khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

Ba Lần Hạ Cờ Đỏ Trong Vòng Chưa Đến Một Tháng Tại San Jose







Quanh sự kiện Trọng Lú xuất hiện trở lại sau một tháng vắng mặt - Tác giả Bs Trần Xuân Ninh





Cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung cộng - Tác giả Bs Trần Xuân Ninh






Một bức thư ở trang đầu của một cuốn sổ điểm mà hiệu trưởng nhà trường đã gửi đến cho các bậc phụ huynh trước năm 1975.






Trích:

"Công việc giáo huấn thanh thiếu niên thật là trọng hệ, đối với tương lai gia đình cũng như Quốc gia xã hội. Nhận thấy quý vị đã hy sinh rất nhiều để cho con em theo học, NÊN CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ COI THƯỜNG CÔNG VIỆC GIÁO HUẤN NHƯ MỘT THỊ TRƯỜNG VĂN TỰ. Các em tới học không những để sau đỗ đạt, nhưng chính còn để trở thành người có tài đức, có chí khí và khỏe mạnh.

Chúng tôi thiết nghĩ việc chăm lo cho các em cả về Trí Đức Thể dục chỉ hiệu nghiệm khi nào có sự liên hệ cộng tác, thông cảm thắm thiết giữa gia đình và học đường chúng tôi. Cuốn sổ điểm này không ngoài mục đích đó, hàng tháng sẽ tới tay các vị để các vị biết sức học, hạnh kiểm của con em tại nhà trường. Xin quý vị cho chúng tôi ý kiến mỗi khi xem xong.

Chúng tôi chắc không làm phật ý quý vị, khi chúng tôi chỉ vì tình thương yêu mà thưởng phạt các em. Chúng tôi tuyệt đối không nuông chìu vô lý một học sinh nào. Để tránh sự đáng tiếc của số học sinh gây dối trá hoặc hiểu nhầm giữa học đường và gia đình hòng trốn trách nhiệm, chúng tôi yêu cầu quý vị mến yêu con bao nhiêu thì cũng đặt lòng tin tưởng ở nhà trường chúng tôi bấy nhiêu....".



Nội dung lá thư thể hiện:

1. Sự trang trọng, thiết tha và mạnh mẽ của ngôn từ như một thứ cam kết về giáo dục mà vị hiệu trưởng nhận thức, sẽ thực hành và tuân thủ trách nhiệm lớn lao ấy. Không phải việc mua bán chữ nghĩa tại trường học.


2. Mong muốn cha mẹ phải tin tưởng vào học đường, thầy cô - vì họ là những người làm giáo dục chuyên nghiệp, bản lĩnh và sẵn sàng chịu trách nhiệm nếu sai sót .

3. Phần trách nhiệm thuộc gia đình cũng được nhắc sòng phẳng: Coi điểm, mỗi lần coi phải có ý kiến và có trách nhiệm với sự học của con mình.

Đó là một cam kết văn tự rõ ràng mà khi đọc, người ta hiểu người giáo viên biết rõ về tư thế, triết lý công việc và trách nhiệm của riêng mình.
 
 
 

Phỏng vấn Thanh Trúc, xướng ngôn viên đài Á Châu Tự Do







Chữ “mình” trong tiếng Việt - Tác giả Ngô Nguyên Dũng



Từ nhiều năm nay, tôi là giảng viên một lớp Việt ngữ cho người bản xứ tại Học viện Bách khoa Bình dân của thành phố. Học viên ghi tên không đông, thường chỉ vừa đủ chỉ số cho một lục cá nguyệt. Có lúc thiếu, đôi khi khít khao chỉ một học viên, chính ông giám đốc phân khoa sinh ngữ bày cho tôi diệu kế: tìm một học viên… ma (tiếng bản xứ gọi là “người rơm”); nếu là học sinh, sinh viên hay ai đó đang nhận trợ cấp xã hội càng tốt, vì họ được bớt từ 25 tới 50 phần trăm học phí.
 
Tôi không phải là người tốt nghiệp một trường đại học sư phạm nào, cũng không phải là một nhà Việt học có bằng cấp hẳn hoi, mà chỉ là một kẻ yêu văn chương và có vài tác phẩm được xuất bản, tôi chỉ xâm mình liều mạng vì nghe theo lời khuyên của người bạn.
 
Không có nhiều sách giáo khoa Việt ngữ cho người bản xứ, tôi mầy mò tự soạn bài lấy, nhặt nhạnh từ những tài liệu kiếm được trên tin mạng, qua vài cuốn sách chỉ dẫn cho người du lịch, và theo mớ kiến thức ít oi và chủ quan. Sau khoá học căn bản, tôi nhận thấy, trở ngại lớn nhất cho học viên là sáu cách phát âm dấu giọng trong tiếng Việt. Vài học viên có cảm tình đặc biệt với đất nước Việt nam kiên trì theo học với tôi từ lớp đầu tiên cho tới khi… hết lớp, vậy mà phát âm vẫn chưa nhuyễn. Tôi thường xuyên nhắc nhở, nếu gặp dịp nói chuyện với người Việt, có vài trường hợp anh chị phải triệt để đề phòng, nhớ nói cho đúng âm giọng, không thôi họ cười cho đấy. Chẳng hạn khi nói cụm từ “các anh”: “Các anh mệt rồi phải không? Thôi, cho nghỉ!” Hoặc lợn: “Lợn to hay nhỏ gì cũng bị bắt đi cạo lông hết.” Những từ các và  lợn này, nếu phát âm sai, dễ bị hiểu lầm thành những từ nghe không mấy êm tai.
 
Còn khó khăn cho giảng viên là phải giải thích một vài thắc mắc không ngờ của học viên. Có lần tôi “bị” hỏi về sự khác biệt giữa hai nhân xưng đại danh từ “chúng ta” và “chúng tôi”. Không chuẩn bị trước, tôi trả lời ấm ớ rồi bí rị, đành thối thoát, để tôi về nhà suy nghĩ và tra cứu lại, tuần tới sẽ trả lời.
 
Trong ngôn ngữ bản xứ, không có khác biệt nào giữa hai nhân xưng đại danh từ nêu trên. Trong tiếng Việt, có: “Chúng ta” là danh xưng đại danh từ dùng chỉ tất cả những người hiện diện, còn “chúng tôi” cũng là nhân xưng đại danh từ, nhưng chỉ dùng cho một số người, từ hai trở lên, có mặt trong số những người hiện diện đó.
 
Và, bất ngờ từ đó tôi đụng phải “chúng mình”.
 
Cái “ta”, cái “tôi” và cái “mình” khi đánh đôi với “chúng” đâm ra khác, khác lắm. Người bản xứ có thể phân biệt rành rẽ khi sử dụng ba nhân xưng đại danh từ nói trên, nhưng tôi nghĩ, họ khó lòng nắm bắt thứ tình cảm thâm trầm, sâu kín ẩn giấu trong đó. Đặc biệt với hai chữ “chúng mình”. Độc đáo ở chữ “mình”. Chỉ một từ thôi, đủ nói lên mối tương quan giữa hai hoặc nhiều người. Lại đôi lúc, thay vì “chúng” nói “tụi” hay “bọn”, thành ra khang khác. Hay thảng hoặc, trụi lủi trụi lơ “mình” trơn, nghe lại khác.
 
Đã có lần có người cười tôi khi nghe tôi nói giữa bạn bè với nhau:
 
“Mình ăn xong, đi ra phố chơi.”
 
Họ sửa, chỉ có đàn bà con gái với nhau mới xưng hô như vậy. Tôi lấy làm lạ, vì tôi vẫn quen thói nói tắt như vậy thay vì “chúng mình”. Còn cách xưng hô, giữa bạn gái thường hơn, gọi tên hay “bạn” xưng “mình”, tôi biết chứ: “Mình kể cho bạn nghe chuyện này vui lắm!”, hay “Bạn đi với mình ra phố nghe!”
 
Từ đó tôi đâm ra ngờ ngợ, không biết có ai dùng chữ “mình” như… mình không?
 
Ở Việt nam hiện giờ, chữ “mình” được dùng mọi lúc mọi nơi, tuỳ tiện. Vào quán nhậu, thực khách hỏi người phục vụ: “Hôm nay quán mình có món gì đặc biệt?” Người phục vụ đáp: “Dạ, quán mình hôm nay có món vú heo nướng chấm muối ớt xanh… ạ!” Và sau khi ăn xong, nếu may mắn gặp phải nhân viên phục vụ lịch sự, sẽ được hỏi: “Nhà mình ăn có ngon miệng không… ạ?”
 
Tôi nhớ thời tiểu học, môn cách trí có bài học thuộc lòng: “Thân thể người ta gồm ba phần: đầu, mình và tứ chi…” Mình, vì vậy, có phải bắt nguồn từ đấy? Vợ chồng người (Việt) mình, lúc cơm lành canh ngọt, vẫn âu yếm gọi nhau “Mình ơi!”, nghe sao đậm đà tình tứ. Suy ra, không phải không có ý nghĩa: trân quí xem người bạn đời như một phần của chính thân thể mình. “Mình ơi, hôm nay em mệt, mình nấu cơm, rửa chén giùm em!” Nghe, khó từ chối. Không biết có thứ ngôn ngữ nào khác, những người phối ngẫu xưng hô với nhau như vậy?
 
Trong âm nhạc, tôi thích ca khúc “Mình ơi!” của nhạc sĩ Diệu Hương, lời lẽ tuy não nuột da diết nhưng vô cùng tha thiết:
 
“Đôi chim là chim ríu rít trên cành. Em yêu là yêu tiếng gọi của Mình là Mình, Mình ơi!…”
 
Ở một vài địa phương miền Nam, thường nghe nói hai chữ “mình ên” để diễn tả trường hợp “một mình tuyệt đối”, như một lời phân bua, than thở nhẹ nhàng, nhưng mong đợi được người khác thông cảm. Từ “ên” nghe lạ tai, và chỉ được dùng chung với “mình”. Tôi không biết có phải bắt nguồn từ tiếng Miên? Tôi không được đọc quyển “Nguồn gốc Mã lai của dân tộc Việt nam” của cố nhà văn Bình Nguyên Lộc, không rõ trong đó ông có giải thích gốc tích từ “ên” hay không?
 
Tuy nhiên, có một cách sử dụng chữ “mình” trong văn viết mà cá nhân tôi cho rằng không được chính xác lắm. Chẳng hạn: “Thời gian gần đây có (nhiều) nhà văn nữ đề cập táo bạo tới vấn đề tình dục trong tác phẩm của mình.” Các sử dụng chữ “mình” trong trường thí dụ trên, không sai, nhưng tôi nghĩ rằng, trong trường hợp này, dùng chữ “họ” cho số nhiều và “bà” hay “chị” cho số ít, chính xác hơn. (Với lời lý giãi này, tôi xin được phép mở một dấu hỏi lớn ở đây.)
 
Miếng ăn miếng nói, vì vậy theo tôi, phát sinh từ bản sắc, hay nói theo cách bình dân từ tạng người. Mà tạng người thấm nhuần đậm đà phong thổ địa phương. Bóng bẩy cầu kỳ hoặc bộc trực chất phác là do đất đai, sông ngòi, nắng mưa, cây trái, … từ thâm căn vạn kiếp mà thành. Tạng người xứ khác có thể học hiểu, bắt chước được, nhưng khó cảm. Và, có lẽ không bao giờ thấu hiểu tại sao cái ngôn ngữ Việt nam nó oái oăm, kỳ cục như vậy.
 
Cứ vậy, từ lục cá nguyệt này qua lục cá nguyệt nọ, tôi thường xuyên đụng độ nhiều trường hợp khó lòng giảng giải sao cho xuôi tai, để những người bản xứ nào “phải lòng” đất nước và con người Việt nam hiểu thấu. Mà tôi, một kẻ tha hương dầm dề ngần ấy năm dài nơi đất khách, vẫn mộng mị và suy nghĩ, vẫn nói và viết bằng tiếng mẹ đẻ trơn tru hơn ngôn ngữ bản xứ, là điều tôi nên tự hào hay tự trách?
 
 
 

Ngô Quyền - Tác giả Hồ Bạch Thảo



Ngô Quyền người xã Đường Lâm tỉnh Sơn Tây [theo An Nam Kỷ Yếu, quê tại  châu Ái, Thanh Hóa], là tướng giỏi của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, nên được Tiết độ sứ gả con gái cho ; rồi cho giữ Ái Châu. Sau khi phản tướng Kiều Công Tiện giết Dương Đình Nghệ [937], Ngô Quyền mang quân từ châu Ái ra Bắc, đánh Kiểu Công Tiện ; Công Tiện không chống nỗi, bèn mang của cải đút lót cho vua Nam Hán để xin cứu viện.
Đối phó với thù trong giặc ngoài, tướng Ngô Quyền ra tay diệt tan bè lũ Kiều Công Tiện trước, rồi chuẩn bị chiến trận chống chống Nam Hán. Vua Nam Hán muốn nhân loạn chiếm nước Việt, bèn sai con là Vạn vương Hoằng Thao mang thuỷ quân sang đánh, riêng Vua Hán đóng quân tại cửa biển để làm thế yểm trợ. Hậu quả Hoằng Thao chết trận, quân tan, vua Hán khóc ròng, rút quân trở về nước, Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang chép về sự kiện này như sau :

« Tư Trị, quyển 281, Tấn Cao Tổ năm Thiên Phúc thứ 3 [938],
Tháng 10, tướng cũ của Dương Diên Nghệ [楊延藝] 1 là Ngô Quyền mang quân đánh Kiểu Công Tiện tại Giao Châu ; Công Tiện sai sứ hối lộ cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Hán muốn thừa lúc loạn đánh lấy, bèn cho con là Vạn vương Hoằng Thao làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ tiến phong Giao vương, mang quân cứu Công Tiện ; vua Hán đích thân đóng tại cửa biển để làm thế thanh viện. Vua Hán hỏi Sùng văn sứ Tiêu Ích về sách lược, Ích tâu :
«  Nay trời mưa lâm râm suốt tuần, đường biển xa xôi hiểm trở, Ngô Quyền lại là tay kiệt hiệt, nên không thể khinh địch. Đại quân cần từ từ thận trọng, dùng nhiều hướng đạo dân địa phương, mới nên tiến. »
Vua không nghe, ra lệnh Hoằng Thao điều chiến thuyền theo sông Bạch Đằng tiến vào Giao Châu. Lúc này Quyền đã giết Công Tiện, chiếm toàn Giao Châu, rồi mang quân đánh ngược lại. Trước hết tại cửa biển cho chôn cọc vót nhọn có bọc sắt ; lại sai khinh binh khiêu chiến rồi giả thua rút. Hoàng Thao xua quân đuổi ; chẳng bao lâu thuỷ triều xuống, tàu vướng cọc sắt không rút lui được, quân Hán thua to, quan quân bị lật tàu chết trôi quá nửa. Hoằng Thao chết, vua Hán gào khóc, thu tàn quân trở về. Trước đó, Tả lang hầu Dung khuyên vua Hán bớt việc binh để yên dân, nay do dùng binh không phấn chấn, bèn qui lỗi cho Dung, sai phá quan tài phơi thây. »
(楊延藝故將權自愛州舉兵攻皎公羨於交州,公羨遣使以賂求救於漢。漢主欲乘其亂而取之,以其子萬王弘操為靜海節度使,徙封交王,將兵救公 羨,漢主自將屯於海門,為之聲援。漢主問策於崇文使蕭益,益曰:「今霖雨積旬,海道險遠,權桀黠,未可輕也。大軍當持重,多用導,然後可進。」不聽。命弘操帥戰艦自白籐江趣交州。權已殺公羨,據交州,引兵逆戰,先於海口多植大 (*) 弋,其首,冒之以鐵,遣輕舟乘潮挑戰而偽 遁,弘操逐之,須臾潮落,漢艦皆礙鐵杙不得返,漢兵大敗,士卒覆溺者太半;弘操死,漢主慟哭,收餘眾而還。先是,著作佐郎侯融勸漢主弭兵息民,至是以兵不振,追咎融,剖棺暴其屍。益,仿之孫也。)
Một bộ sử khác của Trung Quốc, Tân Ngũ Đại Sử do Âu Dương Tu soạn, cũng chép tương tự :
« Năm thứ 10 [937], Nha tướng Giao Châu Kiểu Công Tiện giết Dương Đình Nghệ lên ngôi; tướng cũ của Đình Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu; Công Tiện xin quân Nam Hán tiếp viện. Cung phong cho con, Hồng Tháo là Giao vương, ra quân đánh tại sông Bạch Đằng ; Cung đóng quân tại cửa biển. Quyền sau khi giết Công Tiện, đánh ngược ra cửa biển, cắm cọc sắt. Quân của Quyền chờ thuỷ triều lên bèn rút ; đợi thuỷ triều xuống bèn quay thuyền  lại đánh, thuyền quân Nam Hán vướng phải cọc đều lật đổ ; Hồng Tháo chết, Lưu Cung thu tàn quân trở về. » [Tân Ngũ Đại Sử, Quyển 65, Nam Hán, Thế Gia quyển thứ 5]
(十年,交州牙將皎公羨殺楊廷藝自立,廷藝故將權攻交州,公羨來乞師。龑封洪操交王,出兵白藤以攻之。龑以兵駐海 門,權已殺公羨,逆戰海口,植鐵橛海中,權兵乘潮而進,洪操逐之,潮退舟還,轢橛者皆覆,洪操戰死,龑收余眾而還)
Lợi dụng thủy triều để tranh thắng ; điều quan trọng là thời gian phải chính xác. Lịch sử thế giới ca tụng danh tướng MacArthur đã thành công trong cuộc đổ bộ bất ngờ nguy hiểm tại hải cảng Inchon cách thủ đô Seoul Hàn Quốc 25 dặm, vào ngày 15/10/1950 ; cắt bán đảo Triều Tiên làm 2, khiến quân Bắc Hàn trên đường tấn công tại phía nam bị đánh tan, loại ra ngoài vòng chiến. Các nhà quân sự Bắc Hàn lúc bấy giờ cho rằng cảng Inchon nước cạn không thể dùng tàu đổ bộ, nên không chú ý đề phòng ; nhưng họ không tính đến nước thủy triều lên cao trong một vài giờ, và tướng MacArthur đã dám chọn thời gian nghiệt ngã bất ngờ đó để tranh thắng. Thời MacArthur có đồng hồ chính xác từng giây, hải quân Hoa Kỳ thống kê mức thuỷ triều lên xuống từng phút ; mà vẫn bị coi là liều lĩnh. Riêng Ngô vương phải sai người cắm cọc sắt như thế nào để lúc thuỷ triều lên địch không phát hiện được, thuỷ triều rút có thể đâm thủng thuyền giặc, rồi thời gian rút lui, thời gian tấn công cần phải chính xác ; công việc tính toán về thủy triều cũng phải làm như MacArthur thực hiện khoảng 1.000 năm sau ; so sánh như vậy thấy được Ngô vương là một thiên tài về quân sự.
Cùng một dòng, 2 lần đại phá quân địch ; một việc ít khi xảy ra trong lịch sử chiến tranh thế giới. Tuy cũng là thuỷ chiến, cũng đóng cọc trên sông ; hơn 300 năm sau [1288] Hưng Đạo vương lại tiêu diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, bắt và giết các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ; chỉ khác một chi tiết là đánh giặc khi chúng rút lui từ trong nội địa Đại Việt ra biển. Một dòng sông khác, cách sông Bạch Đằng không xa ; đó là sông Như Nguyệt [sông Cầu], Lý Thường Kiệt từng chế ngự giặc thành công, trong cuộc chiến tranh Lý Tống năm 1076.
Đất nước Việt Nam ta núi sông hiểm trở không thiếu, tại địa danh sông Chi Lăng [thượng lưu sông Thương], vua Lê Đại Hành dụ bắt giết Hồng Nhân Bảo, chấm dứt cuộc chiến tranh vào Lý Tống năm 981 ; lại gần 500 năm sau [1427], dưới thời chống quân Minh, tướng Liễu Thăng mang đại quân sang cứu viện, bị nghĩa quân của Vua Lê Lợi đánh tan tại ải Chi Lăng.
Kỵ binh là sở trường của quân phương Bắc, đạo quân của Nùng Trí Cao dưới thời Tống từng hoành hành tại 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông như chỗ không người ; chỉ trong vòng 2 tháng, đánh chiếm hàng chục châu quận trong đó có thành lớn Ung châu [Nam Ninh] ; nhưng cuối cùng bị Địch Thanh dùng kỵ binh đánh tan trong một buổi sáng, tại cánh đồng bằng phẳng Qui Nhân Phố dưới chân núi Côn Lôn. Trong cuộc chiến tranh Lý Tống Quách Quì dùng 1 vạn kỵ binh ; thời nhà Trần, quân Mông Cổ dưới quyền Trấn nam vương Thoát Hoan sử dụng ưu thế kỵ binh hầu mong nuốt chửng nước ta ; nhưng địa thế nước ta khó có thể dàn trận lớn bằng kỵ binh, lại bị quân ta đánh tiêu hao người, ngựa, bằng chiến tranh hầm hố, nên hai lần xâm lăng đều bị thất bại. Thời hiện đại gọi xe tăng thiết giáp là kỵ binh [Armoured cavalry], địa thế tại Việt Nam miền Bắc, và Trung phần lớn núi rừng, miền Nam đất mềm nhiều sinh lầy, nên thiết giáp chỉ phụ cho bộ binh ; chứ không thể dàn hàng ngang hàng trăm chiếc để làm chủ chiến trường, như quân Đồng Minh và Đức từng tung hoành tại sa mạc châu Phi thời Thế chiến thứ 2.
Trong chiến tranh Nga Nhật năm 1905, hạm đội Nga trú an toàn tại hải cảng Cam Ranh nước ta, Nhật không có cách gì tiêu diệt, cuối cùng phải dùng biện pháp ngoại giao với Pháp, đuổi tàu Nga ra khỏi lãnh hải Việt Nam để đánh. Hải trình huyết mạch quốc tế từ ngàn xưa đến nay chạy dọc theo biển Đông tức ven biển miền Trung ; Cam Ranh nước ta là vị trí chiến lược tối quan trọng, với vũ khí hiện đại có thể kiểm soát hải trình này, và chống lại các thế lực vượt trội ta ngoài biển khơi.

*

Tóm lại, trong 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, tổ tiên ta đã phấn đấu hàng ngàn năm để dành phần “ địa lợi ” cho con cháu ; Ngô vương Quyền là bậc thầy muôn đời trong việc dùng địa lợi vào lãnh vực quân sự.
Sau khi dẹp xong ngoại xâm, năm Kỷ Hợi (939) Ngô Quyền tự xưng Vương, đóng đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay ; lập Dương thị làm hoàng hậu. Dương Hậu là con gái Dương Diên Nghệ ; thời Ngô vương Quyền làm nha tướng,  được Diên Nghệ gả con gái cho.
Năm Giáp Thìn [944] Ngô vương Quyền mất. Lúc bệnh nguy kịch, trối trăng dặn Dương Tam Kha, em ruột Dương hậu, giúp con mình là Xương Ngập nối ngôi.
Sử thần Lê Văn Hưu đời Trần có lời bàn về Ngô vương Quyền, tuy ngắn nhưng nội dung có thể tóm tắt được sự nghiệp :
Lê Văn Hưu nói :
Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.” [Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại kỷ, quyển 5]
Sau khi Ngô vương mất, Tam Kha cướp ngôi của cháu, tiếm xưng là Bình vương ; Xương Ngập sợ, chạy đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương 2. Tam Kha nuôi con thứ hai của Ngô vương Quyền là Xương Văn làm con mình. Các con vợ thứ của Ngô vương là Nam Hưng, Kiền Hưng còn nhỏ, đều theo Dương hậu.
Tam Kha sai Quan sứ Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi lùng Xương Ngập : trước sau đến ba lần đều không bắt được. Được tin Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập giấu trong động núi ; Tam Kha  cho sục sạo, cuối cùng vẫn không tìm thấy. Tam Kha lại sai Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc cùng Xương Văn đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình 3. Khi đi đến huyện Từ Liêm, Xương Văn bảo hai Quan sứ rằng :
“ Đức trạch của Tiên vương 4 ta thấm khắp lòng dân, tất cả các chính lệnh thi hành không ai là không vui lòng theo cả. Chẳng may Tiên vương ta mất đi. Bây giờ Bình vương là kẻ bất nghĩa, tự cướp lấy ngôi, còn tội gì hơn nữa ! Nay lại sai chúng ta đi đánh các ấp vô tội kia, may mà được, nếu họ không phục thì làm thế nào ?
Hai Quan sứ Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc trả lời :
“ Tướng quân bảo như thế nào chúng tôi cũng xin vâng mệnh ”.
Xương Văn bảo :
“ Ý tôi muốn đem quân quay về đánh úp Bình Vương để phục lại cơ nghiệp của tiền nhân, có nên không ? ”.
Hai Quan sứ đều cho là phải. Bấy giờ mới trở về đánh úp được Tam Kha ; mọi người muốn giết đi, nhưng Xương Văn bảo :
Bình vương đối với ta cũng có ơn, nỡ nào đem giết ? ”.
Rồi giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công, nhân chỗ ở ấy cho làm thực ấp ; Tam Kha tiếm ngôi 6 năm.
Năm Tân Hợi (951], Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn vương ; rồi sai Sứ đón Xương Ngập ở tôn Trà Hương về kinh đô, cùng nhau trông coi việc nước. Sau đó Thiên Sách vương Xương Ngập chuyên quyền, nên Nam Tấn vương không tham dự chính sự nữa. Do đó hai anh em có sự xích mích ; đến năm Giáp Dần [954], Xương Ngập mất, Nam Tấn vương mới chính mình cầm chính quyền ; rồi sai Sứ sang xin mệnh  chúa Nam Hán là Lưu Thạnh phong chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ kiêm An Nam đô hộ ; Tư Trị Thông Giám 6 chép :
“ Chu Thế Tông Hiển Đức năm thứ nhất [954]
Tháng giêng [2/954], trước kia Tĩnh hải tiết độ sứ Ngô Quyền mất, con là Xương Ngập lập. Xương Ngập mất, em là Xương Văn [昌文] lập. Tháng này mới bắt đầu xin mệnh Nam Hán ; Nam Hán phong Xương Văn Tĩnh hải quân tiết độ sứ kiêm chức An Nam đô hộ.”
(初,靜海節度使權卒,子昌岌立。昌岌卒,弟昌文立。是月,始請命於南漢,南漢以昌文為靜海節度使兼安南都護.)
Năm Ất Sửu [965], Nam Tấn vương đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình. Quân đến nơi, cắm thuyền, lên bộ đánh nhau ; Nam Tấn vương bị trúng tên mai phục chết ; trị vì được 15 năm.
Nhà Ngô mất. Ngô vương Quyền khởi lên từ năm Kỷ Hợi, mất năm Giáp Thìn, được 6 năm [939-944] ; Nam Tấn Xương Văn lên ngôi từ năm Tân Hợi đến năm Ất Sửu [951-965], được 15 năm (951-965) ; cộng tất cả là 21năm.
Từ khi Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương Văn tuy lấy lại được nước, nhưng hai anh em bất hòa, không thể thống nhất được ; đến khi đi đánh Thái Bình, bị chết trận, từ đó trong nước rối loạn. Một viên tướng người họ Ngô là Ngô Xương Xí tụ tập quân giữ Bình Kiều. Nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang. Thổ hào các nơi khác cũng nổi lên mỗi người giữ một nơi, ai cũng xưng hùng trưởng. Sau Tiên Hoàng nhà Đinh nổi lên, dẹp yên được cả, từ đấy giang sơn mới thống nhất.
Các hùng trưởng cát cứ các nơi, sử gọi là Thập Nhị Sứ Quân, xin liệt kê như sau :
1. Trần Lãm, tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải khẩu [thị xã tỉnh Thái Bình] ;
2. Kiểu Công Hãn tự xưng là Kiểu Tam Chế, giữ Phong Châu [huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú] ;
3. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình, giữ Nguyễn Gia Loan ở Tam Đái [huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú] ;
4. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm [Ba Vì, Hà Tây] ;
5. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại [huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc] ;
6. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, giữ Tiên Du [tỉnh Bắc Ninh] ;
7. Lữ Đường tự xưng là Lữ Tá Công, giữ Tế Giang [huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc] ;
8. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt [Thanh Trì, Hà Nội] ;
9. Kiểu Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công, giữ Hồi Hồ [huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú] ;
10. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu [huyện Kim Thị, tỉnh Hải Hưng] ;
11. Ngô Xương Xí chiếm giữ Bình Kiều [huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa] ;
12. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Động [Thanh Oai, tỉnh Hà Tây] 7.

Ba nhân vật lịch sử phải chịu trách nhiệm về mối loạn 12 sứ quân cuối triều Ngô : trước hết phải kể đến Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, dùng binh đánh dân vô tội ; kế đến Ngô Xương Văn vì tình riêng không có thái độ dứt khoát với Dương Tam Kha, nuôi dưỡng kẻ phản bội ; riêng Ngô Xương Ngập được em đón về lại giành chức của em. Các biến cố xy ra khiến nhân tâm chia rẽ, chính quyền mới bắt đầu xây, điều hành lỏng lẻo, không có kỷ cương ; đó là nguyên nhân chính gây nên loạn Thập nhị sứ quân.

--------------------------------------------------

(*)  Đây là chữ dặc (cái cọc) [do chữ 木 mộc + chữ dặc弋]. Vì là chữ Hán cổ nên không có trong các bộ chữ điện tử.
1 Dương Đình Nghệ : vì chữ Đình [] và chữ Diên [] viết giống nhau, nên có sách chép là Dương Diên Nghệ.
2 Trà Hương : thuộc huyện Kim Thành, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
3 Thôn Thái Bình : theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, nay thuộc huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình.
4 Tiên vương : Vương trước, chỉ Ngô Quyền.
5 Thực ấp : ấp được phong, có quyền thu thuế và hoa lợi.
6 Tư Trị Thông Giám, Tư Mã Quang, quyển 291.
7 Danh sách và vị trí Thập Nhị Sứ Quân, căn cứ vào Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục tiền biên quyển 5; riêng Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, bản điện tử, trang 34 ; chép Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều thuộc tỉnh Hưng Yên.
 
 

Nước Mỹ Đón Chờ - Tác giả VuongVu





Học Tài Thi Lý Lịch (?) : SAT’s New ‘Adversity Score’ Will Take Students’ Hardships Into Account - Source NY Times



The College Board, the company that administers the SAT exam taken by about two million students a year, will for the first time assess students not just on their math and verbal skills, but also on their educational and socioeconomic backgrounds, entering a fraught battle over the fairness of high-stakes testing.
 
The company announced on Thursday that it will include a new rating, which is widely being referred to as an “adversity score,” of between 1 and 100 on students’ test results. An average score is 50, and higher numbers mean more disadvantage. The score will be calculated using 15 factors, including the relative quality of the student’s high school and the crime rate and poverty level of the student’s neighborhood.

The rating will not affect students’ test scores, and will be reported only to college admissions officials as part of a larger package of data on each test taker.

The new measurement brings the College Board squarely into the raging national debate over fairness and merit in college admissions, one fueled by enduring court clashes on affirmative action, a federal investigation into a sprawling admissions cheating ring and a booming college preparatory industry that promises results to those who can pay.
 
Colleges have long tried to bring diversity of all sorts to their student bodies, and they have raised concerns over whether the SAT, once seen as a test of merit, can be gamed by families who hire expensive consultants and tutors. Higher scores have been found to correlate with students from wealthier families and those with better-educated parents.

“Merit is all about resourcefulness,” David Coleman, chief executive of the College Board, said in an interview on Thursday. “This is about finding young people who do a great deal with what they’ve been given. It helps colleges see students who may not have scored as high, but when you look at the environment that they have emerged from, it is amazing.”
 
A growing number of colleges, in response to criticism of standardized tests, have made it optional for applicants to submit scores from the SAT or the ACT. Admissions officers have also tried for years to find ways to gauge the hardships that students have had to overcome, and to predict which students will do well in college despite lower test scores.

The new adversity score is meant to be one such gauge. It is part of a larger rating system called the Environmental Context Dashboard that the College Board will include in test results it reports to schools. A trial version of the tool has already been field-tested by 50 colleges. The plan to roll it out officially, to 150 schools this year and more widely in 2020, was first reported by The Wall Street Journal.

But the score met instantly with an array of criticisms, from worries that it created a new cast of winners and losers in the admissions process, to concerns that it papered over an inherently flawed test. College counselors said they were swamped with calls from parents on Thursday as word of the new measurement got out.
 
“Anxiety’s ratcheting up,” said Hafeez Lakhani, a college admissions coach in New York. “People are worried about never being good enough.”

He said he had received emails from parents asking whether their children’s hard work in preparing for the SAT “would be completely negated just because we happen to have some means.”

Mr. Lakhani said that in his view, colleges were already doing a good job of considering adversity, as indicated by rising numbers of first-generation and low-income students, especially at elite colleges.
 
Others felt that the College Board’s efforts were misplaced. Robert Schaeffer, the public education director of Fair Test, a group that is critical of standardized testing, said that if the SAT needed a sophisticated contextual framework to make it valid, then “it’s a concession that it’s not a good test.”
 
He added that the adversity score would not capture individual situations, like a child who was middle class but whose mother was addicted to opioids. “Mentally adjusting scores based on where a student came from and what obstacles she overcame is common practice,” Mr. Schaeffer said. “It’s this attempt to do it in a quantitative manner that opens up many other issues.”

News of the plan comes amid a sweeping college admissions scandal, in which 50 people across multiple states have been charged. Prosecutors said the scheme included tactics like fraudulently obtaining extra time on ACT or SAT tests, changing test answers and having a ringer take exams for students.
 
  

"Phát Triển Con Người Toàn Diện (sic)!"



"Ðức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Ðức Giêsu có chữa người ấy ngày sabát không, để tố cáo Người. Ðức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!". Rồi Người nói với họ: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. Ðức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: “Anh giơ tay ra!” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. Ra khỏi đó, nhóm Pharisêu lập tức bàn tính với phe Hêrôđê, để tìm cách giết Ðức Giêsu."


Phỏng vấn Bs Đinh Đức Long, 18/5/2019





NUÔI ONG TAY ÁO: Tình báo Hoa Kỳ, Deer Team, giúp hồ chí minh và học trò năm 1944






Lm Nguyễn Duy Tân bị bề trên "đì" từ áp lực của bạo quyển?







Chiến Tranh Giữa Các Nền Văn Minh (Phần 4)







Chiến Tranh Giữa Các Nền Văn Minh (Phần 3)







Chiến Tranh Giữa Các Nền Văn Minh (Phần 2)







Chiến Tranh Giữa Các Nền Văn Minh (Phần 1)







Tại Sao Việt Nam Không Bị Đồng Hóa Sau Ngàn Năm Bắc Thuộc- Tác giả Nguyễn Hải Hoành



Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Đng hóa dân tc (national assimilation) gm: 1- Đng hóa t nhiên, tc quá trình dân tc A trong giao tiếp vi dân tc B, do chu nh hưởng lâu dài ca B mà A t nhiên dn dn mt bn sc ca mình, cui cùng b B đng hóa; đây là mt xu hướng t nhiên trong tiến trình lch s loài người. 2- Đng hóa cưỡng chế: s cưỡng bc mt dân tc nh yếu hơn chp nhn ngôn ng, ch viết, phong tc, tp quán ca mt dân tc ln mnh hơn; đây là mt ti ác.


Đng hóa dân tc ch yếu din ra dưới hình thđng hóa văn hóa, trong đó ch th đng hóa thường là mt nn văn hóa mnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát trin hơn, đã có ch viết, có các h tư tưởng), đi tượng đng hóa thường là nn văn hóa yếu và lc hu hơn. Đng hóa ngôn ng là công c đng hóa văn hóa thông dng nht, quan trng nht, hiu qu nht. Mt dân tc b mt tiếng nói m đ ca mình và phi nói tiếng ca mt dân tc khác thì không còn gi được bn sc dân tc na.


Trong lch s, các nn văn hóa yếu thường b nn văn hóa mnh đng hóa. Thi c, Trung Quc là quc gia đông người nht và có nn văn minh tiên tiến nht châu Á. Nn văn hóa Hán ng ca h có sc đng hóa rt mnh. Dân tc Hi phía Tây nước này, ngày xưa dùng ch A Rp, sau nhiu năm giao lưu vi người Hán cũng toàn b dùng ch Hán và nói tiếng Hán. Ngay c các dân tc nh nhưng mnh v quân s, sau khi thôn tính và thng tr Trung Quc được ít lâu cũng b nn văn hóa Hán ng đng hóa.
Thí d dân tc Mãn sau khi chiếm Trung Quc và lp triu đi nhà Thanh đã lp tc tiến hành đng hóa dân tc Hán: cưỡng bc đàn ông Hán phi co na đu và đ đuôi sam, phi b ch Hán mà ch dùng ch Mãn làm ch viết chính thc trên c nước. Nhưng đến gia đi Thanh, tc sau khong 100 năm thì tiếng Mãn cùng ch Mãn đu biến mt, t đó tr đi người Mãn ch dùng tiếng Hán và ch Hán, nghĩa là h li b đng hóa ngược bi chính nn văn hóa ca dân tc b h cai tr lâu ti 267 năm!
Các nước đế quc thc dân sau khi chiếm thuc đa đu cưỡng chế đng hóa ngôn ng dân bn x, quá trình này din ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế h (mi thế h 25 năm), tiếng nói ca người bn x đã b thay bng ngôn ng ca nước cai tr. Đu thế k XV, Brazil b B Đào Nha chiếm, chng bao lâu tiếng B tr thành ngôn ng chính thc duy nht ca người Brazil. Nhiu thuc đa Pháp châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ng chính duy nht. Năm 1918 nước ta bt đu dy tiếng Pháp lp cui tiu hc, 10-20 năm sau toàn b hc sinh trung hc cơ s tr lên đến trường đã ch nói tiếng Pháp, giáo viên ch ging dy bng tiếng Pháp. Nếu c thế dăm chc năm na thì có l Vit Nam đã tr thành nước nói tiếng Pháp.
Thế nhưng sau hơn 1.000 năm b bn phong kiến người Hán thng tr và cưỡng bc đng hóa, dân tc Vit Nam vn không b Hán hóa, vn gi nguyên được nòi ging, tiếng nói và phong tc tp quán.
Đây qu là mt điu kỳ diu có l chưa dân tc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thy nhiu người quan tâm nghiên cu vn đ này, mt thành tu vĩ đi đáng t hào nht ca dân tc ta (nói cho đúng là ca t tiên ta thôi, còn chúng ta bây gi thua xa các c).
Vì sao t tiên ta có th làm được kỳ tích y? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thn yêu nước, tinh thn dân tc, xã hi có cơ chế làng xã bn cht, v.v… Nói như vy có l còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân c th thì s giúp ích hơn cho vic phát huy các truyn thng quý báu ca dân tc ta. Thc tế cho thy t tiên ta giành được thng li chng đng hóa không phi bng đu tranh vũ trang mà ch yếu bng tài trí.
Xin nói thêm rng chính người Trung Quc cũng rt quan tâm vn đ này. Chúng tôi đã th nêu lên mng Bách Đ (Baidu) ca h câu hi “Vì sao Trung Quc thng tr Vit Nam hơn 1.000 năm mà Vit Nam không b đng hóa?”
T hàng triu kết qu, có th thy đa s dân mng Trung Quc đu có chung mt thc mc ln: Vì sao b Trung Quc thng tr lâu thế mà người Vit Nam vn không nói tiếng Trung Quc? Nói cách khác, h coi đng hóa ngôn ng là tiêu chun đng hóa quan trng nht và đu tha nhn Trung Quc đã không đng hóa ni Vit Nam. H t ra tiếc nui v s kin Vit Nam sau hơn 10 thế k tng là qun huyn ca Trung Quc, tng dùng ch Hán hàng nghìn năm mà rt cuc li tr thành mt quc gia đc lp, dùng ch Latin hóa, ngày nay là nước chng li mnh nht chính sách xâm ln Bin Đông ca Bc Kinh.
Do hiu biết Vit Nam rt ít, thm chí hiu sai, hu hết dân mng Trung Quc không tìm được li gii thc mc trên, k c người t ra am hiu lch s nước ta. H nêu các lý do:
– Văn hóa Vit Nam có trình đ Hán hóa cao(?), người Vit rt hiu và không phc Trung Quc;
– Vit Nam quá xa Trung nguyên, khí hu nóng, quan li người Hán ngi sang Vit Nam làm vic, đã sang thì ch lo làm giàu, không lo đng hóa dân bn x;
– Các nhân vt tinh hoa Trung Quc như Lưu Hy, Ha Tĩnh, Ha T, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chy lon sang Vit Nam đã giúp nước này có nn văn hóa không kém Trung Quc;
– Người Hán di cư đến Vit Nam đu b người bn x đng hóa v.v…
Nói chung h đu chưa thy, hay c ý l đi nguyên nhân chính là tài trí ca người Vit.
Nhưng h nói người Vit Nam hiu Trung Quc là đúng. Do sm hiu rõ ý đ thâm him ca phong kiến người Hán mun đng hóa dân tc ta nên t tiên ta đã kp thi đ ra đi sách. C th là đã tìm ra cách gi gìn được tiếng nói ca dân tc mình trong quá trình b bn thng tr người Hán cưỡng bc hc ch Hán.
My nghìn năm sau, mt hc gi ln ca dân tc ta tóm tt bài hc lch s này trong mt câu nói rt chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!
Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triu Đà đã ép buc dân ta hc Hán ng, nhm đng hóa h bng ngôn ng. Có l đây là thi đim mun nht ch Hán vào nước ta.[1]Sách “Vit giám Thông kho Tng lun” do Lê Tung viết năm 1514 có chép vic h Triu m trường dy người Vit hc ch Hán.[2] V sau, tt c các triu đi người Hán cai tr Vit Nam đu thi hành chính sách đng hóa. Triu nhà Minh còn tìm cách tiêu dit nn văn hóa ca ta, như tiêu hy toàn b các thư tch do người Vit viết, bt nhân tài, th gii người Vit sang Trung Hoa phc dch.
Như vy, dân tc ta buc phi chp nhn hc ch Hán t rt sm (trước Triu Tiên, Nht Bn nhiu thế k). Do hiu biết người Hán nên tng lp tinh hoa người Vit đã nhanh chóng nhn ra nếu c hc như thế thì cui cùng tiếng Vit s b thay bng tiếng Hán, dân ta s tr thành mt b phn ca Trung Quc.
Vy cha ông ta đã dùng cách nào đ gi được tiếng nói ca dân tc trong hơn 1.000 năm b cưỡng bc hc và dùng ch Hán cũng như phi tiếp thu nhiu yếu t ca nn văn minh Trung Hoa?
Vn đ này rt cn được làm sáng t đ t đó hiu được truyn thng quý báu ca dân tc ta. Dưới đây chúng tôi xin mo mui góp vài ý kiến nông cn, nếu có sai sót mong quý v ch bo.
Đc ch Hán bng tiếng Vit: Mt sáng to xut sc ca t tiên ta
Ch viết hình vuông là mt phát minh ln ca nn văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thc s dng t đi nhà Thương (thế k 16 đến 11 tr. CN), ngày nay ph biến được gi là ch Hán.
Thc ra trong hơn 2.000 năm k t ngày ra đi, th ch viết y ch được người Hán gi là ch  (t) hoc văn t 文字. Đến đi Đường (thế k VII) cái tên 漢字 (Hán t, tch Hán) mi xut hin ln đu trong sách Bc S 北史 do Lý Diên Th biên son.[3] Sau đó người Nht và người Triu Tiên cũng gi th ch này là Hán t: tiếng Nht đKanji, tiếng Triu Tiên đHantzu. Cho ti nay B Giáo dc Đài Loan vn ch gi là Quc t 國字.
Vì th ch y khi vào Vit Nam còn chưa có tên nên t tiên ta bèn đt cho nó cái tên là ch Nhovi ý nghĩa là ch ca người có hc, bi l Nho  là t dùng đ gi nhng người có hc. Dân ta gi người dy ch là thy đ Nho, bút và mc h dùng đ viết ch là bút Nho và mc Nho.[4]
Đây qu là mt điu đc đáo, bi l Hán ng xưa nay chưa h có khái nim ch Nho; tt c t đin Hán ng c hoc hin đi và các t đin Hán-Vit đu không có mc t Nho t 儒字 vi ý nghĩa là tên gi ca ch Hán.
Có th suy ra: Vit Nam thi xưa không có ch viết (hoc đã có ch Vit c nhưng chưa hoàn thin, chưa din t được các khái nim tru tượng), vì thế khi tiếp xúc vi ch Hán, tng lp tinh hoa ca t tiên ta đã nhn thy đây là mt phương tin cc kỳ hu ích dùng đ truyn thông tin được xa và lâu, không b hn chế v khong cách và thi gian như cách truyn thông tin bng tiếng nói, do đó h đã sm nghĩ ti vimượn th ch này làm ch viết ca dân tc ta.
Mun vy dân ta phi biết ch Hán, mt th ngoi ng. Làm cho dân chúng hc và dùng được mt ngoi ng là vic hoàn toàn bt kh thi thi y. Hơn na ch Hán c khó đc (vì không biu âm), khó viết (vì có nhiu nét và cu to phc tp), khó nh (vì có quá nhiu ch), thuc loi ch khó hc nht trên thế gii.
Nói chung, mi ch viết đu có mt âm đc; không ai có th xem mt văn bn ch mà không va xem va đc âm ca mi chc thm hoc đc thành tiếng). Mi ch Hán đu có mt âm tiếng Hán; mun hc ch Hán tt phi đc được âm ca nó. Viết ch Hán khó, tuy thế tp nhiu ln s viết được, nhưng do khác bit v h thng ng âm, người Vit nói chung khó có th đc được các âm tiếng Hán.
Ngoài ra Trung Quc là mt nước rng ln, đông dân; cho ti trước na cui thế k 20 c nước vn chưa thng nht được âm đc ca ch. Loi ch này ch th hin ý nghĩa, không th hin âm đc, cho nên nhìn ch mà không biết cách đc. Người dân các vùng xa nhau thường đc ch Hán theo âm khác nhau, thm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiu nhau nói gì. Các th tiếng đa phương y ta gi là phương ng, người Hán gi là phương ngôn (方言); Hán ng hin có 7 phương ng ln, nhiu phương ng nh (次方言).
Không thng nht được âm đc ch Hán là mt tai ha đi vi người Hán. Vi người nước ngoài hc ch Hán cũng vy: khi mi ông thy Tàu đc ch Hán theo mt âm khác nhau thì hc trò khó có th hc được th ch này.
Đ có th hc được ch Hán mà không cn đc âm tiếng Hán, tng lp tinh hoa ca t tiên ta đã sáng to ra mt gii pháp xut phát t ý tưởng: nếu người Hán khác vùng có th t đc ch Hán theo âm riêng ca vùng, thì ta cũng có th đc ch Hán theo âm riêng ca người Vit.
Mun vy, mi ch Hán được t tiên ta quy ước đc bng mt (hoc vài, tùy ch Hán gc) âm tiếng Vit xác đnh có gc là âm ch Hán — ngày nay gi là âm Hán-Vit, nghĩa là mi ch Hán đu được đt cho mt (hoc vài) cái tên tiếng Vit xác đnh, gi là t Hán-Vit.
Thí d ch  được đt tên là ch Thy, âm đthy khác vi âm đshuy ca người Hán. Ch , tiếng Hán đsưa, ta đc scThy và Sc là t Hán-Vit, cũng là âm Hán-Vit c.
Âm/t Hán-Vit được chn theo nguyên tc c gng bám sát âm Hán ng mà t tiên ta tng biết.[5] Như ch , âm Hán và âm Hán-Vit đu đchung, tc ht như nhau; ch , Hán ng đhái, ta đHài, gn như nhau. Nhưng hu hết ch đu có âm Hán-Vit khác âm Hán. Như âm Hán là chí, ta đTp ;  giú, ta đNho. Có ch âm Hán như nhau mà âm Hán-Vit có th như nhau hoc khác nhau, như  và , âm Hán đu là thúng, t Hán-Vit đu là Đng ; nhưng  và , âm Hán đu là xi, li có hai t Hán-Vit khác nhau là H và Tế. Ch Hán có hai hoc nhiu âm thì có th có mt, hai hoc nhiu âm/t Hán-Vit, như  có hai âm Hán là tâu và tu, li ch có mt âm/t Hán-Vit là Đô ;  có hai âm Hán sho và shao, cũng có hai âm/t Hán-Vit là Thiu (trong thiu s) và Thiếu (trong thiếu niên).
Th ch Hán đc bng âm Hán-Vit này được dân ta gi là ch Nho. Vì đc ch bng tiếng m đ nên ch Nho tr nên d hc đi vi người Vit: ch cn hc mt ch, nghĩa ch và cách viết văn ch Hán mà không cn hc phát âm cũng như hc nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thi xưa nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tui đã biết ch Nho.[6]Nguyn Trung Ngn (1289-1370) 12 tui đ C nhân, 16 tui đ Hoàng giáp (Tiến sĩ). Người không biết ch cũng có th hc truyn ming các tác phm ngn có vn điu, như Tam Thiên T.[7]
Người biết ch Nho có th xem hiu các thư tch ch Hán, viết văn ch Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vn có th dùng bút đàm đ giao tiếp bình thường vi người Hán. Ch bng bút đàm ch Nho, Phan Bi Châu giao tiếp được vi các nhà ci cách Trung Quc và Nht Bn, đưa được my trăm thanh niên Vit Nam sang Nht hc quân s chính tr, chun b v nước đánh đui thc dân Pháp.
Cn nhn mnh: vì âm/t Hán-Vit không th ghi âm hu hết t ng tiếng Vit cho nên cách đc ch Hán theo âm Vihoàn toàn không th biến tiếng Vit thành mt phương ng ca Hán ng,[8] và dân ta vhoàn toàn nói và nghe bng tiếng m đ.
Ch Nho ch dùng đ viết mà thôi, và ch được gii tinh hoa (trí thc và quan li người Vit) dùng trong giao dch hành chính, ngoi giao, l tiết, chép s, giáo dc, thi c, sáng tác văn thơ. Còn Trung Quc, nhng người nói mt trong các phương ng tiếng Hán đu có th dùng ch Hán đ ghi âm được toàn b tiếng nói ca phương ng y, nghĩa là h có th dùng ch Hán đ ghi âm tiếng m đ.
Dĩ nhiên cách đc tiếng Vit ch có th làm vi ch Hán, là loi ch biu ý (ghi ý), ch không th làm vi ch biu âm (ghi âm). Ngày nay âm/t Hán-Vit ca mi ch Hán có th d dàng viết ra bng ch Quc ng (mt loi ch ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bt kỳ loi ký hiu nào ghi âm tiếng nói, t tiên ta ch có th truyn khu. Thế mà l thay, vic dy ch Nho đã được m rng, thi Nguyn là đến tn làng, có th suy ra t l người biết ch Hán ca dân ta cao hơn Trung Quc!
Ch bng cách truyn ming mà người Vit thi xưa đã to ra được mt b t Hán-Vit tương ng vi b ch Hán khng l — b ch này trong T đin Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn ch; Tiêu chun Nhà nước Trung Quc GB18030 (2005) có 70.217 ch; Trung Hoa T hi có 85.568 ch Hán.
Quá trình tiến hành Vit Nam hóa phn ng âm ca ch Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là mt thành tu văn hóa vĩ đi. Có th phng đoán đó là mt quá trình m, do nhiu thế h người Vit thc hin, th hin sc sáng to bt tn ca t tiên ta.
Nht và Triu Tiên cũng mượn dùng ch Hán, nhưng h t đến Trung Hoa nghiên cu đem ch Hán v dùng ch không b ép dùng t sm như ta. H cũng đc ch Hán theo âm bn ng ca dân tc mình — gii pháp do người Vit nghĩ ra và thc hin trước h nhiu thế k.
Nhà ngôn ng hc ni tiếng Nguyn Tài Cn nói: “Cách đọc Hán Vit là mt tài sn ca riêng dân tc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, S t… thì mi phù hp vi thói quen dân tc, tin li cho dân tc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Vit nhng trường hp này là mt điu hết sc phù hp vi khoa hc. Đọc theo li Hán Vit thì d hiu hơn, bi l ngay trong tiếng Vit đã có khá nhiu tiếng Hán Vit quen thuc, ch đọc lên, nghe được, là hiu được; đọc theo li Hán Vit thì cũng thun tai hơn… ”.[9]
Đúng thế. Thí d t 社會, người Anh biết Hán ng đshưa huây, người Anh không biết Hán ng khi nghe âm đc y s chng hiu gì; còn người Vit biết Hán ng đc “xã hi”, người Vit không biết Hán ng nghe đc s hiu ngay nghĩa ca t; âm “xã hi” thun tai, d đc d nh hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đc Hán-Vit tht tin li cho người Vit. Trong bài sau, chúng tôi s nói thêm v vn đ này.
Ngày nay mi ch Hán trong tt c các t đin Hán-Vit đu phi ghi kèm t Hán-Vit tương ng. Hán-Vit T đin ca Thiu Chu có kèm Bng tra ch theo âm Hán-Vit, dùng tra ch Hán rt tin và nhanh hơn tra theo b th. Người có sáng kiến làm Bng này là bà Nguyn Th Quy (1915-1992), em rut Thiu Chu, khi bà ln đu xut bn T đin nói trên ti Sài Gòn năm 1966.[10]
Như vy, bng cách đc ch Hán theo âm tiếng Vit, t tiên ta đã thành công trong vic mượn ch Hán đ dùng làm ch viết chính thc ca dân tc mình và gi nó là ch Nho. S vay mượn này chng nhng không làm cho tiếng Vit b biến mt mà còn làm cho nó phong phú hơn rt nhiu, tr thành mt ngôn ng cc kỳ linh hot, có th tiếp nhn và Vit hóa hu như toàn b t ng mi xut hin trong tiến trình phát trin ca loài người toàn cu.
Ch Nho khác ch Hán phn ng âm: nó là ch Hán được đc bng âm tiếng Vit ch không đc bng âm tiếng Hán như ch người Hán dùng. Nói cách khác, ch Nho là ch Hán đã được Vit Nam hóa phn ng âm; còn v t dng và nghĩa ch thì cơ bn như ch Hán ca người Hán. Vì thế có người gch Nho  ch Hán-Vit.
Rõ ràng nó là ch ca người Vit Nam, đã Vit Nam hóa phn ng âm, không th coi là ch ca người Hán. Ch Nho là ch viết chính thc ca dân tc ta trong hơn 2.000 năm, k t thi đim mun nht là bt đu thi Bc thuc cho ti khi được thay thế bng ch Quc ng cc kỳ ưu vit, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ng h s ph cp Quc ng.
Cách đc ch Hán bng âm/t Hán-Vit đã đáp ng nhu cu giao tiếp bng bút đàm gia quan li cp thp người Vit vi quan li cp cao người Hán, khiến cho bn thng tr người Hán vn thc thi được quyn lc cai tr dân bn x. Hơn na, cách đó làm cho vic ph cp ch Hán trong người Vit tr nên d dàng, tc đáp ng yêu cu dy ch Hán ca các vương triu người Hán. Vì vy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phi hc nghe/nói tiếng Trung Quc.
Cách đc ch Hán như trên đã có tác dng không ng là làm cho người Hán dù có cai tr Vit Nam bao lâu thì cũng không th tiêu dit ni tiếng Vit và Hán hóa được dân tc ta. Có th là khi bt đu sáng to cách đc y, t tiên ta chưa nghĩ ti điu đó, nhưng rt cuc sáng to xut sc này đã giúp dân tc ta tránh được nguy cơ b người Hán đng hóa. Đây là mt thành công vĩ đi!
Đáng tiếc là hin không thy có thư tch nào ghi chép ai nghĩ ra và thi đim nào xut hin cách đc ch Hán bng âm/t Hán-Vit. Có th cho rng sáng kiến đó ra đi khi ch Hán bt đu vào nước ta, tc mun nht là khong thế k 2 – 1 tr.CN.
Có ý kiến cho rng cách đc Hán-Vit bt ngun t h thng ng âm tiếng Hán đi Đường, c th là Đường âm dy Giao Châu vào khong hai thế k 8, 9.
Nếu hiu ý kiến này theo nghĩa đến đi Đường mi xut hin cách đc Hán-Vit thì e rng khó có th gii đáp câu hi: vy thì trong thi gian khong ngót 1000 năm trước đó người Vit đc ch Hán bng cách nào? Đến đi Đường, người Hán đã thng tr Vit Nam được hơn 9 thế k, quá tha thi gian đ h hoàn toàn đng hóa người Vit bng văn hóa, ngôn ng, khi y tiếng Vit đã b biến mt, sao còn có th xut hin cách đc Hán-Vit?
Phi chăng nên hiu ý kiến trên theo nghĩa: đến thi Đường, cách đc Hán-Vit được hoàn thin nh hc tp Đường âm dy Giao Châu vào khong thế k 8 – 9.
***
Có th kết lun: dân tc Vit Nam tn ti được và không b đng hóa sau hơn 1.000 năm chu s thng tr ca mt quc gia lin k có nn văn hóa ln mnh là nh đã phát huy bn lĩnh trí tu ca mình, th hin ch sáng to được bin pháp đc ch Hán bng tiếng Vit, qua đó đã vô hiu hóa ch trương đng hóa ngôn ng ca các triu đi phong kiến Trung Hoa.
Có nhng người Hán đã nhn ra bn lĩnh trí tu y ca người Vit.
Năm 987, nhà Tng c Lý Giác 李覺 đi s sang Hoa Lư, Vit Nam, được hai v Quc sư Khuông Vit và Pháp Thun đón tiếp, đàm phán các vn đ quc gia đi s và ha thơ. Khi v nước, Lý Giác tng vua Lê Đi Hành mt bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoi hu thiên ưng vin chiế天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài tri này còn có tri khác, nên nhìn thy”. Nói cách khác, thế gii này đâu phi ch có mt mt tri Trung Hoa mà còn có mt tri Vit Nam!
Câu thơ cho thy Lý Giác đã bước đu nhn ra bn lĩnh trí tu ca người Vit. Đúng thế, t tiên ta tht vô cùng tài gii, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đp này!
                                                                 

[1] Nói là “mun nht” vì còn có các quan đim như: ch Hán vào VN qua con đường giao thương hoc truyn bá tôn giáo t lâu trước khi nước ta b Triu Đà chiếm; VN đã có ch viết t đi Hùng Vương (Hoàng Hi Vân: Thin sư Lê Mnh Thát và nhng phát hin lch s chn đng).
[2]宋代中越文学交流述 có câu 黎嵩越鑑通考總論 viết : 趙佗建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類” .

[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và mt s bài khác có viết: T  Hán t  漢字 xut hin sm trong Bc s, quyn 9 [biên son xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一十八年,封金源郡王.习本朝语言小字汉字经书,进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. T Hán t xut hin nhiu trong sách Kim s 金史(năm 1345) đi Nguyên. đi nhà Thanh (1644-1911), thi kỳ đu do ch viết chính thc ca chính quyn không phi là ch Hán mà là ch Mãn (满文) nên phi dùng tên gch Hán 漢字 đ ch loi văn t truyn thng ca người Hán, nhm phân bit vi ch Mãn.

[4] Có ý kiến nói do thi by gi th ch đó được dùng đ dy dân ta hc Nho giáo 儒教nên dân ta gi nó là ch Nho. Nhưng Nho vi nghĩa “người có hc” xut hin trước rt lâu, sau đó mi dùng ch y vào t Nho giáo đ gi hc thuyết ca Khng T. Cùng lý do y, ch Khng có trước khi Khng T ra đi.

[5] Khó có th biết đó là âm tiếng đa phương nào TQ. Trong đó có nhng âm tiếng Qung Đông, như nht, nhì, shp, hc chp khi đc các ch  一,二,十,學習 (âm Hán-Vit đnht, nh, thp, hc tp).

[6] Thí d Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) 8 tui hc ch Nho, 13 tui văn hay ch tt, 24 tui đu Gii Nguyên, 28 tui đu Đ tam giáp Tiến sĩ. Phan Bi Châu (1867-1940) 6 tui hc ba ngày đã thuc lòng 1440 ch Nho trong Tam T Kinh. Trn Gia Minh tác gi sách Huyn thoi Kim thiếp Vũ Môn 5-6 tui đã hc ch Nho truyn khu t người ông mù lòa.

[7] Do nhà Nho Đoàn Trung Còn sáng tác, là mt bài vè dài, mi câu hai âm, đc lên có vn điu d nh.

[8] Năm 1867, G. Aubaret trong cuGrammaire annamite tng sai lm nhn đnh: “Tiếng bình dân nói trong vương quc An Nam là mt phương ng ca tiếng Trung Quc” (trích dn theo Phm Th Kiu Ly trong “Ghi âm tiếng Vit bng ch Quc ng”, sách “Tiếng Vit 6”, Nxb Tri Thc, 2015).

[9] Nguyn Tài Cn : Ngun gc và quá trình hình thành cách đc Hán Vit.

[10] Dn theo Lê Quc Trinh, con trai bà Quy và là người trc tiếp tham gia làm Bng tra này.