nghe tiếng thở dài!..”


Rồi từ bài Lầm ấy, anh mới giã từ nước Mỹ, trắng tay ra đi lần thứ hai. Có thể xác quyết rằng, đây là giai đoạn đau khổ nhất trong cuộc đời Lam Phương. Đau khổ vì đang từ một người có thừa tiền tài danh vọng trong nước, anh sang Mỹ bắt đầu lại bằng những nghề lao động chân tay thấp kém nhất. Thế mà chuyện gia đình lại đổ vỡ, làm như số mệnh muốn trả thù anh, đem cái khổ tinh thần nhồi thêm vào cái đau vật chất đang vây chặt lấy anh. Anh bi quan đến độ toan tìm cái chết:

Thà cuộc đời im trong lòng đất…”

Anh tủi thân đến nỗi viết bài Say trong đó có câu:

Ta biết ta đã già…”

Mất miền Nam anh 38 tuổi. Sang Mỹ, mất gia đình, anh 40 mà phải than già thì cay đắng quá!


12


Túy Hồng tên thật là Trương Ánh Tuyết, là kịch sĩ nổi tiếng của truyền hình và truyền thanh Sàigòn. Từ thuở còn là học sinh trung học, Túy Hồng đã bắt đầu bước lên sân khấu thoại kịch (kịch nói) của ban Dân Nam. Vì trong đoàn có Kim Cương, nên Túy Hồng luôn luôn chỉ được giao vai thứ nhì, dù rằng khán giả và báo giới ngày ấy rất chú ý đến Túy Hồng sau lần xuất hiện trong vở Áo Người Trinh Nữ từng làm khán giả đổ nhiều nước mắt. Mãi đến sau Tết Mậu Thân 1968, Túy Hồng mới tách khỏi đoàn Kim Cương để thành lập ban kịch Sống. Trong mỗi vở kịch, Túy Hồng đều cố đưa vào một bài hát của chồng là Lam Phương, do chính Túy Hồng hát, chẳng hạn: Đèn Khuya, Kiếp Nghèo, Thu Sầu, Tiễn Người Đi, Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi. Túy Hồng không phải ca sĩ chuyên nghiệp, nhưng giọng hát thuộc loại hay, lại có lối diễn tả của một kịch sĩ nên bài nào cô trình bày trên sân khấu kịch Sống cũng đều gây tiếng vang ngay. Bản Phút Cuối khi vừa sáng tác, Lam Phương giao cho Túy Hồng thu đĩa chung với Diên An, bán chạy như tôm tươi. Túy Hồng hát bài này với cả trái tim rung động vì không hề biết bài này chồng mình viết cho người khác!

Tất nhiên, những chuyện tình bên lề của Lam Phương, Túy Hồng đều biết cả, anh không thể giấu hết được. Trực giác nhạy bén của người phụ nữ là vũ khí tự vệ trời ban cho, nên khó có ông chồng nào ngoại tình mà che mắt được vợ! Túy Hồng buồn lắm, nhưng xã hội Việt Nam không đặt nặng vấn đề này. Đàn ông, mà lại là nhạc sĩ nổi tiếng, có đèo bòng thêm một vài bóng dáng khác thì cũng chỉ là vui chơi qua đường mà thôi! Túy Hồng chôn giấu nỗi sầu cho tới khi ra hải ngoại. Ra hải ngoại tức là bước vào một thế giới mới. Mọi thứ giá trị vừa bị đảo lộn hết. Cộng đồng người Việt nhỏ bé đang thành hình là một xã hội mất quân bình vì đàn ông quá dư khiến phụ nữ trở thành “hàng khan hiếm”! Có những cô nhan sắc rất èo uột, giá còn ở Việt Nam thì khó có thể lấy được chồng, giờ sang Mỹ tự động được nâng cấp, kẻ đưa người đón tấp nập! Huống chi Túy Hồng vừa nổi tiếng vừa xinh đẹp! Bao nhiêu săn đón chung quanh làm Túy Hồng xiêu lòng. Hình ảnh người chồng nhạc sĩ mới hôm nào ở Sàigòn lớn lao quá, vĩ đại quá, giờ này đi quét dọn, làm thợ hàn, thợ mộc! Huống chi có thể Túy Hồng đã nuôi sẵn mối hận trong lòng, cay đắng nhịn nhục bao nhiêu năm qua, bây giờ mới có cơ hội vùng lên! Sự thay đổi rõ ràng ở Túy Hồng làm Lam Phương đành phải ngậm ngùi ra đi!

Khăn gói qua Paris lại còn vất vả hơn nhiều. Cái nghèo, cái khổ và nhất là cái lạnh của Mùa Đông Paris làm anh vô cùng điêu đứng. Ngày còn ở Việt Nam, nghe Paris là kinh đô ánh sáng, là phương trời mơ mộng mà Nguyên Sa mô tả:

Hôm nay tôi đi Paris đang vào thu
Dòng sông Seine đang mặc áo sương mù
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa!”


Chao ơi! Đẹp biết bao! Nhưng thực tế thì Paris thiếu rất nhiều phương tiện cho người nghèo, chứ không như bên Mỹ. Lam Phương qua Paris năm 1980, cộng đồng người Việt còn rất thưa thớt và đang ngơ ngác vừa nhớ nhà vừa cố gắng hội nhập. Không ai giúp đỡ được anh. Trung tâm Thúy Nga tuy cũng mới dựng lại bảng hiệu ở quận 13 nhưng còn nghèo xác xơ. Ông Tô Văn Lai đi học sửa xe và cùng con gái đứng bơm xăng thì làm gì có việc cho Lam Phương làm!

Sau này, khi Lam Phương kể lại với tôi, tôi hỏi:

– Hồi anh 17 tuổi, sống trong xóm lao động ở Tân Định, anh sáng tác được bài Kiếp Nghèo thật hay, rồi nhờ bài ấy mà anh hết nghèo! Khi sang Paris, anh còn nghèo hơn lúc ở Tân Định, sao anh không viết thêm một bài Kiếp Nghèo nữa?

Anh cười buồn bảo tôi:

– Ở Tân Định tôi nghèo nên mới viết được bài Kiếp Nghèo. Nhưng sang Paris, nếu viết thêm một bài nữa, thì phải đặt tên là Kiếp Mạt mới chính xác!

Nhưng anh chưa kịp viết Kiếp Mạt thì cuộc đời anh lại thay đổi, lại gặp một khúc rẽ mới ở người đàn bà thứ 5. Rõ ràng là anh có số đào hoa! Đó là một giai nhân tên là Lê Thị Cẩm Hường mà tôi đã có lần nhắc đến trên Paris By Night. Lam Phương như ngọn cây thiếu nước suốt cả một mùa Hè, bây giờ mưa mới đổ xuống cho ngọn cây sống lại, nhất là Cẩm Hường từng nức tiếng về nhan sắc. Có tờ báo tả cô là “một hoa khôi đẹp mê hồn”! Lúc ấy, Lam Phương đã bước vào tuổi trung niên nên anh viết ngay bài Nửa Đời Yêu Em, rồi nối tiếp luôn một loạt tình ca chan hòa hạnh phúc như: Bài Tango Cho Em, Thiên Đường Ái Ân, Mùa Thu Yêu Đương, Chỉ Có Em… Lời ca của anh bây giờ vui tươi và thực tế lắm bởi anh vừa phục sinh sau những ngày dài mất hết niềm tin trong cuộc sống:

Từ ngày có em về
Nhà mình ngập ánh trăng thề”
Hoặc:
“Đường vào Paris có lắm nụ hồng”


Anh nhắc đến những nụ hồng bởi đó là tên người tình mới (Hường) của anh. Nói chung, giai đoạn này nhạc Lam Phương chuyển sang một hướng mới, tìm lại được niềm tin yêu trong đời, bỏ lại sau lưng tất cả chuỗi ngày vất vưởng đã qua.

Hai người sống bên nhau được gần 10 năm rồi lại chia tay. Lam Phương mệt mỏi viết bài Tình Vẫn Chưa Yên trong đó có hai câu cuối:

Lạy Chúa! Con yêu đời xót xa nhiều
Bao năm qua con mãi đi tìm mà tình vẫn chưa được yên”!


Ở Paris tình vẫn chưa yên cho nên Lam Phương thấy nhớ nước Mỹ. Anh bỏ đi từ 1980, mãi 15 năm sau mới quay lại, tức là 1995. Bốn năm sau, anh bị tai biến mạch máu não, phải ngồi xe lăn và từ đó u sầu nhìn quanh một mình, tính đến nay đã 17 năm!

Không tin số cũng không được! Lâu rồi, anh Lam Phương có kể với tôi rằng: Một hôm anh thả bộ trên bờ sông Seine, có bà thầy bói ngồi dưới tàn cây, mời anh ghé vào coi. Bà chuyên coi bằng trái cầu pha lê (crystal ball) là thứ rất thịnh hành ở Pháp. Anh không tin lắm nhưng vì tò mò, anh tạt vô cho bà xem. Bà nghiêm mặt hai ba lần bảo anh:

– Cuối đời ông sẽ sống cô đơn!

Câu nói ấy anh nghe qua rồi quên hẳn, cho đến khi bị nạn ngồi một chỗ, anh mới nhớ lại lời bà thầy bói. Nhưng cũng nhờ biết trước nên anh không bi quan, không tuyệt vọng vì biết đó là định mệnh đã an bài cho mình.

Tôi sang Paris rất nhiều lần, nhưng chưa thấy chị Cẩm Hường lần nào bởi khi tôi gặp anh Lam Phương năm 1993 thì anh đã chia tay Cẩm Hường rồi. Mãi đến mùa hè 2013, tôi mới nhìn thấy chị lần đầu khi tôi cùng nhạc sĩ Lam Phương được mời sang Paris làm show Tình Ca Lam Phương. Chúng tôi ở hotel Ibis trong khu Place Italie. Nghe tin anh Lam Phương về Paris, chị Cẩm Hường chạy lại thăm. Thấy tôi ở lobby, chị từ phòng anh chạy ra chào và cám ơn tôi đã nhắc đến chị trên sân khấu Paris By Night. Trước đó, chị cũng đã một lần viết thư cho tôi để cám ơn chuyện này.

Nghe chị giới thiệu tên, tôi giật mình nhìn chị, cố hình dung ra người phụ nữ đã từng đem bao nhiêu nụ hồng đến với anh Lam Phương, từng được gọi là “hoa khôi có sắc đẹp mê hồn”! Nhưng dĩ nhiên, tôi không thấy. Trước mặt tôi giờ đây chỉ là một người đàn bà vừa thấp vừa tròn trịa theo qui luật tàn nhẫn của thời gian mà ai cũng phải trải qua! Chính vì thế, cứ lâu lâu chúng ta lại nghe một ca sĩ gào lên một cách nuối tiếc:

Ngày ấy đâu rồi! Ngày ấy đâu rồi…!

Chị Cẩm Hường tái ngộ anh Lam Phương như thế cũng là đúng lúc, vì chỉ hơn một năm sau, tôi nghe tin chị qua đời tại Paris!

Để tổng kết bài này, tôi xin cám ơn tất cả những người tình một thời của nhạc sĩ Lam Phương. Những nguồn vui, những nỗi sầu, những hạnh phúc, những giận hờn mà họ đã mang lại cho Lam Phương, để anh kết thành hàng loạt nhạc phẩm đặc sắc lưu lại mãi mãi cho đời.