khktmd 2015
Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019
Không Cần Huawei, Cisco Sẽ Giúp Mỹ Chiến Thắng Trong Cuộc Đua 5G
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ thời gian qua luôn trong tình trạng đau đầu nhức óc khi tìm cách giúp cường quốc số một thế giới cạnh tranh với Trung Quốc trong việc xây dựng mạng không dây 5G phục vụ thị trường đại chúng đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, khoảng giữa tháng 02/2019, một báo cáo mới từ Cisco có lẽ đã mang đến cho họ một số lý do để thở phào nhẹ nhõm.
Theo Cisco, đến năm 2022, các mạng di động thế hệ thứ 5 sẽ đảm nhiệm 9% lượng kết nối dữ liệu di động trên toàn Bắc Mỹ, so với chỉ 4% tại Châu Á. Dự báo mới được công bố là một phần trong báo cáo thường niên Virtual Networking Index trên thị trường di động của Cisco - một báo cáo nghiên cứu về các xu hướng của ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Những kết quả mà Cisco tuyên bố cho thấy những quốc gia như Trung Quốc vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi tìm cách phát triển vượt mặt các quốc gia phương Tây. Và chúng phản ánh những chính sách trước đây của Mỹ nhằm giúp đất nước duy trì một vị trí dẫn đầu khá vững chắc.
Chúng ta đã được nghe khá nhiều rằng 5G sẽ mang lại tốc độ download nhanh hơn nhiều so với tốc độ của các kết nối Internet tại gia mà nhiều hộ gia đình hiện đang sử dụng. Bên cạnh đó, sự ổn định của 5G sẽ giúp mở khóa những khả năng mới như xe hơi tự lái, thuốc điều khiển từ xa, và một hệ sinh thái giàu mạnh gồm những thiết bị gia dụng thông minh đòi hỏi phải được thường xuyên kết nối Internet. Dù khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự báo sẽ là nơi có số thiết bị 5G cao gấp đôi so với Bắc Mỹ vào năm 2022, nhưng khu vực lại chỉ chiếm một phần nhỏ trong số 422 triệu thiết bị thực tế hoạt động trong mạng 5G toàn thế giới. Bắc Mỹ sẽ chiếm phần lớn nhất; và hầu hết phần còn lại, khoảng 6.5%, sẽ nằm ở Tây Âu.
Báo cáo cũng đánh dấu lần đầu tiên Cisco dành riêng ra một phần trong báo cáo di động của mình để nói về công nghệ 5G. Mary Brown, Giám đốc cao cấp phụ trách các vấn đề chính phủ tại Cisco cho biết: “Nước Mỹ đã thực hiện những bước khởi đầu tốt trong việc thay đổi chính sách hỗ trợ cho triển khai 5G, và khi chúng tôi nhìn ra phần còn lại của thế giới, những thay đổi chính sách như những gì chúng tôi thấy ở Mỹ vẫn chưa diễn ra. Chúng tôi dự đoán điều đó sẽ thay đổi trong 12 đến 18 tháng tiếp theo, và lúc đó cuộc đua tới 5G sẽ diễn ra rất gay cấn”.
Một khởi đầu tốt trong cuộc đua 5G sẽ có tầm quan trọng đặc biệt nhằm xác định quốc gia nào định hình - và hưởng lợi - từ những cải tiến trong các ứng dụng, dịch vụ, và những thành tựu kinh tế khác mà công nghệ mới mang lại. Khi Mỹ dẫn đầu thế giới về công nghệ di động 4G, chúng ta đã chứng kiến sự trỗi dậy của một nền kinh tế ứng dụng mà các công ty Mỹ vẫn đang thống trị.
Phép lập bát hương và kiêng kỵ - Tác giả Trần Quang Vũ
Đỉnh hương của Đức thánh Trần được chuyển khỏi tượng đài của Ngài từ Bến Bạch Đằng và đem về đền thờ Ngài ở Võ Thị Sáu để nơi có hai lư hương và nơi không có và bài trí như thế này. |
Nhân chuyện tphcm chuyển lư hương Đức thánh Trần khỏi tượng đài của Ngài từ Bến Bạch Đằng về đền thờ Ngài ở Võ Thị Sáu để nơi có hai lư hương và nơi không, xin viết về phép lập bát hương, thờ cúng và kiêng kỵ.
Lập bát hương có ba dạng: Bát hương chính ngôi, bát hương thờ vọng và bát hương tùy biến.
Chính ngôi:
Khi có người mất, chủ tang là người lập bát hương. Trong phép kiêng kỵ là không thể có hai bát hương cho một người chết, mua hai quan tài, đào hai huyệt. Vì thế, khi có người mất mà chủ tang chưa có mặt, chủ tang chưa hiểu luật lệ thì bất kỳ người nào cắt một đoạn cây chuối cắm hương. Đây chính là tập tục đề phòng nhiều người hăng hái đi sắm bát hương. Chủ tang có thể trực tiếp làm, có thể nhờ người mua bát hương, tro nếp, vàng quỳ thất bảo,nhờ người viết đệ hiệu và nhờ cao tăng, thày pháp hoặc người cao niên đức độ thạo việc sắp xếp những thứ kể trên vào bát hương. Nhưng rứt khoát những thứ kể trên khi mua sắm về phải chính tay chủ tang lau chùi,xem xét. Sau khi bát hương bốc xong, chủ tang phải hai tay cung kính bưng ngang mày đến trước bàn thờ thần linh thổ công và gia tiên kính cáo và thắp những nén hương đầu tiên. Sau đó, hai tay cung kính bưng ngang mày về nơi người chết làm lễ thiết linh. Bát hương này trên linh sàng người quá cố, cùng cành phan ra nghĩa địa, xong an táng quay về nơi thờ cúng. Nếu đưa vong lên chùa thì rước bát hương lên chùa. Kết thúc lễ chùa,bát hương lại rước về nơi an vị.
Bát hương thờ vọng.
Nhà có nhiều con, họ có nhiều chi hoặc con cái định cư ở xa thì được lập bát hương thờ vọng. Bát hương thờ vọng cũng có đủ các thành phần như bát hương chính ngôi. Bát hương thờ vọng chỉ được lập sau đọan tang (có nơi sau lễ tất khôc-tắt khóc- giỗ đầu). Bát hương vọng nhỏ hơn chính ngôi. Người xin thờ vọng làm lễ mặn, bốc bát hương để trên ngôi thờ chính khấn xin và khất đài. Khi xin được thì lấy ba chân hương của bát hương chính ngôi cắm sang bát hương thờ vọng. Tiếp ba tuần hương, đến nửa tuần thứ ba thì được rước về nơi thờ vọng.
Bát hương tùy biến.
Do những hoàn cảnh đặc biệt kiểu thiên tai, chiến tranh, nhà vắng thừa tự...mất bát hương chính ngôi thì xin lập lại bát hương. Thường phải nhờ cao tăng hoặc thày pháp bốc xong để tụng niệm ở chùa hoặc ở điện 100 ngày mới rước về.
Nếu cứ theo phép lập bát hương cổ nhân để lại thì việc nơi không còn, nơi hai lư hương thờ Đức thánh Trần thì là điều đại kỵ.
Đức Ngài là người lòng nhân ái như biển trời nhưng phép tắc thì nghiêm cẩn khó ai bằng. Con đẻ suy bì chuyện ngành trưởng và công lao dựng ngôi giữ nước đã bị Ngài tước mọi uy quyền,đưa ra trấn thủ biên ải. Ngài còn cực ghét những kẻ hèn nhát và phản quốc. E rằng, trừng phạt của ngài là sấm xét, nữ nhi, cua ốc chả phải hàng Người ra uy.
Chuyện Lư hương: Sự sụp đổ khó gượng của phía nhà cầm quyền - Tác giả Tuấn Khanh
Giữa cơn giận dữ đang ngày càng lan rộng của người dân Việt, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh vội vã tổ chức lễ an vị lư hương của Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo tại đền thờ Ngài tại số 36 Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1, (tức Hiền Vương cũ), ngay vào trưa 20-2, nhằm 16 âm lịch Kỷ Hợi.
Trong những bản tin ngắn đầy tính đối phó về việc an vị lư hương, nhà cầm quyền thành phố Hồ Chí Minh không cách nào che giấu nổi sự vội vã và lấp liếm sự kiện này, bắt nguồn từ việc đã manh động nhằm cản trở người dân đến thắp hương tưởng niệm Đức Thánh Trần, nhân ngày 17-2-1979, ngày tưởng niệm Trung Cộng xua 600.000 quân sang Việt Nam, giết hại người già, phụ nữ, em bé… và tàn phá làng mạc Việt Nam.
Trên thực tế, hành động vô thần của nhà cầm quyền, đã và sẽ không có lời nào giải thích nổi vì sao một bộ máy nhà nước hùng hậu đã cho quây xe rác, dựng bao cát, kẽm gai chắn tượng đài, tổ chức an ninh, mật vụ bao vây khu vực này, không cho ai đến gần tượng đài Đức Thánh Trần vào ngày 17-2, một ngày chủ nhật, và cẩu lư hương đi mà không có bất kỳ một hành động tôn kính nào, chẳng hạn như làm lễ niêm hương cho việc di dời đó. Nên việc tổ chức rình rang lễ an vị, có hình ảnh phát đi chỉ cho thấy sự trí trá, mưu mẹo của kẻ cầm quyền. Đặc biệt thô bỉ khi cố ý tách một lư hương trong tổng thể kiến trúc tâm linh của người Việt đã có từ năm 1930, để gá ghép thừa vào một đền thờ vốn đã hoàn chỉnh.
Đó là còn chưa nói vô số người yêu nước bị an ninh, mật vụ bao vây trước cửa nhà, đuổi chặn trên khắp các con đường dẫn đến tượng đài của Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo vào ngày 17-2. Chuỗi bi kịch về con người, đất nước Việt Nam trong các hành xử nhà cầm quyền lâu nay nhiều đến mức để không ai có thể đủ sức nhếch mép cười nổi, khi chứng kiến trò hề nhạt vào trưa 20-2 vừa rồi.
Nội bộ của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh rối loạn đến mức, ai cũng đùn đẩy việc có mặt tại lễ an vị lư hương, và cố ý chỉ để phát đi những bức ảnh chính được chụp từ sau lưng vì sợ dư luận quần chúng. Bà Trần Kim Yến, bí thư quận nhứt đã trở thành con dê tế thần trước dư luận sôi sục vừa qua để chạy án cho hành động ngu xuẩn tập thể. Nhưng gánh nặng quá lớn đến mức một ngày sau, phía chính quyền đã phải đưa ra thêm công văn, ghi rằng có quyết định di dời lư hương là do bà Phó chủ tịch Ủy ban thành phố Nguyễn Thị Thu đưa ra. Tin trong giới thân quen với gia đình bà Thu cho biết cách làm hèn hạ, đùn đẩy trách nhiệm cho một người chết, là điều khiến cho gia đình cũng như bạn bè của bà Thu vô cùng tức giận.
Đang có lời vận động từ trong nhiều nhóm và cá nhân trên facebook, nói rằng mỗi người dân cần mang một lư hương nhỏ đến trước tượng đài để thắp hương, bày tỏ lòng tôn kính Đức Thánh Trần cũng như bày tỏ sự phản đối với hành động báng bổ tồi tệ của nhà cầm quyền hiện nay. Một facebooker giấu tên nói rằng nếu nhà cầm quyền ngăn cản, thì hãy thắp hương ở bất kỳ nơi nào chung quanh đó, hoặc đặt một lư hương trên các lề đường bất kỳ của thành phố để biểu lộ thông điệp về sự bất bình. Điều đáng nói, câu chuyện này đang xuất hiện ở các nơi, với sự bàn thảo bởi những guơng mặt rất mới, chưa từng tham gia bàn luận gì về chính trị. Họ chỉ bắt đầu bằng sự phẫn nộ của ý thức mình là người Việt.
Một nhà báo từ miền Trung, hiện đang viết cho các tờ báo thời sự quốc tế, nhận định vào tối ngày 20-2 rằng có điều gì đó đang diễn ra, cho thấy một phía là bộ mặt chính quyền đang sụp đổ hoàn toàn trong dân chúng, một mặt là sự nhen nhóm của một làn sóng bất mãn, bất tuân, tạm gọi tên là cuộc “Cách mạng lư hương”.
Cũng trong ngày 20-2, có tin các nhóm dư luận viên hàng đầu đang được phổ biến gấp các nội dung để tuyên truyền chống đỡ cho giới nhà cầm quyền. Trước các diễn biến rất mới và liên tục, nội dung phổ biến của “phản sự kiện” này vẫn lặp đi lặp lại cách làm rất cũ, là nhân dân “bị kích động, xúi giục”.
---------
(*) Lễ Niêm Hương: Thông thường các buổi lễ trong đạo Phật đều có phần niêm hương bạch Phật, gọi tắt là niêm hương.
Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2019
Thứ Năm, 21 tháng 2, 2019
CHUYỆN THẬT KHÔNG ĐÙA: DI CHUYỂN ĐẬP PHÁ ĐỈNH HƯƠNG - Tác giả Chu Mộng Long
Tôi hiểu, trong tư duy của lãnh đạo TP Hồ Chí Minh, việc dẹp đỉnh hương trước tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo là để dẹp loạn: lợi dụng việc tưởng niệm anh hùng liệt sĩ chống Tàu để tụ tập đông người gây rối an ninh, kích động hận thù, chia rẽ mối quan hệ hữu nghị Việt - Trung.
Thực lòng, tôi chúa ghét những phần tử lợi dụng cơ hội để làm loạn, nhưng tư duy và hành động của lãnh đạo TP Hồ Chí Minh thể hiện rõ sự bất lực, sợ hãi và hậu quả là, càng làm cho lòng người bấn loạn. Một chính quyền có công cụ pháp luật và chuyên chính trong tay mà không phân biệt việc nào ra việc nấy thì đúng là tư duy cùn và làm càn. Việc tưởng niệm anh hùng liệt sĩ không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ đền ơn đáp nghĩa của mỗi người cần phải tôn trọng. Còn ai lợi dụng làm loạn là hành vi phạm pháp thì cứ xử nghiêm theo luật định. Trẻ trâu cũng hiểu rõ cái lẽ tối thiểu này.
Việc lãnh đạo thành phố cẩu đỉnh hương đi chỗ khác, chưa nói còn đẩy xe rác bẩn thỉu ô uế giăng trước mặt tượng Đức Thánh Trần không chỉ là việc làm vô văn hóa, báng bổ thần tượng, xúc phạm tín ngưỡng và lòng yêu nước của dân tộc mà còn vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Trong khi muốn ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng xấu thì lãnh đạo thành phố lại làm việc xấu hơn, vừa trái luật vừa vô đạo, để lại hậu quả tồi tệ hơn là điều không thể chấp nhận được.
Không thể có cái lý biện bạch rằng, việc di chuyển đỉnh hương khỏi tượng đài Trần Hưng Đạo là vì không có chuyện thờ cúng nơi công cộng mà cần đưa vào đúng nơi thờ tự. Chỉ có kẻ vô văn hóa mới không thấy trên quốc gia này và trên toàn thế giới có vô số nơi thờ tự hay tưởng niệm công cộng. Mà nếu lấy vô văn hóa hay lỗi do thiếu hiểu biết để chạy tội thì đúng như nhiều người đã truy vấn, rằng tại sao chính quyền Tp Hồ Chí Minh không di chuyển đỉnh hương đang đặt trước các tượng đài liệt sĩ và tượng đài Hồ Chí Minh? Tôi thì giả định nếu kẻ xấu tương kế tựu kế bôi bẩn hay đập phá các đỉnh hương ở những nơi này thì chính quyền xử lý thế nào?
Đề nghị trung ương vào cuộc xử lý nghiêm kẻ đã nghĩ bậy, làm càn trong vụ này để ngăn chặn hậu họa.
Mà tôi nghĩ, nếu luật pháp chỉ vì ta không dám xử ta thì còn có luật trời. Chuyện thật 100% diễn ra ở quê tôi thời hợp tác xã, thời luật pháp không có chế tài nghiêm cấm tội xâm phạm văn hóa, tín ngưỡng, thậm chí bật đèn xanh đập phá chùa chiền, miếu mạo, báng bổ thần linh. Năm ấy, chính tôi chứng kiến ông bí thư xã leo lên ban thờ nhà ông thông gia của ba tôi giật tượng đức Quan Công vứt xuống ao với đề nghị chỉ có thờ Bác Hồ. Kết quả, ông bí thư mắc bệnh lạ mà chết trong năm ấy. Cùng lúc, ông chủ nhiệm hợp tác xã đích thân hô hào dân đập phá toàn bộ miếu mạo. Nhiều miếu mạo bị san phẳng. Đến khi tấn công một cái miếu thiêng nhất hàng năm dân vẫn thờ cúng, một người dùng búa phang vào đỉnh hương, bất ngờ cán búa gãy làm đôi và bật lại trúng đầu chết tươi. Tất cả đều sợ hãi không dám đập tiếp. Ông chủ nhiệm hợp tác xã đã nổi cơn thịnh nộ, tỏ ra anh hùng nhất khoảnh, nhảy lên đỉnh trật chim đái tồ tồ để chứng minh không có quỷ thần nào mà cái chết của người kia chỉ là tai nạn ngẫu nhiên. Rốt cuộc cái miếu ấy cũng bị san phẳng. Nhưng ông chủ nhiệm hợp tác xã thì về nhà chim sưng to bằng cái chày và một tháng sau thì chết. Tôi không tin dị đoan đồng bóng, nhưng người lớn quê tôi ai cũng biết và còn nhớ rõ chuyện trên.
Luật trời là có thật. Gây xáo động âm ắt dương sinh loạn, vì âm dương nhất thể trong con người. Những năm hợp tác xã đói khát triền miên, lòng dân bấn loạn. Còn hiện nay, việc di chuyển đỉnh hương và làm ô uế nơi tín ngưỡng Đức Thánh Trần đã không giữ được sự ổn định mà còn làm cho mọi người căm phẫn với hậu quả nhãn tiền.
Dẫu sao, nếu có linh thiêng, tôi vẫn cầu mong Đức Thánh Trần xá tội chết cho bà bí thư quận ủy quận 1. Nếu có bắt tội thì bắt bà ta sưng to cái ấy và mang nó suốt đời để làm gương cho những kẻ báng bổ thần tượng, xúc phạm tín ngưỡng, niềm tin và lòng yêu nước của cộng đồng, dân tộc.
Có tư pháp ở VN? - Tác giả Ngô ngọc Trai
Dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi có quy định đặt ra khả năng xử lý hình sự đối với luật sư về tội không tố giác tội phạm, nếu khi hành nghề biết được thân chủ đã có hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc một trong các tội đặc biệt nghiêm trọng khác mà không tố giác.
Đây có thể hiểu như là một bước nhằm kiện toàn hoàn thiện hệ thống tư pháp theo đường hướng phương cách mà các nhà làm luật muốn.
Vấn đề này chắc chắn đã trải qua những cuộc họp sơ bộ của các ban ngành tư pháp và đã cơ bản được nhất trí nên mới đưa vào văn bản dự thảo luật.
Nhưng tôi cho rằng đây chỉ là những việc làm có tính hình thức râu ria mà thay vì đụng đến những vấn đề bản chất nhất của hệ thống tư pháp. Tôi cho rằng Đảng cộng sản, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp Trung ương cần nhìn thẳng vào vấn đề bản chất nhất của nền tư pháp hiện nay và có giải pháp thực hiện.
Lương quá thấp
Ngày hôm (29/5) qua tôi có buổi làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang về một vụ án hình sự. Quá trình làm việc tôi tranh thủ hỏi thì được biết, người kiểm sát viên đã có chục năm công tác nhưng mức lương cùng các khoản phụ cấp anh được nhận một tháng chỉ là khoảng 8 triệu đồng.
Nửa năm trước tôi có dịp làm việc Tòa án huyện Thanh Oai thuộc thành phố Hà Nội, cũng khi trao đổi công việc thì anh thẩm phán kiêm Phó chánh án tòa cho biết, tổng thu nhập lương và phụ cấp của anh vào khoảng 9 triệu đồng. Đó là mức lương của người đã mười mấy năm công tác, hết thư ký rồi đến thẩm phán rồi được bổ nhiệm làm Phó chánh án.
Để viết bài này tôi hỏi thêm một người bạn học cùng đại học giờ cũng đã là thẩm phán của một huyện thuộc tỉnh Phú Thọ thì được biết, tổng lương và phụ cấp của bạn tôi chỉ khoảng 7 triệu đồng, đó là mức lương của người đã chục năm công tác.
Đó thực sự là mức lương quá thấp của giới cán bộ tư pháp và tôi thấy rất buồn và cám cảnh cho cái sự quan tâm đầu tư của nhà nước cho ngành tư pháp. Tôi so sánh áng chừng với mức lương của một chuyên viên ngân hàng hay một chuyên viên pháp chế doanh nghiệp làm việc chục năm thì thu nhập của họ có lẽ là cao gấp đôi mức lương mấy vị cán bộ tư pháp.
Điều này ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới chất lượng hoạt động của ngành tư pháp. Mặc dù tôi không muốn đưa ra những lời đánh giá vô căn cứ, và không muốn làm tổn thương gây hại đến giới tư pháp. Nhưng mọi người có thể hình dung là với một mức lương thấp như vậy thì làm sao họ có thể yên tâm công tác, và làm sao học có thể giữ được sự công tâm khách quan trước những cám dỗ kinh tế trong khi giải quyết các vụ án?
Tôi không biết các ngành tư pháp đánh giá tổng kết mỗi năm thế nào, nhưng bản thân tôi khi tham gia các vụ án thì đặc biệt ở cấp huyện, không một vụ án nào mà tôi không thấy có vấn đề về sai trái. Không sai trái về năng lực chuyên môn nghiệp vụ thì sai trái do có dấu hiệu tiêu cực.
Tôi cũng không biết các ban ngành đánh giá sự quan tâm đầu tư cho giới tư pháp thế nào, nhưng tôi cho rằng mức lương là sự đánh giá thực chất nhất cho thấy mối ưu tiên đầu tư, đó là bộ mặt của nền tư pháp, là tầm vóc vị thế thực chất của nền tư pháp.
Kém quan tâm
Tôi cho rằng mức lương thấp của giới tư pháp cho thấy sự coi nhẹ và kém quan tâm đối với ban ngành lĩnh vực tư pháp.
Giới tư pháp do đặc thù nghề nghiệp đáng ra cần được hưởng một mức lương cao hơn thay vì cào bằng với các khối hành chính sự nghiệp khác. Vì một quyết định của họ có thể lấy đi một mạng người hoặc định đoạt số năm tù của một đời người. Thực tế nhiều người sẽ rất vui mừng nếu đưa được tiền cho cán bộ tư pháp.
Ở các nước như Mỹ, Châu Âu mức lương thẩm phán rất cao, điều đó giữ cho họ được công tâm khách quan, là những yếu tố quan trọng cốt yếu của tư pháp.
Sự kém quan tâm có thể đánh giá qua số lượng các văn bản nghị quyết chủ trương chính sách về lĩnh vực tư pháp so với các lĩnh vực khác, những văn bản làm việc sẽ cho thấy mức độ dành thời gian hay mối bận tâm của các ban ngành dành cho lĩnh vực tư pháp.
Hay sự kém vị thế của tư pháp thể hiện ở việc rất ít những lãnh đạo đảng cộng sản và nhà nước cao cấp trưởng thành từ những cán bộ tư pháp lâu năm như thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên thi hành án.
Sự coi nhẹ kém quan tâm đầu tư cho tư pháp có lẽ xuất phát từ hệ thống của một nhà nước thoát ra từ chiến tranh. Lúc ban đầu còn bom đạn thì chỉ coi trọng về quân đội công an mà tư pháp gần như bị bỏ rơi, có thời kỳ ở Việt Nam xóa bỏ Bộ tư pháp, xóa bỏ trường luật, cho tới khi phát triển kinh tế thị trường thì quan tâm tới những ngành lĩnh vực sản xuất kinh doanh làm ra tiền.
Như tôi thấy thì suốt mấy chục năm qua mảng tư pháp luôn bị xếp kém ưu tiên. Sự quan tâm nếu có thì nó cũng theo cái cách nhằm đạt đến mục đích khác. Khi phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì từ thực tiễn đặt ra nhu cầu việc xử lý giải quyết các tranh chấp giao dịch làm ăn phát sinh và vấn đề tội phạm liên quan nên tư pháp mới được giao việc và trả lương.
Ngành tư pháp chưa được coi trọng như một hệ thống không thể thiếu cho quản trị quốc gia và kiến tạo phát triển.
Việc tạo ra môi trường an toàn ổn định cho kinh doanh làm ăn lâu nay mới chỉ được nhìn thấy dưới góc độ ổn định chính trị và từ đó đề cao vai trò của quân đội và công an. Đó thực ra chỉ là yếu tố đối ngoại bên ngoài, còn ở trong nước tư pháp mới là ngành giữ vai trò chính trong việc tạo lập môi trường an toàn cho các quyền tài sản và quyền công dân, các nguồn lực cho phát triển kinh tế.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Hàn Quốc chúng ta thấy là ngành tư pháp giữ một vai trò to lớn khủng khiếp nếu so với quyền hạn của tư pháp Việt Nam. Ở Hàn Quốc vừa rồi tư pháp đã xử lý bắt giam cả Tổng thống, còn ở Mỹ thì Tổng thống cũng đang bị tư pháp tìm kiếm phanh phui xử lý sai phạm.
Vậy một quyền tư pháp lớn mạnh và một nền kinh tế phát triển, thì cái nào là nguyên nhân kết quả của cái nào? Tôi cho rằng đó là hai cái song hành với nhau mà ở Việt Nam thì người ta chưa nhìn ra một nền kinh tế thị trường phải song hành với một nền tư pháp đủ tính năng hiệu quả, trong khi đây đang là lúc cần nhận ra nhất.
Các vấn đề nền kinh tế đang gặp phải như giải quyết nợ xấu, phá sản doanh nghiệp, hay dự án đắp chiếu đều có dấu ấn kém cỏi của ngành tư pháp không thực hiện được vai trò.
Và một lượng lớn tài sản và quyền công dân đang bị vướng vào những mớ bòng bong trói buộc nhưng người ta cũng chẳng buồn đưa ra nhờ tư pháp giải quyết, và đó mới là cái tai hại ẩn chìm cho phát triển kinh tế.
Cho nên những tranh cãi ồn ào về dự thảo quy định buộc luật sư phải có trách nhiệm tố giác thân chủ, nó chỉ là cái trái khoáy được tạo ra nhằm kích động sự ồn ào che mờ đi các vấn đề thực chất nhất của nền tư pháp và các vấn đề khác của đất nước.
Đọc sách: Sự bí ẩn của vốn, tác giả Hernando de Soto
Trong cuốn sách 'Sự bí ẩn của vốn'của tác giả Hernando de Soto, người Peru xuất bản năm 2000 có phần chỉ ra rằng các nước thế giới thứ ba và hậu cộng sản có những mảng kinh tế hoạt động nằm ngoài khuôn khổ pháp luật được gọi là khu vực kinh tế ngầm.
Ông cho biết nhiều nước đã thất bại trong khi cố gắng tích hợp các hoạt động kinh tế ngầm vào nền kinh tế chính thức. Lý do thất bại là vì họ thường có quan niệm sai lầm rằng tất cả những người ấn nút trong các khu vực ngoài pháp luật hoặc khu vực ngầm đều làm vậy để trốn thuế.
Tác giả cho biết hầu hết người dân sử dụng khu vực ngoài pháp luật không phải vì đó là một thiên đường về thuế mà bởi vì luật hiện hành không đáp ứng được các nhu cầu thực tế của người dân.
Ở Peru, nhóm của tác giả đã thiết kế một chương trình để đưa các nghiệp chủ nhỏ ngoài pháp luật vào hệ thống hợp pháp.
Khoảng 276.000 nghiệp chủ đã đăng ký kinh doanh một cách tự nguyện tại các văn phòng đăng ký mới được dựng lên để giúp đỡ họ mà không hề có hứa hẹn giảm thuế.
Công việc kinh doanh của họ trước đó đã chẳng nộp một đồng tiền thuế nào. Nhưng bốn năm sau, thu nhập thuế từ các công ty ngoài pháp luật trước đây tổng cộng đã lên đến 1,2 tỷ USD.
Tác giả cho biết giải pháp đã thực hiện là cắt giảm một cách đầy kịch tính các loại giấy tờ và dẹp bỏ chi phí cho tệ hành chính quan liêu để họ gia nhập kinh doanh.
'Những nhà sản xuất, những cửa hiệu ngoài pháp luật - những người hoạt động với lãi gộp mỏng như lưỡi dao cạo, tính bằng cent chứ không phải bằng đồng đô la - biết rõ các tính toán số học cơ bản'.
'Tất cả những cái mà chúng tôi phải làm là đảm bảo rằng những chi phí của hoạt động hợp pháp thấp hơn các chi phí để sống sót trong khu vực ngoài pháp luật'.
Tác giả cho biết ngược với quan điểm phổ biến, hoạt động trong khu vực ngầm cũng gặp nhiều chi phí, chẳng hạn chi phí tổn thất của việc không công khai và chi phí cho quan chức tham nhũng.
Các hoạt động kinh doanh ngoài pháp luật bị thiệt hại bởi sự thiếu vắng của luật quyền sở hữu và bởi luôn phải che dấu các hoạt động của họ trước các nhà chức trách.
Do không thể thành lập công ty, các nghiệp chủ ngoài pháp luật không thể quyến rũ các nhà đầu tư bằng cách bán cổ phần, họ không thể tìm được tín dụng chính thức với lãi suất thấp vì họ thậm chí còn chẳng có địa chỉ hợp pháp.
Khoản bảo hiểm duy nhất sẵn có cho họ là cái được cung cấp bởi sự bảo vệ mà bọn đầu gấu và mafia địa phương sẵn sàng bán cho họ.
Hơn thế nữa, vì các nghiệp chủ ngoài pháp luật sống trong sự sợ hãi liên miên về sự phát hiện của chính quyền và sự tống tiền của quan chức tham nhũng, họ buộc phải chia tách các phương tiện sản xuất thành nhiều địa điểm và như thế hiếm khi đạt được hiệu quả kinh tế nhờ tính quy mô.
Với con mắt luôn phải ngó xem có cảnh sát không, họ không thể quảng cáo công khai để tập hợp khách hàng hoặc tiến hành giao hàng cả lô với chi phí ít cho các khách hàng.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thoát khỏi các chi phí của khu vực ngoài pháp luật thường đủ bù cho việc đóng thuế.
Nghiên cứu cho rằng:
"Bất luận bạn ở trong khu vực hay ngoài khu vực pháp luật, bạn đều phải đóng thuế. Cái quyết định bạn ở trong hay ngoài là chi phí ở bên nào nhiều hay ít hơn."
Những diễn giải phân tích đó cho thấy ý kiến rằng kinh tế ngầm là những hành vi trốn thuế xấu xa là không thỏa đáng.
Chính phủ nên làm gì?
Cảnh tượng u ám về nền kinh tế ngầm là cái đã từng tồn tại ở mức độ nghiêm trọng tại Việt Nam nhưng có lẽ là ở thời điểm vài chục năm trước, khi mà nền kinh tế còn trong tình trạng quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, bế quan tỏa cảng.
Sau mấy chục năm cải cách mở cửa nền kinh tế Việt Nam đã có diện mạo khác. Suốt mấy chục năm qua pháp luật về kinh doanh đã liên tục được sửa đổi bổ sung.
Đã có những tiến bộ về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nhiều rào cản điều kiện kinh doanh giấy phép con bị bãi bỏ, thời hạn đăng ký thành lập một doanh nghiệp liên tục được rút ngắn tới nay chỉ còn 3 ngày.
Nhưng những tiến bộ đó là không đủ để Việt Nam giải quyết được những hoạt động kinh tế ngầm. Một thực tế là nền kinh tế vẫn còn ở trong tình trạng kém phát triển dẫn đến những phạm vi sản xuất kinh doanh manh mún nhỏ lẻ.
Tình trạng tham nhũng của bộ máy hành chính quan liêu là rất nghiêm trọng và những hoạt động kinh tế ngầm đang đem lại lợi nhuận cho tầng lớp quan chức địa phương. Đây chính là rào cản lớn nhất làm thoái hóa chức năng của bộ máy hành chính.
Tác giả cuốn sách 'Sự bí ẩn của tư bản' cho biết: Cái ngăn cản hầu hết dân chúng ở các quốc gia đang phát triển không tích hợp vào hệ thống hợp pháp các hoạt động của họ là do bởi một hệ thống pháp luật và hành chính tồi.
Và để thay đổi tác giả Hernando de Soto cho rằng đây là một trách nhiệm chính trị quan trọng. Bởi lẽ để chống lại những thế lực đang hưởng lợi từ kinh tế ngầm như quan chức hay nhóm mafia địa phương thì đòi hỏi phải có quyền lực và quyết tâm chính trị.
Việc lôi kéo và thuyết phục những người này từ bỏ lợi ích cục bộ riêng tư để vì lợi ích chung phải là trách nhiệm chính trị của lãnh đạo tài năng với cam kết phục vụ nhân dân.
Chính phủ cũng cần tránh sai lầm rằng chỉ nghĩ ban hành ra các luật là đủ, mà còn phải tính đến những chi phí để tuân thủ các luật đó.
Hiện nay tình trạng tham nhũng trong bộ máy hành chính là đáng báo động, tình trạng thuế phí nặng nề mà doanh nghiệp đang phải gánh chịu.
Những điều đó thử hỏi có hấp dẫn không để người dân chuyển đổi khu vực kinh tế ngầm thành các hoạt động kinh doanh hợp pháp theo pháp luật?
Và do vậy, liên quan đến khu vực kinh tế ngầm, thay vì nhìn nhận đó là những việc làm xấu của người dân thì chính phủ cần nhìn lại năng lực của bộ máy hành chính nơi mình và tìm ra giải pháp.
Thứ Tư, 20 tháng 2, 2019
Dủ Học Dủ Ngu - Tác giả Nguyễn đức Lập
Nghe cái câu "Dủ học dủ ngu", càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như gừng, quế, "dũ lão dũ tân", càng già càng cay, mới phải cho chớ.
Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơi.
Học tới câu "Dủ học dủ ngu", tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắc cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:
-"Dủ học dủ ngu", là "càng học càng ngu", thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu.
Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời : "chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được".
Không biết ông Mai Thảo có học 1 bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng "chữ nghĩa thánh hiền", mà ông dùng 2 chữ "văn chương". Ông nói : "Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được". Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông. Ông có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.
Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng "càng học càng ngu". Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được gìa dặn thêm 1 chút (phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng : "Cha chưa chết, con không được để râu").
Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạỵ Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình "thiên bất đáo, địa bất chí", càng học càng thấy ngu.
Chưa cần nói tới những chuyện trời cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao, những câu hát ru em huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu 1 cái gì hết.
Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường hát câu :
Chim quyên ăn trái ổi tàu
Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chị
Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, "ổi tàu" là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì nữạ Giống ổi ở bên Tầu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu …
Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng "ổi tàu" ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoang, mọc thành từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung, cây này ở miền Bắc gọi là hoa cứt lợn, còn ở cái xứ "chó ăn đá, gà ăn muối" của tôi thì gọi là bông ngũ sắc. Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu, để ăn, đã từng hái những cái bông của nó để hút chất mật ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là ổi Tàụ Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu này, chưng với đường phèn cho anh em tôi uống mỗi khi bị họ
Có 1 câu hát ru em nữa, mà tôi cũng nghe đi nghe lại hoài:
Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa
Câu này thì tôi có thắc mắc, giấy thì làm sao mà ăn ? "Ăn giấy bỏ bìa" là làm sao ? Tại sao hạng người "ăn giấy bỏ bìa" khi thương lại thương vội, khi lìa lại 1 mạch lìa luôn theo kiểu "hạ thủ bất lưu tình" ?
Tôi đem những thắc mắc này hỏi nhiều người, kể cả những ông thầy dậy Việt Văn, nhưng không có ai trả lời nghe xuôi tai được.
Cho mãi tới sau khi đổi đời, "giả dại qua ải" (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), về ở rẫy, tôi mới được nghe giải thích thỏa đáng câu hát nàỵ.
Người dạy tôi là bà Ba Thờị Bà này, cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói còn hơn là đầu máy xe lửạ Bà có biệt tài chữa bệnh bằng phương pháp cắt lể rất mát tay. Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ bà chữa trị mà lành bịnh được. Đặc biệt bà có 3 con dao để lể, 1 cái bằng vàng, 1 cái bằng bạc, 1 cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây móc taị Tùy theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mũm mĩm no tròn như nải chuối cau, nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi khoái nhất là cái màn được bà se se mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cóc cóc.
Đọc tới đây xin độc giả đừng vội lên án tôi là tuyên truyền đề cao cho những phương pháp chữa bệnh thiếu khoa học. Chuyện thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu "thấy mà tin", chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả.
Hồi 77, 78 trong nước bị khủng hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bệnh đều chữa bằng xuyên tâm liên, sống ở rẫy, nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh cỏ từ lâụ.
Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chính thức. Mỗi ngày, bà quẩy gánh, đem đồ nghề ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường SG-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền. Bà Ba Thời chỉ cắt có 1 vết nhỏ, rồi nặn ra 1 chút máụ. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết thương đàng hoàng. Còn bà Tám Thông sau khi cắt, dùng bầu thủy tinh giác hơi để hút máụ. Bà nào làm ăn cũng rất bầy hầỵ. Bà dùng 1 nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết 1 năm bà giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình.
Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, 1 gịot máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi chỉ nhờ bà ra tay có 1 lần. Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm thấy ớn lạnh, tay chân bải hoảị. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người hàng xóm, là thím Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm, để lậm vô phổi, thì chỉ có "bà cứu nị". Và thím giới thiệu tôi tới bà Tám Thông. Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà cắt, giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâụ Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao giờ tới bà lần thứ 2. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà lần nào nữa, vì chỉ 1 lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn. Mấy chuyện như vậy , biết sao mà nói cho cùng.
Cái chuyện cắt lễ khiến cho tôi nói sang đàng, xin trở về đề tài "ăn giấy bỏ bìa".
Bữa ấy, tôi ráng lội qua nhà bà Ba Thời để nhờ bà trị cho cho cái chứng Thiên Đầu Thống, đau đầu có 1 bên. Bà lấy cây kim vàng ra lể. Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ cứu nhân độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã 10 năm có lẻ, cát bụi trở về với cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo, bà cắt lể, giựt tóc nghe cóc cóc cho tôi 1 hồi, bịnh 10 phần nhẹ hết 8, 9. Bà chỉ vô cái võng treo tòng teng ở góc nhà, biểu tôi: "Thằng Tám mày nằm đó, đánh 1 giấc đi, ngủ 1 giấc, mày sẽ hết nhức đầu luôn."
Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình cờ mà tôi học được thế nào là "ăn giấy bỏ bìa".
Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữạ. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói :
- Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấỵ. Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.
Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga :
Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.
Bà cắt nghĩa liền
- Thằng Tám mày thấy không? giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữụ. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm bạc hẳn không ai bằng.
Bà ngậm ngùi ngang :
- Tao khổ gần 1 đời cũng vì ba cái quân "ăn giấy bỏ bìa" này đây... bị, hồi đó, tao nghèo quá …
Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ "ăn giấy bỏ bìa" lại "khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa".
Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì bà Ba Thời cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè.
- Tao mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của tao vừa đủ để ký tên. Đây là tay tao làm, miệng tao nói, cho vui vậy thôi …
Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ dàng như vậỵ. Trách tôi thì tôi chịụ Thú thật, tôi vẫn còn đem thắc mắc về cái câu "ăn giấy bỏ bìa" ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.
Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu "ăn giấy bỏ bìa", hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được, người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là "trách ai được giấy bỏ bìa" mới đúng.
Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâụ. Bà bây giờ, đã ra người thiên cổ, 1 chữ cũng là thầy, huống hồ bà còn dậy cho tôi nhiều điều khác nữa.
Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà nói thuốc ngon lắm. Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn là trong mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng sợi ở Lạng Sơn. Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô 1 hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc sụạ. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu "thuốc ngon nửa điếu". Trời ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quến nhựa của nửa điếu thuốc trước thì... ngon kể gì.
Tôi có cơ duyên may mắn được gặp bà Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm.
Có nhiều câu thành ngữ, nghe người ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay không. Thí dụ như câu "Một kiểng hai quê". Câu này, người ta vẫn thường nói và tôi vẫn nói theo, để chỉ người đàn ông có 2 vợ.
Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ Vũ Thị Vui nói khác, chị Vui là 1 phụ nữ, có 1 thời ngang dọc, là 1 sĩ quan nổi tiếng trong binh chủng nhảy dù. Chính chị làm quan, chứ không phải làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến 1 cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người nghe:
- Phải nói là "Một kiểng hai huê" mới đúng.
"Huê" là "hoa", vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ "hoa" phải đọc là "huê", ở miền Trung, có nơi còn đọc là "ba", miền Nam thì nói là "bông".
Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà thơ Lê Giang Trần. Nhà thơ này có nghĩ gì không, tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay mình quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. 1 chậu kiểng mà trồng 2 loại hoa khác nhau, để chỉ người đàn ông 2 vợ là phải quá rồi.
Từ cái câu "Một kiểng hai huê", mới hợp với câu ca dao :
"Một bồn một kiểng tuổi xanh
Một chàng, hai thiếp khổ anh nhiều bề".
Tại sao mà khổ dữ vậy?
Tại vì :
"Một chàng, hai thiếp, anh xử hiếp tôi rồi,
Tối, buồng ai nấy ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng."
Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo 1 thói quen, không cần tìm tới tận gốc cái nghĩa đích thực của nó.
Hồi nãy, tôi nói tới chữ "ổi tàu", bây giờ, xin nói tới "thịt kho tàu".
Hồi trước, chỉ có người miền Nam mới biết món thịt kho tàụ Ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất kỳ là Bắc, Trung, Nam, không mấy người là không biết món thịt kho tàụ. Kho làm sao, không ướp hành ướp tiều gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt mềm rục nhưng không nát, Kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều này, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề. Tôi chỉ biết về điều tôi học được về "thịt kho tàu".
Ăn món thịt kho này từ hồi mới mọc 3 cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món này là món của người Tàu.
Thịt kho tàu là món thịt kho của người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậy.
Nghĩ riết như vậy rồi quen, không hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do chính người Tàu làm chủ và làm đầu bếp chính, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước dừa tươi đổ vô nồi thịt kho.
Mãi cho đến khi đọc 1 bài của Ông Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ "tàu", ở đây, theo nghĩa của người "miền dưới" là "lạt", như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là 2 con sông nước lợ.
Té ra, kho tàu là kho lạt lạt chứ không phải là kho theo kiểu người Tàu.
Cũng nói quen miệng mà không cần tìm hiểu là "cây lẻ bạn".
Lẻ bạn là loại cây giống như cây thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng. Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mục ra ở dưới gốc, giống như 2 cái vỏ sò khép lạị Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi.
Ở miền Nam, người ta thường trồng cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý 1 sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ bạn, người chết cũng lẻ bạn.
Đó là tất cả những gì mà tôi biết, tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa 1 lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng tôi thích cái ý nghĩa này.
Nào dè tôi biết, tôi hiểu trật lất.
Đọc sách cụ Vương Hồng Sển mới biết cây này tên của nó không phải là cây "lẻ bạn", mà là "lão Bạng", lấy từ câu "lão Bạng sanh châu" (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ cây gọi làm vậy là vì bông của nó giống như 2 vỏ sò úp lại và khi nở bày nhụy trắng tinh bên trong như những hạt minh châu.
Cụ Vương còn cho biết ở vùng núi Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây Lão Bạng mọc làng khang.
Biết thêm 1 điều gì, đỡ ngu thêm 1 chút, nhưng trường hợp của cây Lão Bạng này, tôi nghĩ thà là không biết còn hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh 1 ngôi mộ, là 1 hình ảnh nên thơ, nói lên 1 ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùị "Lẻ bạn" bỗng trở thành "Lão Bạng", hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng nhiên biến mất …
Tôi, bây giờ, ai "đem tiêu muối vải lên đầu" rồi, mà muối đã nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thôi chứ làm sao níu kéo lại được thời gian.
Thế giới càng ngày càng văn minh tấn tớị Khoa học kỹ thuật tiến triển mau lẹ tới mức theo không kịp, tôi vẫn nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông BNL, VHS cũng không còn, nhưng các bạn trẻ tấn lên, cái kiến thức về KHKT của họ, học biết bao giờ rồi?
Đức Khổng Tử dạy rằng: "Vi nhơn nan" (làm người thì khó). Nội cái chuyện học làm sao để sống cho ra con người, xứng đáng là 1 con người, cũng đã hụt hơi.
Tôi lớn lên trong phong trào Hướng Đạo, Luật phong trào dạy: "trong sạch từ tư tưởng, lời nói tới việc làm". Cho tới ngày giờ này, điều luật vẫn làm tôi lao đao, chỉ biết cố giữ câu châm ngôn "gắng sức" của sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp rào.
Đức Phật là người đi mà không đến. Cái học của tôi cũng vậy, học thầy, học bạn, học sách, học báo, học đường, học chợ, học chỉ để mà học. "Dủ học dủ ngu".
Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn thế Sư Biểu đã trả lời rằng :
- Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi, đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết học.
Và, cái học khó nhứt vẫn là học làm sao để sống cho ra con người …
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)