Cư dân Melbourne thì không lạ chi khí hậu bất thường của thị trấn. Cứ như người sống khổ, riết thành quen. Thì đấy, ba mặt một nhời, trời đang đổ lửa nổ tung đom đóm, bỗng dưng mây đen từ Nam Cực lồm cồm từng cụm xám dầy lô nhô kéo tới, vừa bay vừa bụng bầu, vừa cố gắng nín thở, rặn, sinh sôi bự to từng cục nấm nguyên tử. Tới thị trấn, mây nấm dừng lại cầm từng gầu nước đổ ướt xối xả phố phường, rồi thật nhanh biến mất, tưởng như chẳng có chi. Thế là trời quang. Không gợn mây. Nắng lại tấp nập trên những con đường loang loáng nước mưa. Nhiều khi trời mưa Melbourne, nhưng cách đó không xa, trời Dandenong đang nắng, nắng cháy thịt da.
Cứ thế!
Giang hồ lẩm bẩm chửi thề, “Mẹ kiếp! Úc khùng!”, bởi thấy nắng lên, thiên hạ quẳng dù vào thùng rác, để lại áo khoác trong xe, thảnh thơi rong chơi hè phố. Nhưng mây xám lại kéo tới, rồi lại mưa, rồi lại nắng, và rồi lại mưa. Quần hùng trở tay không kịp với khí hậu khùng điên Melbourne.
Sáng, chợ trời họp ngay tại chân núi Dandenong tấp nập người ra người vô. Úc gốc Tây sánh vai với Úc gốc Việt, bản xứ với ngoại kiều, đàn bà với đàn ông, người người đi ra đi vô xăm xoi những món hàng dán nhãn hiệu CK, Versace, Giordano, nhưng lại bán clearance rẻ rề, bởi được nhập lậu từ những chuyến tàu xuất phát từ Hoa Lục, Hồng Kông, và Macao.
Khu bán rau, người ta thấy bà tây mặc váy đầm, dáng mập mạp phúc hậu tay cầm mớ rau muống, tay kia giơ ra hai ngón nói với người phụ nữ Việt bán rau có những ngón tay thon nhọn búp măng,
— Two dollars?
Người bán rau lắc lắc đầu, tiếng Việt giọng Hà Nội rõ từng âm,
— Vâng! Xin bà chị cho em năm đồng.
Bà tây lắc đầu quầy quậy, nhất định không chịu, tiếng Anh giọng Aussie đặc sệt,
— No! No! Three dollars. Three dollars only!
Người bán rau quay sang nói với bà hàng bán rau thơm mấy câu, rồi gật đầu,
— Gớm! Có mớ rau nho nhỏ bằng mắt muỗi mà trả giá tới lui. OK! OK! Take it! Three dollars!
Được lời như mở một cõi lòng, bà tây hớn hở nhặt lên bó rau muống cọng mềm màu xanh mướt bỏ đi, không quên buông lời, "Thank you".
Khu bán thịt, mùi thịt bốc lên quyện với mùi tanh của khu bán cá ngay bên cạnh. Du khách lần đầu ghé đất Úc hăm hở tìm kiếm mua cho bằng được miếng thịt Kangaroo đỏ tươi. Có du khách ngớ ngẩn thắc mắc,
— Thịt Kangaroo mùi vị ra sao nhỉ?
Người bán thịt nhăn nhăn vầng trán, ngần ngừ,
— Có bao giờ ông ăn thịt chó chưa?
Thấy du khách ngập ngừng, người bán thịt so sánh,
— Well! Thịt chó vị đậm hơn thịt bò, không nồng như thịt cừu, không béo như thịt heo.
Nhìn hàng người bắt đầu nối đuôi phía sau tìm mua đặc sản đại thử đất Úc, nhìn du khách tây phương tiếp tục ngớ ngẩn ngẩn ngơ như gái ngồi phải cọc, người bán thịt chép miệng kết luận bài giảng thịt kangaroo,
— Thì cứ tới phi trường Tân Sơn Nhất, bước ra sân bay, hàng thịt chó bán đầy, rựa mận, chả cầy, đủ cả...
Nhưng bốc mùi nhất vẫn là khu bán mắm. Người tây tới đây, nhiều người bịt mũi chân rảo bước nhanh nhanh bởi những rổ mắm; mắm ruốc Bà Giáo Thảo nhé, mắm nêm Châu Đốc nè, mắm tôm Nam Định bên kia, mắm tép Hồng Ngự bên này. Đủ cả. Mắm Việt gốc Việt Nam chen vai với mắm Việt dán gốc San Francisco, Băng Cốc, và Đài Loan. Mặt hàng nào cũng bốc cao mùi mắm nồng nặc. Cứ như thiên hạ đều đã hóa mắm! Bà hàng mắm tôm quay sang cô hàng mắm ruốc, tay chỉ người đàn ông đeo kính trắng gọng vàng bán mắm ngồi gần ngay đấy,
— Không biết thằng chả từ đâu tới? Nhìn mặt mũi sáng sủa như thế mà lại đi bán mắm!
Cô hàng mắm ruốc lắc lắc đầu,
— Thằng cha? Đừng có nói. Người ta nhà giáo đấy. Dạy trên trường tây lận. Chẳng hiểu tại sao như người ăn phải bùa! Đang làm ông giáo, công việc ngon lành, thế mà làm đơn xin nghỉ. Tưởng để làm chi? Hóa ra đi bán mắm.
Cô hàng mắm chép miệng,
— Chắc tại đọc sách nhiều, đâm ra dở hơi!
Người đàn bà trợn mắt,
— Ông giáo? Giời ạ, hèn chi đeo kính gọng vàng. Dạy học lâu chưa nhỉ?
Cô hàng mắm con mắt sắc có đuôi, liếc liếc nhìn ông hàng mắm,
— Cũng lâu rồi. Dạy trung học trên phố, trường Dòng Tên. Vô học trong đó, tháng tháng tiền học đóng bạc vạn. Chỉ nhà khá giả có khối của, con cái mới đặt chân được tới cổng trường.
Người đàn bà nhìn cô bạn đồng nghiệp,
— Ơ hay nhỉ! Sao có người lại rành chuyện ông giáo bán mắm đến thế! Cô nhìn còn son sẻ, dáng người thon thả, xinh xắn như hoa hậu áo dài Melbourne. Hay là cho tôi ăn cái đầu heo nhé. Chịu thì tôi ra gặp ông ta, nói thêm cho vài nhời.
Cô hàng bán mắm giãy nảy như đỉa phải vôi,
— Thôi, em lậy chi! Người ta có gia đình rồi, cô vợ trong hình nom xinh lắm. Nhưng chết rồi.Thì đấy, ông giáo đôi khi nhỡ miệng than, “Đến là khổ! Nhà tôi bán mắm lâu rồi!”.
Người đàn bà nhíu cặp chân mày tiả đều,
— Lạ nhỉ? Sao cô lại rành chuyện ông giáo bán mắm đến thế? Cứ làm như chuyện nhà mình…
Cô bán mắm cúi nhìn mặt đất, mặt đỏ hồng hồng như người nhấp miếng rượu vang đỏ,
— Chị! Chị cứ nói vớ vẩn! Đến tai người ta, họ cười em.
Cô bán mắm thì thào,
— Thì cũng tại thằng con em, nó học chung lớp với con gái ông giáo.
Cô bán mắm phân bua,
— ...Từ thời lớp Sáu lận…
Người đàn bà yên lặng không nói chi thêm, nhưng ánh mắt, khuôn mặt, đôi môi, cử chỉ đậm nét nghi ngờ! Cả hai người bán mắm, không hẹn mà gặp, cùng nhìn sang ông giáo bán mắm. Cả hai cùng quan sát đồng nghiệp bán mắm.
Mà tình thiệt! Ông hàng mắm nhà mình cũng khéo lắm, khách đi ngang qua, tây? ta? thổ dân? ông vui tươi cất giọng mời hàng,
— Mại dzô! Mại dzô! Mua một tặng một. Buy one, get one free. Mại dzô! Mại dzô! Vừa bán vừa tặng! Vừa tặng vừa cho! Everything is on sale! Mại dzô!
Khách đi ngang qua, người người nhìn ông hàng bán mắm. Thấy người bán vui vẻ, nhiều người dừng một nhịp chân ghé vào gian hàng mắm. Ông hàng mắm mới vô nghề, gọng kiếng vàng chưa một nét trầy, nhưng đã rõ nét yêu việc. Gian hàng mắm, ông bày đủ loại, mắm bày trong lọ, mắm chưng trong keo, mắm ruốc Bà Giáo Thảo chen với mắm Bò Hóc dán tem Nam Vang, mắm Thái nghạo nghễ đứng cạnh mắm Thượng, đủ cả. Có người cắc cớ hỏi,
— Ông giáo có mắm tàu hũ thúi Đài Loan không?
Ông hàng mắm nhanh nhẹn,
— Vâng, có chứ.
— Còn cheese thúi của Wisconsin?
Ông hàng chép miệng,
— Đúng ra thì không. Nhưng có người giới thiệu cho nên tiệm cũng bày ra cho đủ mặt hàng.
Khách trợn mắt,
— Không giỡn đấy chứ ông giáo?
Ông hàng mắm sửa sửa lại gọng kính vàng trên sóng mũi thanh tú,
— Em nào dám, buôn bán mà. Phải đủ mặt hàng, mẫu mã phải nổi bật, phải có vệ sinh sạch sẽ. Như vậy mới quyến rũ được khách hàng chứ. Đúng không bà chị?
Người đàn bà đầu vấn khăn nhung, nửa đùa nửa thật,
— Gớm! Ông hàng mắm đến là khéo ăn khéo nói. Đã có vợ chửa? Nếu chưa, để tôi giới thiệu cho.
Người bán mắm đáp ngay,
— Cám ơn bà chị! Nhà tôi bán mắm lâu rồi...
Đúng như lời quảng cáo của người bán mắm, mọi thứ mắm trong quầy đều được bầy trong những keo thủy tinh trong suốt, nắp đậy cẩn thận. Những chú ruồi nhằng to như đầu đũa tô đen kịt bầu trời mùa hè Melbourne có muốn lao vào nếm mắm của ông giáo cũng đành hậm hực đứng nhìn, nước miếng chảy bám quanh vòi.
Ba giờ chiều, người bán mắm dọn hàng, lái xe tới trường dạy học hồi xưa đón con gái.
Ngồi trên xe, cô con gái tuổi mười sáu, gọi bố bằng thầy, nhanh nhẩu hôn lên vầng trán còn nồng mùi mắm của người bán mắm,
— Thầy ơi! Hôm nay thầy bán được nhiều mắm không?
Người bán mắm hí hửng,
— U chu choa! Hôm nay khá lắm con. Thầy bán bay hết mấy hũ mắm ruốc. Có cái bà tây đi du lịch Việt Nam hơn tháng trời. Về lại Melbourne được mấy ngày, bà ấy nói phải ra chợ trời Dandenong tìm mua mắm ngay. Thầy giới thiệu cho bà ấy mắm ruốc Bà Giáo Thảo. Bà ấy nếm thử, thích quá, khuôn hết lên xe hơi mấy hũ mắm lớn. Thế là nhà mình phát tài.
Con bé rõ ràng không hứng thú với chuyện bà tây mua mắm, nhanh miệng đổi đề tài,
— Thầy ơi! Sao thầy bỏ dậy học, đi buôn mắm?
Người bán mắm chép miệng,
— Ơ hay! Thì thầy đã nói với con bao nhiêu lần rồi. Nghề nào thì nghề, miễn mình có tiền thì thôi. Con là tây con mà còn đi hỏi thầy chuyện này...
Người bán mắm nhìn thẳng vào mặt con gái, cẩn thận thăm dò,
— Be honest! Mấy thằng bạn trong lớp, tụi nó lại ghẹo, “Bố mày bán mắm!”, có đúng không?
Con bé ăn nói dấm dẳng tựa chó cắn ma,
— Hồi xưa thì có, bây giờ hết rồi!
Người bán mắm mật thám điều tra,
— Hay là tại con trai cô hàng mắm nói đụng chạm tới con?
Như đụng phải khúc ruột, con bé tự nhiên ngồi phỗng ra như tượng. Thấy con bé im lìm, người bán mắm chép miệng kể chuyện,
— Thì cũng tại hồi xưa nhà ông nội mấy đời rồi chuyên bán mắm tôm. Ông sơ bán mắm, ông cố cũng bán mắm. Cả làng bán mắm. Cho nên ở vùng đó mới có tiếng đồn, “Mắm tôm Ba Làng, trê vàng Đầm Dơi”. Làng ở gần Hà Nội. Người trên kinh thành Thăng Long có dịp đi ngang qua nín thở bịt mũi hoặc né, chọn con lộ khác. Tới phiên người trong làng đi lên kinh đô, người kinh thành chỉ chỏ xì xào, “Lại dân Ba Làng. Cả đời chỉ mắm. Quần áo tóc tai mùi mắm bốc cao thối lằm lặm!”. Bởi tiếng đồn thổi của kinh đô và của tổng, người Ba Làng ít khi dám vượt qua lũy tre. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ đình làng với vại mắm. Cũng như bao nhiêu người khác trong làng, nhà mình mấy đời rồi không ai cắp sách đến trường, nhưng chỉ đầu tắt mặt tối quần quật với những hũ mắm tôm. Đến đời ông cố, ông sơ có cho đi học ở trên kinh thành. Nhưng học được mấy ngày, ông cố lạ nhà, đổ bệnh. Nhà sai người lên đón mang về lại làng. Đến đời ông nội, ông cố lại cho đi học. Lần này không lên Hà Nội nữa, nhưng ở làng bên. Ông nội học được khoảng một năm, không đau ốm chi, nhưng người cứ xanh mướt. Ông cố quyết định thôi, không bắt ông nội sang làng bên học chữ thánh hiền nữa. Vô Nam, ông nội lại tiếp tục nghề mắm. Năm đó, thầy học xong lớp Mười Hai, ông nội gọi tới thều thào như ngọn đèn trước gió,
— Thôi, thì cứ như cầm chắc đời thầy là đời bỏ đi.
— Bẩm thầy, con không hiểu! Tại sao thầy lại nói đời thầy là đời bỏ đi?
— Thì anh cứ xem đó. Ba Làng của mình có ai ngẩng mặt nhìn được thiên hạ bao giờ? Học vị không có. Bằng cấp cũng không. Chữ nghĩa ù ù cạc cạc. Cứ như người mù dở. Ra đường gặp thiên hạ, họ hỏi người ở đâu tới, dân làng cúi mặt cổ họng tự nhiên vướng đờm. Thiên hạ họ khinh, coi người làng mình có ra chi!
— Nhưng làng mình có tiền. U con vẫn cứ nói, “Ba Làng ngoài Bắc đẹp nhất tổng. Bán mắm thì bán, nhưng nhà nào cũng lợp mái ngói Bát Tràng, lát sân cũng bằng gạch Bát Tràng. Con đường chính trong thôn để vận chuyển mắm lát toàn bằng gạch vồ Vĩnh Phúc”.
— Chuyện! Nhưng vẫn không bằng ăn mày được dăm ba chữ thánh hiền. Hồi xưa thầy cũng đi học được một năm. Nhưng bây giờ thì cũng chẳng còn nhớ chi, bởi đầu óc cứ quanh ra lại hũ mắm tôm, quanh vào lại vại mắm tôm. Thầy ra đường, thiên hạ bĩu môi khinh bỉ, “Đồ bán mắm!”. Tới chỗ nào, người ta cũng chỉ xếp thầy ngồi bệt trên nền đất với người ăn kẻ ở, chứ có bao giờ được ngồi trên mặt chiếu cói bao giờ. Hồi đó thầy có nhờ ông nội mang trầu cau sang làng bên hỏi cưới cô gái bán hàng xén bên đó. Cô ta gạt trả mâm cau, bĩu môi, “Chuyện phường chèo!”. Thầy thấy anh học hành giỏi giang, năm nào cũng đứng nhất lớp. U cũng có nói với thầy là anh yêu nghề bán mắm, đang toan tính bỏ, không thi đại học, nhưng quay lại nghề cũ của cha ông. Thôi! Trước khi nhắm mắt, thầy năn nỉ với anh cho linh hồn của thầy được mát mẻ ở nơi suối vàng. Đời này người ta gọi thầy, “Đồ bán mắm! Chuyện phường chèo!”. Nhưng dưới cõi tuyền đài, thầy hãnh diện được người ta gọi, “Ông thân sinh của ông giáo”...
Nghe bố gỡ ruột gan, kể chuyện thời xưa, con bé bỗng dưng e dè, cẩn thận chọn lựa chữ nghĩa,
— Rồi, rồi...hồi đó…hồi đó thầy có hứa gì với ông nội hay không?
Người bán mắm thở dài sườn sượt,
— Thầy biết mình không giữ trọn được lời hứa. Nhưng thầy tin ở cõi tuyền đài, ông nội không giận thầy bỏ nghề giáo lao vào nghề bán mắm.
Con bé vặn vẹo ông giáo,
— Sao thầy biết ông nội không giận?
Người bán mắm triết lý,
— Ơ hay! Cõi người sống trên trần gian và cõi người sống ở tuyền đài là hai cõi khác nhau, hai cảnh đời khác nhau, cho nên cách suy nghĩ cũng khác nhau chứ. Những lời trối trăn của ông nội trước khi đi sang cõi bên kia là suy nghĩ trần gian. Người âm phủ họ đâu có nghĩ như vậy.
Tối hôm đó, bên bàn cơm, cô con gái rượu góp chuyện,
— Thầy ơi! Hôm nay trong lớp thầy con nói nếu trái đất tiếp tục ấm dần, băng tuyết Bắc Cực và Nam Cực chảy tan, khi đó nước biển dâng cao. Melbourne sẽ chìm sâu dưới nước...
Người bán mắm như vớ được phao, vỗ tay,
— Đó, con thấy chưa! Cứ thế này, thiên hạ sẽ rủ nhau xuống biển tất tật. Thiên hạ lại khối người mở đại lý bán mắm.
Con bé thắc mắc,
— Tại sao thầy lại cứ hay nói đi bán mắm vậy hả thầy?
Người bán mắm như thầy giáo đứng trên bảng đen,
— Con còn nhớ chuyện Tấm Cám hồi xưa u hay kể cho con nghe không? Cám nhảy vào chảo nước sôi để lột da đẹp như Tấm. Nhưng viện thẫm mỹ luộc kỹ quá, Cám chết nhăn răng ra. Tấm vớt Cám lên, cất vào trong lọ làm mắm. Dì ghẻ mở hũ mắm ăn, khen ngon. Chim hoàng oanh trên cành cây cười nói, “Ngon gì mà ngon! Mẹ ăn thịt con, Có còn cái xương, Cho xin một miếng”.
Nghe bố nói, mặt con bé dài thoãng ra, nhìn dài dại cứ như người cám lợn dở hơi. Biết con bé lạc đường, người bán mắm bổ túc văn hóa,
— Khi người ta thôi không thở nữa, thân xác đổi màu chuyển dạng hóa ra mắm, ngửi như mắm vậy. Nhưng có người trở nên mắm thơm, vang danh thiên hạ. Cũng lại có những hũ mắm thối, xú uế vạn niên.
Người bán mắm tâm sự,
— Mấy chục năm nay thầy sống cho ông nội. Bây giờ còn mấy chục năm nữa trước khi đi bán mắm, thôi, thầy chọn lựa...sống cho thầy và cho con.
Con bé uể oải đứng dậy, ấm ớ hội tề,
— Well! Nếu vậy, con mừng cho thầy, mặc dù con vẫn không hiểu tại sao thầy lại bỏ đi bán mắm…
Người bán mắm nhìn cô con gái rượu, trong bụng buông tiếng chửi thề, "Mẹ bố mày! Nói hết cả nước miếng mà vẫn cứ ngơ ngơ, ngớ ngẩn cứ như cái quân dở hơi!".
Đứng rửa chén ở trong nhà bếp, liếc nhìn bố vừa huýt sáo vừa hút bụi bàn cơm, con nhỏ nhớ lại giờ Thể Thao, trên sân Tennis trong trường, thằng bạn lớp Mười Một cũng có mẹ bán mắm ở chợ trời Dandenong nói thì thào vào tai nó,
— Đi ra chợ trời, khu bán mắm, you thấy liền.
— Thấy cái gì?
— Thì cứ đi đi... Rồi sẽ thấy.
Có một buổi chiều thứ Bẩy, con nhỏ bỏ chơi Tennis, nhờ thằng bạn chở tới chợ trời Dandenong. Đúng như lời tên con trai nói, cả hai đứa thấy liền...bố và mẹ đang ngồi ăn bún mắm với nhau.
Cô hàng bán mắm ruốc thủ thỉ,
— Người ta cứ hỏi em tại sao anh bỏ dạy học?
Người bán mắm không nói chi nhưng lấy tay đẩy đẩy lên sóng mũi cặp kính gọng vàng. Quay sang hướng khác, người bán mắm lấy tay che miệng, tiếng ho sù sụ như người ho lao. Cô hàng mắm ruốc ái ngại, chép miệng,
— Anh ho quá vậy. Chắc tại mùi mắm bốc lên bám đen cả hai lá phổi? Đến là khổ! Cả ngày cứ quần quật vất vả. Hết hũ mắm này lại tới vại mắm kia. Khổ thân! Đang làm ông giáo hẳn hoi…
Người bán mắm lắc lắc đầu,
— Nghề giáo ngửi bụi phấn. Nghề mắm ngửi mùi mắm. Nghề nào cũng ngửi. Nhưng chắc ngửi mùi mắm sướng hơn ngửi bụi phấn.
Cô bán mắm cười tủm tỉm nhưng đôi mắt sắc như dao bổ cau lườm,
— Anh! Ăn nói đến là táo tợn!
Người bán mắm làm mặt tỉnh, vẻ ngây thơ,
— Ơ, hay! Đừng có quên tâm Phật nhìn đâu cũng thấy Phật, bán mắm ngửi đâu cũng thấy mắm.
Cô hàng mắm bĩu môi,
— Anh lợi khẩu lắm. Em nói không lại anh đâu.
Người bán mắm chỉ,
— Em nhìn bà hàng bán rau có những ngón tay đẹp như búp măng kìa. Cái này chắc tại cứ quanh quẩn trong bốn bức tường cho nên buồn nẫu ruột nẫu gan. Bây giờ sáng sáng đội giỏ rau lên đầu mang ra chợ bán, lượm bạc lẻ, đếm bạc giấy.
— Anh đừng có tưởng, dân Hà Nội đấy, tiền đô la Mỹ chất đầy trong tủ quần áo. Cho nên một thời ăn trắng mặc trơn, trong nhà người ăn kẻ ở đông như nhà vua. Có một lần đi khám tổng quát, không hiểu tại sao bác sĩ gọi vào văn phòng nói: "Ung thư vú!". Anh liếc nhìn kỹ thì thấy, bên tay trái xẹp hơn bên tay phải là vì thế. Sau một tuần vật vã với bản án vừa được chánh án tuyên đọc, bà thần xuống tóc quy y ăn chay trường. Thoạt tiên là bán mắm. Bà ấy nói đời người mặc cho sang giàu nghèo hèn, chung cuộc rồi cũng chỉ là mắm thối mà thôi. Sau quay sang nghề bán rau, bởi bà ấy nói ăn thịt nhiều hung dữ như cọp beo, lại còn dễ đổ bệnh, ăn rau ăn cỏ như Kangaroo, tính tình hiền hậu, lại còn sống lâu. Không ngờ! Giờ lại tới phiên anh nối gót. Hèn chi người ta cứ nói, “Úc khùng!”.
Cô bán mắm chỉ vào anh hàng thịt,
— Em, em thì thích anh hàng thịt Kangaroo hơn.
Mặt người bán mắm xụ xuống,
— Em nói như vậy mà không sợ anh buồn hay sao?
Cô bán mắm cười khanh khách, con mắt dài có đuôi,
— Anh đừng lo, em thích anh hàng thịt tính tình vui vẻ chứ không thích người. Mồm miệng lanh lẹ là bây giờ thôi, hồi xưa thì không dễ mà cậy miệng. Anh hàng thịt một thời buôn bạch phiến. Hên, bị bắt tại Tân Sơn Nhất. Án tử hình đã đọc. Nhưng thủ tướng Úc can thiệp. Nể mặt người Úc, Việt Nam trả người. Mãn hạn tù, anh chàng gõ cửa chủng viện Công Giáo Corpus Christi College nói thời gian ở trong tù được ơn hoán cải, giờ xin đi tu. Được mấy năm, ông thầy tu gãi tai nói buông dao xuống thì được, nhưng bỏ không ăn mặn thì thiệt tình khó quá! Cho nên xin thôi, dọn vào chợ trời Dandenong buôn thịt Kangaroo.
Người bán mắm mơ màng,
— Anh thích Kangaroo Úc Châu, ăn cỏ, hiền lành, gặp người đứng nhìn, chứ không như chim Ó Bắc Mỹ, ánh mắt cú vọ, cắn xé con mồi.
Cô hàng mắm nhắc nhở ông giáo bán mắm,
— Anh đừng quên đến mùa, con đực đánh nhau dữ dội chỉ để dành con cái. Khi đó Kangaroo không còn hiền lành, cũng không ăn cỏ nữa…
Ông giáo bán mắm nổi máu tiếu lâm mặn,
— Không ăn cỏ nữa, Kangaroo ăn cái gì?
Cô hàng mắm đấm thùm thụp vào vai ông giáo,
— Anh! Ăn nói thấy khiếp!
Cô hàng mắm ruốc tiếp tục,
— Hồi mới thấy anh, em cứ thắc mắc không hiểu tại sao tự dưng tự lành anh lại thôi không đi dậy học nữa, nhưng bỏ ra chợ trời buôn bán hàng vặt. Mà chọn mặt hàng gì không chọn, lại lựa bán mắm. Em nghĩ chắc tại anh đọc sách nhiều quá, đâm ra khật khùng, dở tính dở nết. Về sau mới biết…
Ông giáo bán mắm ngạc nhiên,
— Biết cái gì?
Cô hàng mắm mặt lại đỏ như rượu vang Melbourne,
— Biết là ông giáo vậy chứ cũng đa tình lắm. Mà anh gặp em khi nào vậy?
Ông giáo vuốt sóng mũi thanh,
— Anh thấy em chiều chiều ba giờ đến đón con trai của em.
Cô hàng mắm cười tủm tỉm,
— Có thế thôi mà về đổ bệnh…
Người ta nói trái tim đàn bà là một đại dương sâu thẳm. Ông giáo bán mắm nghĩ đâu phải chỉ có đàn bà, đàn ông cũng vậy thôi, bởi ông không kể cho cô hàng mắm nghe chuyện hồi xưa lúc mới mười bẩy tuổi ông về nhà đòi bố mẹ mang trầu cau đi hỏi cô nữ sinh học chung trường cho mình. Nhưng thầy u không chịu, lại còn mắng cậu học sinh trung học mấy mắng, “Chuyện nỡm! Nhà mình bán mắm. Nhà người ta cũng bán mắm. Hôm đám cưới, nhà trai mang hũ mắm sang xin con gái của người ta về nhà chồng à. Hay là anh muốn đám cưới chạy tang?”. Thương thầy đang nằm ốm trên giường bệnh, ông giáo cắn răng xếp chữ tình sau chữ hiếu. Nhưng mỗi lần nghe Thái Thanh o tròn miệng hát, “Tóc mai sợi vắn sợi dài, lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”, ông giáo lại chơm chớm nước mắt khóc thương cho mình. Ngậm ngải tìm trầm đã hai mươi năm, trời cao không phụ lòng người tình chung thủy run rủi khiến cho ông giáo cuối cùng gặp lại người xưa ở cổng trường trung học Dòng Tên, dáng người vẫn thon thả, cặp mắt vẫn sắc như dao bổ cau. Nhìn đến là xinh!
Nhìn bầu trời Nam Bán Cầu xanh ngăn ngắt, người bán mắm thắc mắc,
— Có bao giờ em sợ, mình chỉ yêu nhau một thời, chán nhau một đời hay không?
Cô hàng mắm dựa đầu vào vai người tình, tóc dài đen bóng che kín một khoảng lưng của ông giáo bán mắm,
— Tại sao anh lại hỏi như vậy?
Ông giáo thủ thỉ vào tai người tình,
— Em nhìn thấy trời Melbourne đó. Khi nắng khi mưa. Khi nóng khi lạnh. Ông bà mình cứ hay nói, “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”.
— Chắc anh lại sợ đất nào người đó chứ gì? Anh học nhiều quá, cứ hay nghĩ ngợi vớ vẩn.
Bầu trời xanh xanh ngọc bích tiểu bang Victoria lại mưa, mưa rơi trên phố Melbourne thổi sạch bụi đất đỏ bám dơ hàng cây gum. Mưa trời mở tung cánh dù sặc sỡ của du khách và của cư dân trên phố trên đường. Nhưng cách đó gần ba mươi cây số, nắng trời rọi sáng chân núi Dandenong, nắng khơi bốc mùi khu hàng mắm, nắng tô đỏ hồng đôi má cô hàng, nắng chiếu lung linh sợi tóc bạc trắng đầu ông giáo.
Du khách ghé vào chợ trời Dandenong mua hàng lậu, mua rau, mua thịt Kangaroo, và mua mắm lại cằn nhằn, “Mẹ kiếp! Úc khùng!”, rồi cởi áo khoác ra, xếp gọn lại cánh dù.