khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2019

"Chúng tôi sẽ tiếp tục biểu tình đến khi không còn chế độ độc tài độc đảng"









Ban Giảng Huấn Đại Học Sàigòn... một thuở nào, 1975-1981 - Tác giả Gs Võ Kim Sơn



Tám giờ sáng, 30 tháng Tư năm 1975.

Quần áo chỉnh tề, anh Viễn hỏi:


- Anh có nên đi làm không?


- Nghe tiếng pháo kích về mạn Cục Quân Y.  Sợ lắm. 

                                                 
Tôi chưa trả lời tròn câu thì nghe tiếng pháo kích rất gần vì nhà tôi ở hướng phi trường Tân Sơn Nhất.


Cha tôi vội vã điều động:

- Kéo vài tấm nệm để trên bàn ăn và chất nệm xung quanh làm hầm trú ẩn.

Mọi người chui vào trong “tranchée dã chiến”. Rồi tiếng cầu kinh bắt đầu. Tiếng pháo càng lúc càng nổ rền. Chỉ biết phú dâng mạng sống cho Chúa. Bỗng nhiên tiếng pháo ngưng. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau như muốn hỏi: Điều gì sắp xảy ra?


Qua máy truyền thanh, Đại Tướng Dương Văn Minh có câu trả lời lúc 10:30 sáng 30 tháng Tư, 1975:

- Tướng lãnh, Sĩ quan, Hạ sĩ quan…

Nhớn nhác nhìn nhau, chúng tôi lần lượt chui ra khỏi hầm trú ẩn dã chiến. Thế là hết. Việt Nam Cộng Hòa Đệ Nhị bị bức tử. Anh Viễn trút bỏ bộ đồ “treillis” cùng đôi giày “boot” và vận thường phục vào. Mặc cho Cha tôi hết lời can ngăn, chúng tôi leo lên chiếc Vespa trực chỉ hướng Chợlớn chạy vào gặp anh Lâm Kiến Đức. Cách đây ba hôm anh Đức mang xe Jeep đến rủ chúng tôi cùng ra bến tàu. Nghe tôi chia sẻ kinh nghiệm năm năm du học ở Mỹ ngày trước cộng với kinh nghiệm một năm tu nghiệp của chính mình ở Colorado, anh Đức kết luận: “Chẳng đi đâu hết”.

Khi thấy chúng tôi thò mặt ở cửa, anh Đức chào bằng câu hát:


- Que sera sera. What will be will be. Ừ, cùng nhau ở lại để ra Bắc cho biết mỏ than Nông Sơn.

Rồi anh Viễn và anh Đức cùng đi trình diện để được “cải tạo”.

Mãi đến chín tháng sau mới có tin anh Viễn còn sống qua mẩu nhắn tin xin quà. Lần đầu được phép gửi qua bưu điện 2 kí lô thực phẩm khô. Hai tháng sau có thông báo lên thăm nuôi người cải tạo tại Long Giao. Cũng như các “bà vợ” tuổi còn xuân - mọi người diện “ra phết” - chúng tôi nôn nao gặp người yêu sau hơn một năm xa cách thì được cán bộ ở “lán” phán một câu làm mọi người ngơ ngác:


- Hôm nay các chị được phép thăm “gián tiếp” mà thôi.

Nhanh nhẩu, tôi hỏi:

- Thưa cán bộ, thăm gián tiếp có nghĩa là sao?

- Sao dốt vậy mà được làm cô giáo. Trong các chị đây có ai giải thích hộ cho chị nầy hiểu.

Mọi người im lặng. Cán bộ lại lên lớp.

- Ở trong Nam các chị không học tiếng nước ta à. Thăm gián tiếp có nghĩa là để đồ ăn ở lại đây rồi ra đón tàu hỏa về cho kịp chuyến cuối. Chốc nữa các anh sẽ ra mang quà về lán.

Một đoàn phụ nữ ủ dột, khóc thút thít, kéo nhau ra đón xe về đối diện với thực tế.


Riêng cá nhân tôi cũng như quý vị làm “công-tác-giảng-dạy-đại-học” thuộc đại học văn khoa, khoa học, luật khoa, đại học sư phạm ngày ngày cũng như hàng tuần theo một thời khóa biểu ấn định. Từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa nghe giảng về những lý thuyết Marxism, Leninism, Maoism, Capitalism, Socialism và lẽ dĩ nhiên là phải học kỹ chương Communism… cộng với những chủ đề liên hệ. Buổi chiều từ 1 giờ đến 5 giờ học viên thảo luận về phần lý thuyết nghe hồi sáng để họ kiểm soát lúc nghe giảng bài có ai ngủ gục không. Và tối đến từ 6 đến 8 giờ được “chiêu đãi văn nghệ” mà phải dự; thỉnh thoảng có văn công miền Bắc điều vào, nhưng thông thường là xem phim của Cuba hay Liên Sô. Đến chiều Thứ Sáu thì học viên viết bài thu hoạch xem đã thu thập được bao nhiêu điều hay của xã hội chủ nghĩa và tinh thần đã cải biến tới đâu, bắt đầu nhuộm “hồng hồng” chưa. Lúc đầu tôi viết ngắn gọn: Tôi tiếp thu hết. Điều gì cũng hay hết.  Thế là tôi được Phòng Tổ Chức của trường “mời” lên để nhắc:

- Chị đi học chứ không phải đi xem hát. Chị phải tham gia thảo luận và học cách viết “Phê và tự phê” cùng bài thu hoạch.

Hôm sau đến giờ thảo luận của mỗi tổ, tôi bèn hỏi:


- Hồi sáng nghe cán bộ trường Đảng giảng: “Các đồng chí đừng mơ Chủ Nghĩa Tư Bản sẽ trở lại.

Bánh xe lịch sử chỉ quay một chiều. Hết Chủ Nghĩa Tư Bản thì phải đến Cộng Sản”. Tôi xin hỏi: Thế rồi bánh xe lịch sử tiếp tục quay. Vậy sau Cộng Sản thì sẽ đến chủ thuyết gì?

Cuối giờ học, Phòng Tổ Chức nhà trường gọi tôi lên “làm việc” do nghi tôi theo nhóm đưa chủ thuyết “Convergence” mà tôi nào biết gì. Từ đó, trong giờ thảo luận, anh Lý Chánh Đức luôn ngồi cạnh tôi để nhắc bớt “nói bậy”. Chị Phùng Ngọc Cam cũng là một mối lo cho anh Đức. Trong một lần họp giáo chức ĐHSP Sàigòn toàn trường chị Cam hỏi:


- Nghe nói ngoài Bắc, mỗi lần gia đình muốn ăn vịt gà thì phải chôn giấu bộ lông, có đúng không?


Hiệu trưởng Đại Học Sư Phạm Sàigòn lúc bấy giờ là Giáo Sư Trần Thanh Đạm - từ ngoài Bắc vào - trả lời:


- Chị hỏi như trẻ con. Muốn có ánh sáng là bật contact đèn chứ không tìm hiểu nhờ đâu mới có dòng điện.

Tôi cố gắng “chịu đựng” học tập và “nâng cao” trình độ tiếp thu qua những bài viết thu hoạch phải nộp mỗi chiều Thứ Sáu cho đến cuối khóa học thì lại bị điều lên phòng tổ chức để trả lời:


- Ai cấp bằng tiến sĩ cho chị?


- Trường Mỹ.

- Chị có ở Mỹ. Vậy Chị có thường đọc tờ Uông-tờ-rít? (Về sau tôi mới nghiệm ra đó là tờ báo Wall Street, phát âm theo miền Bắc)

- Tôi không biết anh nói gì?

- Cái gì chị cũng không biết. Sao chị dốt vậy. Từ bài nầy sang bài khác, chị toàn sao y trong sách từ nhập đề, đến thân bài luôn cả kết luận. Bài nào cũng bị điểm C- (C trừ tức là dưới trung bình). Học dốt vậy mà sao Mỹ cấp văn bằng cho chị.

- Dạ có lẽ tại Mỹ nó dốt. Xin cám ơn quý anh. Tôi học dốt vậy mà các anh cũng cho tôi tốt nghiệp.

Sau một năm học lý thuyết, ban giảng huấn ngành Khoa Học Tự Nhiên gồm có Toán, Lý, Hóa  Vạn Vật được trở về trường chuẩn bị giảng dạy và đi thực tiễn theo ngành nghề. Riêng ban giảng huấn ngành Khoa Học Xã Hội cần thời gian tẩy não lâu hơn nên phải học thêm. Cán bộ giảng dạy KHXH được phân phối đi thực tiễn ở Cai Lậy hoặc Củ Chi. Khoa Trưởng Trần Văn Tấn chuyên khoa về Toán nhưng vì ở vị trí chỉ huy nên cùng bị đưa vào nhóm KHXH đi thực tiễn ở Củ Chi. Sinh viên cũng được phân phối theo chuyên ngành và thầy trò cùng đi lao động.

Chúng tôi được điều vào nhà dân để sống theo chủ thuyết Tam Cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với chủ nhà trọ. Nghĩ lại mà thương chủ nhà chấp nhận cho chị Hoàng Thị Thu Hà và tôi ở trong căn nhà nhỏ xíu ròng rã ba tháng. Vợ chồng chủ nhà và hai đứa con dồn lên chiếc giường tre để nhường giường-bằng-miếng-ván-ép cho chị Hà và tôi đâu lưng nằm ngủ. Lẽ ra KT Trần Văn Tấn cũng phải ở luôn trong căn nhà nầy theo kiểu Tổ Tam Tam nhưng vì nhà không có chỗ mắc võng nên KT Tấn phải sang nhà bên cạnh có cái võng để “ngả lưng” qua đêm.

Thật ra đến 2 giờ sáng là có kẻng đánh thức giục đi ăn cơm sáng hầu kịp ra đồng cấy lúa trước khi mặt trời mọc. Mắt nhắm mắt mở do ngủ chưa đủ giấc rồi thấy chảo đựng cơm màu xám tro vì nấu với nước giếng bùn, tôi bị dội liền. Rồi thêm 4 sinh viên lấy xẻng xới cơm khiến tôi ngồi quậy chén cơm chan bằng nước canh chua nấu với bạc hà và cà chua mà không ăn. Chả biết canh chua có cá gì bởi ít cá hay cá nhỏ quá và đã bị nấu nát bét. Thấy chén cơm tôi cầm trong tay còn nguyên vẹn, KT Tấn nhắc nhỏ:

- Ráng nuốt đi kẻo bị đói và nhất là mọi người đang dòm chị kìa.

Cám ơn những lời khuyên của KT Tấn nhất là những thùng nước bùn KT Tấn cố gắng kéo lên từ cái giếng cạn cho chị Hà và tôi dội cho mát chứ không bao giờ đủ để tắm sạch bùn sau khi đi lao động về vào buổi chiều. Nhớ hoài những thùng nước giếng ân tình.

Sau ba tháng đi thực tiễn, chúng tôi được trở về trường để chuẩn bị làm thủ tục vào “biên chế” (tenure). Cùng đứng quây quần chờ chị Tôn Nữ Thị Ninh phát mẫu đơn thì khi chị Ninh đến kế bên, tôi được nghe chị phán:


- Riêng chị không được vào biên chế vì “thằng chồng nguỵ”. Nhưng chị vẫn được phân công giảng dạy Anh Văn không-chuyên có nghĩa là dạy cho sinh viên biết đọc và hiểu tiếng Anh đủ để nghiên cứu. Riêng ba người là Mère Tô Thị Ánh, Sư Cô Tịnh Anh và chị được phân bố dạy sinh viên cán bộ và sinh viên đoàn.

Vì sao? Không dám hỏi nhưng tự giải đáp: Để sinh viên loại đặc biệt nầy kiểm soát chúng tôi hay vì sợ chúng tôi có ảnh hưởng nhiều đến các sinh viên thường?

Khi anh Viễn được rời trại cải tạo, lúc thấy anh buồn, tôi trêu cho anh vui bằng câu hỏi:

- Hai vị kia đi tu theo tôn giáo rõ rệt còn anh Viễn lập dòng tu tên gì, hồi nào, mà em cũng “được” chỉ định dạy các lớp sinh viên đặc biệt?

Chưa kịp lên lớp dạy đầu năm học thì có giấy triệu tập ba người chúng tôi: Giáo Sư Dương Thiệu Tống, GS Trần Kim Nở và tôi phải trở lại Củ Chi “nghiên cứu” giáo dục vì có bằng tiến sĩ giáo dục.

Thật ra chị Trần Kim Hạnh, anh Lê Quang Tiếng học cùng trường USC cũng có bằng tiến sĩ giáo dục nhưng “biết khôn”, sớm trở về ngành khoa học tự nhiên nên bị “lọt sổ” đi nghiên cứu.  Còn anh Nguyễn Hữu Phước cũng học cùng trường, cùng lấy bằng tiến sĩ giáo dục cùng thời nhưng “khôn sớm” hơn nữa, đã “vọt nhanh” trước 30 tháng Tư 1975 nên không “được” tẩy não mà-không-sạch như chúng tôi.

Trở lại Củ Chi, anh Nở và tôi đồng tình phó mặc nhiệm vụ nghiên cứu “cao cả” cho GS Dương Thiệu Tống. Hai chúng tôi chỉ xin phép được ký tên chung trong bản phúc trình nộp cho trường ĐHSP Sàigòn khi cuộc nghiên cứu hoàn tất.

Tưởng vậy là xong nào ngờ lại có giấy triệu tập cả ba chúng tôi trở lên Củ Chi tường trình kết quả nghiên cứu cho “chính quyền” địa phương. Đến ngày hẹn phúc trình bản báo cáo, chúng tôi có mặt một giờ trưa như ấn định tại Củ Chi trong một căn phòng nhỏ lợp tôn, không quạt máy. GS Tống khệ nệ mang một đóng sách để chứng minh các đoạn trích ghi trong bảng phúc trình. Anh Nở tìm chỗ mua ly cà phê uống để khỏi ngủ gật. Còn tôi thì nước mắt lưng tròng vì nhớ thuở xa xưa. Nửa giờ sau, “chính-quyền-địa-phương” mới đến. Nhìn GS Tống “gân cổ” hùng hồn đọc bảng phúc trình dày cộm. Thấy mà thương. Mỗi lần có phần trích dẫn là GS Tống mở sách ra, chỉ đoạn nào, trang mấy, y hệt như ngày trình thesis lấy bằng. Nhưng có ai nghe không? Anh Nở thì ngáp liên hồi. Còn tôi, đầu óc đang dẫn dắt du lịch ở trường USC. Và “chính-quyền-địa-phương” là thằng bé học lớp 10 đang hoang mang không biết GS Tống nói tiếng Việt gì nghe nổ cả tai bởi dùng toàn tiếng chuyên môn.

Cười ra nước mắt.

Trở về trường, dù không có biên chế, tôi vẫn đi dạy tiếng Anh và kèm thêm một nhiệm vụ công đoàn “quan trọng” nữa là chăm lo đời sống cho cán bộ giảng dạy trong Tổ. Hàng tháng đi lãnh nhu yếu phẩm gồm có vài muỗng bột ngọt, một gói “chè cám”, vài kílô đường, và có cả vài hộp diêm chẳng biết để làm gì mang về phát lại cho cán bộ trong Tổ Anh Văn không chuyên.


Tổ nầy gom toàn là giáo chức du học ở Mỹ trở về: Sư Cô Tịnh Anh, Mère Tô Thị Ánh, chị Hoàng Thị Thu Hà cùng quý anh Phan Thanh Hoài, Trần Huệ, Hoàng Ngọc Khiêm, Trần Kim Nở, Phạm Văn Quảng, và tôi cùng vài cán bộ miền Bắc vào hay tập kết trở về. Tổ chúng tôi thuộc về Ban Tâm Lý Giáo Dục do Tiến Sĩ Phạm Minh Hạc tốt nghiệp ở Nga về ĐHSP Sàigòn lãnh đạo một thời gian. Về sau Mère Tô Thị Ánh được điều qua trường Y Khoa dạy môn Clinical Psychology.

Xem ra thêm việc chăm lo đời sống cho các bạn trong Tổ tương đối cũng nhẹ nhàng cho tới kỳ lãnh hàng may áo Tết hơi bế tắc. Nam hay nữ giáo chức trong Ban Tâm Lý Giáo Dục đều được phát một xấp hàng nội hóa. Nhà dệt hàng chế biến màu thế nào mà ĐHSP phải nhận nhiều hàng màu hồng quê-một-cục đem ra chợ trời bán được nửa giá hàng màu xanh. Cả Ban TLGD chỉ được phát một xấp màu xanh. Vậy sẽ trao cho ai xấp hàng màu xanh? Tôi bèn đề nghị rút thăm thì liền nghe Trưởng Ban mắng:

- Sống trong thời đại xã hội chủ nghĩa mà chị còn mê tín, bày đặt rút thăm. Đưa xấp màu xanh cho tôi.

Vói tay lấy xấp hàng màu xanh, ông ta thản nhiên bước ra khỏi phòng.

Rồi những ngày cận Tết ập đến. Tôi được lệnh đi cùng với chị Tuyết miền Bắc, cán bộ chuyên lo đời sống cho tất cả nhân viên của trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn, xuống Rạch Giá thu mua hàng về “ăn Tết”.


Trong chuyến đi, chị Tuyết và tôi được “quá giang” trong chiếc ô tô con của các đồng chí ban ngành khác đi Long Xuyên. Nghe tin chúng tôi đi về tỉnh lẻ, thế là các bạn vét hết “nouille”/nui lãnh ở phường khóm nhờ mang đi bán và mua hàng về cho gia đình ăn Tết. Nui là món quà Liên Sô viện trợ cho Việt Nam rồi khóm phường đem phân phát theo số người trong hộ. Con nít nhất là các con của chị Cam, theo lời chị kể, ghét món nầy lắm vì không được chế biến như macaroni and cheese ở Mỹ hay Pháp. Thuở ấy nhà nhà mỗi ngày đều luộc nui rồi làm một chén nước mắm để sẵn trên bàn, ai đói thì ăn cho đỡ đói hơn là ăn củ mì/sắn chạy chỉ đen rất độc.

Chúng tôi tới Long Xuyên thì trời tối hẳn. Nhờ chị Ngô Thị Ngọc Ánh, học cùng khoá Vạn Vật 58-61, giới thiệu đến nhà bà con cho ngủ nhờ một đêm. May làm sao, trong nhà đang làm bánh ít chuẩn bị cho đám giỗ hôm sau. Chủ nhà biếu chúng tôi mỗi người hai cái. Bụng đói, bánh ngon. Nhớ hoài những cái bánh ân tình. Sáng hôm sau chúng tôi “rê” mấy bao nui ra chợ bán. Vì giọng Bắc của chị Tuyết, chị hỏi gì, các bà bán hàng không thèm trả lời. Tôi mời họ mua nui thì như chạm vào nỗi bực dọc tích tụ từ lâu nên bị họ mắng:

- Ba cái đồ đó mà dám gọi là nui không ngượng miệng.                                                  

Đi vòng vòng mời gọi mà chẳng ai mua. Mặt trời lên cao.  Chẳng lẽ mang qua Rạch Giá hay trả về khổ chủ ở Sàigòn. Bỗng nhiên có một bà bán hàng ngoắc tôi lại:

- Thấy chị kéo rê tội nghiệp. Đem hết lại đây tôi mua đem về cho heo ăn. Thảo nào con nít thà chịu đói chứ không ăn.

Xuống tới Rạch Giá thì đã có sẵn một xe vận tải chất đầy vịt và 5 chiếc xe đạp. Chị Tuyết vào làm giấy tờ, ký tên lãnh “của” và trở về Sàigòn liền. Lại thắc mắc mà không dám hỏi ai: xe đạp sản xuất ở Sàigòn để được phân bố về địa phương, vậy cớ sao lại chở xe đạp về Sàigòn? Tôi chỉ biết một điều là xe đạp có giá lắm. Thuở ấy tôi đem chiếc xe Dauphine đổi được chiếc xe đạp là mừng lắm. Vì xe bị kẹt lâu ở bến phà Mỹ Thuận nên khi về đến trường là quá 12 giờ khuya. Vịt không còn sức kêu cạp cạp nữa để chia sẻ thương cảm với nhân viên còn đầy đủ chờ lãnh hàng về ăn Tết: Một con vịt chết ngộp.


Ngoài công tác giảng dạy, chúng tôi còn được phân công canh gác nhà trường về đêm hoặc cuối tuần. Có lần tôi cùng anh Trần Huệ - đỗ tiến sĩ tâm lý giáo dục trường Mỹ - được phân công làm gác dan cổng Đại Học Vạn Hạnh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều một ngày Chúa Nhựt. Lúc bấy giờ Đại Học Vạn Hạnh được thu dụng dành cho ngành Khoa Học Xã Hội của Đại Học Sư Phạm Sàigòn.

Đang ngồi ăn củ khoai lang của anh Huệ cho thì nghe tiếng còi xe. Tôi vừa khóc, vừa chạy ra mở cổng. Anh Huệ chạy theo nói vói:

- Cửa nặng lắm. Chị để cho tôi. Rồi hai chúng tôi cùng kéo cửa.

Xe lướt vào. Cửa sổ xe quay xuống. Một gương mặt thò ra. Hóa ra anh Nghĩa trong Ban Tâm Lý Giáo Dục - đi tập kết trở về - nói một câu lãng xẹt:

- Hai đồng chí hôm nay gác cổng?

Chúng tôi vừa trở lại chuồng cu - chỗ ngồi gác cổng - thì có bốn sinh viên nghênh ngang bước vào. Anh Huệ nhỏ nhẹ hỏi:

- Các anh cho chúng tôi xem chứng minh nhân dân.

- Không có.

Tôi dịu dàng hỏi:

- Vậy các anh cần thăm ai để chúng tôi mời xuống đón các anh.

Một sinh viên buông một câu làm tôi sững sờ, nước mắt tuôn ra:

- Mặt nguỵ trân mà còn làm phách.

Anh Huệ vội an ủi: “Đừng khóc” nhưng cặp mắt anh cũng lưng tròng.

Tuy nhiên cũng có sinh viên còn đồng cảm với chúng tôi. Có lần tôi được sinh viên nội trú mời ăn cơm trưa chia phần theo kiểu carré tức là 4 sinh viên ăn chung một mâm.


- Đây là bữa ăn hàng ngày của chúng em, mời Cô Giáo cứ tự nhiên xơi.

Tự nhiên làm sao được. Liếc nhanh thức ăn bày trên bàn. Một dĩa nhỏ chỉ có ba con tép lõng bõng trong nước muối và một tô canh rau muống gồm 12 cọng với lá úa, rễ già còn nguyên vẹn nổi lều bều trong tô nước trong. Tôi liền hỏi:

- Có ba con tép làm sao chia cho bốn trong bữa ăn hàng ngày?

- Dễ mà Cô. Một bạn chờ hôm sau đến lượt mình.

- Các em có thể giúp tôi hiểu đựơc lòng yêu nước của các em không? Vì sao các em gia nhập quân đội?

Cả 4 sinh viên cười dòn tan. Rồi một sinh viên trả lời:

- Thuở ấy chúng em đang học lớp 10 (tức là lớp cuối trung học vì lúc đó ở miền Bắc theo hệ thống giáo dục 10 năm chứ không phải 12 năm như trong Nam). Vào lớp chừng một tiết là có người mang đến một xấp đơn phát cho chúng em ghi tình nguyện gia nhập quân đội để cứu nước. Tập vở để nguyên tại chỗ sẽ có người mang về cho gia đình. Rồi chúng em bị hối thúc chạy vội ra leo lên xe chờ sẵn bên ngoài.
Một sinh viên ngừng ăn, đưa mắt nhìn xa xôi, buồn bã nói tiếp:

- Người yêu em học ở phòng bên cạnh mà em không kịp chào. Rồi từ lúc ấy đến bây giờ chúng em bặt tin nhau.

- Can đảm lên em. Tôi buộc miệng thốt. Không biết nói cho sinh viên hay cho chính mình.

Rồi một hôm thấy tôi đang giảng bài mà bỗng nhiên im bặt ngẩng nhìn chiếc máy bay đi ngang qua, biết rằng tôi đang xuống tinh thần, chính anh sinh viên nầy giả vờ lên xin lỗi vì lỡ chơi cờ trong lớp nhưng để kề tai tôi nói nhỏ:


- Cô tìm đường mà đi. Cô ở với chế độ nầy không nổi đâu.

Xin cám ơn em đã lo lắng cho tôi.

Trong 6 năm dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, tôi học nhiều điều mới như ngày Chúa Nhựt phải đi lao động xã hội chủ nghĩa từ 7 giờ sáng. Phải chăng đó là cách gián tiếp để người theo đạo Công giáo không kịp đi lễ ngày Chúa Nhựt?
Tất cả giáo chức đại học “được điều động làm thủy lợi ở vùng Cư Xá Thanh Đa. Khen ai khéo nghĩ cách đoạ đày giới trí thức - thức mà chưa tỉnh ngủ - cho chúng tôi chơi trò chuyền bùn.

Mọi người xuống nước bùn đen đứng thành hàng dài. Người đầu tiên móc một cục bùn rồi chuyền tay cho người kế tiếp. Đến người cuối cùng, cục bùn còn bé tí nhưng cũng phải đem đắp mô làm đê.
Mỗi lần đi đắp đê tôi theo chân Khoa Trưởng Trần Văn Tấn và chọn đứng bên trái KT Tấn. Khi cởi trần KT Tấn để lộ làn da trắng tươi nổi bật trong đám nam nữ giáo chức đại học chơi trò chuyền bùn. Thường thì KT Tấn trao luôn cục bùn cho người đứng bên tay mặt của tôi; nhưng thỉnh thoảng KT Tấn vẫn nhắc:

- Chị nhúng tay xuống cho lấm bùn kẻo họ để ý.

Với KT Tấn tôi mến phục từ hôm một cán bộ miền Bắc lên tiếng khiển trách khi chúng tôi bị điều động thu dọn sách trong thư viện ĐHSP để đưa ra Bắc. Đưa hết sách lên chiếc xe vận tải, chúng tôi trở vào dự buổi họp kiểm thảo ở trường ĐHSP. Một cán bộ giảng dạy ngoài Bắc phê phán:


- Các anh chị trong nầy làm việc chểnh mãng thế nào mà từ 1961 đến giờ, thư viện chỉ có ngần ấy sách.

KT Tấn giơ tay phát biểu:

- Xin đừng đả động đến ban giảng huấn. Tôi hoàn toàn chịu hết trách nhiệm.

Trong lúc bị đi học tập tẩy não, tôi thường ở bên cạnh KT Tấn vì lý do: Có ba người không ai dám công khai đến gần vì “sợ vạ lây” dù chỉ nói chuyện vu vơ. Đó là Khoa Trưởng Trần Văn Tấn, Tôn Thất Trung Nghĩa và tôi. Thế cho nên anh Nghĩa hay nói:


- Bà còn sợ gì nữa. Hồ sơ đen thì đã đen rồi. Không thể đen hơn nữa.

Anh Nghĩa và tôi vốn là bạn học chung khóa Vạn Vật 1958-1961 trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn nên trong hoàn cảnh nghiệt ngã càng thân tình hơn. Khi ban giảng huấn đại học được chuyển vào học ở giảng đường đại học Y Khoa, buổi trưa tôi theo anh Nghĩa ra phía trước trường ngả lưng trên tấm bạt của anh Nghĩa mang theo để trải ngồi sửa xe đạp sau giờ học tập.


Gió hiu hiu ru tôi vào giấc ngủ, quên đói và lấy sức để đạp xe về tới Gia Định khi tan trường. Vì chỗ thân tình như vậy nên một hôm tôi đon đả đến chào anh Nghĩa khi thấy anh ở Chợ Bà Chiểu, Gia Định khoảng 4 giờ sáng.


Tôi đi chợ sớm không phải để mua mà để bán cho kịp giờ về nhà thay đồ đi dạy học. Anh Viễn gom được gì thì đem bán nấy để có “tiền chợ”: khi thì một giỏ trái tầm ruột, vài bó bạc hà cọng nhỏ xíu vì thiếu phân bón, khi thì vài trái xoài cát hoặc trái dừa khô hay giỏ mận hồng đào hoặc vài nải chuối. Có gì bán nấy kể cả đào nền nhà bán gạch vụn cho người trong xóm nghèo lấp lỗ trũng cho đỡ ngập nước.


Hôm gặp anh Nghĩa ở chợ Bà Chiểu, trông anh nổi bật nhờ tướng cao, mặc bộ đồ trắng đánh tennis đứng bên cạnh chiếc xe đạp chở cần xé than đước. Đến gần anh Nghĩa, tôi hỏi một câu thật vô duyên:

- Anh Nghĩa làm gì ở đây sáng sớm vậy?

Anh ta quát to:

- Không thấy sao mà còn hỏi.

Hiểu tâm trạng buồn bực của anh cũng như chính mình lâm vào tình trạng bất-khả-kháng, tôi lủi thủi dẫn xe đạp đi bán nốt mớ trái cây còn lại. Vì cúi gầm mặt, tôi đụng phải một người hai tay xách hai túi nước đá. Tôi liền lên tiếng xin lỗi. Nhận ra giọng nói của tôi, ông ta ngẩng đầu lên:


- À ra chị. Tôi cũng góp phần “tăng gia sản xuất” đây chớ. Thôi tôi đi giao nước đá cho bà bán sương sâm để kịp trở về làm lễ.

- Chào Cha. Con cũng phải về để đạp xe tới trường kịp giờ dạy.

Đó là Linh Mục Phùng Sanh mà bổn đạo nhà thờ Bà Chiểu thường gọi là Cha Mạnh. Tôi rất phục tài thích ứng với hoàn cảnh nhanh chóng của Cha sau 1975.

Một hôm tôi ghé thăm Cha để biếu một nải chuối. Không thấy Cha ngồi ở bàn viết như thường lệ, nghe tiếng heo chộn rộn bên cửa hông, tôi chạy ra xem thì gặp Cha đang cho heo ăn. Cám heo văng tung toé lên chiếc quần đen và cái áo thun cũ Cha đang mặc. Ngỡ ngàng, tôi vẫn lên tiếng:


- Chào Cha.

Ngẩng nhìn lên, Cha lặng thinh một hồi. Rồi gỡ cặp kính cận xuống để lau. Kính đeo mắt của Cha dơ vì cám heo bắn lên hay vì nước mắt Cha làm mờ cặp kính?

Cho heo ăn, rồi tắm heo xong, Cha mời tôi đến xem cái máy hút bụi của em gái Cha mới gửi về. Biết tiếng tôi là “dân bán chợ trời”, Cha nhờ tôi đem máy đi bán. Tôi nhẫn tâm nói một câu:

- Cha ơi, thời buổi nầy ai mua máy mà bán. Ngoài đường không sạch, nơi nơi không sạch thì trong nhà làm sao giữ cho sạch được nên có ai đâu mua máy làm chi. Nếu Cha có thuốc tây hay thuốc ngoại hoặc đô la là con có thể giúp Cha được.

Tôi vừa bán thuốc tây và nồi cơm điện, chảo điện giúp bà Sơ Tô Thị Ánh. May quá, tôi xách túi hàng đi dọc đường Hai Bà Trưng gần chợ Tân Định hơi lo, sợ bị giật mất hàng và nhất là không biết nói giá bao nhiêu thì gặp một ông ngồi trên sạp gọi:

- Chị đi bán hàng hả?

Chúng tôi chưa kịp nhận nhau ra vì ông mua hàng và tôi cùng đội cái nón lá sùm sụp để che mặt.  Tôi vội trả lời:

- Dạ có.

Nhận ra tiếng quen, ông ta chỉ kịp nói:

- Trời ơi, chị.

Và tôi cũng đáp:

- Trời ơi, anh Tr.

Chúng tôi bỗng nhiên thành dân-chợ-trời bất đắc dĩ.


- Anh Tr. ơi.  Mấy tube Optalidon nầy cùng các hộp Aspirine là của Mère Tô Thị Ánh nhờ tôi bán. Tôi không lấy tiền còm (commission) gì hết. Bảo đảm là thuốc tây thiệt của người em bà bên Mỹ và nhà dòng bên Belgique gửi về. Anh cứ định giá, gói tiền lại trả cho bà. Tôi không mở ra và sẽ trao cho bà nói là anh mua thuốc, hẳn là Mère Ánh mừng lắm.
Có lẽ anh Tr. chỉ bán dùm chứ ai nỡ lấy tiền lời khi bán thuốc giúp một bà Sơ. Rồi anh Tr. gọi ông có sạp bên cạnh mua luôn cái chảo và nồi cơm điện của Mère Ánh.

Rảnh tay, tôi đi lang thang về hướng nhà thờ Tân Định để xem các sạp trong khu chợ trời. Gặp hàng sách cũ, tôi sà xuống, ngồi chồm hổm xuống lựa lựa, chọn chọn. Ông bán hàng đội nón rộng vành để che nắng hay che mặt e sợ bị nhận diện? Mặc cho khách chọn sách ông cũng chẳng buồn buông một câu chào hay một lời hướng dẫn chọn sách. Gặp một cuốn sách thuộc Tự Lực Văn Đoàn, tôi thắc mắc: “Tại sao cuốn sách nầy thoát được chiến dịch tiêu diệt văn hoá đồi truỵ mà dám nằm chình ình ở đây”. Tôi liền hỏi:


- Cuốn sách nầy giá bao nhiêu?

Ông ta ngẩng đầu lên:

- Trời ơi. Sao còn ở đây? Tưởng đi mất rồi chứ? Thôi để lên nhà thăm rồi hãy trả lời.

- Phải chi biết sớm anh buôn bán sách ở đây. Hôm qua tôi mới bán cuốn tự điển Webster mới tinh, buồn muốn khóc. Tôi hãnh diện giới thiệu sách với ông buôn sách ở Chợ Cũ: “Sách nầy edition mới nhất đó anh”. Ông ta bật cười to: “Vậy thì bằng nửa giá sách cũ vì sách mới in với giấy dày, không quấn thuốc hút được. Sách cũ, giấy mỏng, nhiều tờ hơn người ta thích mua để hút thuốc”.

- Thôi để lên nhà nói tiếp.

Mới ba giờ anh Th. đạp xe lên tới nhà và biếu hai cái bánh xu xê như lúc chúng tôi cùng dạy ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Nhưng hai cái bánh xu xê nầy được mua bằng món tiền ít ỏi nhờ phơi nắng cả ngày để bán từng cuốn sách cũ. Nhớ hoài hai cái bánh ân tình. Anh Th. bèn nhắc lại câu hỏi không dám trả lời nơi chỗ đông người:


- Sao còn ở lại đây?

- Anh có tin số mạng không? Chúng tôi thử thời vận bao nhiêu lần rồi đó. Mỗi lần chúng tôi chuẩn bị ra đi là tôi mang về một con heo mọi.

- Để làm gì?

- Để cho Tổ Trưởng và Công An Phường đi ngang nhà nghe tiếng heo kêu, tưởng rằng chúng tôi an phận ở lại “góp phần tăng gia sản xuất”. Nuôi heo mọi ít tốn tiền mua thức ăn và tiền mua heo cũng rẻ hơn các loại heo khác. Nuôi rồi bán bao nhiêu con heo rồi mà vẫn còn đây. Trong trường tôi đã có vài người ra đi tới được thiên đàng hạnh phúc nhưng cũng có người ra đi mà không có tin vui gửi về.

Thương nhất là gia đình Giáo Sư Hoàng Ngọc Thành. Bên chồng và tính luôn bên vợ có 11 thân nhân vùi dập trong biển cả hoặc rừng sâu.

Tôi nhớ nhất là anh Hoàng Ngọc Khiêm, em của GS Thành. Buổi trưa trước ngày ra đi, vừa tan trường, anh Khiêm mời tôi sang bên chợ Trương Minh Giảng, đối diện Đại Học Vạn Hạnh, uống nước mía, món hàng xa xí trong thời buổi đó. Ngạc nhiên, tôi đi theo anh Khiêm nói đùa:


- Sao hôm nay anh Khiêm sang thế?

Anh Khiêm không cười mà vẻ mặt buồn buồn:

- Mời chị ly nước mía giã từ. Mai nầy tôi dẫn thằng con đi qua ngả Campuchia vì sợ cháu lớn lên sẽ bị bắt đi lính gửi qua Campuchia. Không biết bao giờ mới gặp lại chị.

Thật vậy, anh Khiêm và tôi chẳng còn gặp lại nhau vì gia đình anh không bao giờ được tin vui của cha con anh Khiêm. Cám ơn anh Khiêm đã tin tôi không đi tố cáo với nhà trường nên dám nói lời từ biệt.

Trong Tổ nhỏ Anh Văn Không Chuyên của chúng tôi, cùng số phận với anh Khiêm có chị Hoàng Thị Thu Hà. Trước ngày đi, chị Hà lấy cái váy bằng len nhờ tôi tháo ra và may cho thằng con 5 tuổi một cái Jacket để đi vuợt biên với chị: Dắt díu nhau bằng đường bộ qua ngõ Campuchia. Cuộc hành trình bất thành. Trở về, chị Hà chọn đường biển. Bặt tin.

Và còn bao nhiêu gia đình nữa đi mà không tới như anh chị Tâm bên Đại Học Khoa Học. Cả hai vợ chồng đi tìm tự do ở cõi nào mà để lại hai cháu nhỏ cho ông bà Hoàng Ngọc Thành chăm sóc trên đảo Pulau Bidong.

Những tin dữ nầy truyền nhau trong trường cũng không làm sờn lòng người quyết tâm ra đi.

Đêm đêm nằm nghe tiếng chó sủa mà rợn người, lo sợ cho ngày mai không biết sẽ ra sao. Thôi thì cứ tìm đường vượt biên, vượt biển mà đi dù biết rằng xác suất đến cổng vào Thiên Đường Tự Do rất nhỏ: 6.25%. Nầy nhé ra đi có thể bị bắt là một ăn một thua: 50/50. Ra tới biển có cơ hội gặp hải tặc: 50/2= 25. Cơ hội được Mẹ Thiên Nhiên chúc lành: 25/2 =12.5. Nếu tính thêm may mắn thoát đột quỵ vì căng thẳng hoặc đói khát có thể giết người thì cơ hội sống còn chờ ngày được định cư ở một nước thứ ba sẽ là: 12.5/2= 6.25. Trong canh bạc ít có ai dám đem tiền của ra đánh đổi với một xác suất nhỏ thế. Vậy mà nhiều người dám đem sinh mạng của mình ra đánh trong canh bạc tù đày hay tự do.

Quả thực, chúng tôi là những người chấp nhận an phận, mong cảnh gió dừng để cây lặng nhưng nào gió có dừng đâu. Đành thử thời vận: “Một liều ba bảy cũng liều…”

Tới được bến bờ Tự Do thật là phép lạ.



Cựu Đại Sứ Bùi Diễm: Những bài học lịch sử từ chiến tranh Việt Nam







CUỘC HÀNH QUÂN CẢM TỬ của Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt








30 năm về trước, vào mùa hè năm 72 được biệt danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Cộng sản Bắc Việt (CSBV) mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận: Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc. 30 ngàn quân CSBV trang bị vũ khí tận răng, tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch…

Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của không lực Hoa Kỳ bất thình lình bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hãi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người còn lại trong phi hành đoàn. Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ mình dưới đất. Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “tìm kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến. Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nhì ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.

Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một mình dưới đất trong sự che chở của rung rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN. Hôm đó là ngày Phục Sinh, chủ nhật 2 tháng 4, 1972. Không quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta vì địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả mìn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần. Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton thì lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về. Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ. Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Đại Uý William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton. Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối. Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng. Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị CSBV lùng bắt được. Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command). Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch. Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.

Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. Vì hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng vòng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng. Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt. Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ. Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton. Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ. Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người. Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy mình. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống còn…. Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.

Ngày 9 tháng 4, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công. 5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác. Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.

Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác: một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này? Câu trả lời: Biệt kích Mỹ và Việt. Đại Úy Thomas Norris - (hình trái) - US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị. Cùng lúc đó, không lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong lòng địch tìm cách tới điểm hẹn. Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt. Tối ngày 10 tháng 4 sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. Còn Trung Tá Hambleton cách giòng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua vòng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông. Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ. Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Phòng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô hình của US Navy SEALs.

Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược dòng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó. Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành. 6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đã bất chấp sức mạnh của không lực HK. Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược dòng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi dòng xuống. Nhưng vì dòng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông. Toán biệt kích chậm rãi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiểu thường xuyên canh phòng. Đây là một việc chậm rãi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đã dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn. Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.

Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi dòng sông. Đó chính là Trung Úy Clark. Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu thì một toán tuần tiểu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi dòng sông. Đến khi kẻ địch đã đi qua thì Trung Úy Clark cũng biến dạng trên dòng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark. Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông. Trời đã hừng sáng, tuy đã tìm được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn còn ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm rãi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành trình đào tẩu khỏi vùng địch. Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích còn ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong vì vẫn còn một phi công HK cần giải cứu. Ngày hôm sau, 11 tháng 4, toán biệt kích chuẩn bị lên đường. Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đã chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. Vì thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đã dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường. Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.

Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương. Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ còn lại 4 người: Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người còn lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu. Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào lòng địch. Càng vào sâu, nhìn thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trời đã hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui. Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không còn bao lâu trước khi ông ta gục ngã chết lịm trong rừng già. Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức thì không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn. Sức khoẻ của ông đã đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay thì có lẽ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. Họ cũng lượng định rằng trong tình trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi tìm cho ra được ông ta.

Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất tình nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn tình nguyện đi vì yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng vì lòng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu. Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47. Họ quyết định dùng xuồng đi ngược dòng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rõ mồn một tiếng trò chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu. Họ chèo chậm rãi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp dòng sông che chở họ khỏi sự dòm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ. Khi nghe tiếng chân bộ đội Bắc Việt tuần tiểu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi dòng sông và tìm kiếm Trung Tá Hambleton. Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng tìm ra Trung Tá Hambleton, một thân hình tong teo gục ngã gần bờ sông. Ông ta chỉ còn thoi thóp thở. Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân hình ông ta. Họ bắt đầu cuộc hành trình rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm rãi như mọi khi. Lúc bấy giờ hừng đông đã ló dạng. Bất thình lình, Kiệt nghe tiếng gọi “Ê, lại đây!”. Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ. Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều bình tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam. Vừa chèo, Kiệt đã bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo.

Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại bình thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu. Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm não của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời … Tom lập tức báo cáo bằng radio là đã giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong vì họ vẫn còn sâu trong lòng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. Vì thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào. Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đã báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu. Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn dòng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàng cây dầy đặc ven sông che dấu bớt hình ảnh chiếc xuồng mong manh. Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức. Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa. Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi dòng an toàn. Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đội hai bên dàn trận ra “tiếp đón” lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đội VNCH bên bờ Nam. Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt dìu Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn ….

Cuộc giải cứu đã thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay thì những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng mình đi vào trong lòng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.

Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim với những tài tử quen thuộc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyện. Vậy mà 2 nhân vật “CHÍNH” nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến. Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ. Đại Úy Thomas Norris được trao tặng huân chương “Medal of Honor”. Huân chương cao quý nhất của quân đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đã có hành động dũng cảm phi thường. Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, người Nhái anh dũng của Hải Quân VNCH, được trao tặng huân chương “Navy Cross”. Huân chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh. Kiệt là người chiến sĩ Hải quân VNCH duy nhất nhận huân chương “Navy Cross” trong cuộc chiến Việt Nam.


Cướp - Thơ Nguyễn Duy






csvn đốt sách miền Nam tự do sau ngày đứt phim - Tác giả Nguyễn Hiến Lê







Văn hóa

Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc. 
 
Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm... in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.

Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.

Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
 
Một nhóm ba thanh niên cũng xin vào xét tủ sách của tôi. Nhà tôi tiếp họ, hỏi:

- Các cháu học ở đâu? Có đọc sách ông Nguyễn Hiến Lê không?

Một người học Đại học, đáp có đọc sách tôi. Nhà tôi bảo:

- Nhà này là nhà ông Nguyễn Hiến Lê đấy.

Họ vội vàng xin lỗi rồi rút lui.

Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.

Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy", chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí... Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.

Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho "ve chai" một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.

Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.

Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.

Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.

Bà Đông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.

Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin sở Thông tin văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.

Ít tháng sau tình hình dịu lần rồi yên, không nhà nào bị kiểm kê, Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn "phần thư” kể như qua hẳn (1). Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai xin tôi cũng cho.

Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng, ở Sài gòn chỉ thấy bán vài tạp chí Nga, Ba lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng kí trước ở sở Bưu điện. Một người cháu tôi từ Pháp gởi về cho tôi một tờ Nouvel Oservateur (của khối cộng), số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán trong nước. Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung hoa nào bán ở Sài gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt, ở các thư viện Hà Nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người đọc lén được.

Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!

Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp, các thuốc tây không có prospecties cho biết cách dùng, trị bệnh gì..., mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài gòn ra Hà nội mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài gòn qua Pháp, Gia nã đại mất hai tháng, có khi bốn tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?

Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.

Một anh bộ đội đi xe đò từ Long xuyên lên Sài gòn nghe hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến... mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi: "Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu thì còn biết chút gì về thế giới nữa?"

Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.

Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10.000 bản trở lên, có thứ 30.000, 100.000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lí do. Hà nội mỗi năm xuất bản không biết được 100 nhan đề không (trong này,thời trước được khoảng 1.000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng “đói sách”; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để bán kí lô.

Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
 
(1) Tôi lầm. Giữa năm 1981 vì ở khắp các thành phố, thị xã, các sách đồi trụy, băng nhạc ngụy, cả phim đồi trụy nữa lại lưu hành, nên có vụ kiểm kê các quán cà phê, sách cũ, nhưng lần này các sách khảo cứu Việt miền Nam và các sách Anh Pháp không bị hốt.
 
 

Hai Người Con Gái - Tác giả Nguyễn Duy Chính





Mấy hôm nay ngồi dọn lại đống sách vở cũ dưới garage, tôi lại gặp một bức hình chụp người Việt di cư năm 1954 mà lần nào cũng làm tôi xao xuyến. Bức hình này làm tôi nhớ đến một bức ảnh khác, vẫn thường gặp trong sách báo viết về cuộc di tản năm 1975. Hai tấm ảnh chụp cách nhau 20 năm mà sao có nét gì gần gũi.

 
Tấm hình bên trên là hình của một cô bé con trên đường từ Bắc vào Nam tôi tìm thấy trong tập san “The National Geographic Magazine” Volume CVII, số 6 (June, 1955) trang 871 trong một bài viết nhan đề “Passage to Freedom in Viet Nam” do ký giả Gertrude Samuels nội dung có cả hình ảnh và bản đồ.

Cô bé con có lẽ không biết có người đang chụp hình mình, hai tay giữ chiếc nón cho khỏi bay, nét mặt ngây thơ nhìn về xa xa như đang hi vọng vào một tương lai tươi sáng, bỏ lại sau lưng những ngày tháng ở một ngôi làng quê nào đó từ miền châu thổ sông Hồng.

Hồi mới vào nam, bố tôi dạy học ở một làng di cư trên Tây Ninh, gần biên giới Việt – Miên. Gia đình tôi vì thế cũng theo lên và tôi phải rời ngôi trường ở Sài Gòn để vào học trường tiểu học Cao Xá. Lớp học có độ dăm cô gái ngồi ngay trước bàn tôi, trong số đó có một cô bé rất xinh tên là Duyên. Duyên là con một ông giáo khác cũng dạy trong trường nhưng mới qua đời trước khi tôi lên đây. Thỉnh thoảng bố tôi cũng dẫn tôi đến thăm bà giáo trong tình đồng nghiệp với chồng bà và khi người lớn nói chuyện ở nhà trên thì tôi xuống dưới bếp là một cái nhà nhỏ hơn ở phía sau để chơi với Duyên. Duyên đưa tôi ra thăm khu vườn nho nhỏ của nàng trồng các loại hoa rất ngăn nắp. Nàng kể cho tôi nhiều truyện và bạo dạn hơn khi ở trong lớp rất nhiều. Duyên cũng khoe với tôi những món đồ chơi nho nhỏ, những cuốn sách hình màu mà ông cha xứ cho nàng.Cô bé “Bắc Kỳ di cư” khiến tôi nhớ đến người bạn nhỏ của tôi ngày nào. Có lẽ hai người cũng trạc tuổi nhau, hay chênh lệch một hai tuổi là nhiều. Sau khi về học trung học ở Saigon, tôi không còn gặp lại Duyên nữa mặc dầu khi ra trường tôi có làm việc ở Tây Ninh một thời gian.
 
Hình cô gái bên dưới tôi trích từ cảnh di tản ở Nha Trang trên một chiếc trực thăng, do nhiếp ảnh gia Thái Khắc Chương chụp ngày mồng 2 tháng 4 năm 1975[1]với ghi chú như sau:

 
 
 
 
Một người đàn ông cố gắng lên một chiếc máy bay di tản đã quá tải bị một viên chức Mỹ chặn lại ở căn cứ không quân Nha Trang, Nam Việt Nam. Nha Trang bị lực lượng Cộng Sản Bắc Việt chiếm ngày mồng 2 tháng 4 năm 1975. Ngày 14 tháng 3 năm 1974 [đúng ra là 1975, người viết sửa lại], tổng thống miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh một cuộc tổng triệt thoái quân lực VNCH từ vùng cao nguyên miền Trung. Cuộc triệt thoái này gây ra tình trạng hỗn loạn khiến cho nhiều lực lượng qui mô quân sự và dân sự phải chạy về phía nam. Hàng nghìn người tị nạn nghĩ rằng Nha Trang là một cứ điểm an toàn, nhưng đến ngày mồng 1 tháng 4 năm 1975 thì cuộc tháo chạy kinh hoàng lan đến Nha Trang, nơi đó bị quân đội Nam Việt Nam từ bỏ một ngày sau đó, nhượng đứt toàn bộ một nửa miền Nam Việt Nam cho quân Bắc Việt.[2]

Tấm ảnh này xuất hiện trên nhiều tài liệu, ấn phẩm viết về sự sụp đổ của Nam Việt Nam, có khi riêng rẽ một tấm, có khi đi thành một dãy 2, 3 tấm cùng một thời điểm, cùng một thảm trạng chỉ cách nhau vài ba giây cho thấy người ký giả bấm máy liên tục để ghi nhận sự kinh hoàng của người dân miền Nam lúc đó.

Khi nhìn vào bức hình, hầu hết chúng ta chú ý đến cái cảnh tuyệt vọng của chàng thanh niên cố gắng chiếm một chỗ trên chiếc trực thăng trên đường di tản, sự từ chối phũ phàng của phi hành đoàn vì phi cơ đã quá tải, vì đây là những tiêu điểm của toàn cảnh.

Thế nhưng nếu nhìn kỹ, góc khuất bên phải có một khuôn mặt của một cô gái trẻ đã yên vị trên phi cơ, bình thản một cách nhẫn nhục. Khuôn mặt cô thanh tú và trầm lặng, không thể hiểu được đang vui hay buồn. Cô đang cầu nguyện chăng, hay cô đang nhớ đến những người bạn cùng lớp, cùng trường, cùng khu phố mà mới vài tháng trước còn đầy hoa mộng.

Cũng năm 1975, trước ngày mồng 1 tháng Tư không lâu, tôi cũng đã chạy từ Đà Nẵng vào Nha Trang và rồi kịp đi thoát về Vũng Tàu trên một chiếc tàu đánh tôm của Mỹ. Khi tôi ra khơi thì tình hình đã nguy ngập nhưng không đến nỗi loạn như ở tấm hình này.

Cô bé “Bắc Kỳ nho nhỏ” di cư năm 1954, có thể bé hơn tôi một chút, ngày nay chắc cũng đã thành một bà lão trên dưới 70, còn cô gái “tóc thề Nha Trang” kia khi đó chừng 15, 16 tuổi, thì nay cũng đã 60.

Trong mấy chục năm qua cuộc đời đã thay đổi như thế nào? Còn sống hay đã chết? Có lẽ hai cô gái ngày nay đã con đàn cháu đống, trở thành bà nội bà ngoại từ bao giờ, có khi đang sống gần ngay khu tôi ở mà mình không biết.

Thỉnh thoảng đọc một bài báo kể lại chuyện những người xa cách nhau mấy chục năm rồi gặp lại tôi cũng mơ đến việc gặp được hai cô gái này,dù không biết họ là ai nhưng thật gần gũi vì cũng đã cùng với mình trong những ngày tháng chung mặc dầu “một ngày ‘54” và “một ngày ‘75” là hai khung trời khác xa.

Nhìn những tấm hình cũ có mấy ai không thấy thấp thoáng những bóng hình đã đi qua trong cuộc đời?

Chú thích :

[1]https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26169340644/in/album-72157667803132326/

[2] Thai Khac Chuong – Vietnam. A man trying to board an overloaded evacuation plane is stopped by an American official at Nha Trang Air Base in South Vietnam. Nha Trang was captured by North Vietnamese forces on 2 April 1975. On 14 March 1974, South Vietnamese President Nguyen Van Thieu ordered a general withdrawal of ARVN forces from Vietnam's central highlands region. This turned into an chaotic situation with masses of military and civilians fleeing southwards. Thousands of refugees believed Nha Trang to be a safe haven, but by 1 April 1975 the general panic of retreat reached Nha Trang, which was abandoned by the South Vietnamese Army one day later, yielding the entire northern half of South Vietnam to the North Vietnamese.