khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2020

Làm Báo Xuân 1973 Trường Petrus Ký, Vất Vả, Tự Hào- Tác giả Võ Phi Hùng

 



Niên khoá 1972 -1973 tôi học Đệ Nhất (lớp 12) ở trường Petrus Ký. Thời đó, tôi ham chơi, học hành khá “lè phè”, không thường xuyên đứng đầu lớp, chưa có tuổi mà cũng chẳng có tên trong giới viết lách của sinh viên, học sinh.

Thành tích của tôi chỉ là một giải thưởng làm bích báo cho lớp và là trưởng nhóm Văn Bút Petrus Ký do chính tôi sáng lập. Tuy nhiên, khi nghe đồn là TĐHS của Lê Văn Nuôi đang có ý đồ giành lấy chức Trưởng Khối Báo Chí Petrus Ký, tinh thần Quốc Gia của gia đình Bắc di cư trong tôi nổi dậy. Tôi quyết định tranh cử và sau gần một tháng chạy đua quyết liệt tôi đắc cử Trưởng Khối Báo Chí Petrus Ký niên khóa 1972-1973.

Cuối tháng Mười, 1972, Ban Đại Diện Học Sinh làm lễ ra mắt. Sau đó, tôi bắt đầu ngay việc làm báo Xuân. Ở trường Petrus Ký có hai thầy kiêm nhà báo nổi tiếng là thầy Nguyễn Xuân Hoàng và thầy Vũ Ký. Trong thời gian làm Trưởng Khối Báo Chí, tôi đã nhiều lần được các thầy chỉ bảo, giúp đỡ.

Tờ báo Xuân không chỉ là kỷ niệm thời cắp sách mà còn là biểu hiện của sự tài hoa, sự cố gắng, và ý chí của học sinh toàn trường, nhất là của Khối Báo Chí và các thầy cô hướng dẫn. Báo Xuân thường được gởi tặng những người phụ trách các văn đàn giành cho tuổi trẻ ở những tờ báo lớn. Đôi khi, các vị này viết một bài điểm các Báo Xuân Học Trò. Vì thế, tuy không có những cuộc thi đua quy mô như thể thao, văn nghệ, báo chí cũng là chốn ganh đua, tuy kín đáo nhưng không kém phần hào hứng giữa các trường.

Điều khó khăn nhất khi làm Báo Xuân là phải hoàn tất trong vỏn vẹn hai tháng, vì thế Khối Báo Chí được nhiều “quyền lực” trong thời gian làm báo. Chúng tôi được cấp một phòng riêng, ngay cạnh phòng thí nghiệm của trường để họp hành, làm báo. Tôi được phép ký giấy để các bạn trong Khối Báo Chí trình lên giáo sư xin nghỉ một vài giờ học để đi làm báo. Đó là một “đặc quyền” đáng kể trong ngôi một trường lẫy lừng về kỷ luật và học tập như Petrus Ký.

Bốn phần chính trong việc làm báo Xuân là vận động phương tiện, chọn lọc bài vở, in ấn báo, và bán báo. Phần vận động phương tiện tương đối dễ dàng vì tiền in báo thường được ứng trước từ quỹ sinh hoạt của trường. Tuy vậy, chúng tôi cũng chia nhau đi xin quảng cáo. Những cơ sở có liên hệ thân thiết, thường xuyên giúp đỡ chúng tôi là những trường dạy luyện thi Tú Tài và những tiệm sách. Những tiệm sách lớn ở Sài Gòn như Khai Trí, Tự Lực là những ủng hộ viên lâu năm, luôn luôn ưu ái và sẵn lòng giúp đỡ học trò.

Phần chọn lọc bài vở chiếm nhiều thì giờ, công sức và năng lực nhất. Lý do chính là vì tôi mong báo có nội dung hay, phong phú, sát với xã hội chứ không quanh quẩn trong những khuôn khổ sáo mòn.

Năm 1972 là năm chiến tranh khốc liệt nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Sau những trận giao tranh dữ dội từ cuối tháng Ba, sau khi hàng ngàn dân thường bị Việt Cộng thảm sát trên Quốc Lộ 1, chiến tranh đã lắng bớt sau khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng ở An Lộc và ở Cổ Thành Quảng Trị làm hầu hết Cộng quân phải rút chạy. Tuy nhiên, cái giá của chiến thắng không hề thấp. Đau thương về tới Sài Gòn bằng vô số hòm gỗ phủ cờ. Gia đình nào cũng có người thân tử trận, vật giá tăng cao, những mâu thuẫn về tư tưởng trong xã hội càng thêm gay gắt, và sự phá rối, tuyên truyền chống chính quyền của Việt Cộng nằm vùng cũng leo thang.

Tờ báo Xuân Petrus Ký ra đời trong hoàn cảnh đó, khi máu và nước mắt còn chưa ráo, khi hội đàm Paris còn đang gay cấn, vì thế chúng tôi đã chọn chủ đề là “Vươn Lên” với ý nghĩa tuổi trẻ sẽ vượt lên trên những đổ nát và đau khổ để xây dựng lại quê hương.

Tuy vậy, cũng như mọi năm, hầu hết những bài gởi đến vẫn mang vẻ an toàn của văn chương học đường. Từ đầu thập niên 70, những nhóm thân Cộng đã thâm nhập trường học và thường xuyên lợi dụng tuổi trẻ, vì thế, học sinh trung học như chúng tôi luôn được gia đình và thầy cô nhắc nhở rằng còn nhỏ thì phải lo học, đừng để bị cuốn vào những vấn đề chính trị phức tạp. Hơn nữa, viết những bài “nặng ký” thường khó, cần nhiều thời gian để nghiền ngẫm và bày tỏ trong khi thời hạn thu bài chỉ ngắn ngủi trong một tháng. Có lẽ vì thế nên bài vở học trò ít đề cập đến những điều phức tạp như cảm xúc của người thanh niên thời chiến, nỗi băn khoăn thân phận, lo lắng về tương lai bấp bênh, hay những cảm xúc về sự hy sinh vô cùng lớn lao của những người lính mà rất nhiều người chỉ mới rời ghế nhà trường.

Năm đó, dù vừa trải qua một cuộc chiến kinh hoàng, hình ảnh của quê hương đầy thương tích hay những suy tư về chiến tranh thường chỉ nằm trong bối cảnh, chứ không là cốt chuyện. Chẳng hạn trong một chuyện ngắn, tôi có nhắc đến một hình ảnh của những anh lính Thủy Quân Lục Chiến trong một quán café ở cuối đường Pasteur. Đó là thời gian họ phải rút khỏi Quảng Trị, tháng Năm, 1972. Họ vào đến thành phố trên những chiếc xe GMC lấm đầy bùn đất. Họ ngồi hút thuốc và nhả khói mịt mù. Làn khói xám lãng đãng che mờ những khuôn mặt hốc hác và những bộ áo rằn làm khung cảnh trở thành huyền ảo đượm chút bi tráng, giống như cảnh trong một quán café ở nước Đức trong một cuốn truyện về Đệ Nhất Thế Chiến mà tôi từng đọc.

Như thông thường, những đề tài có nhiều bài nhất là chuyện tình cảm gia đình và tình yêu của tuổi dậy thì. Trong số đó, có một chuyện về tình yêu “chị em” mà thầy Vũ Ký bảo là “táo bạo”. Tuy vậy, thầy không kiểm duyệt, có lẽ vì thầy muốn tập cho chúng tôi tinh thần tự do trong sáng tác.

Nói chung, dù chưa được sắc sảo về mặt thời sự, xã hội như tôi mong đợi, Báo Xuân Vươn Lên vẫn ngời ngời tinh thần Petrus Ký: siêng năng học tập nhưng vẫn phóng khoáng đượm chút lãng mạn “táo bạo”, sẵn sàng vượt khó để xây dựng quê hương Cộng Hòa.

Khi bài vở được chọn xong, khâu trình bày bìa cũng mất khá nhiều công phu. Sau nhiều lần bàn thảo, trang bìa mới được hoàn thành. Trên nền vàng như màu cờ Việt Nam Cộng Hòa, tên Petrus Ký ở trên cùng, phía dưới là hàng chữ Xuân Quý Sửu cạnh hình vẽ bốn thanh niên với tay áo xắn cao trong tư thế sẵn sàng bắt tay vào một công cuộc lớn.

Phần kế tiếp là trình bày báo và in ấn. Đây là lúc đỡ mệt óc nhưng lại rất cực thân. Chúng tôi rạp người trên bàn để vẽ tựa, để trang trí cho mỗi bài, có khi nằm bò trên sàn để sắp đặt những trang báo. Sau khi hoàn thành quyển báo với hơn một trăm trang, chúng tôi đem đến nhà in để chuyên viên layout sửa cho hoàn hảo. Sau đó, báo được giao cho thợ sắp chữ, bước này gọi là làm typo. Mỗi trang báo được đúc trên một bản kẽm, khi mỗi bản kẽm hoàn thành, nhà in lập tức in ra một trang mẫu. Tôi và các bạn phải trực ở nhà in mỗi ngày và duyệt từng trang vừa in xong, nếu có lỗi gì phải sửa bản kẽm ngay cho khỏi mất thì giờ. Khi mọi bản kẽm đã được chúng tôi phê chuẩn, nhà in mới in hàng loạt.

Giữa tháng Một năm 1973, hơn ba ngàn Giai Phẩm Xuân Quý Sửu của Petrus Ký ra lò. Khối Báo Chí lại được phép nghỉ học đi bán báo. Đây là phần vui nhộn, hào hứng nhất vì đó là dịp duy nhất chúng tôi trở thành những người khách được chào đón tại khắp các trường và được thuyết trình về tờ báo của mình. Dàn bán báo thường là các học sinh Đệ Nhất, Đệ Nhị vì người bán phải tự lo phương tiện xe cộ và phải chở theo những chồng báo nặng chịch.

Chúng tôi thường đi nhóm bốn, năm người cho đỡ… run.

Trên những chiếc xe Honda, chúng tôi rong ruổi khắp mười mấy trường tại Sài Gòn. Ở những trường tư như Nguyễn Bá Tòng, Phan Sào Nam, kỷ luật nới hơn so với trường công và số học sinh “ái mộ” dân Petrus khá nhiều, chúng tôi có dịp trổ tài hùng biện, nói như suối chảy và thu tiền bán báo như nước!

Nhưng khi vào Nam Trung Học Chu Văn An (nổi tiếng với học sinh khá “ba gai” và cũng học rất “chì”, thường xuyên ngang ngửa với Petrus Ký trong những màn thi đua nảy lửa), chúng tôi đâm ra khiêm tốn hơn. Võ Trường Toản cũng là một trường nam đáng nể và chúng tôi cũng phải uốn lưỡi cẩn thận trước khi nói để khỏi bị những người anh em rất láu lỉnh bắt bí.

Dĩ nhiên, chúng tôi thích đến các trường con gái nhất, vì thế tôi phải dàn xếp để mỗi nhóm bán báo được đến vài trường nữ cho lên tinh thần. Với cương vị là Trưởng Khối Báo Chí, tôi tin là mình có trách nhiệm “đem chuông đi đấm” ở những nơi quan trọng nhất, vì thế tôi đến cả hai trường con gái nổi tiếng nhất Sài Gòn là Trưng Vương và Gia Long.

Ở trường Trưng Vương chúng tôi được vào mỗi lớp học để bán. Được xâm nhập vào ngôi trường thơ mộng nhất Sài Gòn với danh hiệu “ngôi tháp lá vàng” là một điều rất hào hứng đối với chúng tôi, mặc dù ngoài mặt đứa nào cũng tỉnh bơ, ra vẻ đó là chuyện nhỏ. Sáng hôm đó, trong quần xanh, áo trắng gắn huy hiệu chỉnh tề, chúng tôi cưỡi “ngựa sắt” Honda ôm báo đến rất đúng giờ. Một cô giám thị dắt chúng tôi đến từng lớp, sau vài câu giới thiệu, cô để chúng tôi trổ tài thuyết khách. Đứng trước mấy chục cặp mắt (mắt phượng, mắt nai, và mắt… sư tử giả nai) những tên mồm mép nhất cũng bị cà lăm bất ngờ, tuy vậy, chúng tôi vẫn bán được khá nhiều báo. Lúc cuối, chúng tôi giả vờ cột lại từng chồng báo để nán lại “đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ”một lúc trước khi rời đi.

Trường Gia Long khó hơn, chỉ cho mượn một cái bàn dài để bày bán trong giờ ra chơi. Lúc đó không có giáo sư, chúng tôi đúng là lạc giữa rừng hoa!

Những cô bạo dạn, đanh đá tha hồ khen, chê tờ báo làm chúng tôi cũng lắm lúc toát mồ hôi. Dù sao, tuy ỷ đông chọc ghẹo, các cô cũng ủng hộ Báo Xuân Petrus tận tình. Chẳng gì cũng là tình nghĩa “trai Petrus Ký, gái Gia Long” từ mấy chục năm trời!

Năm đó, chúng tôi hoàn lại tiền cho quỹ sinh hoạt của trường rất sớm vì báo của Petrus Ký nhanh chóng bán hết sạch. Trường cho chúng tôi một số tiền huê hồng, thế là mười mấy đứa trong Khối Báo Chí được vài lần vi vút với bò bảy món và mì vịt tiềm trước khi quay lại chạy nước rút với bài vở.

Tôi sơ ý không giữ lại quyển báo nào cho chính mình. Hồi đó, điều này không làm tôi tiếc nuối vì tôi nghĩ là có thể xin hay mượn một quyển báo từ bạn bè bất cứ lúc nào.

Cuối năm đó, tôi lên đường sang Mỹ du học với mớ hành trang của thời Petrus. Tôi không ngờ, mà cũng không ai ngờ, chỉ hơn hai năm sau Cộng Sản chiếm miền Nam. Cùng với vô vàn mất mát khác, Báo Xuân Học Trò của mọi năm, mọi trường cùng nhiều sách báo hết sức quý giá khác đã bị thiêu trong đống lửa hay chìm vào những thúng ve chai.

Năm nay là Xuân Kỷ Hợi. Đã bốn mươi sáu năm từ ngày chúng tôi đi bán báo Xuân. Thời gian làm phôi phai vài chi tiết, nhưng tôi không bao giờ quên ngày đó. Niềm vui và tự hào thật sâu đậm khi chúng tôi đã giữ tinh thần Quốc Gia cho tiếng nói của học sinh Petrus Ký niên khóa 1972-1973, và hoàn thành Giai Phẩm Xuân Quý Sửu, một tác phẩm văn chương trang trọng và chính thức của trường.

Cuộc Bầu Cử Mỹ Năm 2020 Đi Về Đâu?





Thứ Hai, 2 tháng 11, 2020

Sông Seine Đôi Dòng - Tác giả Trần Thị Diệu Tâm

 

Mới sáng hôm nay thôi, khi mở máy ra, tôi thấy một cái điện thư có tên người gửi lạ hoắc không quen biết. 

"Xin chào chị. Chị có phải ngày xưa ở Huế không ? Chị có phải là người tôi từng quen biết ? Chị có phải đã từng học lớp hè Pháp văn ở trường Providence ?"

Người chi mà lạ, chưa xưng tên xưng tuổi mà hỏi tới tấp như vậy, viết trả lời: "Xin cho biết quý danh". -" Tôi là Doan đây chị, Doan ở xóm Phú Cam đó".Tôi lặng đi một lúc, không vội trả lời. Đứng dậy uống một tách trà nóng pha mật ong. Tách trà thơm mùi mật ngọt đem thêm chút tỉnh táo. Sợ mình đọc sai chữ, tôi tháo chiếc kính lão ra, lấy khăn giấy lau chùi sách sẽ, rồi mang lại vào. "Dạ, đúng." Người bên kia như chờ đợi câu trả lời như vậy, kêu lên "Trời ơi !".

"Trời với đất mà chi nữa, hiện chừ anh ở nơi mô trên trái đất này?" 

"Thì mình đang ở Pháp, từ ngày xa Huế".

Tới phiên tôi kêu trời ơi trong bụng, nhìn lại địa chỉ của Doan, có ghi " fr" ở cuối hàng. Ông này nói đúng, chỉ lo tuổi già lẩm cẩm ở nơi kia mà tưởng nơi này. 

Sau khi biết chắc chắn đó là sự thực đang xảy ra, chắc chắn là người bạn cũ ngày xưa liên lạc được với mình, tôi hỏi số điện thoại ngay, qua cuộc điện đàm, Doan kể lại cuộc sống xa nhà kể từ ngày ấy, năm ấy, rồi lẩn thẩn tự hỏi sống cùng một xứ sở mà cả hai không hề thấy nhau, gặp nhau trong chừng ấy năm nửa thế kỷ, kể cũng lạ. Tôi cười đùa "Ông Trời không cho gặp thì không gặp, thắc mắc chi".

Những ngày mùa hè năm ấy, ở Huế...

Tôi xin học một lớp hè thêm Pháp văn miễn phí tại trường Thiên Hựu (Providence). Ngôi trường này thuộc dòng tu Công Giáo do các linh mục người Pháp cai quản. Mùa hè là mùa rong chơi, nhưng không có phương tiện đi xa khỏi thành phố, có dịp học thêm sinh ngữ không tốn tiền, tôi rất mừng. Nhớ buổi học đầu tiên, cả lớp đang chờ đợi vị thầy linh mục áo đen vào lớp. Nhưng người vào dạy là một thanh niên Việt trẻ trung.

Thầy tự giới thiệu mình là sinh viên ban văn chương Pháp ở đại học văn khoa, nay cha hiệu trưởng cho phép mở lớp hướng dẫn khóa hè, "Anh chị đừng kêu tôi là Thầy chi cả". Có nam sinh nghịch ngợm chọc phá vậy kêu bằng chi? - "Kêu tui là anh Doan là được rồi, các anh chị ở đây đều lớn cả" .

Tôi nghĩ bụng người dạy phải gọi là thầy, nhưng vì trẻ thì gọi là anh thầy.Tôi không dám nói ra. Anh thầy có vẻ nghiêm túc, ăn mặc tề chỉnh, nói năng từ tốn, thỉnh thoảng nói vài câu tiếng Pháp, nên cả lớp hơi khớp, im lặng nghe giảng. Ngồi ngay bàn đầu, dễ bị chú ý nên tôi lo ghi bài chăm chú cẩn thận trên cuốn vở 100 pages có hình ông cyclo đạp. Lại thêm xanh đỏ vào các phần bài quan trọng. Có lần anh thầy đưa vở của tôi cho cả lớp thấy và khen giỏi. Tôi nhớ ông Thầy già dạy Pháp văn ở trường, trời lạnh thầy luôn mặc hai quần, ống quần pijama bên trong lộ ra ngoài. Đó là thân phụ của một nhà văn nổi tiếng xứ Huế. 

Một hôm tôi đến học sớm, ở nhà nóng, không khí ở trường Thiên Hựu mát mẻ vắng lặng rất dễ chịu, thỉnh thoảng thấy bóng vài linh mục áo đen cầm sách đọc ở phía xa. Đang xem lại bài vở tuần trước, cảm thấy ai đó phía sau, e một ông cha nào đến trách mắng mình, chưa đến giờ học mà vô sớm làm chi.

Nhưng đó là anh thầy Doan, hỏi - "Tịnh học trường nào?" - "Dạ, trường Đồng Khánh". - "Vậy à, tui học ở đây suốt thời trung học, kỷ luật nghiêm khắc lắm. Học Đồng Khánh chắc vui". Anh thầy nói hơi nhiều hỏi chuyện này chuyện nọ, như muốn làm quen, tôi hỏi ấm ớ - "Nhà thầy ở gần đây không?" - "Tui ở gần nhà thờ Phủ Cam".

Vô lớp, đầu óc tôi có phần lẫn thẩn vì mấy câu nói vẩn vơ ở ngoài hành lang vừa rồi. Tuần sau có buổi học, tôi đến sớm theo thói quen, và anh thầy Doan cũng vậy. Nhưng cả hai không nói chi nhiều, đám ve ve trên hàng cây Đoát đua nhau inh ỏi xướng ca nhức óc phá rối. Hết buổi học, anh hỏi tôi khát nước không qua uống nước ở phòng bên, tôi lắc đầu. Ra khỏi trường, anh cố ý đi cùng. "Mình mời Tịnh về nhà uống nước cam cho mát nghe". Tôi không trả lời nhưng nghe theo. Đi qua khỏi cầu lên dốc Phủ Cam, tôi cho biết "Nhà Tịnh ở phía An Cựu". Tôi nghe thấy Doan xưng là "mình" trong câu nói mà hơi e ngại. Có chút thay đổi thân mật nào đó.

Đứng trước một ngôi nhà bề thế rộng lớn có bờ tường cao bao quanh, đó là nhà anh thầy, tôi hơi ngỡ ngàng và khựng lại, một gia đình giàu có, cảm thấy mình như một con bé lọ lem. Tôi nói "Tịnh biết nhà rồi, thôi để lần khác" - "Sao không vô chơi một chút ?" Tôi cười lắc đầu và đi về nhà mình. Có lẽ anh ngạc nhiên vì cử chỉ bất ngờ của tôi, không biết có nhìn theo không. Các buổi học tiếp theo, tôi vẫn đến sớm, nhưng anh thì không. Trong lớp, anh thầy không chú ý tôi như trước kia nữa, tôi biết mình không có vị trí nào trong thế giới của Doan. Mấy tháng hè qua đi, hết khóa học. Doan hỏi tôi "Năm học này Tịnh lên Đệ Nhị phải không, có chi cần hỏi Pháp văn cứ đến hỏi mình". Nghe vậy chứ tôi nào dám cả gan một mình đến ngôi biệt thự xa lạ đó.

Lớp đệ nhị phải thi Tú Tài 1, tôi lo bù đầu học, bài nào cũng học thuộc lòng. Mấy cô bạn gái xinh đẹp có người dạm hỏi và sẽ làm đám cưới, bỏ học đi làm vợ khỏi lo thi cử. Mỗi lần từ Đồng Khánh về nhà, ngang qua trường Thiên Hựu, tôi nhớ. Nhớ cả đám ve ve vang vang trong không gian ấy, mặc dù ở đâu trong thành phố này mùa hè mà chẳng có ve kêu. Âm thanh đó giờ đây không làm nhức óc nữa, ve sầu. Không biết hè năm tới anh ấy có mở lớp hè như vậy nữa không. Nhưng năm tới còn rất xa, có biết bao nhiêu là đổi thay. Huế đang chập chờn giữa những thế lực giằng co chính trị, hoan hô đấu tranh đả đảo chính quyền. Người dân Huế chao đảo như đang ngồi trên con thuyền bị sóng lớn, không biết xuôi ngược về đâu.

Ra khỏi cổng trường Đồng Khánh, tôi vội đi nhanh về nhà vì thấy trời âm u báo hiệu một cơn mưa. Bên lề đường có dáng một người đàn ông đứng bên cạnh chiếc xe Velo-solex như chờ ai. Đi gần thì đúng là Doan, có lẽ anh đang hẹn hò chờ đợi một người đẹp nào ở đây chăng, do đó tôi muốn tránh, chờ bớt xe cộ qua lại để băng qua phía bên kia đường. Doan chạy tới kéo tay áo tôi nói nhanh "Tịnh ơi, mình chờ lâu lắm, sao ra trễ vậy ? ” Tôi ngập ngừng - "Dạ, cô nhờ ở lại làm sổ điểm cuối tháng, tưởng anh Doan đến chờ ai."

"Chờ Tịnh chứ chờ ai nữa!"

Cuộc gặp gỡ bất ngờ quá không kịp cho tôi cảm động hay bồi hồi. "Lâu rồi không gặp anh". Doan nói nhà mới mua cho chiếc xe này, thôi lên xe mình chở về nhà. Tôi leo lên ngồi yên sau như cái máy không chút do dự. Đừng làm bộ từ chối yểu điệu kiểu cách nữa tôi ơi, hãy sống thực với lòng mình. Đi ngang qua Chaffanjon, trời đổ mưa, Doan dừng xe nói mình ghé vô đứng núp mưa. Bánh croissant mới ra lò nóng thơm phức mùi bơ, Anh mua hai cái, đưa cho tôi một, nói ăn đi chờ mưa tạnh, Doan ăn ngon lành, tôi cũng ăn ngon lành, vừa ăn vừa nhìn mưa cho đỡ ngượng. Chiếc bánh ngon chi lạ, bên trong có mấy lát lạp xường mỏng béo ngậy. Có lẽ đây là chiếc bánh ngon nhất trong đời. Tôi gan dạ, không e dè chi cả, cố bỏ bớt cái tự ti của mình trước người thanh niên này. Có lẽ mình cũng có điều gì đó đặc biệt nên chàng mới chú ý, mới chịu khó đem xe đến đón mình ở trường chứ. Tôi không còn là một cô gái tầm thường như tự nghĩ lâu nay. 

Trong khi đó Doan chăm chú nhìn tôi "Mình thấy Tịnh lúc này người lớn hơn trước, mới nửa năm không gặp mà thay đổi nhiều, may chiều nay gặp được Tịnh." Anh nói tôi thay đổi nhiều, có lẽ là thấy tôi xinh đẹp hơn chăng. Mưa bớt rơi, tạnh dần, tôi chỉ mong mưa thật lớn mưa thật to, để còn đứng chờ lâu bên nhau. Khách bắt đầu vào mua bánh nhiều, Doan hơi ngại nên chở tôi về. Anh nói lúc này có xe, tha hồ cùng đi chơi đó đây. Tôi trả lời "Tịnh chỉ thích lên chùa". Doan cho biết gia đình mình thuộc gốc đạo Dòng, ít lui tới cảnh chùa, nhưng nếu Tịnh thích thì đi cho vui, dạo này Huế xảy ra nhiều chuyện quá, không biết ra sao.


Những lần cùng lên chùa, đôi khi cùng ở lại ăn cơm chay. Doan hỏi tôi có sinh hoạt chi với các sinh viên học sinh Phật Tử không, tôi lắc đầu vì không mấy bạn bè, chỉ hạn chế lớp học bài vở. Gia đình tôi ai nấy đều thích học. "Tịnh sống trong một ốc đảo riêng tư, thích ở nhà đọc truyện và viết nhật ký, Tịnh có một cuốn vở rất dày mấy trăm trang, bìa bằng gỗ cứng rất đẹp, quà tặng của một người quen". Doan cười cười hỏi "Ai mà sành tâm lý vậy?" Tôi thấy mình hơi dại, không hỏi mà khai ra, nhưng vì thực lòng. Anh bỏ qua không hỏi tiếp, tôi thấy anh tế nhị lịch sự. 

Khung cảnh ngôi chùa nhỏ trên sườn đồi như làm tăng thêm sự êm đềm ấm áp cho cả hai. Tôi đứng nhón gót vít một nhánh cây đào tiên khá cao, định hái một quả, nhưng anh ngăn lại "phải xin phép không nên hái trộm, trái còn non hái làm chi". Bỗng nhiên hàng nút áo dài tôi bung ra, vô tình mở một phần thịt da. Tôi gài lại hàng khuy, chợt thấy anh nhìn mình ngẩn ngơ. Doan nói "thôi mình đi về". Trên con đường đưa tôi về nhà, anh im lặng không nói năng chi. Một nhúm lửa vừa nhen lên, chưa kịp cháy đỏ, đã tắt ngúm.

 
Dạo này các cuộc biểu tình của sinh viên học sinh Phật tử tranh đấu diễn ra nhiều nơi, rần rần rộ rộ. Gặp Doan, tôi hỏi về Ông Cậu NĐC, nhưng anh tránh né. Tôi lại hỏi anh có biết và thấy mặt bà cố vấn NĐN không. lần này anh cho biết "Bà rất đẹp, ăn nói sắc sảo, cư xử rất văn minh, rất Tây, nhưng không thích hợp với phong cách gia đình của Huế xưa. Mỗi dịp tết trong đó mới về chúc tết Cụ Cố". Anh cũng dặn tôi đừng nói cho ai nghe. Doan kín đáo, ít nói chuyện về gia đình. Tôi không biết anh có liên hệ thế nào với gia tộc uy quyền đó. Có một lần anh tâm sự gia đình muốn anh sau này đi tu trở thành linh mục, nhưng anh chưa có "ơn kêu gọi". Họ không muốn anh giao tiếp với bạn gái nhiều, nhất là với người không cùng đạo. 

Lúc đó tôi rất ngạc nhiên về chuyện gia đình Doan muốn anh hướng tới mục đích linh mục. Một thanh niên trẻ tuổi có đầy đủ phẩm chất để thành đạt với đời sống, sao lại phải trốn tránh, đi tu là ẩn náu. Tôi nói suy nghĩ đó, anh trả lời ngay: "Đi tu là giúp đời, đưa đạo vào đời, chứ không ẩn náu, nhưng có khi cũng là phương tiện đưa đến quyền lực". Nghe thì nghe vậy, chứ tôi chẳng dám thắc mắc chi thêm. Cảnh sống của anh, gia tộc của anh là một thế giới khác với tôi.

Một buổi chiều nghỉ học, trên con đường ngang qua cánh đồng An Cựu thơm mùi lúa chín, tôi gặp Doan. Tôi tưởng anh muốn đến thăm tôi, nhưng anh cho biết muốn ghé vô nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế một chút. Tôi theo Doan vào. Anh làm dấu thánh giá quỳ xuống, đầu cúi xuống, có vẻ lo lắng căng thẳng, trái với bản tính điềm tĩnh. Tôi đứng bên, sợ quỳ đau đầu gối. Nhưng tôi biết cầu xin thánh, thần, ơn trên phù hộ cho gia đình, nhất là cho Doan. Cầu nguyện xong anh đứng dậy đi ra, Doan cầm lấy tay tôi rất chặt, nói nhỏ:

-"Có thể anh sẽ vô Sàigòn vài ngày nữa, trong đó đang lo giấy tờ cho anh đi qua Pháp học nội trú trong một chủng viện. Anh chưa định nói cho Tịnh biết, sợ Tịnh buồn" 

- "Anh nên lo mọi chuyện trước cho yên tâm".

Hai bàn tay nắm lấy nhau mà sao cảm thấy lạnh ngắt, không ấm, không nồng nàn như tôi từng vẽ vời trong trí tưởng một ngày nào trước đây. Nếu hai chúng tôi ở trong một cảnh trí thơ mộng khác, có lẽ chúng tôi sẽ ôm nhau, và hôn nhau. Tôi đã từng ao ước biết bao nụ hôn đầu với anh, nhưng nụ hôn ấy chưa xảy ra, không xảy ra bây giờ, sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Tôi muốn ra khỏi nhà thờ, để có một cử chỉ ấu yếm nhẹ nhàng với anh trước khi xa nhau. Nhưng anh thực tế và chín chắn hơn tôi, lấy sổ tay ghi chú địa chỉ tôi cẩn thận, nói vô trong đó sẽ viết thư cho Tịnh biết ngay. Và rồi anh phóng xe đi đâu gấp, không còn chở tôi về nhà như mọi lần gặp nhau.

Vừa buồn vừa cảm thấy tủi thân. Chàng chẳng lãng mạn chút nào. Chàng được giáo dục trong ngôi nhà kín cổng kia, sáng tối đọc kinh, quỳ chai gối, chàng biết chi đâu hương thơm dịu dàng của tình ái. Có lẽ Chúa xuống thế làm người chưa nếm mật ngọt yêu đương hạ giới, chưa biết hôn người phụ nữ nào. Vì thế, làm sao tín đồ dám ca tụng ngợi khen cảm xúc của tình yêu thân xác. Nếu chàng hôn tôi lần đầu tiên và lần cuối, tôi hãnh diện sung sướng biết bao, tôi về nhà viết đầy những trang nhật ký diễn tả cái cảm xúc huyền diệu đó. Chàng có đi xa đâu nữa, tôi cũng còn kỷ niệm mà tưởng nhớ, mà thương yêu. Trở về, tôi chỉ muốn khóc một mình đâu đó trong góc vườn. Chàng học văn chương Pháp, biết bao lời thơ ca ngợi tình yêu trong các trang sách, chàng thuộc lòng biết bao vần thơ tình diễm lệ, sao không hề nói cho tôi đôi lời. Vì sao, hay anh sợ mình chịu trách nhiệm, chịu ràng buộc, chịu hệ lụy vì một chút tình cảm tuổi trẻ, vì một nụ môi hôn. Tôi không khóc, nước mắt không chảy mà lòng sao mênh mang buồn.

Từ đó không có tin tức thư từ chi của Doan gửi về. Một dấu chấm hết, xuống dòng sang trang.

Rồi mùa thu năm đó, một buổi sáng sớm, 1/11/1963, đài phát thanh từ Sàigòn đưa tin cuộc đảo chánh thành công, hai vị Anh Em lãnh đạo nền Đệ Nhất VNCH đã "tự sát". Huế ngập trong bầu trời hoảng loạn, vừa hoan hô nồng nhiệt vừa thù hận ngút trời. Sinh viên Huế như được cởi trói xiềng xích, tụ tập hát ca đàn xướng nhảy đầm xập xình tận sáng trong các khuôn viên đại học. Từ lâu Huế là vùng đất con người sống mà u uất, trầm mình trong dòng sông tù đọng tuồng như không bao giờ muốn chảy ra biển cả, chờ cơ hội là nổi lên dâng trào sóng cuộn hàng hàng lớp lớp cho thỏa chí. Huế phải là nơi phất ngọn cờ đầu đấu tranh lịch sử cho cả nước, mặc kệ tả tơi. Huế là miếng mồi ngon cho lợi ích chính trị, sau khi miếng mồi được chia năm xẻ bảy, Huế xơ xác tàn tạ bị vất bỏ. 

Tôi đậu xong Tú Tài toàn phần, tìm cách rời Huế, một thành phố ở thì ghét, mà đi thì thương.

Thời gian trôi qua, năm này tháng nọ. Thỉnh thoảng nhớ lại ngày tháng cũ thời học sinh, bóng dáng Doan hiện ra, tôi cho rằng có lẽ anh thầy nay đã trở thành một tu sĩ linh mục, biết đâu sẽ trở về nước phục vụ trong một xứ đạo nào đó, tình cờ gặp nhau: Tôi sẽ cúi mình kính cẩn thưa cha xưng con lễ phép. Chuyện coi bộ giống như tiểu thuyết cổ điển. Tưởng tượng thôi, có thể ông linh mục được sai đi phục vụ ở miền đất Sudan Phi Châu và đã chết bên ấy vì bệnh tật.

Quá vãng nửa đời người, trong một không gian bé nhỏ của màn hình máy điện toán, tôi gặp lại anh. Doan cho biết sau khi qua Pháp, hai năm ở nội trú trong một dòng tu, Doan xin ra khỏi, đi học lại phân khoa khác ở Sorbonne, rồi có vợ đầm tên Kathy bạn hồi sinh viên ở đó. Doan dạy ở một đại học, nay về hưu. 

Qua cuộc điện đàm, tôi nói anh may mắn không có mặt trong thảm kịch chính trị một tháng mười một. Nhưng anh cho rằng mình là kẻ vô phước, muốn làm người con hiếu thảo, nhưng lại là đứa con bất hiếu, vì không được chia xẻ những đớn đau bất hạnh đó, lại bỏ cuộc tu hành nửa chừng, thôi mọi chuyện qua lâu rồi, mọi người liên hệ đều đã nằm xuống. Người còn sống là kẻ hứng chịu nhiều đau khổ hơn cả. Anh lưu trữ rất nhiều báo chí sách vở trình bày thời gian lịch sử đó, họ bình luận rồi họ phê phán. Sự thật như thế nào, ai mà hiểu được. Sự thật của người này không là của người kia, cái đúng của người này lại là cái sai của người khác, mọi chuyện tương đối thôi Tịnh à. Chuyện chi đã xảy ra thì phải xảy ra thôi, có khi người ta không thể làm khác đi được. Nên suy nghĩ như vậy kẻo rồi sống mà đau lòng lắm.

Mấy lần điện thoại, hầu như lúc nào anh cũng ngồi sẵn đó để nhấc máy trả lời háo hức ân cần. Anh nói mình thèm nói tiếng Việt, thèm nói tiếng Huế, thèm ăn món Huế, nói chung thèm đủ thứ về Huế. Rồi kết luận "Anh rất mong gặp em"!

Hình như người đàn ông này muốn sống lại những tháng năm dài vắng mặt trên quê hương, muốn về miền đất cũ trong tâm tưởng, tìm lại tuổi trẻ bị đánh mất. Quá khứ của anh, ký ức của anh, kỷ niệm của anh, còn ai nữa đâu, ngoài tôi, Tịnh ngày xưa. Anh giờ đây muốn nhóm lên ánh lửa mà xưa kia anh cố thổi tắt. 

Tôi giờ đây không còn là cô nữ sinh mộng mơ và lãng mạn. Chín vàng tháng năm, vết hằn của thời gian đậm nét trên khuôn mặt trên khóe mắt. Lòng tôi phủ nham thạch.

Anh ấy vẫn luôn gửi điện thư, mời tôi về thăm nhà anh, tôi ậm ừ không nhận lời. Anh lại nói muốn lên gặp tôi tại Paris, tôi cũng lảng tránh. Những thư anh gửi xem xong tôi xóa bỏ, không lưu trữ làm chi thêm nặng lòng chiếc máy cũ. Nơi cư ngụ của anh ấy nằm phía tây bắc của nước Pháp, gần một chi nhánh hạ nguồn sông Seine chảy qua, trước khi đổ ra biển Manche. Tôi ở phía đông bắc, bên bờ sông Seine. Dòng sông nào rồi cũng xuôi về biển cả, như cuộc đời người sẽ xuôi về miền lặng thinh, đừng gây chi cho sóng động dòng sông hiền hòa.

Nước Mỹ, Chicago Và Tôi - Tác giả Bs Trần Xuân Ninh

Lần đầu tiên tôi biết đến nước Mỹ là do tên thành phố “Trăm quan tiền sáu cô”( San Francisco) đọc được trong một chuyện diễu trên một tờ báo mà tôi không thấy gì là buồn cười lắm, lúc học đệ thất ở Hà nội. Sau đó thì cũng trên báo tôi được biết đến thành phố Chicago có hai điều nổi tiếng. Một là tay trùm mafia Al Capone tung hoành không coi cảnh sát ra gì. Hai là Chicago có những nhà máy sản xuất thịt hộp, máy chạy không ngừng. Con bò được lùa vào cửa ở một đầu nhà máy. Phía cửa kia là những hộp thịt ngon lành sạch sẽ được chất lên xe chở ra thị trường. Trong cái giây chuyền sản xuất to lớn phức tạp này, có những công nhân luôn tay làm việc. Thỉnh thoảng tai nạn xẩy ra làm người thì bị đứt ngón tay, người thì bị đứt bàn tay, cánh tay hay hơn nữa. Trong những trường hợp đó, máy vẫn tiếp tục chạy vì ngừng lại thi làm trở ngại sản xuất, sinh nhiều tốn kém. Cho nên người ta chỉ đánh dấu cái loạt thịt hộp nào có tai nạn xẩy ra để vất đi. Có khi cả người bị tai nạn mà chết thì người ta lấy cả một lô thịt hộp đó trả về cho thân nhân để đưa vào trong nghĩa địa. Là một thằng bé mới lớn tôi lấy làm lạ lùng lắm, nửa tin nửa ngờ và tưởng tượng rằng giá có một ngày sang Mỹ, và tới Chicago thì thế nào cũng đi thăm cái nghĩa trang hộp thịt người đó để rõ thực hư. Nghĩ là nghĩ như vậy thôi, chứ tôi biết chuyện đi thăm này không thể nào xẩy ra. Vì lúc đó máy bay đường xa hiếm và tốn kém. Phương tiện di chuyển sang Tây là tầu thủy mất nhiều tuần lễ cũng tốn kém quá sức nhà rồi, làm gì dám nghĩ đến chuyện đi đâu xa. Bởi viễn tượng tương lai thì cá nhân tôi sẽ là một chân ký ga, một thầy tham hay phán đâu đó, hay một thầy giáo, lương tháng đủ sống dưa muối như thầy Quỳnh dậy tôi lớp nhất trường Hàng Vôi (sau đổi là trường Nguyễn Du), mà tôi lâu lâu có vinh dự được ôm chồng thông tín bạ thầy phải mang về nhà để ký ở đường Bà Triệu gần nhà tôi.

Bẵng đi đến sau năm 1954 di cư vào Sài gòn, vài người bạn cùng lớp với tôi học xong tú tài một, bỏ đi sang Mỹ học kiểm soát không lưu là một nghề mới. Lúc về kể chuyện nước Mỹ thật hấp dẫn. Thức ăn thì nhiều phần có vị ngọt, và đặc biệt là món “chó nóng” (hot dog) kẹp trong một loại bánh mì mềm mại ngọt dịu hết chê. Muốn đi xa không nhất thiết phải có tiền. Chỉ phải đứng ở vệ đường “hitchhike”. Tức là thấy xe hơi chạy ngang, lấy ngón tay cái làm hiệu là thế nào cũng có người cho đi. Nước Mỹ qua chuyện kể của người bạn học đi xa về thật dễ thương. Nhưng cũng vẫn thấy quá xa vời, sau khi nộp đơn cho hội Việt Mỹ xin đi Mỹ du học bị bác bỏ mặc dầu tôi là loại học trò khá trong lớp và tiếng Anh kể là loại giỏi bấy giờ. Sự bác bỏ này tôi chẳng hiểu lý do. Khi được vào phỏng vấn, được hỏi sang Mỹ muốn học gì, tôi trả lời muốn học nghề sửa xe hơi để về nhà mở xưởng sửa xe hơi kiếm sống. Bây giờ thì tôi đã hiểu rằng người ta cho mình đi là để sau đó làm những thứ người ta muốn mình làm, chứ không phải làm theo cái điều mình muốn. Tuy rằng trong danh sách các ngành du học có ngành máy móc xe hơi. Nước Mỹ với tôi lúc đó là qua hình ảnh của tướng Eisenhower anh hùng thế chiến thứ hai làm tổng thống, tiếp đón long trọng tổng thống Ngô đình Diệm; qua chuyện đạo diễn Mỹ Mankiewicz làm phim “Một người Mỹ ở Sàigon” ngay trước chợ Bến Thành. Tôi có đến xem vào một buổi tối thì chẳng thấy gì hấp dẫn, chỉ thấy nhiều máy quay phim to tướng để rải rác và những đèn rọi, lâu lâu mới bật rồi tắt… Trong đám đông vây quanh tôi chờ mãi không thấy cảnh đấm đá hay ngựa phi hay hôn hít như trên màn ảnh cho nên chán bỏ về. Những năm sau này, khi con gái lớn của tôi có giai đoạn làm sản xuất phim ở Hollywood tôi mới biết quay phim thật sự là một diễn trình dài lâu, dàn dựng, máy móc, khung cảnh, người ngựa mãi rồi mới quay một vài cảnh rồi lại ngưng. Không phải là quay cái vù như quay thi xe đạp hay chạy bộ hay đấu quyền Anh. Đến năm 1963 thì tôi lại có cảm tình với nước Mỹ hơn nữa vì thấy đại sứ Henry Cabot Lodge mặc quốc phục Việt Nam, sang để giúp người Việt Nam lật đổ chế độ gọi là “độc tài công giáo trị gia đình trị Diệm Nhu” vào ngày mà người Mỹ gọi là lễ những Con Ma Halloween.(!). Sau đó là những lộn xộn lùng tùng xòe chính trị dẫn đến biến cố Mậu thân khiến một thanh niên năng động nhiệt tình là tôi thất vọng đến độ tìm đọc Phật Lão Trang để thoát khỏi cơn trầm cảm thì, đột nhiên do một cơ duyên cho tới bây giờ cũng không giải thích được, tôi có giấy sang Mỹ học giải phẫu tiểu nhi, thay vì đi Paris như chương trình ban đầu của trường Y khoa đã bị hủy bỏ vì lệnh tổng động viên sau Mậu Thân. Kể chi tiết tại sao ra ở đây chẳng có gì đáng nghe. Tuy rằng đối với tôi thì chuyện đi Mỹ du học đến là do tiểu hạn năm thân 1968 có một cái thời điểm thay đổi lớn đột ngột vì các sao tụ lại ở trong lá số tử vi của tôi theo một cái cách ví như “tiếng sấm động giữa trời xanh”.

Children's Memorial Hospital (1970)-2b.PNG

Thế là tôi đến Chicago, cái thành phố Mỹ mà hồi niên thiếu tôi đã có vài ấn tượng mơ hồ hấp dẫn đã nói. Tuy thực tế chỉ sống trong cái không gian nhà thương, thư viện, đường hầm nối với khu nội trú, nhưng tôi vẫn có thì giờ lâu lâu cuối tuần ra phố để mà thấy vài ba thanh niên phản chiến đứng ở trung tâm thương mại thành phố phát truyền đơn chống chiến tranh. Và qua truyền hình mầu hàng ngày xem những hình ảnh chiến tranh tàn phá mà tôi không biết là được chọn lọc có dụng ý. Có những người Mỹ đen tự do mắng “Nixon the pig” trên truyền hình. Tôi làm việc với những nhân viên y tá bác sĩ Mỹ. Tôi được mời dự cái party thân mật tối ngày giáng sinh đầu tiên ở nhà hai cô y tá Mỹ sinh đôi xinh đẹp nhỏ nhắn. Và được hỏi rằng ở VN đúng lúc giao thừa trai gái có tục lệ hôn nhau dưới cành mistletoe không. Tôi thật thà và (vô duyên) trả lời không.

Trong khuôn khổ đào tạo nhân viên giảng huấn trường y khoa đại học Sàigon, tôi được hội Y khoa Mỹ (AMA) gửi sang Hoa kỳ theo một chương trình tu nghiệp đặc biệt tùy theo khả năng của tôi (tailored program) vì tôi đã là bác sĩ giải phẫu tiểu nhi ở Sàigòn. Cứ ba tháng một lần, tôi sẽ thảo luận lượng giá kết quả cùng giáo sư hướng dẫn để sẽ tiếp tục ở lại học thêm hay đổi sang một bệnh viện khác. Tôi đã bắt đầu với giáo sư Orvar Swenson ở Children’s Memorial Hospital , Chicago, do khuyến cáo của giáo sư Trần Ngọc Ninh. Giáo sư Orvar Swenson là một chuyên gia giải phẫu tiểu nhi tiên phong trên thế giới. Ông là người Thụy điển đến Mỹ năm 8 tuổi, thân phụ là thợ làm bánh xe bò. Vài năm sau cả bố mẹ đều từ trần, ông phải cùng với người anh làm que đánh lửa bán cho hướng đạo kiếm sống, rồi chuyển sang nghề sản xuất cung tên. Sau khi tốt nghiệp đại học năm 24 tuổi thì theo học Y khoa tại đại học Harvard. Trong khi là bác sĩ tập sự, ông đã nghiên cứu bệnh bẩm sinh Hirschsprung (Phình đại tràng) khiến cho đứa bé sơ sinh không đại tiện được và chết sau một thời gian ngắn. Không có cách chữa nào ngoài cách bơm rửa ruột hàng ngày. Số hiếm hoi những trẻ sống sót thì không lớn được và gầy còm. Ông Swenson - vốn là dân nhập cư - là bác sĩ thực tập (resident) được giao cho công việc kể là hôi hám không hấp dẫn này, trong khi bác sĩ đàn anh là Robert Gross chiếm làm những bệnh “ngon lành” hơn. Không than phiền, ông kiên nhẫn thi hành nhiệm vụ và nghiên cứu nghiền ngẫm căn bệnh. Sau cùng, ông đã tìm ra nguyên tắc giải phẫu chữa bệnh này và trở thành nổi tiếng thế giới. Và ông là một trong vài người tiên phong đặt nền tảng cho sự khai sinh ra chuyên khoa Giải phẫu tiểu nhi ở Mỹ và thế giới. Cuốn sách của ông và cuốn sách của bác sĩ Gross (Surgery of Infancy and Childhood) là hai cuốn mà UNICEF viện trợ cho khu Giải phẫu Tiểu nhi bệnh viện Nhi đồng Sài gòn tôi đã đọc để theo đó mà mổ xẻ chạy chữa cho con nít.

Children’s Memorial Hospital (1970)

Children’s Memorial Hospital (1970)

Trong cuộc họp với ông để lượng giá ba tháng tu nghiệp của tôi trước lễ giáng sinh năm 1968, ông đã quyết định đưa tôi vào vị trí chính thức, nghĩa là làm việc như một bác sĩ được huấn luyện ở Mỹ - nếu tôi đồng ý. Và nói với tôi rằng “tôi biết anh có kinh nghiệm ở Việt Nam rồi. Nhưng trong thời gian ở đây thì nên để ý theo học hỏi các phương cách ở đây rồi lúc về anh tha hồ chọn lựa cách mà anh cho là tốt nhất để làm ở Việt Nam”. Thật là một bậc thầy đáng nể và khiêm nhường, ngay cả đối với một bác sĩ nhỏ bé từ một nước nghèo nàn lạc hậu, khả năng tiếng Anh tạm đủ nghe và nói, là tôi. Dĩ nhiên là tôi đồng ý.

Tôi xin ông cho ở trong một cái phòng trong khu dành cho các nội trú trực nối với bệnh viện bằng một đường hầm băng ngang mặt đường Fullerton, và nối với thư viện, với giá 30 đô la một tháng. Tôi sống như một con chuột chũi dưới hầm. Sáng 5.30 dậy sửa soạn vội vã rồi sang cafeteria bệnh viện ăn sáng, khám bệnh nằm cho xong để có thể đẩy bệnh mổ tới phòng mổ lúc 7 giờ, cho nhân viên phòng mổ xếp đặt sửa soạn kịp cho bác sĩ giải phẫu có thể đặt dao rạch da đúng 7.30 am. Tùy hôm, tùy bệnh mổ lâu mau, mà sẽ ăn trưa lúc một giờ hay hai giờ rồi đi khám bệnh buổi chiều, cho đến thường là 5 giờ trở về phòng. Coi nửa giờ truyền hình thời sự CBS trong phòng hội khu nội trú tôi ở, với xướng ngôn viên Walter Cronkite nổi tiếng với câu kết luận khinh khỉnh ta đây “and that’s the way it is” (Ấy chuyện là như thế đó!). Lâu lâu cuối tuần rảnh rỗi đi xuống trung tâm thành phố, đường Michigan và đường State ngắm các cửa hàng. Thấy lèo tèo vài thanh niên nam nữ đứng phát truyền đơn phản chiến chẳng ai để ý. Và một số mặt non choẹt là tín đồ của giáo phái Ấn Độ Hare Krishna đứng loanh quanh múa may nhún nhẩy tụng đi tụng lại mấy chữ Hare Krishna. Qua những chuyến dạo phố đó, tôi học được hai điều. 1/Là thanh niên Mỹ tỉnh bơ làm những điều họ thích. Vài thanh niên phát truyền đơn chống chiến tranh mà dần dần đã trở thành phong trào phản chiến đủ lớn để làm Mỹ rút khỏi VN. So với giới trẻ Việt Nam thì suy nghĩ trước sau kỹ lưỡng ý kiến mà rút cuộc có khi là yên lặng luôn 2/Tốc độ nhanh chóng tiêu thụ của hàng hóa. Bởi vì tôi nhìn thấy một cái kinh dâm đẹp mắt đề giá trên một trăm đô la định mua cho cô em nhưng ngần ngại vì là số tiền lớn đối với suy nghĩ của tôi và cũng vì trong túi không đủ tiền. Nên bỏ qua để về nhà nghĩ lại. Lần sau trở lại thì thấy cái kính đó đã có người mua rồi. Chẳng bù với Sài gòn, mấy thứ hàng đẹp để cả năm ở các cửa hàng khu buôn bán sang trọng đường Nguyễn Huệ với Lê Lợi cũng chưa chắc bán được.

Giờ rảnh thì vào thư viện đọc sách. Đến độ trở thành bạn của người coi thư viện là một bà người Serbian và hỏi chuyện về nước Nam Tư và dân Serbian. Nhờ thế tôi biết rằng ở Chicago có một tiệm ăn Serbian do một ông đầu bếp già trước kia từng nấu cơm cho vua Serbian. Khi vương quốc Serbian chấm dứt sau thế chiến hai với sự thành lập nước trung lập Nam Tư dưới quyền Tito (không cộng sản không tư bản), ông đầu bếp này nhập cư sang Mỹ. Tôi liền rủ bà đi ăn để nếm mùi món ăn vua Serbian từng ăn (dĩ nhiên tôi trả tiền). Quán ăn ở trên đường Lawrence gần đường Lincoln. Cũng lạ miệng. Đặc biệt là được nghe một nữ ca sĩ nổi danh hạng nhất của Nam Tư cũng là dân nhập cư. Khi vượt biển sống sót và định cư ở Chicago năm 1980, tìm đến quán ăn Serbian nọ thì không còn dấu vết.

Nhân nghe người ca sĩ nổi danh Serbian, tôi chợt tới Thái Thanh và trạnh nghĩ không hiểu rồi miền Nam có sẽ đến chỗ mà Thái Thanh sẽ phải sang Mỹ hay không! Trong tiềm thức tôi không khỏi cho rằng đó là một nghĩ gở. Chỉ năm năm sau, 1975, miền Nam sụp đổ, Thái Thanh bị tắt giọng 10 năm dưới chế độ mới. Khi sang được Mỹ năm 1985 thì đã yếu. Tiếng hát chỉ còn là vang vọng một thời xa xưa.

Tôi trạnh nghĩ như thế vì đã chứng kiến những cảnh lộn xộn lùng tùng xòe chính trị sau vụ đảo chính ông Diệm ngày 1 tháng 11/1963 do Mỹ thúc đẩy mấy viên tướng tham vọng, mà tôi là một thanh niên 27 tuổi “có lòng” (nghĩa là quan tâm đến đất nước cho nên ngây thơ - nếu không muốn nói là ngu xuẩn) sung sướng nghĩ là “cách mạng 1 tháng 11”. Để rồi đã nhanh chóng thất vọng với cuộc “cách mạng”. Vì khi ra trường bị trưng tập làm y sĩ trung úy, tôi được cho đi làm việc ở đại đội 22 quân y trung đoàn 40 ở Kontum, thay vì là đi làm việc ở các bệnh viện theo như sắc lệnh của tổng thống Diệm là các nội trú giải phẫu sẽ phục vụ ở các bệnh viện giải phẫu. Lên Kontum tôi lại một lần nữa thất vọng khi thấy các tân nữ quân nhân vốn là học sinh Trưng vương yêu mầu tím và yêu đời lính, của sư đoàn và bệnh viện 2 dã chiến gồm tổng số 3 người được các sĩ quan tâm lý chiến chăm chút hướng dẫn tập nhẩy đầm cho kịp lễ giáng sinh. Bởi lẽ “hội đồng tướng lãnh cách mạng 1/11/63” ngay sau khi thành công đã cho phép quân đội nhẩy đầm là thứ mà bà Ngô đình Nhu ngăn cấm.

Gần hết chương trình huấn luyện, giáo sư Swenson đề nghị với tôi rằng nếu chịu khó ở lại để học thêm cơ thể bệnh lý về các bệnh tiểu nhi, như ông khi làm bác sĩ thực tập ở Harvard, thì ông sẽ nói với giáo sư W. Boggs là trưởng khoa bệnh lý cơ thể học của nhà thương Children’s Memorial Hospital ở Chicago. Tôi không cần cù như ông, cho nên từ chối mà nói với ông rằng tôi muốn về giúp các trẻ bệnh Việt Nam và phát triển khu giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Nhi đồng Sàigòn thành một trung tâm giải phẫu tiểu nhi tầm cỡ thế giới, với những điều học hỏi được ở Children’s Memorial Hospital Chicago. Ông vui vẻ thông cảm và đã giới thiệu tôi tu nghiệp quan sát thêm ở nhiều trung tâm danh tiếng Mỹ, Anh, Pháp và Ý để có cái nhìn toàn cầu về ngành giải phẫu tiểu nhi lúc bấy giờ. Chuyến đi này, bác sĩ Ira Singer hội AMA trách nhiệm chương trình cải thiện giáo dục y khoa cho trường Y khoa đại học Sàigòn tán thành. Ông gửi thư hỏi ý khoa trưởng lúc đó là bác sĩ Phạm Tấn Tước . Sau ít ngày, ông Singer cho biết ông Tước từ chối mà không cho biết lý do. Tôi không nói gì, nhưng tự nhủ nhất định dùng tiền để dành thực hiện cho kỳ được. Vấn đề chiếu khán sang các nước Âu châu là một cản trở lớn vì tôi không có cổ cánh lớn và cũng không quen bíết ai trong giới quyền chức. Nhưng tôi đã vượt qua, vì máu liều và thích thách đố, và cũng vì có số (!). Rồi sau đó về đến Sàigòn làm việc ngày đêm ở khu giải phẫu tiểu nhi Bệnh viện Nhi đồng từ tháng 10/1972 cho tới khi VC chiếm Sài gòn 30 tháng 4/1975. Sau đó, vào trung tuần tháng 5, đi tập trung học tập cải tạo.

Khi vượt biển sống sót sang Mỹ, tôi xấu hổ không dám liên lạc với các đồng nghiệp ở Children’s Memorial Hospital Chicago và với giáo sư Swenson, vì nghĩ lại cái hăng say trở về xây dựng khu giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Nhi đồng Sàigòn theo mô thức Children’s Memorial Hospital mà tôi đã nói với ông và mọi người hồi tháng 7/1970 khi học xong. Bây giờ trở lại hốc hác, tay không! Tôi chỉ liên lạc với một bác sĩ bạn người Ấn độ, học trước tôi hai năm với giáo sư Swenson. Khi tôi bắt đầu học ở Chicago thì anh này đang làm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chờ để có nhà thương ở Ấn độ nhận. Nhưng anh chỉ về vài nước vài tháng vì điều kiện làm việc không thích hợp anh phải trở lại Mỹ. Xin làm bác sĩ giải phẫu ở Thomas Jefferson University Hospitals Philadelphia, một cách không sung sướng vì đó không phải là ước vọng của anh. Trước khi về nước, tôi được anh mời đến nhà, nấu cơm chay Ấn độ cho ăn rất ngon (và anh ăn bốc). Trong nhà có một bàn thờ đạo Hindu anh tụng niệm đều đặn hàng ngày. Vì hoàn cảnh anh như thế, nên tôi mới không ngại viết cho anh khi còn là một thuyền nhân ở trại tị nạn Phi luật Tân. Không ngờ anh đã báo cho một người bạn Mỹ thân với tôi là Joe Sherman và cũng là học trò của ông Swenson trước tôi một năm. Thế là Joe liên lạc với thượng nghị sĩ tiểu bang Illinois là Charles Percy nhờ ông này viết thư cho cao ủy phụ trách di cư tị nạn Liên hiệp quốc ở Phi luật Tân cho tôi đi sớm! Viên cao ủy này là William (tôi nhớ không chắc) Blatter người Thụy sĩ cho là tôi qua mặt ông ta và hành tôi. Đẩy tôi cho phái đoàn Úc phỏng vấn. Quy luật lúc bấy giờ là Mỹ chỉ nhận những thuyền nhân không có nước nào nhận. Nếu tôi được đi Úc mà từ chối thì sẽ ở trại “mút chỉ”. Nguyên do là vào giai đoạn đó chẳng nước nào trên thế giới muốn nhận thuyền nhân. Nếu có, thì chỉ là vì lý do nhân đạo, đã được cứu vớt trên biển hay sống lay lắt dài ngày trong các trại tị nạn. Một phần là vì không coi Việt Nam Cộng hòa ra gì (thua trận vì tham nhũng thối nát…), và vì thế rẻ rúng người VN vượt biển. Phần khác thì vì chịu ảnh hưởng của lời thủ tướng VC Phạm Văn Đồng đại diện phe thắng cuộc miệt thị nói những kẻ vượt biển là thành phần lười biếng, lưu manh, không chịu cố gắng làm việc xây dựng VN bị tàn phá vì chiến tranh vân vân…

Nhưng tôi đã đi Mỹ ngon lành, chỉ hơn một tuần sau khi Úc phỏng vấn! Tại sao, thì chỉ vì tôi nói tuột ra hết những điều trong bụng. Đầu tiên là phái đoàn phỏng vấn hỏi tôi về lý lịch, trình độ, thì dễ dàng tóm tắt nhanh chóng ở Việt Nam ra sao, du học Mỹ ra sao. Kết thúc, người phỏng vấn hỏi anh muốn đi đâu định cư? Tôi nói đi đâu cũng được. Sau khi sống với VC, 4 năm làm việc và cải tạo tập trung thì tôi đã chọn thái độ là bỏ nước ra đi ngay mùa bão, và vợ tôi cũng đồng ý như thế, nếu chết thì thôi, sống thì chỗ nào cũng hơn là dưới chế độ VC. Nếu Phi luật Tân có chính sách cho tị nạn thì tôi đã ở ngay Phi Luật Tân (và thực là như thế). Tôi kể chuyện tính bỏ nước ra đi sang Úc làm nghề nông thất bại vào cuối tháng 4/1975 (nhưng không nói tại sao không tính đi Mỹ). Người phỏng vấn tôi đã rất tử tế nói rằng “anh có đủ điều kiện để Úc nhận. Sang Úc anh cũng có thể hành nghề y khoa, nếu muốn và cố gắng. Nhưng với “background” của anh và vì họ hàng gia đình vợ anh ở Mỹ thì sang Mỹ tốt cho vợ chồng anh hơn. Cho nên tôi không nhận anh mà để cho Mỹ phỏng vấn. Nếu anh bị họ từ chối thì quay lại tôi sẽ nhận!”

Khi biết tin tôi vượt biển sống sót sang Mỹ giáo sư Swenson đã hồi hưu rồi, nhưng gửi cho tôi ngân phiếu 100 đô la, với giòng viết tay ngắn ngủi “tôi nghĩ rằng sẽ giúp anh chút đỉnh trong những ngày đầu tiên rời nước”. Đây là một hành động hiếm có. Thường thì người Mỹ hỏi thăm kèm theo câu “nếu cần tôi giúp gì thì cho biết” là đã bầy tỏ sự quan tâm giúp đỡ rồi. Tôi có lái xe đến thăm ông tại nhà ở Rockport tiểu bang Maine nhân dịp con gái lớn tôi tốt nghiệp đại học Brown University ở Providence, tiểu bang Rhode Island. Và tiếp tục liên lạc với ông đều đều, cho tới khi ông mất, ở tuổi 103.

**

Trở lại với những ngày đầu tiên tới Chicago năm 1970. Tôi hỏi thăm bè bạn mà không ai biết chuyện những nghĩa địa thịt hộp ở Chicago như đã đọc trên báo Việt Nam thập niên 1950. Tìm đến vùng các hãng sản xuất thịt hộp ngày xưa thì cũng không còn dấu tích hoạt động

Đường xá trong thành phố phẳng lì, nhẵn thín. Một cái ổ gà nhỏ cũng có một cái đèn vàng nhấp nháy báo động. Nghỉ hè, thuê xe hơi đi chơi tôi mới khám phá ra được là không thể thuê xe nếu không có thẻ tín dụng (credit card), dù rằng tôi là một bác sĩ làm ở nhà thương Nhi đồng lớn ở Chicago. Tôi đã có thể thuê xe được nhờ có người bạn đi cùng có thẻ tín dụng vì làm việc và định cư Monterey, California. Chúng tôi thuê một cái xe Buick to để mà hưởng thú “đi xe Hoa kỳ”. Chương trình là đi về miền Đông, lái xe dọc theo dẫy Smokey Mountain, rồi ra bờ biển đi xuống Miami. Chuyến đi thật thích thú. Xa lộ thẳng băng. Đường vắng. Chạy nhanh đến độ như xe muốn bốc lên khỏi mặt đường mới sợ mà chậm lại. Sông núi cây cỏ thành phố gì gì cũng đẹp, cũng sạch sẽ. Những cánh đồng cỏ xanh mướt với hoa vàng dandelion trải dài vô tận. Làm tôi không khỏi nghĩ đến câu Kiều “Cỏ non xanh tận chân trời…” dù rằng không có “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, vì lúc đó không phải là tiết tháng ba, mà là mùa hạ.

Chesapeakebay bridge-tunnel

Chesapeakebay bridge-tunnel

Nhưng bờ biển miền đông không có gì hấp dẫn cho nên tôi không tiếp tục tới Miami. Sau khi đi qua cây cầu và hầm ngầm dưới cửa vịnh tiểu bang Virgina là Chesapeake Bay Bridge Tunnel thì vào đất liền xuống tới South Carolina bẻ theo hướng tây qua Tennessee, Kentucky rồi về Chicago. Cái ngạc nhiên là khi vào một quán ăn chuyên về steak để thử cho biết thì người bồi đẩy ra nguyên một xe từng tảng thịt bò thượng hảo đủ loại, muốn ăn bao nhiêu chỉ từng đó. Tôi vốn không ăn thịt bao nhiêu, nhất là thịt bò, chỉ lấy một miếng nhỏ kể là vừa sức. Ăn rồi mới tiếc là tại sao không gọi miếng to hơn vì thịt mềm, ngon ngọt vô tả. Về sau này, khi đã định cư ở Chicago, rủ bạn bè đồng nghiệp đi ăn steakhouse chỉ thấy ồn ào và sặc mùi thịt nướng. Lời nhà văn triết gia Ấn độ hiện đại nổi tiếng tôi không nhớ tên nói rằng người ta không mấy ai trong đời uống nước cùng một giòng sông xem ra có vẻ đúng.

Uptown Chicago thập niễn 1970, Thư giãn (góc Wilson Broadway)

Uptown Chicago thập niễn 1970, Thư giãn (góc Wilson Broadway)

Thập niên 1970, Chicago số người Việt có lẽ không tới 20 chục người, trong đó có một linh mục đạo Công giáo giáo đẹp trai họ Trần, một bác sĩ Việt nam du học lớn hơn tôi năm sáu tuổi họ Trương, vài sinh viên, ở tản mạn, thường tụ họp nhau ăn uống các món Việt nam làm lấy vào ngày lễ tết. Phía bắc cách nhà thương tôi làm chừng 3 dặm, là khu Uptown bình dân không mấy an toàn có một anh bạn nha sĩ du học ở. Bây giờ đã thành khu chợ Việt Hoa đông đúc, mà đường Argyle ngay chỗ ga xe điện mới được sửa sang để cho người bộ hành có thể tà tà đi lại cùng với xe hơi dưới mặt đường. Ngay rìa phía Nam của khu Uptown hiện nay có một quán đồng tính luyến ái và quán nhạc jazz và blue đặc biệt của Chicago. Những địa điểm này vốn là một sào huyệt của Al Capone một thương nhân kiêm thủ lãnh băng đảng nổi tiếng Chicago thời thập niên 1930. Có đường rầy trong hầm ngầm dưới mặt đất dài chừng nửa dặm ra tới bờ hồ Michigan để Al Capone chuyển rượu lậu từ hồ vào sào huyệt rồi phân phối đi. Khu chợ Tầu nho nhỏ phần lớn là dân Quảng Đông và Đài Loan ở phía Nam thành phố trước kia chỉ giới hạn vào vài bloc đường Wentworth với dăm bảy tiệm ăn, một số nhà hàng bán tạp hóa và đồ kỷ niệm nay đã mở rộng ra cả chục bloc đường với dân Tầu lục địa. Đường xá Chicago không còn nhẵn nhụi như xưa. Lái xe không để ý có thể bất cứ lúc nào đụng ổ gà nổ bánh xe. Chính tôi đã bị một lần như thế khi ngồi trên xe hơi do một tài xế Phi luật Tân lái chở đi khám bệnh ở khu phía Nam Chicago. Còn bây giờ ban ngày đường phố trở nên vắng vẻ vì Covid19. Mấy chữ giới nghiêm (curfew) từ lâu không nghe sau khi chiến tranh chấm dứt lại được đưa ra để bắt mọi người về nhà sớm. FBI bắt được một bọn trắng 13 tên quá khích tính bắt cóc thống đốc tiểu bang Michigan Gretchen Whitmer thuộc đảng Dân Chủ là người ra lệnh ngưng hoạt động thương mại và giãn cách xã hội để chặn Covid19. Trong một vận động tranh cử trước đám đông ở Muskegon Michigan, tổng thống Trump nói “Phải nói với thống đốc mở tiểu bang ra, nghe chưa? Mở trường học ra, Trường học phải mở cửa, đúng không?” Loáng thoáng có tiếng hô “Giam mụ đó lại”. Lát sau khi vẫn còn lai rai tiếng hô tiếp tục, Trump trả lời “Giam tất cả chúng lại”. Lara Trump, con dâu của tổng thống nói trên truyền hình rằng đó không phải là dọa nạt, mà chỉ là tổng thống “vui” với đám đông. Rất có thể những chuyện vui này sẽ còn tiếp diễn thêm 4 năm nữa.

Uptown, đường chinh Argyle khu buôn bán, mùa Covid19 2020

Uptown, đường chinh Argyle khu buôn bán, mùa Covid19 2020

Những người quen biết cũ hồi tôi du học đã tản mạn đi hết, trừ một nhóm mấy chị em người Việt gốc Hoa làm ăn buôn bán đủ sống phong lưu quanh quẩn trong khu chợ Việt Nam. Có người đã từ trần. Còn một bà có chồng là một thương gia Hồng Kông khá giả. Có thì giờ và phương tiện du lịch khắp miền Trung quốc khi có hứng. Lâu lâu nhức đầu sổ mũi đến tôi khám bệnh. Thời giờ nhiều phần là để nói chuyện ngày xưa. Nhưng thời gian đi có bao giờ trở lại!

Phường Bát Âm Việt Nam Cộng Sản - Tác giả Trần ngọc Tuấn

 

Tốt nghiệp Nhạc Viện chưa xin được việc làm. Tôi chơi nhạc đám cưới, vũ trường, đệm đàn cho các ca sĩ hạng Phường, Quận, thi thoảng leo tới cấp Thành Phố... vẫn xác xơ chẳng đủ tram miệng, dạ dầy bữa đầy bữa vơi "điểm phổi" bằng thuốc lào hay thuốc lá nhìn kẻ no đủ lượn Dream rồi mơ tưởng đời mình tới lúc thăng hoa...

Anh Lễ nói: "Hãy ly dị phố phường theo chúng tao vài năm mày sẽ thoát kiếp sâu bọ".

•- Thế các anh làm gì? Tôi hỏi (thoáng nghĩ trong đầu một đường giây buôn lậu ma túy). Anh Lễ bảo: "Chơi nhạc đám ma". Khi cuộc sống đã lên tới cao trào của sự lòe loẹt kẻ giầu tiền thường đem cái chết của người thân để triển lãm lòng hiếu hạnh, nếu không có quy luật sinh tử họ chẳng biết thể hiện chữ hiếu ra sao. Chính vì vậy, họ chi rất đẹp cho các thủ tuc tiễn đưa người quá cố về thế giới bên kia, phường bát âm hoặc những người làm nghề khóc thuê qua đó cũng được nhờ.

Thế là tôi tạm xa thành phố theo phường bát âm xuôi ngược khắp nơi...

Nhờ khả năng cảm âm thiên phú, chỉ vài buổi tập tôi đã sử dụng thành thạo cây đàn tam anh Lễ giao cho, cũng chẳng mấy khó khăn tôi nắm vững quy luật hòa âm giản đơn ở các phường bát âm thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tôi hỏi anh Thứ (người thổi kèn): "chỉ có năm sao lại gọi là bát âm?". Anh Thứ trả lời : "Tao cũng đếch biết! Trước thì đủ cả tám giờ còn năm vừa vặn một mâm gia chủ khỏi thêm bát đũa cho phường". Lúc trẻ, anh Thứ thổi kèn Trompette trong "Đội Quân Nhạc" chuyên tiếp đón nguyên thủ quốc gia ngoại quốc hoặc trong ngày lễ trọng đại, và các cuộc họp quan trọng của chính phủ. Khi mất sức, anh mang quân hàm thượng úy, gia nhập phường bát âm với anh Lễ nhờ bạn bè giới thiệu. Anh Thứ rất thương đứa con gái út, lúc tan đám, anh hay xin nhà chủ gói xôi miếng giò mang về cho nó. Anh bảo: "Từ ngày theo phường con tôi đỏ da thắm thịt, càng nhiều người chết nó sẽ béo lên".

Linh hồn kiêm cán bộ tổ chức phường bát âm tên Tiết, anh có biệt tài thám tử nắm rất chắc lý lịch các gia đình "máu mặt" trong phạm vi 100 cây số. Giàu lâu hay mới phất, địa vị xã hội ra sao, chết vì nguyên do gì? Anh biết tường tận tới đường tơ kẽ tóc. Vốn làm giáo viên giảng dậy môn Tâm Lý, chỉ thoáng dăm câu đôi điều anh đã nắm bắt được tình hình, dù gia đình đang lúc tang gia bối rối.

1. Đám ma bố ông Tổng giám đốc


Nhà ông Tổng cách trung tâm thành phố 20 cây số. Ông tiếp phường bát âm với phong cách xuề xòa: "Tôi không thích ở thành phố dù được phân nhà. Các anh cứ đàn thật lâm ly, mấy cô khóc thuê thì gào cho thật thảm thiết, bao nhiêu tôi cũng chi". Anh Tiết thì thào: "Bố ông ấy chết vì suy nhược thần kinh". Tôi hỏi: "Sao anh biết?". Anh Tiết bảo: "Nhà nhiều của thì lo ngay ngáy ăn không ngon ngủ chẳng yên, chưa biết lúc nào vỡ ổ, ngậm sâm Cao Ly thì cũng giống củ khoai hà.

... Cỗ quan tài nằm giữa căn phòng rộng thênh thang, chính giữa bàn thờ là trầm hương tỏa khói. Phường bát âm ngồi cạnh linh cữu trên chiếc chiếu Nga Sơn. Rượu ngoại, thuốc lá ba số 5 cứ hết lại được tiếp. Tôi xả láng trong lúc nghỉ, anh Lễ mắt trước mắt sau rút trộm thuốc lá, còn anh Tiết ngang nhiên cầm chai rượu tuồn vào túi, miệng lẩm bẩm: "Mang ra chợ hàng Da cũng xấp xỉ nửa chỉ". Anh Thứ lầu bầu: "Tụi mình giống con kên kên chuyên ăn thịt xác chết". Anh Thức (người đánh trống trong phường) bảo: "Đời là mấy tí, chẳng mấy khi trấn lột các ông quan hợp pháp".

Tôi ngồi đàn như kẻ vô hồn, nhìn mấy ngọn nến chập chờn trên nắp quan tài. Ai cũng đều kết thúc tại vị trí này, con người sinh ra, sướng khổ, vinh quang, quyền lực hay nghèo hèn khốn khó đều giống nhau. Cuộc đời thật tạm bợ, thần chết cào bằng tất cả...

... Tiềng người khóc thuê lên bổng xuống trầm, nghẹn ngào, khắc khoải:

Con yêu bố/Hiếu với bố như hiếu với dân...

Ông Tổng nói với phường bát âm: "Lời bài khóc do tôi sáng tác, các anh thấy trong đó vừa mang tình văn học lại không mất quan điểm.” Anh Lễ bảo: "Tuyệt vời, bác có khả năng duy mỹ". Ông Tổng nói: "Duy vật chứ!". Anh Tiết góp vào: "Cả hai!". “Ngoài ra nó còn mang nhạc tính.” Ông Tổng xua tay: "Các anh nói hơi khó hiểu, mặc dù tôi biết là lời khen". À! Khi khách tới đông nhờ mấy anh chơi bản nhạc "Diệt Phát Xít" cho không khí thêm hùng tráng.

•- Vâng! Phường chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng - anh Thứ bảo.

Tiếng xe, tiếng người ồn ào...

•- Dạ! Mời các quý vị... Quý hóa quá!... Ông cụ nhà tôi chắc mát lòng mát dạ...

•- Cụ "đi" từ lúc nào?

•- Hôm qua, lúc chính ngọ...

•- Thủ trưởng yên tâm, em sẽ cho đăng trên báo, em tạm mượn bức ảnh cụ nhà, in vào mục chia buồn để thêm phần trang trọng...

•- Hết bao nhiêu?

•- Em ủng hộ vô tư coi như con cháu trong nhà tiền nong làm gì, nếu được chỉ xin thủ trưởng cái chữ ký vào bản hợp đồng chuyển nhượng...

•- Cứ từ từ, đợi qua ngày mở cửa mả. Có quen ai bên tờ "Thi văn" không?

•- Thằng bạn em phụ trách phần biên tập thơ của tạp chí...

•- Tốt! Cậu nhờ anh ta làm bài thơ ca ngợi ông cụ, tôi sẽ tóm tắt quá trình quê quán, đức độ cụ nhà...

•- Tưởng gì chứ việc đó thằng em làm một phát ăn ngay...

Kìn kìn vòng hoa các cơ quan đoàn thể từ thấp tới cao đề hàng chữ Kính viếng... Vô cùng thương tiếc... Cỗ bàn được bày ra, nếu vắng những người khóc thuê và tiếng nhạc nỉ non của phường bát âm rất dễ lầm đây là đám cưới. Khách, chủ đều tươi cười nâng ly chúc tụng nhau. Vợ ông chủ tich nói: "Đám nhà tôi có vui không quý vị?".

•- Vui, vui lắm, còn hơn cả tết. Cũng nhờ cụ qua đời anh em chúng ta mới được hân hạnh gặp nhau đông đủ như ngày hôm nay.

•- Mời anh em nhạc sĩ ngừng tay xơi bữa cơm dưa muối - ông Tổng nói với phường bát âm...

Nhìn các món trên bàn, anh Tiết bảo: "Dưa muối kiều này còn hơn thịt cá nhà tôi". Anh Thứ nói: "Thịnh soạn như vậy là con cháu hiếu thảo lắm!". Anh Lễ hỏi: "Hết khoảng mấy cây hở các huynh?" Tôi bảo: "Không liên quan gì đến chúng ta, mấy cây cũng vậy." Xin mời các đại sư huynh khai chiến với đĩa thịt gà - nào nâng đũa!

Ông Tổng nói với thực khách: "Làng tôi sinh nhiều anh hùng, ngay đầu làng dựng đền thờ vị thành hoàng có tài đánh giặc..."

•- Chắc thành hoàng đem lại ấm no cho toàn dân? Ai đó hỏi ông chủ tịch.

•- Làng tôi vẫn nghèo nhưng giàu lòng yêu nước.

Đám kết thúc. Ông Tổng cùng vợ tiếp phường bát âm vào buổi chiều ngày hôm sau:

•- Cám ơn các anh, ông quay sang hỏi vợ: "Thế nào?" "Lãi mình ạ! Tiền phúng viếng hơn chục triệu, chưa kể đồ mừng." - Vợ ông trả lời.

•- Vậy bồi dưỡng thêm cho mỗi người năm chục ngàn...

Trên đường về anh Tiết bảo: "Cứ đà này, tôi chỉ mong các bậc giàu tiền lần lượt quy tiên." Anh Thứ thì nói (sau khi đếm tiền): "Cái chết của các bậc quyền quý lợi nhiều hơn hại, nó đem lại cho chúng ta nguồn sống, nó giúp chúng ta tồn tại và nếu chúng ta sống mạnh sống hùng thì cả dân tộc hồng hào. Khuôn mặt xanh xao truyền thống sẽ đổi màu, dạ dày chẳng còn sôi réo đòi báo động.”

Tôi bảo: "Có nghĩa chiến tranh hết đe dọa". Anh Thứ gắt: "Tầm bậy! Giống người khi đủ ăn rồi họ lại đòi hỏi nhu cầu khác". Tôi hỏi: "Nhu cầu gì?" Anh Tiết nói: "Mày chỉ đáng ăn cứt khi hỏi câu này". Anh Lễ cười: "Nếu vậy thì tổ quốc dấu yêu hết cả cứt vì rất nhiều thằng hỏi như nó..."


2. Đám ma bố ông X

X - trẻ trung, vẻ mặt đa mưu. Không hổ danh "hậu sinh khả úy", vợ con rồi X vẫn ngủ thêm với nhiều cô gái qua các cuộc tình đã đóng bảo hiểm. Điều đó chứng tỏ X sòng phẳng, thận trọng và thấp thoáng nhân tính. X nói với phường bát âm: "Tôi cần các anh". Anh Thứ hỏi: "Chúng tôi phải làm gi?". X nói: "Yêu cầu nét mặt biểu hiện sự đau thương tới tột cùng". Anh Lễ hỏi: "Giá cho sự đau thương là bao nhiêu?" X trả lời: "Một triệu?" Tôi nói: "Khi nhạc sĩ phải đóng vai kịch sĩ cũng chẳng mấy dễ dàng, xin anh hai triệu". X trả lời: "OK!".

... Anh Tiết nói với tôi: "Mày đã bắt đầu biết cách nâng cao giá trị tập thể, tao kiêu hãnh vì mày, chúng ta không thể sống theo kiều bầy đàn nguyên thủy, một cộng đồng có sức sống mạnh mẽ đòi hỏi tính liên kết bất vụ lợi. Hôm nay, trước linh hồn bậc cao niên khả kính tao xin thề, thương mày nhiều hơn nữa và thực hiện tốt chiến thuật "kẻ tung người hứng". Anh Thứ bảo: "Hoan hô các Khanh! Vương quốc sẽ hùng mạnh, ngày mai Trẫm khao thưởng tất cả bữa lẩu dê ở phố Lê Duẩn". Anh Lễ bảo: "Món dái dê hấp cách thủy rất tuyệt. Tôi nói: "Hôi bỏ mẹ!". Anh Thứ bảo: "Vấn đề này mày vẫn còn đần độn, tao sẽ dậy dỗ mày có cái nhìn mang tính khoa học, tính triết lý Phương Đông và nhân bản trước những món ăn được chế tác từ bộ phận sinh dục, nó huyền bí, cao cả, thiêng liêng... Anh Tiết nói: "Chưa đủ, còn phảng phất mùi thiền".

Đám ma bố ông X không ồn ào, người trong nhà nói nhỏ với nhau tựa tiếng khóc thút thít, khung cảnh lạnh lẽo gây cảm giác rờn rợn. Anh Thức ngừng tay trống lí nhí: Tao thấy giống như là chuyện Liêu Trai. Người đàn bà phụ trách công việc tiếp rượu, thuốc cho phường bát âm còn trẻ, vành khăn tang chít hờ hững ngang đầu làm tăng thêm nét đẹp quý phái, bộ tang lễ màu trắng mỏng dính như váy ngủ để lộ thân hình hoa hậu. Anh Tiết bảo: "Cô bồ ruột của cái ông đang nằm trong quan tài". Anh Lễ nói: Kiểu "già non ngãi non vợ chồng". Anh Thứ bảo: "Nhìn bộ đồ tang phủ trên mình người đẹp khiến chim tôi cứng ngắc, ăn mặc kiều đấy cũng gần giống trần truồng". Anh Tiết nói: "Thôi, xin bố hãy tập trung chơi nhạc.". Tôi hỏi anh Tiết: "Vợ ông ấy không ghen?" Anh Tiết bảo: "Bà khuất núi trước chồng hai tháng, cho nên cô bồ mới ngang nhiên tiếm quyền"...

Tang lễ bố ông X sang trọng xong trang nghiêm, bình dị. Người tinh tế tới dự thấy gần giống một âm mưu khiến họ phải dè dặt, ý tứ. Các món ăn đậm đà bản sắc dân tộc, đồ uống cũng thế, rượu làng Vân thay thế vị trí rượu phương Tây. Từ giàn âm thanh đời mới cứ khoảng nửa tiếng đồng hồ lại phát cuốn băng ghi âm giọng nói bố ông X đọc lời khai mạc buổi hội thảo mang chủ đề " Bàn về văn hoá tang lễ". Anh Thức bảo: "Đám này phường mình nhàn hạ". Tôi nói: "Sự có mặt của phường bát âm chỉ mang giá trị vật trang sức". Anh Thứ bảo: "Thôi đi các bố! Tôi chỉ quan tâm mấy tờ giấy có mệnh giá cao... Tôi nói: "Giọng nói người chết nghe khá hào hùng, bài diễn văn hay đấy chứ!" Anh Lễ bảo: "Tao nghe thấy giống kiểu quảng cáo thuốc chữa hôi nách, sâu răng, hắc lào, bệnh lậu của gánh thuốc " Sơn đông mãi võ" ".

Đêm rằm. Tôi không ngủ mà đi dạo quanh khu vườn nhà ông X. Trăng sáng quá, các anh trong phường bát âm chắc đã ngủ ngon, nhìn trăng, nhìn cảnh vật tôi bỗng nhớ tới hai câu thơ của một thi sĩ nhà quê:

..Đêm nay mới thật là đêm
Ai đem trăng sáng vãi ngang vườn chè...

Vườn nhà ông X không có chè, toàn cây ăn quả, chậu cảnh. Bóng ai mặc bộ đồ trắng thoáng hiện. Ma! Tôi sởn gai ốc, xong không phải, đó là cô bồ ruột của bố ông X (hiện đang nằm trong quan tài). Cô không hiện diện một mình, ông X đứng cạnh...

Tiếng ông X: "Anh phải có trách nhiệm thừa kế những gì bố anh để lại, giờ đây chúng mình không phải lén lút như trước". Giọng cô gái: "Bố con nhà anh giống hệt nhau". Ông X hỏi: "Anh với bố, ai làm cho em sướng nhiều?" Cô gái bảo: "Anh hùng hổ nghiến ngấu, bố anh từ tốn dẻo dai, ai cũng làm em thích ..." Ông X đè lên cô, tiếng hổn hển, tiếng rên trong cơn khoái lạc hệt như tiếng thú. Bộ đồ tang bị xé nát... Trăng sáng lắm nên tôi nhìn rõ vòng tay cô bồ bố ông X xiết chặt nồng nàn, quằn quại và đam mê.

Anh Lễ nói (ở quán lẩu dê trên đường Lê Duẩn): "Món dái dê hấp cách thủy thật tuyệt!". Anh Thứ bảo: "Vừa có hợp đồng. Ngày mai phường mình chơi nhạc cho đám ma con chó nhà một đại gia mua bán bất động sản, Các khanh nghĩ thể nào?" Anh Tiết trả lời: "Người hay súc vật đều giống nhau thôi không có gi phải băn khoăn...".

Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!