khktmd 2015
Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2021
Tuổi Xanh Ngày Xưa (1958) - Tác giả Hoàng Oanh
Lê Khắc Sinh Nhật- Tác giả Mai Thanh Truyết
Nhiều vụ án kể từ sau cuộc đảo chánh chính phủ Ngô Đình Diệm năm 1963 trở đi, tình hình chánh trị ở miền Nam ngày càng xáo trộn, phong trào sinh viên tranh đấu ngày càng trở nên sâu đậm hơn. Còn nhớ ngay sau cuộc chính biến tháng 11/63, nhiều Hội sinh viên ở các trường đại học Saigon được thành lập và việc tranh dành chức Chủ tịch Hội và Tổng hội ngày càng gay gắt hơn.
Quyển sách chép tay- Tác giả Trần Duy Phiên
1. Một ngày làm cỏ mệt bở hơi tai, tôi vừa vác cuốc về tới nhà, thằng bé hàng xóm đang ôm vở chờ ở hiên.
- Có việc gì không cháu? -Tôi hỏi, lao cuốc vào bụi chuối sát hè.
Thằng bé ngập ngừng, theo tôi vào nhà.
- Cháu có điều không hiểu muốn chú chỉ giúp cho - Nó nói, ngồi xuống chiếc ghế con, mở vở đặt lên giữa hai bắp đùi - Câu này, chú à.... - Ngón tay lấm mực tè ra trên mặt giấy, nó ngẩng mặt nhìn tôi.
- Thì đọc to lên đi! - Đang thay áo bên trong liếp cửa, tôi giục, mình mẩy đang lúc rít rát mồ hôi.
- “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” - Nó lại ngẩng mặt chờ tôi.
Tôi không thèm nhìn theo ngón tay nó nữa. Ba mươi năm trước, tôi đã thuộc nằm lòng. “Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, hai câu thơ Đoạn Trường Tân Thanh hiện lên trong trí tôi rõ như hai người đẹp.
- Thúy Kiều, Thúy Vân đó mà! - Tôi cười, bước ra khỏi liếp cửa buồng kéo ghế ngồi bên thằng bé.
- Cháu cũng biết như thế - Nó lại ngước nhìn tôi, ngập ngần - Nhưng thưa chú... Nhưng mà... cái chữ “mai” này này!
Hiểu rõ yêu cầu của thằng bé, tôi giải thích:
- “Mai” ở đây là giống cây có hoa trắng hoặc vàng, ra bông vào độ cuối đông đầu xuân. Thơ biểu tượng, tác giả muốn ví von thân dáng mảnh khảnh của người đẹp như vóc mai khẳng khiu.
Thằng bé khẽ gật đầu, thỏa mãn, vui vẻ ra về.
2. Thằng bé ra về, tôi bắt đầu buồn bực...
Cũng như mọi người, lớn lên tôi đã cố học lấy một nghề mình yêu thích. Không tính tháng ngày lê la ở mẫu giáo và một vài năm thi cử lận đận, năm năm tiểu học, sáu năm trung học, bốn năm đại học, tôi ra trường làm nghề dạy học.
Đứng lớp, cầm phấn, kiếm sống bằng hơi sức chưa tới mươi năm, tôi đành thôi ngang... Tờ đơn thấm đẫm nước mắt xin nghỉ việc tôi gởi tận tay cha nó. Ngày ấy anh Hoàng vừa ở núi xuống, còn khỏe mạnh, giữ chức hiệu trưởng. Anh quản lý nhà trường như một chính ủy cầm quyền tư lệnh. Anh dồn dập rót vào đầu chúng tôi và buộc chúng tôi giội lên đầu học trò những tràng kế hoạch, phương án, biện pháp, triển khai, tiến công, quán triệt, khẩn trương, theo dõi, bám sát, truy diệt...
Về lớp, chúng tôi không thấy kẻ thù đâu cả, không biết trấn áp ai, thanh toán cái gì! Nhưng vì pháp lệnh, vì nghị quyết, vì chỉ thị... buộc giáo viên và cả học trò phải có thành tích báo cáo. Trước mắt, giáo viên chúng tôi sẽ được vào biên chế, được tiền thưởng cuối năm, may ra còn được xếp loại tiên tiến, hoặc xa hơn, đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua. Giáo viên theo dõi, truy bức nhau, học sinh rình rập bới móc nhau, nghĩa là, từ thầy đến trò bằng cách nào đó phải nhanh chóng tạo ra kẻ thù và biến hắn thành nạn nhân rồi lên mặt góp ý xây dựng. Nhưng góp đâu chẳng thấy chỉ thấy tan, xây đâu chẳng thấy chỉ thấy đổ! Căng quá, bứt. Lương tri là loại đèn không cần năng lượng nào cả. Áo cơm cần nhưng không đủ mặn để muối mặt. Kiến thức cần nhưng không phải chỉ dùng ở nhà trường. Giáo viên lai rai bỏ nghề. Học sinh lả tả bỏ học.
Riêng tôi, ra đi không phải chỉ vì ngần ấy. Cũng như người thợ - coi trọng đồ nghề, giáo viên chúng tôi quý sách. Anh Hoàng truyền một lệnh từ trên xuống tịch thu sách báo đồi trụy. Bí thư chi đoàn cho người tới tận nhà tôi mang giúp hơn một ngàn quyển sách đến trường. Tôi rưng rưng xin anh Hoàng cho giữ lại một số thiết thân, cam đoan đây là những sách báo nghiêm túc dùng để tra cứu. Anh dửng dưng nhìn tôi với ánh mắt lạnh, ngấm ngầm răn đe. Uất ức đến đau tức lồng ngực, nhưng tôi câm lặng đứng nhìn. Hội trường biến thành nơi quy tập, sách báo ném vào tới tấp, un cao như một ngọn đồi. Đã mấy lần vuốt mặt, nước mắt vẫn dẫy tràn, sợ người ta phát hiện, tôi cúi mặt ra hiên, rồi lẳng lặng ra về.
Tuần sau, hội trường trống rỗng, sách báo đã được dọn sạch, chẳng sót một tấm bìa. Một nhân viên văn phòng cho tôi hay đa phần đã được chuyển ra chợ bán ký để người ta gói hàng. Một người khác còn cho hay, ngại lan tỏa nọc độc văn hóa đồi trụy, trước khi đem bán ông Hoàng đã cho thanh lọc thông qua nhãn mác sách và nhà xuất bản rồi đưa đi đốt ngay sau hầm cầu nhà trường. Trong số sách của mình, tôi tiếc thương bộ Larousse, bộ Bách khoa Số học, Sử ký Tư Mã Thiên, bộ tiểu thuyết Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi, Anh em nhà Karamazov của Dostoievsky, toàn tập Đường Thi, Đạo Đức Kinh của Lão Tử, Nam Hoa Kinh của Trang Tử, bộ sưu tầm tranh thời Phục Hưng... và nhất là tập Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du do thầy tôi chép tay bằng chữ Nôm cho tôi - món quà dành riêng cho đứa học trò cưng của mình.
3. Sáng hôm sau thằng bé đến nhà tôi khi trời còn mù sương.
- Chú ơi! - Nó gọi lớn ngay từ ngoài ngõ.
- Gì đấy nữa? - Tôi bước ra hiên, cố dằn giọng cho bớt xẵng.
- Cháu mới đọc tờ báo này... - Nó bước vào, hai tay căng ra trước mặt tôi một trang báo. Đang cho nước vào bình, tôi xoay người cúi xuống. Thằng bé tỏ vẻ lo lắng -Tác giả bài viết này không giải thích như chú.
Nước đổ tràn lan, mắt tôi vẫn không rời những dòng chữ nhỏ như kiến. Tác giả bài này tự đắc phát hiện “mai” trong câu thơ này không phải là loại hoa cảnh, “mai” ở đây là một giống tre. Cơ sở đưa ra để phủ bác cách hiểu cũ là trích hai câu trong bài ca dao lính thú đời xưa.
- “Miếng ăn măng trúc măng mai, những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng” - Thằng bé đọc lớn đoạn văn rồi nhìn tôi chờ đợi.
Trúc, mai, giang, nứa... đều là họ nhà tre. Tôi sinh ra ở Huế, lớn lên, đi vào thì có nhưng đi ra thì chưa. Cây mai tre tôi nào biết mô tê gốc ngọn, nhưng tổ tiên đã đưa vào ca dao kia mà! Cái gì mình không biết không phải nó không có. Ngày ở Huế, tôi chỉ biết tre trúc, tre hóp, tre mày, tre giáo, tre lồ ô, tre ngà, tre mỡ, tre gai, tre vàng... Lên Kontum, tôi biết thêm tre le.
- Cháu đã hỏi mẹ chưa?
- Rồi ạ, nhưng mẹ cháu không biết. Mẹ cháu dạy môn sử. Mẹ bảo cháu qua nhờ chú chỉ cho.
- Thế thầy giáo phụ trách bộ môn?
Nó đứng im lặng, hết gãi tai thì vò đầu. Bóng nắng vào sân. Công trồng là công bỏ, công làm cỏ là công ăn - bài học nghề mới của tôi. Nghĩ đến rẫy sắn đám khoai, cỏ dại đang theo mưa tranh đất, tôi nói:
- Cháu hỏi thầy giáo ngay đi! Phần chú, chưa biết phải giải thích thế nào cho ổn. Để khi thư thả, chú suy nghĩ, tra cứu lại.
Thằng bé ra về. Tôi hộc tốc vác cuốc qua ngõ, vừa đi vừa nhớ quyển sách của thầy tôi cho.
4. Tôi đang ăn, thằng bé lại đến, đi thẳng vào nhà.
- Thầy giáo mắng cháu là thứ vớ vẩn, giáo khoa là pháp lệnh tại sao không chịu tin theo, không chịu tiếp thu, mà cứ nhong nhong bên ngoài, cuối năm thi rớt sẽ trắng mắt ra.
Tôi vẫn tiếp tục ăn. Nó kéo ghế ngồi bên cạnh, tỉ tê kể lại. Theo thầy giáo, “mai” ở đây là cây mơ, có nơi gọi là môi, quả nhỏ như táo Tàu, thường dùng làm kẹo - kẹo “ô mai” vừa ngọt vừa mặn vừa chua các em hay ngậm đấy! Thầy giáo cũng không vừa, dẫn chứng ca dao: “Trúc xinh trúc mọc bờ ao, mai xinh mai đứng chỗ nào cũng xinh”. Thầy còn lập luận, nếu Nguyễn Du dùng từ “mai” là mai tre, sao không viết “Tre cốt cách...” hoặc “Trúc cốt cách...” sẽ phổ cập và tạo biểu tượng gần gũi hơn. Nguyễn Du là một nhà thơ chứ đâu phải nhà sinh vật học chuyên sưu tầm giống cây quý hiếm. Vậy “mai” ở đây nhất định không phải mai tre.
- Cháu về học bài đi! - Cuối bữa, tôi nói - Cháu quá biết cả ngày hôm nay chú bám rẫy, không có thì giờ tra cứu mà cũng chẳng biết bàn bạc với ai!
Thằng bé về, tôi khoác áo đi ngay... Tôi chợt nhớ anh Phùng là một tay văn học lịch lãm, đáng bậc đàn anh của tôi. Sách không có, phải hỏi người, biết làm sao!
Đã tới lúc nghỉ ngơi nhưng anh Phùng vẫn vui vẻ đón tôi, sai con pha trà, rút ngăn kéo lấy ra mấy điếu thuốc thơm. Anh cũng khó khăn như tôi, thường hút thuốc rê. Có dịp, ai cho năm ba điếu anh dành lại, gặp bạn tâm đắc mới toài ra. Mồi thuốc xong, tôi vào đề ngay:
- Anh hiểu thế nào về từ “mai’ trong “mai cốt cách...”?
- “Mai” là một giống tre -Sau một lúc tập trung, anh thận trọng nói.
Tôi tạm đứng về phía đối lập - gom cả ý mình với lập luận của thầy giáo, phản bác anh tới tấp. Anh Phùng im lặng, xoắn xe từng sợi tóc bạc giữa mấy ngón tay khô khốc. Đã quen phong thái trầm tư của anh mỗi khi gặp chuyện khó khăn, tôi nhâm nhi trà và thả hồn theo khói thuốc. Tới lúc bình trà cạn, anh nói:
- Các cụ ta ngày xưa không đề cao cây mai cảnh bằng cây mai tre. Họ nhà tre là biểu tượng của quân tử. Tiết trực tâm hư - Anh khẽ cười - Nếu con chim sẻ đậu trên cành mai cảnh, chắc hẳn quan trạng Mạc Đĩnh Chi không việc gì mà phẫn nộ, và quan khâm sứ của ta khó mà có đủ chứng lý để hàng phục danh sĩ Trung Hoa - Anh lại cười - Từ Huế trở vào người ta quí cây mai cảnh, trở ra, người ta chỉ trọng đào. Đừng quên Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở Tiên Điền, Hà Tĩnh - một vùng đất phía bắc của tổ quốc.
- Nhưng biết đâu? - Tôi liền nhẹ nhàng đặt nghi vấn - biết đâu Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh khi đã theo Gia Long vào Huế làm quan?
Anh Phùng cau mặt ngồi im. Trời trở lạnh, tôi ra về. Đây là lần đầu tiên tôi cầu cứu mà chẳng nhận được từ anh Phùng một trợ giúp nào. Đêm nay chắc cả hai chúng tôi đều mất ngủ. Lao lực như nông dân, lao tâm như học giả, là thế sống thua thiệt nhất của những ai đang là trí thức xã hội chủ nghĩa. Biết thế, nhưng tôi đã lỡ mang nghiệp vào thân.
5. Thằng bé để yên cho tôi dăm ba hôm rồi quay lại.
- Chú đã tìm giúp cháu được chưa? - Nó hỏi, tôi lắc đầu - Vậy bây giờ làm sao hở chú?
- Có một cách... - Tôi chợt im, xoay mặt hướng khác. Thằng bé dịch chuyển theo, mắt môi hong hóng nhìn lên - Nhưng... -Tôi vừa cất cao giọng, lại uất nghẹn tắc tị ngay.
- Nhưng là nhưng thế nào? Chú nói đi!
- Chú có một quyển sách -Tôi lập chập ngồi vào bàn - Chính xác, chú có một quyển Đoạn Trường Tân Thanh chép tay bằng chữ Nôm - thứ chữ mà Nguyễn Du dùng để viết nên tác phẩm ấy. Chỉ việc mở ra, cúi xuống... Nếu “mai” là mai tre, trên đầu phải có bộ trúc. Nếu “mai” là mai cảnh, ở bên phải là bộ mộc...
- Vậy chú còn chờ gì nữa? - Nó háo hức ngắt lời.
- Nhưng cha cháu đã tịch thu và đã đốt lâu rồi!
Thằng bé ấm ức cúi mặt. Tôi ngồi lặng thinh.
Vui buồn chuyện Covid-19 bên Tàu- Tác giả Nguyễn thị Cỏ May
Năm nay, nhơn dân Pháp và Âu Châu vui vẻ ăn Tết với «Cô xẩm vũ hán 19». Cuối năm, chánh phủ ra lệnh cấm cửa ở nhà (confinement). Tuy đóng cửa lần này không phải là lần đầu tiên, dân chúng tây đầm vẫn lo đi chợ mua sắm những món hàng thuộc nhu yếu phẩm. Dĩ nhiên không thiếu giấy vệ sinh (giấy đi cầu) chất đầy xe đi chợ Thấy trên truyền hình, ở bên Huê Kỳ không khác hơn nhưng bên đó trong số khách hàng này có khá đông người Việt Nam. Cũng dễ hiểu không ai giỏi hơn người Việt Nam về kinh nghiệm bắt mạch thị trường lúc tình hình biến động.
Mà tình hình bên Huê Kỳ lại biến động mạnh trước ngày bầu cử Tổng thống. Có người muốn thăm dò dư luận để biết ai sẽ bỏ phiếu cho ai. Người Mỹ có kinh nghiệm bảo hãy lấy câu phương châm «Anh cho tôi biết anh chơi với ai, tôi sẽ nói anh là ai» và sửa lại :
«Anh cho tôi biết anh mua dự trữ món gì, tôi sẽ nói anh bầu cho ai »
« Giấy vệ sinh » và « súng »
Theo dõi khách hàng đi chợ mua hàng dự trử cho thời gian cấm cửa (confinement) và khi bầu cử công bố kết quả, người ta thấy câu thiệu kinh điển trên dây rất ứng nghiệm. Những người đi chợ mua dự trữ giấy đi cầu (papier de toilette) là cử tri bỏ phiếu cho ứng cử viên Joe Biden. Còn những người đi chợ mua súng thì bầu cho ông Donald Trump. Đó là kết quả theo dõi của nhà báo Hélène Vissière của tuần báo Le Point (Paris).
Bà còn nhận xét thêm chỉ trong 2 tuần lễ, người có nhu cầu cũng không tìm thấy ở cửa hàng quen thuộc một cuộn giấy vệ sinh. Còn súng ? Cũng trong thời gian ngắn đó, dân mỹ đã tranh nhau mua hơn 2 triệu khẫu súng đủ loại !
Đi chợ dự trữ khi có biến không chỉ là phản ứng quen thuộc của dân xứ kém mở mang và chiến tranh mà cả dân Âu-Mỹ nữa. Việc dự trữ nhu yếu phẩm cho người ta cảm tưởng là mình có thể kiểm soát được tình hình !
Theo ông David Dubois, giáo sư Marketing ở Insead (ở Fontainebleau, Paris), cách mua sắm dự trữ đó ngầm ý về một « bản sắc ». Trước một tình hình bất ổn, người ta trở thành kẻ có lập trưởng rõ để ứng xử. Từ đó họ chọn món hàng thể hiện nhận thức về mình. Ở người đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Hòa toát lên một bản sắc riêng. Người đảng Dân chủ chuộng sự thay đổi và đổi mới, còn người đảng Cộng hòa giữ xu hướng nguyên trạng, y như cũ. Phải chăng vì vậy mà người ta gọi đảng cộng hòa là bảo thủ ?
Một nghiên cúu khác của ông chứng minh có « mối quan hệ giữa ý hệ chánh trị của một cá nhơn và cách chuẩn bị đối phó với biến động ». Ông nghiên cứu trên Google trong giai đoạn từ 14 tháng giêng tới 13 tháng 3 ở mỗi Tiểu bang của Mỹ diễn tiến khối lượng truy cập 3 từ khóa « Covid-19, súng và giấy vệ sinh » và đặt mối tương quan. Những Tiểu bang có lượng truy cập lớn « Covid-19 » « và giấy vệ sinh » có xu hướng bỏ phiếu cho Dân Chủ. Trái lại, những Tiểu bang truy cập quan trọng về « Covid-19 » và « súng » thì bầu cho Cộng Hòa.
Giáo sư Bubois nhìn nhận thái độ này chứng tỏ người tiêu dùng huê kỳ tìm những sản phẩm xác nhận lại « bản sắc » của họ. Những người Cộng hòa mua vũ khí vì họ nuôi dưỡng tư tưởng bảo vệ cái trật tự đã có và tự bảo vệ còn là một phần quan của những giá trị mà họ ưu ái và tin tưởng. Trong lúc đó, trái lại, những người Dân chủ chọn giấy vệ sinh vì họ chủ trương phải thay đổi cách sống. Xong rồi thì vứt đi ! Tất cả chỉ là phương tiện phục vụ mục tiêu !
Giáo sư Dubois vẫn thừa nhận cách lý giải này không hoàn toàn chính xác như toán học. Vì trên thực tế, có sai biệt ở vài Tiểu bang.
Mua Bunker chống Covid-19
Ngay từ những ngày đầu đại dịch xuất hiện, một xí nghiệp huê kỳ ở Texas chuyên bán bunker đã thấy khách hàng đặt mua gia tăng lên tới 500% (Sky News, Le Point 13/12/20 trích dẫn).
Corona vũ hán đã làm nhiều người bị khủng hoảng tâm thần nghiêm trọng. Ngay lần cấm cừa đầu tiên vào tháng 3 năm rồi, nhơn dân huê kỳ ngoài việc mua dự trữ nhu yếu phẩm, kẻ có tiền còn chạy đi mua bunker (hầm trú ẩn) chôn dưới đất để tự phòng chốn an toàn.
Xí nghiệp Vivos ở Texas giao cho TV Anh thông báo năm nay 2020 số bunkers bán được tăng 500%. Số khách hàng liên lạc muốn biết thêm chi tiết về sản phẩm này cũng tăng lên 2000%. Nhiều người mua bunker rồi, họ dọn ngay vào sống trong lòng bunker để được bảo vệ chống lại mọi rủi ro, từ bạo loạn tới dịch vũ hán.
Hai vợ chồng người Mỹ có tuổi ở Georgia quyết định rút vào ẩn trú trong bunker ngay khi vừa nhận được vì bà vợ quá sợ dân đen bạo loạn khắp nơi và dịch vũ hán tấn công hằng triệu người. Vào ở sâu trong bunker, bà cảm thấy yên lòng, bớt bị khủng hoảng.
Một người khác, kỹ sư tin học, cũng vừa đặt mua bunker, giải thích với người quen : « Người ta cẩn thận, mua bình chửa lửa để trong nhà, trong xe. Tôi mua một cái bunker cũng giống như mua bình chửa lửa. Chỉ có khác là nhiều tiền hơn ».
« Không muốn tối »
Dịch vũ hán không chỉ làm suy sụp kinh tế các nước phát triển, thay đổi nền nếp xã hội, đảo lộn trật tự địa chánh, mà còn thay đỏi cả đời sống ái ân của vợ chồng làm cho người ta có cảm tưởng như mình đang sống thời Trung cổ. Trong thời cấm cửa, chỉ trong vài tuần hoặc hơn tháng, một hôm người chồng ngẩn ngơ khi nghe vợ báo trước « Không muốn chuyện đó tối nay nghen!».
Nhà xã hội học Jean-Claude Kaufmann đã mất thì giờ điều tra hiện tượng tâm lý « Không muốn chuyện đó tối nay » để tìm hiểu sự ham muốn ái ân và sự đồng thuận giữa hai người vợ chồng hoặc bạn tình sống chung nhưng sau cùng ông không thể đi đến kết luận cụ thể được, như bằng một bảng thống kê. Ông chấp thuận ghi lại phát biểu của nhơn chứng. Và ông quan tâm tới một số nét chung : giảm và mất ham muốn ở phụ nữ trong vợ chồng hoặc bạn tình sống chung, giữa hai bên không có sự hiểu nhau gay gắt, điều ẩn ức chịu không thể giải tỏa được …
Một phụ nữ trả lời : « Tôi cố gắng làm vui lòng anh ấy . Riêng tôi, từ ít lâu nay, tôi thật sự không còn ham muốn nữa ». Một bà khác : « Khó nói không với ông ấy, nên tôi đành phải cắn răng để cho ông ấy muốn làm gì làm ... ». Một bà khác nữa :« Thường thì tôi chìu theo để yên nhà yên cửa ».
Qua kết quả điều tra trên đây, người ta có thể kết luận ái ân thật sự theo sự đồng tình với nhau không còn do ảnh hưởng của dịch vũ hán nhưng bổn phận của người vợ đối với chồng vẫn còn, tuy không phải đúng như ở thế kỷ XIX !
Thuở đó, người ta lấy nhau tuân theo quy chế Giáo hội Công giáo là phải quan hệ tình dục để sanh con, người đàn bà có bổn phận hiến dâng thân thể của mình. Trong giáo lý, người ta được dạy làm tình với nhau cách nào mà không bị chi phối bởi cảm xúc sôi nổi. Đó là một bổn phận chớ không phải một niềm hạnh phúc.
Ngày nay ái ân là sự tự nguyện hiến dâng cho nhau vì tình yêu.
Người phụ nữ mất hoặc giảm ham muốn ái ân có thể một phần lớn do ảnh hưởng tình hình xã hội bạo loạn, bệnh dịch chết chóc mà bản tánh nhạy cảm ở người phụ nữ không đủ sức chấp nhận. Muốn có ham muốn, đầu óc phải được thoải mái, thấy đời sống thú vị.
Theo kết quả điều tra của Viện Ined (Enquête sur la sexualité en France – Điều tra tình dục ở Pháp) thì phụ nữ mất hứng thú ái ân cũng do họ là nạn nhơn và khó chịu vì sự bất bình đẳng trong việc phân chia công việc dọn dẹp nhà cửa.
Đối với một số đông, sự cấm cửa (le confinement) là một giai đoạn làm cho mọi người cảm thấy bị « yếu xiều » : người ta nằm lại trên giường lâu hơn, ít tắm rửa hơn, ít mặc quần áo hơn, và cũng ít ấi ân hơn. Vì vậy khi hết cấm cửa, tỷ lệ sanh em bé cũng thắp. Trái lại, có nhiều cặp vợ chồng còn trẻ chưa muốn có con sớm thì lại có bầu. Hay những cặp vợ chồng, bạn sống chung, đang cử kiêng thì có bầu vì uống thuốc không kịp, mà cả ngày ở sát bên nhau, có nhiều thì giờ chẳng biết làm gì...
Nhưng thảm hại hơn hết, vì đụng mặt nhau suốt ngày, thấy chán quá nên dễ sanh ra gây sự, có khi đánh nhau sứt môi, bầm mặt. Lúc này các bà lại không muốn kêu cảnh sát can thiệp. Hoặc vô cớ rầy mắng trẻ con.
Mặt tích cực trong thời cấm cửa là những ngày đầu, hàng xóm tỏ ra thân thiện với nhau nhiều hơn, đoàn kết hơn trước kia.
Mặt tích cực trước dịch vũ hán
Nhiều nhà xã hội học quả quyết sau nạn dịch vũ hán người ta sẽ quan tâm nhiều hơn về việc xây dựng mạng lưới xã hội thân thiện.
Có điều chắc chắn là ngày mai này sẽ không còn như hôm qua. Dịch vũ hán làm đảo lộn đời sống của chúng ta, những giá trị chúng ta tin, những dự tính chúng ta đang ôm ấp...
Trong thời cấm cửa tránh dịch vũ hán, mỗi người trong chúng ta có điều kiện trở về hoàn toàn
với chính mình. Đây là cơ hội để làm bảng kiểm điểm đời sống của mình và xác định những ưu khuyết điểm. Hoặc cấm cửa là cơ hội để nghỉ ngơi, chia sẻ với gia đình, gần gũi con cái.
Khi bệnh dịch hết, người ta sẽ cảm thấy khỏe mạnh hơn trước kia vể thể chất và cả tinh thần,
có thể có nhiều sáng kiến hơn, nhiều dự tính mới.
Dịch vũ hán là thảm nạn đầu tiên trong lịch sử thế giới từ sau 70 năm nay nên mọi người không ai chuẩn bị đối phó mà chỉ biết chịu đựng. Xã hội chúng ta dễ bị nhiễm vì dịch ập tới quá bất ngờ.
Hơn nữa trong 70 năm qua, chúng ta lầm lẫn tiến bộ và hạnh phúc. Mà con virus vũ hán là hệ quả ác ôn của tiến bộ khoa học. Nó tràn lan khắp cả thế giới trong thời gian ngắn vì sự giao dịch, trao đổi, giao thông ngày nay quá thuận tiện.
Hiện giờ không ai biết điều này sẽ xảy ra nữa hay không ? Mỗi khi xã hội xáo trộn thì thường xuất hiện một vị cúu tinh. Như một nhà độc tài được bầu làm lãnh đạo đất nước một cách dân chủ để ổn định xã hội.
Hoặc người ta sẽ quay lại với tôn giáo. Và cũng chính là lúc tôn giáo phục hồi hoạt động mạnh. Vì sự lo sợ thúc đẩy mọi người tìm về với một quyền lực thiêng liêng để có một nơi yên ổn tâm thần.