khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020

Người Ở Lại Rừng Phong- Tác giả Nguyễn văn Tới

 

Năm 2020 là một năm đầy sóng gió, chết chóc, và tang thương cho toàn thế giới với nạn dịch Covid-19. Nước Mỹ yêu dấu của tôi cũng chịu chung một số phận, nạn dịch khiến nhiều gia đình mất đi những người mình yêu thương. Ngoài nạn dịch, cộng đồng người Việt vừa mất đi 2 khuôn mặt nghệ sĩ nổi tiếng, 2 cây đại thụ, một là danh ca Mai Hương và người kia là một văn, nhà báo, thi sĩ kiêm phóng tác gia nổi tiếng Hoàng Hải Thủy. Hai nghệ sĩ mất cách nhau đúng 7 ngày. Ca sĩ Mai Hương ra đi ngày 29 tháng 11, 2020, để lại trong lòng người yêu âm nhạc một giọng ca “dệt nên sợi tơ vàng” trong nền tân nhạc Việt Nam. Nhà văn Hoàng Hải Thủy, ra đi ngày 6 tháng 12, 2020, để lại một kho tàng đồ sộ văn chương, thi phú, phóng tác, và đủ các thể loại khác nhau.

Thông thường những người viết về những kỷ niệm của họ với các người nổi tiếng vừa mới ra đi trong cộng đồng người Việt hải ngoại là những người đồng niên đồng tuế, những người bạn tâm giao hay những người bạn văn nghệ sĩ vì họ cùng thời với nhau, có cùng một đam mê, một nhân sinh quan, và một thời sinh hoạt với nhau trên các văn thi đàn hay sân khấu. Tôi chỉ là một người thuộc thế hệ sau, xa lắc xa lơ, một đứa con nít, lại không phải là một văn nghệ sĩ, dù chỉ là một văn nghệ sĩ quèn không ai biết tên. Nhưng tôi có may mắn được gặp và sống gần ông, rất gần, trong một thời gian dài, không phải cuộc sống ngoài đời tươi đẹp mà ở trong phòng 10 khu ED, khám Chí Hòa.

Ai cũng biết sau tháng 4 năm 1975, toàn miền Nam sống trong một nhà tù to lớn như sống trong một trại súc vật với những con vật bình đẳng như nhau, trong đó có những con vật bình đẳng với nhau hơn những con khác. Những người dân bị tù chính trị đều không xa lạ với những trại giam T 30 thường được gọi là khám lớn Chí Hòa, hay trại số 4 Phan Đăng Lưu, những trại giam mà khi nghe tên người tù biết mình sẽ phải ở đó một thời gian rất lâu không biết ngày trở về. Ngày đó, tất cả văn nghệ sĩ miền Nam “chưa được bồi dưỡng chính trị” hầu hết không vào tù thì cũng bị cấm viết. Tôi gặp nhà văn Hoàng Hải Thủy trong hoàn cảnh đó.

Từ khu biệt giam, tên công an cai tù dẫn tôi ra phòng tập thể số 10 khu ED. Tiếng cánh cửa phòng và ổ khóa loảng xoảng mở ra, tên tù gầy nhom như bộ xương biết đi bị đẩy vào trong. Còn ngỡ ngàng chưa quen với một số quá đông người trong phòng, hơi nóng, mùi mồ hôi cơ thể nhiều ngày không tắm xộc vào mũi làm tôi nghẹt thở. Trong phòng biệt giam, tuy đói ăn và buồn thê thảm nhưng yên tĩnh, chỉ có mùi hôi riêng của mình đã quen, không làm cho tôi dội ngược như trong lúc này. Anh trưởng phòng dẫn tôi đến chỗ nằm mới, kế bên cái cầu tiêu và thùng nước sinh hoạt chung cho cả phòng. Nhiều cặp mắt chăm chú nhìn tôi dò xét. Tôi cũng kín đáo đưa mắt quan sát chung quanh để đánh giá tình hình. Hình như mình là một trong vài tù nhân trẻ nhất trong phòng.


Chiều hôm đó, sau khi sinh hoạt, kiểm điểm, và điểm danh số người trong phòng, anh trưởng phòng giới thiệu tên tôi với mọi người, đọc nội quy phòng, và hỏi tôi có thắc mắc gì không, sau đó ai nấy trở về chỗ mình nằm. Người thì trò chuyện với nhau, người thì ngồi trầm tư một mình, có những người khác xếp bằng ngồi thiền hoặc đọc kinh, mạnh ai nấy lo chuyện riêng tư của mình. Tôi ngồi một mình một góc, đầu óc hỗn độn hoang mang suy nghĩ lung tung. Vài bạn tù trạc tuổi tôi đến hỏi thăm và cho tôi một vài điếu thuốc rê, tiện dịp hỏi thăm tôi vào tù vì tội gì. Vì cảnh giác trong thời cộng sản nên tôi chỉ trả lời vô thưởng vô phạt khiến họ thất vọng và trở về chỗ cũ.


Trời tối một lúc lâu, anh trưởng phòng vỗ tay vài tiếng, yêu cầu mọi người im lặng, đã tới giờ “chiếu phim”. Các phòng kế bên là phòng 9, 11, và 12 cũng lên tiếng xin mọi người im lặng để nghe “phim”. Ở một góc phòng, một người đàn ông tóc bạc trắng như bạch kim, tuổi khoảng trên 50, rất đẹp lão, ngồi dựa lưng vào tường, đang phì phà điếu thuốc rê, nhả khói mù mịt, ông đằng hắng lấy giọng giới thiệu cuốn phim hôm nay mang tựa đề “Như truyện thần tiên”. Khán thính giả vỗ tay ào ào. Giọng ông cất lên sang sảng, trong veo, và mạnh mẽ khác thường, tiếng kể chuyện vang xa qua các phòng kế bên. Tôi thầm phục sao ông ta lại có một giọng kể đầy nội lực, lôi cuốn và hấp dẫn đến thế.


Nhắm mắt lại, nghe giọng đọc truyền cảm và lôi cuốn, tôi tưởng như trước mặt tôi là một màn ảnh lớn, cuộn phim được chiếu lên với các tài tử diễn viên thật. Nhân vật chính đang nằm ngửa thả trôi trên biển vắng, nhìn lên bầu trời xám xịt, không xa là chiếc du thuyền đang chìm dần. Cứ như thế, ông già đầu bạc đưa người nghe say mê vào câu chuyện như đang ngồi trong rạp xi nê trước màn ảnh lớn. Cả phòng im lặng để nghe cho rõ từng câu từng chữ, say mê và hồi hộp.

Từ ngày miền Nam mất vào tay cộng sản, tôi không còn được coi một phim nào có giá trị nghệ thuật xưa. Mọi người trong phòng thả hồn theo giọng kể của ông một cách say sưa, không ai dám đi lại hay gây một tiếng động nào, sợ sẽ đánh mất đi những đoạn hồi hộp trong phim. Một anh bộ đội người ngoài miền Bắc bị tù vì tội cắp của công đem bán chợ trời, ngồi há hốc mồm, chảy cả nước dãi, ngồi nghe mải miết quên cả hút thuốc lào sợ tiếng động làm cuốn phim đứt mạch. Đến khi “người chiếu phim” tạm ngưng và hẹn sẽ được tiếp tục chiếu vào lần kế tiếp, mọi người đều ngẩn ngơ tiếc nuối nhưng vì nội quy phòng, nên ai nấy phải giữ im lặng và đi ngủ.

Tôi hỏi người bạn tù kế bên ông ấy là ai mà kể chuyện hay quá như một nhà văn chuyên nghiệp. Anh ta cười trả lời: “Thì nhà văn Hoàng Hải Thủy đó chứ ai”. Tôi đã nghe và biết tiếng nhà văn Hoàng Hải Thủy trước năm 1975, và sau ngày thua cuộc, khi còn ở ngoài đời, qua báo chí của chính quyền cộng sản. Trong tờ Tuổi Trẻ, tôi có theo dõi bài viết của Huỳnh Bá Thành, một tên họa sĩ nằm vùng, giờ là

giờ là tổng biên tập tờ báo công an thành Hồ, hắn và đồng bọn viết bài “Những tên biệt kích cầm bút” để nói xấu văn nghệ sĩ miền Nam. Vụ án này xôn xao cả nước lúc bấy giờ. Tôi đọc để coi bọn chúng viết láo đến chừng nào vì lý lẽ của kẻ mạnh lúc nào cũng đúng. La raison du plus fort est toujours la meilleure (LaFontaine). Người dân miền Nam thừa biết là chúng đặt chuyện để tiêu diệt tất cả nền văn hóa miền Nam mà chúng cho là chưa “quán triệt đường lối” của nhà nước.

Bản thân tôi rất cảm phục sự cam đảm những người văn nghệ sĩ chân chính này.  Họ bị gán ghép là biệt kích văn nghệ, luôn điên cuồng chống phá cách mạng, nhưng hầu hết người miền Nam đều hiểu ngầm và hiểu ngược lại những gì cộng sản viết. Chính quyền cộng sản càng nói xấu văn nghệ sĩ thì người dân càng yêu mến họ hơn nhưng không ai dám để lộ ra tình cảm của mình. Nay bị ở tù, tôi mới được gặp một người trong nhóm là nhà văn Hoàng Hải Thủy mà tôi chỉ hình dung qua sách vở báo chí. Sau này tôi mới biết tất cả nhóm “biệt kích” nổi tiếng và đáng kính này gồm 8 người mà tôi còn nhớ tên đến bây giờ: Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (RIP), Dương Hùng Cường (RIP), Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự, và 2 người nữ là Lý Thụy Ý và cô Nguyễn thị Nhạn, nhân viên bưu điện, người đã giúp gởi các bài viết ra nước ngoài, tố cáo sự đàn áp của cộng sản.


Cái cơ duyên đưa đẩy tôi vào nhóm ăn chung với ông sau khi tôi đánh nhau với một người tù chính trị trong phòng mà tôi xin dấu tên, tạm gọi là anh PB, anh này trạc 40 tuổi, người hơi mập và to lớn hơn nhiều so với cái thân thể gầy nhom ốm yếu của tôi. Anh làm “ăng ten” hay bí mật báo cáo với cai tù những sinh hoạt của anh em tù trong phòng. Mọi người trong phòng âm thầm điều tra và dò hỏi 1 anh tù trật tự, anh này cho hay chính anh PB là thủ phạm. Trong phòng, hầu hết là tù chính trị, vài người tội kinh tế và ai nấy cũng đều khá lớn tuổi, nên dù biết rõ tên PB, nhưng không ai muốn dây dưa với hắn. Tôi là người tù trẻ nhất, lý tưởng, đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, nhưng hơi ngu, tôi chịu không nổi thái độ hèn hạ đó nên tôi tìm cách cho hắn một bài học theo kiểu Lục Vân Tiên thấy chuyện bất bình không ra tay không phải trượng phu.


Một hôm, sau giờ điểm danh sáng, khi cai tù đã đi xuống lầu, mọi người còn ngồi họp, anh trưởng phòng nói xa gần, xin anh em nên ý thức đừng để cán bộ biết những gì anh em làm trong phòng như cất dấu tài liệu học tiếng Anh, hâm đồ ăn bằng hỏa tốc, đánh lửa để hút thuốc, thậm chí làm rượu bằng chuối chín và thuốc Aspirin. Những chuyện này không đáng để anh em phải vào biệt giam, và làm khó anh trưởng phòng. Những mẹo nhỏ như vậy chỉ giúp cho cuộc sống của tù nhân dễ dàng hơn một chút mà thôi. Tên PB biết mọi người ám chỉ hắn nên hắn ta sừng sổ chửi thề, vẻ xấc xược vì biết cai tù sẽ bênh vực hắn. Tôi lên tiếng: “Có tịch thì rục rịch, phải không?”. Hắn tiến đến trước mặt tôi đang ngồi xếp bằng trên nền xi măng tiếp tục chửi thề, hắn nghĩ tôi là ma mới, cô độc một mình, dễ ăn hiếp. Tôi cao giọng: “Anh mà chửi nữa, tôi không để yên”. Hắn lại chửi thề: “Rồi mày làm con c… gì tao?”. 

Chỉ chờ có thế, tôi bật dậy thật nhanh, tống vào miệng hắn một trái đấm làm lung lay 2 cái răng, tay tôi rướm máu. Tôi và hắn lao vào nhau vật lộn, chỉ sau 1 phút, tôi dộng đầu hắn xuống nền phòng, hắn phải buông tôi ra. Anh em trong phòng, lúc này mới giả bộ nhào vô can cho có lệ. Tôi đứng lên chuẩn bị đồ đạc cá nhân để vào biệt giam một tuần về tội đánh nhau. Ra khỏi biệt giam, tôi được thày Bảy trong nhóm ăn chung với nhà văn Hoàng Hải Thủy, thương tôi không thăm nuôi, kéo vào ăn chung. Thày Bảy là một tu sĩ công giáo và cũng là thày dạy học tôi trước năm 1975, khi mới vào phòng, tôi đã nhận ra thày nhưng vì tế nhị không dám nhận quen. Lúc này thày mới cho hay cũng đã nhận ra đứa học trò ngày xưa. Thày là người tù chính trị được cả phòng thương mến nhất và kính phục vì tính tình nho nhã, điềm đạm, hay giúp đỡ bạn tù, và rất khiêm nhường.

Từ đó tôi lo việc lãnh cơm và chuẩn bị đồ ăn cho cả nhóm, nói nôm na là lo điếu đóm, tôi chính thức gia nhập gia đình “Bát Tiên ông” gồm 7 người lớn tuổi và 1 đứa con nít là tôi. Tôi gọi nhà văn Hoàng Hải Thủy là bố, ông cũng nhận tôi là con. Trong nhóm có hai ông thày tu, thày Trí Siêu, Lê Mạnh Thát, vụ án chùa Già Lam, thày Bảy, tu sĩ công giáo, tội in ấn tài liệu công giáo và giữ bản thảo “Đồi Fanta” của nhà văn Duyên Anh; sau này chính quyền cộng sản mới cho thày chịu chức linh mục khi tuổi thày đã cao, còn lại là các bậc đàn anh sĩ quan VNCH khác. Lúc này tôi kiêm luôn việc quấn thuốc rê cho bố Thủy mỗi khi ông “chiếu phim”. Tôi thắc mắc hỏi sao bố hút thuốc như ống khói tàu mà giọng kể vẫn cứ mạnh mẽ oang oang và chẳng bao giờ ông bị ho. Sau này khi gặp lại nhau trên đất Mỹ, hai bố con đều bỏ được thuốc lá như một phép lạ.


Trích đoạn bài viết từ Rừng Phong của bố Thủy viết về thằng con dzởm là tôi, gặp lại ông bố dzởm HHT:

Một hôm tôi đọc được lời Lâm Tới gửi đến Blog hoanghaithuy.com:

“Con là Tới, ở Phòng 10 với Bố. Số phone của con.. .. Bố phone cho con.”

Tôi phone cho Tới, và anh Con Dzởm với ông Bố Dzởm gặp nhau trên đất Kỳ Hoa. Tôi théc méc không hiểu bằng cách nào năm 1987 ở Phòng 10 ED Nhà Tù Chí Hoà, tên Tù Lâm Tới chỉ biết có hai tiếng Yes, No. Hai mươi năm sau gặp lại Nó ở xứ người – Bố Dzởm Tám Bó, Con Dzởm Năm Bó Gặp – Nó là chuyên viên về Máy Bay Không Người Lái của Không Quân Mỹ. Lâm Tới và vợ đến Virginia thăm vợ chồng tôi. Nó là đứa Con Dzởm duy nhất tôi gặp lại ở Kỳ Hoa Đất Trích.”(1)

 

Sống gần bố Thủy mới biết ông là người dễ mến, hiền lành,dễ gần gũi, thẳng tính, vui vẻ hòa đồng với mọi người và nhất là rất đời thường không kênh kiệu. Ông không bao giờ nói xấu ai bao giờ. Kẻ nào đến ông kể chuyện xấu về người tù khác, ông kiếm cách đổi đề tài ngay lập tức. Ông hay tâm sự rằng ông cũng nhát hít, sợ chết lắm, nhất là sợ bọn công an cộng sản. Ông hiểu cộng sản, nếu giết được nhóm văn nghệ sĩ của ông, họ sẽ không ngần ngại, nhưng nhờ thời thế lúc này đã khác với những ngày xưa trong thập niên 40; nhờ có sự can thiệp của mấy hội Ân Xá quốc tế, Amnesty International, và hội Văn Bút quốc tế, Pen International can thiệp nên chúng mới còn để nhóm ông sống.

Lần nào khi thăm nuôi gặp mặt gia đình trở vào, ông hay dựa lưng vào tường trầm tư cả buổi. Đến tối, bố con ngồi bên nhau hút thuốc, ông tâm sự: “Được gặp mặt gia đình thì vui, nhưng khi đi trở vào thì buồn quá. Nhất là con gái bố, Kiều Giang, nó phải đẩy xe đi bán bánh bao”. Tôi chỉ ngồi nghe mà không biết nói gì. Rồi bố lại than thở: “Gia đình cứ khuyên bố phải can đảm lên, cố lên đừng nản lòng vì các hội đoàn quốc tế đang lên tiếng về vụ việc của bố”. Ông thở dài não nuột: “Bố ở tù chứ gia đình có ở tù đâu nên người nhà đâu có hiểu”.

Để giết thời gian trong tù, chúng tôi hay học lén lút tiếng Anh bằng nhiều cách để qua mặt bọn cai tù. Thời gian đó, chính quyền cộng sản Việt Nam cho nhập về cuốn nguyệt san Sputnik của Nga, bắt chước theo cuốn Reader’s Digest của Mỹ, cùng một kích thước, và được viết bằng Anh ngữ để tuyên truyền về sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản. Nhờ tù trật tự mua dùm lén đem vô phòng, chúng tôi xé cuốn sách ra thành nhiều phần, mỗi người dấu một phần, nếu bị tịch thu chỉ mất phần đó mà thôi. Thày Trí Siêu dạy “học trò” môn này, thày rất khó tính, bắt mọi người phải tự đọc trước và dịch ra tiếng Việt cho đến khi nhuần nhuyễn mới đến trả bài, chữ nào sai, thày sửa; nếu vấp váp, thày bắt dừng ngay và về chỗ tự học lại. Nhiều người không vui vì ngoài đời, họ cũng là dược sĩ, bác sĩ, kỹ sư…nên họ tự ái, nhưng nếu không học thày Trí Siêu thì học ai. Thày tuyên bố chỉ dạy những người đã biết tiếng Anh chứ không dạy người mới học vỡ lòng.


Tôi biết thân phận nên không dám xin học thày, nhưng lòng thì không vui vì tôi vốn ham học lắm. Tôi xin bố Thủy dạy cho tôi. Bố khiêm nhường bảo: “Bố làm sao bằng thày Thát được, thày ấy là tiến sĩ học ở Mỹ về”. Năn nỉ riết, bố đồng ý dạy một mình tôi. 15 năm sống trong chế độ cộng sản, tôi không được đi học một ngày nào, nhất là tiếng Anh, khi tôi cầm cuốn Sputnik lên, những giòng chữ nhảy múa, tôi như đi lạc giữa rừng già. Vậy mà học với bố một thời gian, tôi bắt kịp các đàn anh “học trò” thày Thát. Nhờ vậy thời gian cũng qua mau và vốn liếng cóp nhặt đó giúp tôi rất nhiều khi qua đến Mỹ.

Mấy năm sống trong phòng cùng bố Thủy và anh em bạn tù đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi nghề nghiệp, tôi học được nhiều điều hay từ các bậc đàn anh, cha chú ngày xưa từng làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi học được từ bố cách sống ở đời trong những hoàn cảnh trớ trêu như nơi tù tội. Hơn nữa, bố là người thày Anh ngữ đầu tiên của tôi. Một xã hội thu nhỏ trong căn phòng tù cũng nhỏ xíu, tôi mới thấy được nhiều gương mặt, nhiều tính cách mà trong tận cùng đau khổ, con người ta khó mà dấu được. Bố Thủy của tôi vẫn sống rất thật với con người và bản chất của một văn nghệ sĩ chân chính nhưng không kém phần lãng mạn.


Có lần bố ưu tư không biết bố có còn sống để thấy chủ nghĩa cộng sản sụp đổ trên quê hương mình hay không? Rồi cũng chính bố tự an ủi mình: Sẽ có một ngày đẹp trời, cộng sản Việt Nam sẽ phải chịu chung số phận với bọn đàn anh chúng. Cộng sản Nga và Đông Âu đã sụp đổ từ gốc rễ, mấy cành mục rỗng ở Việt Nam rồi cũng phải chết theo cây như một định luật tự nhiên. Khi ở Mỹ rồi, bố kể tôi nghe về tên trùm cộng sản Đông Đức Eric Honecker trốn chạy và chết nhục nhã ở Chile; vợ chồng tên bí thư cộng sản Romania, Nicolae Ceausescu, bị chính quân đội của hắn xử bắn như thế nào khi ngày tàn của chúng đến Rồi giòng đời đẩy đưa tôi trôi dạt qua đất Mỹ khi tuổi đời đã hơn lứa tuổi “tam thập nhi lập”. Tôi chỉ ước ao kiếm được một việc làm tay chân để nuôi bản thân. Tôi quên quá khứ, quên gia đình, bè bạn, quên cả  giao tiếp với cộng đồng người Việt, ngày đêm chăm chỉ học hành và làm việc. Khi toàn thế giới đã bắt đầu xài internet, tôi đọc tin tức Việt Nam, thấy hình thày Thát ngồi với tên bí thư cộng sản Đỗ Mười trong dịp lễ Vesak, những hình ảnh cũ tràn về, tôi lần kiếm tin tức về nhà văn Hoàng Hải Thủy (2).

Năm 2013, khi gặp lại bố ở Virginia, tôi hỏi sao bố không về California có nắng ấm, có bạn bè, có đồ ăn Việt Nam. “Bố thích cỏ xanh, thích nhìn rừng Phong thay lá, và đặc biệt bố yêu thích Virginia vì nó là vùng đất của những người yêu nhau. Virginia is the land for Lovers”. Bố trả lời với một nụ cười thật tươi trên gương mặt giờ đây đã nhuốm màu thời gian qua những vết chân chim bên khóe mắt.

Bây giờ bố đã bỏ Rừng Phong lại sau lưng để đi về nơi miên viễn cùng với má. Bố và má, những người yêu nhau ở Rừng Phong, Virginia; khi về miền đất miên viễn, bố và má vẫn mãi mãi là những người yêu nhau. Đại văn hào Mark Twain có câu: Cuộc sống là trò chơi mà không người nào thắng. Life is a game, which no man wins. Con người, ai rồi cũng phải trước sau, bước lên chuyến tàu cuộc đời để đi về miền đất thênh thang, bố đã sống một cuộc đời bi hùng nhưng đẹp đẽ, giữ được khí tiết của người viết văn. Sự ra đi của bố nhẹ nhàng thanh thản, như cây đèn dầu cạn dần được cất đi để chờ đón ánh bình minh đang ngự đến. Bố ơi, hãy ngủ yên trên vùng đất của những người yêu nhau.


NGUYỄN VĂN TỚI. 12-2020. Nhớ về nhà văn Hoàng Hải Thủy.

REFERENCES:

  1. Chú thích riêng của tác giả: Sở dĩ bố Thủy gọi tôi là Lâm Tới vì thời đó ở Việt Nam, nhà nước cộng sản chiếu phim “Đường về quê mẹ” trong đó diễn viên nam đóng vai “thằng Núi” tên là Lâm Tới. Trong phòng đều gọi tôi là Lâm Tới kể từ đó.
  2. Xin đọc thêm trang web của nhà văn Hoàng Hải Thủy, tiểu sử, sự nghiệp và một kho tàng văn chương với đủ thể loại: https://hoanghaithuy.wordpress.com

Tổng kết cuối năm: Việt Nam Nhìn Từ Bên Trong- Tác giả Quách Hạo Nhiên

 

Nhìn từ bên trong là nhìn với tinh thần tự vấn, tự soi rọi chính mình. Nhìn từ bên trong vì thế, đòi hỏi sự dũng cảm để dám trung thực với bản thân và cộng đồng, dân tộc. Một quốc gia, một dân tộc, một xã hội mà “hệ điều hành”, vận hành không dựa trên những giá trị nền tảng có tính chuẩn mực, phổ quát; trái lại, chỉ thừa mứa sự giả dối và ảo tưởng đó là dấu hiệu của sự tha hóa và suy đồi. Quốc gia, dân tộc như thế khó có thể nói đang phát triển ổn định hay bền vững cho dù những chỉ số tăng trưởng thuần túy về kinh tế có thuộc tốp đầu thế giới.

 

1. Đại hội Đảng các cấp, vi rút Vũ Hán và bão lũ miền Trung

Để chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ XIII (dự kiến cuối tháng 01 đến nửa đầu tháng 02/2021), gần như cả năm 2020, Đảng ta đã tập trung mọi nguồn lực để chuẩn bị trong bối cảnh con vi rút Vũ Hán càn quét toàn cầu. Ngoài ra, trong khoảng 2 tháng cuối năm (từ tháng 10 đến đầu tháng 12), khúc ruột miền Trung còn hứng chịu thêm một đợt bão lũ rất nghiêm trọng.

Nếu như việc tập trung đối phó với con vi rút Vũ Hán bằng những bước đi căn cơ và hiệu quả, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ, thì ngược lại, hình ảnh cờ hoa tràn ngập trong vô số Đại hội Đảng các cấp đã phơi bày một nghịch lý đáng suy ngẫm: Đảng bao giờ và lúc nào cũng quang vinh, “đi trước”, hưởng trước còn đại bộ phân dân chúng, nhìn chung, vẫn nghèo xơ xác và lũ lượt theo sau.

Chưa có một thống kê nào về tổng chi phí (cờ, hoa, băng rôn, khẩu hiệu, in ấn tài liệu, quà tặng đại biểu…) dành cho cuộc tổng tập dượt này nhưng có một điều chắc chắn kinh phí ấy là tiền thuế của hơn 90 triệu đồng bào trong và ngoài nước góp vào. Tiêu pha cho những việc hình thức như thế có đáng không chắc chắn là một câu hỏi bức thiết về khoa học thống kê nhưng sẽ không cần thiết với đại bộ phận dân chúng đang rất cần có miếng bỏ vào mồm trong bối cảnh đại dịch và bão càn, lũ quét.

Thế nên, như thường lệ, truyền thông chính thống vẫn luôn làm tốt chức năng tuyên truyền và định hướng của mình. Tinh thần tương thân, tương ái; lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát – một truyền thống quý báu của dân tộc mấy ngàn năm nghèo đói - đương nhiên là “món ăn tinh thần” ngon, bổ, rẻ trong bối cảnh buộc phải phong tỏa, cách ly toàn xã hội. Dân chúng phần vì sợ chết, phần vì đã quen chịu đựng nên nhìn chung là ngoan ngoãn ngồi nhà đọc báo điện tử, chia sẻ cách rửa tay phòng chống dịch; số khác thức thời hơn thì lên mạng xã hội chém gió để bán khẩu trang dỏm và nước sát khuẩn không rõ nguồn gốc; hoặc không thì kiếm tiền bằng những câu chuyện nóng, sốt, giật gân…

Ngoài ra, để tạo hiệu ứng tuyên truyền trong bối cảnh dân chúng không thể đi đâu ngoài việc ở nhà cầm điện thoại lướt mạng thì việc tạo ra những anh hùng xuất chúng có công dẫn dắt dân tộc qua cơn bĩ cực là phương pháp dễ thực hiện. Thế nên, ngài Phó thủ tướng trực tiếp chỉ huy trận địa phong chống Covid, các nhà tư bản sắm vai Mạnh Thường Quân, các “anh hùng ATM gạo” hay về sau là cô ca sĩ nọ ngay lập tức trở thành những vị anh hùng hay bà tiên giáng trần để cứu nhân độ thế.

Có ơn phải trả (lại một truyền thống quý báu nữa) nên thơ và nhạc là hai món tủ, món ruột không thể thiếu để dân chúng thay phiên nhau thể hiện lòng biết ơn của mình trước Đảng, Chính phủ cũng như cô ca sĩ có tấm lòng Bồ Tát trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội.

Tóm lại, năm 2020, dù buộc phải phong tỏa toàn xã hội để đối phó với vi rút Vũ Hán (đợt 1) và bão lũ càn quét các tỉnh miền Trung trong hai tháng cuối năm nhưng Đại hội đại biểu các cấp toàn quốc của Đảng ta vẫn diễn ra đúng tiến độ và thành công mĩ mãn. Sự thành công này một lần nữa cho thấy sự tài tình và sáng suốt của toàn hệ thống chính trị.

Dẫu vậy, nếu đặt sự tài tình và sáng suốt ấy bên cạnh bức tranh về sự xác xơ của một bộ phận dân chúng khi phải xếp hàng nhận gạo, mắm, muối từ các nhà từ thiện; sự trần trụi, tang thương của đồng bào miền Trung trong cơn bão lũ sẽ cho thấy một Việt Nam ẩn sâu bên trong là những mảng lở loét, bầy nhầy, nham nhở…

Nói khác đi, đó là bức tranh tổng thể về sự tương phản rất giống với bức tranh trong “Sở kiến hành” (Những điều trông thấy trên đường) mà cụ Nguyễn Du đã vẽ cách đây mấy trăm năm. Hóa ra, cuộc sống của quan và dân ở xứ sở này từ bấy đến nay về cơ bản vẫn không có gì thay đổi: Quan đương nhiên cao sang, quyền quý, xa hoa ăn trên ngồi trước; còn dân đương nhiên vất vả, cùng cực, chịu đựng và mang ơn…

 

2. Tầng lớp trí thức nhìn từ sự cố sách giáo khoa lớp 1

Bàn về vai trò và trách nhiệm của người trí thức trong xã hội, học giả Nguyễn Văn Trung có một định nghĩa rất hay:

“Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hoặc sau đại học, mà là người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra, điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức, mà là thái độ trí thức đối với các vốn ấy và, nhất là, đối với những vấn đề cuộc sống trước mặt đặt ra.”

Nhà văn hóa Cao Huy Thuần cũng có cái nhìn và cách nói rất độc đáo:

“Ai đánh thức không cho xã hội ngủ người ấy là trí thức, bất kể họ là ai. Bởi vì trí thức không có vai trò nào khác, họ là và chỉ là lương tâm của thời đại.”

Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện. Trong xu thế toàn cầu hóa về tri thức và văn hóa, theo tôi, đây là một chủ trương đúng và cần thiết.

Có người nói vấn đề quan trọng nhất của cuộc đổi mới lần này là phải xác định và đề ra triết lý giáo dục rồi mới bắt tay vào làm các khâu còn lại trong đó có vấn đề biên soạn sách giáo khoa phổ thông các cấp. Quan điểm này, theo tôi là không sai. Tuy vậy, từ thực tế về bối cảnh và điều kiện của Việt Nam hôm nay, tôi nghĩ việc lựa chọn những người “cầm trịch” để lèo lái con thuyền giáo dục mới là yếu tố mang tính quyết định nhất. Triết lý giáo dục đương nhiên cần thiết vì là kim chỉ nam có tính định hướng chung. Nhưng triết lý cũng do chính con người nghĩ ra nên quyết định nhất vẫn là yếu tố con người. Cho dù có xác lập một triết lý hay ho đến đâu đi nữa nhưng vẫn sử dụng những con người cũ để triển khai thì cũng khó tạo nên những đột phá theo hướng tích cực, tiến bộ. Sự cố về bộ sách Tiếng Việt lớp 1 của nhóm Cánh Diều thời gian qua đã ít nhiều cho thấy điều đó.

Hay nói khác đi, qua sự cố này đã cho thấy sai lầm lớn nhất của việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay là vẫn không/chưa thể tập hợp được hết những cá nhân ưu tú và tử tế nhất của đất nước để cùng chung tay gánh vác sự nghiệp giáo dục nước nhà.

Ngoài ra, nhìn vào thái độ của các “cây đa cây đề” liên quan trực và gián tiếp đến những sai sót trong sách lớp khoa lớp 1 nhóm Cánh Diều (cả những người biên soạn lẫn Hội đồng thẩm định) cho thấy văn hóa, giáo dục và xã hội Việt Nam còn lâu mới có thể phát triển theo hướng văn minh và tiến bộ.

Việc các “cây đa cây đề” với vai trò đầu tàu, dẫn dắt nhưng luôn ngụy biện, bao biện không thừa nhận những sai lầm của mình đã phơi bày bản chất thật rất đáng hổ thẹn của họ trước “những vấn đề cuộc sống đặt ra”. Không hổ thẹn sao được khi mà chính họ luôn mạnh miệng chỉ trích các quan chức trong bộ máy chính quyền khi những người này mắc sai phạm nhưng đến lượt mình gây ra lỗi lầm thì không có dũng khí của một kẻ sĩ chân chính. Đã vậy, khi làm giáo dục họ đặt mục tiêu phải làm sao hình thành phẩm chất trung thực, tư duy độc lập, phản biện cho thế hệ trẻ nhưng chính họ chứ không phải ai khác lại là những người bảo thủ, định kiến và hẹp hòi nhất khi không chịu thừa nhận những điều trên từ người khác.

Không dừng lại ở đó, lâu nay những “cây đa, cây đề” này vốn là thần tượng của rất nhiều người trong xã hội. Đặc biệt, vây quanh họ là những cá nhân với mối quan hệ cộng sinh về danh lợi trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và truyền thông báo chí (đồng nghiệp, bè bạn, học trò qua các thế hệ…). Vì mối quan hệ cộng sinh về danh lợi này nên khi các “cây đa cây đề” phạm phải sai lầm chẳng mấy người dám lên tiếng đối thoại bằng tinh thần trách nhiệm và nhất là “lương tâm thời đại” của kẻ sĩ chân chính. Ở giác độ văn hóa, đây là sự cộng sinh suy đồi vì nó nhân danh sự “tương kính”, “tôn sự trọng đạo” hay “kính lão đắc thọ” giả hiệu mà bất chấp hậu quả cùng những hệ lụy lâu dài về sau.

Cuối cùng, một vấn đề quan trọng nhưng hiếm người đề cập đó là nhìn chung, lâu nay hầu hết các dự án, đề án liên quan đến kinh tế, văn hóa, giáo dục mang tầm quốc sách đều do các nhân sĩ, trí thức phía Bắc chủ trì, chi phối và đưa ra các quyết định cuối cùng. Các nhân sĩ, trí thức phía Nam rất ít khi (có cơ hội) tham gia vào các ban bệ, hội nhóm này. Đây là một thực tế từ khi nước nhà thống nhất đến nay. Thực tế này phản ánh rất rõ “năng lực” và “truyền thống lý luận”, sự khôn lõi của nhân sĩ, trí thức phía Bắc đồng thời cho thấy tính thụ động, thờ ơ, không chấp, không quan tâm của nhân sĩ, trí thức phía Nam.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Thiệp – một nhà văn phía Bắc đã khái quát về nhân sĩ, “trí thức Bắc Hà” rất sinh động và trần trụi trong truyện ngắn “Kiếm sắc” cách đây hơn 30 năm. Đoạn đối thoại giữa nhân vật vua Gia Long - Nguyễn Ánh với nhân vật Đặng Phú Lân trong “Kiếm sắc” là cái nhìn phản tỉnh cao độ rất đáng trân trọng của Nguyễn Huy Thiệp nhưng tiếc thay, mọi chuyện đến nay vẫn không có gì chuyển biến:

“Ánh hỏi: "Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc Hà, sao ngươi tái mặt?" Lân tâu: "Lân là người Bắc Hà nên tủi phận mình sợ cho mình".

Ánh bảo: "Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện, xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả".

Lân bảo: "Ða số như thế, chôn cũng đáng. Chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công". Ánh bảo: "Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm…".

Nhờ có “truyền thống lý luận” hay nói nôm na là sự khôn lõi, bẻm mép nên nhìn chung, nhân sĩ trí thức phía Bắc có đời sống vật chất sống sung túc và giàu có hơn nhân sĩ, trí thức phía Nam. Tuy vậy, nhìn sâu vào bên trong lại thấy họ có vẻ “nghèo”, và hời hợt, khổ sở hơn về phương diện đời sống tinh thần. Đó phải chăng cũng là lý do mà, các nhân sĩ, trí thức phía Nam về cuối đời hiếm khi phải ăn năn, sám hối như không ít trí thức, nhân sĩ phía Bắc (trước khi mất thường viết hồi ký để thanh minh và “nói lại” kiểu như Nguyễn Khải, Nguyễn Đăng Mạnh…- rất khác so với Sơn Nam hay Trang Thế Hy…)? Âu cũng là quả báo và hệ lụy tất yếu bởi “bút sa gà chết”. Nếu anh không kiểm soát tốt những suy nghĩ và cảm xúc nhất thời của bản thân anh hôm nay; đặc biệt nếu anh không trung thực và tự trọng mà bẽ cong ngòi bút; và một khi đã cụ thể hóa những suy nghĩ và cảm xúc ấy thành ra giấy trắng mực đen thì chắc chắn đó sẽ là bằng chứng mà hậu thế sẽ soi vào, đánh giá.

Rồi đây, những Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Đỗ Ngọc Thống…hôm nay sẽ được hậu thế đánh giá một cách công bằng và thỏa đáng nhất là về thái độ trí thức và tầm vóc văn hóa trên cơ sở những gì họ viết ra.

Nhưng thôi, dẫu sao đó cũng là chuyện của tương lai, hiện tại chúng ta hãy cứ hy vọng vì vẫn còn những Bùi Văn Nam Sơn, Cao Huy Thuần, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương…- những nhân sĩ, trí thức đáng kính đang cần mẫn cống hiến trong âm thầm, lặng lẽ chứ không ồn ào, náo nhiệt, xu thời…

 

3. Bầu Tổng thống xứ cờ hoa/ Mà sao dân Việt chúng ta rần rần

Người viết bài này từng nhận định, người Việt nếu soi kỹ, nhìn kỹ vào bên trong là một dân tộc rời rạc, đầy sân hận và thiếu đoàn kết. Chỉ khi nào cả dân tộc bị đẩy đến bước đường cùng (bị xâm lược bởi ngoại bang hoặc thiên tai tàn khốc…) thì mới biết yêu thương và đùm bọc nhau. Đó phải chăng là lý do mà suốt chiều dài lịch sử, cả dân tộc phải quay cuồng trong các cuộc chiến tranh, đánh đấm triền miên? Hết đánh đuổi các thế lực ngoại bang xâm lược lại quay về “gà nhà bôi mặt đá nhau”. Cũng chính vì say sưa “đá nhau” nên lại tiếp tục bị ngoại bang lợi dụng. Cứ thế, mấy ngàn năm không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của bạo lực, đánh đấm (không chỉ bạo lực về vũ trang mà còn về tinh thần).

Đáng tiếc là “truyền thống” chia rẽ, “mất đoàn kết nội” này hiếm khi được các sử gia và các chuyên gia văn hóa lên tiếng để cảnh tỉnh, thức tỉnh hậu thế. Trái lại, sử sách chỉ réo rắt, tụng ca một chiều về niềm tự hào hay sự gan dạ, dũng cảm, anh hùng của dân tộc khi sơn hà nguy biến.

Tuy cũng không quá bất ngờ về sự ham gây gỗ và “máu me chiến trận” của người Việt nhưng phải nói rằng tôi thật sự kinh khiếp về độ hung hãn của đồng bào mình trong lúc tranh cãi về sự kiện bầu cử Tổng thống Huê Kỳ trên mạng xã hội vừa qua. Tưởng rằng, với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, sẽ mở ra nhiều cơ hội để người Việt tự học, tự rèn luyện nhằm nâng cao nhận thức bản thân. Thế nhưng, về cơ bản đa phần vẫn cứ mông muội, hoang dã và man rợ trong hành xử, ứng xử như thường.

“Việc nhà biếng nhác, việc chú bác làm siêng”. Đại hội Đảng các cấp ở xứ mình băng rôn khẩu hiệu giăng mắc đầy đường nhưng chẳng mấy ai quan tâm còn bầu cử nơi xứ người thì mỗi giây, mỗi phút ai nấy lại hùng hổ chứng tỏ sự thông tuệ, hiểu biết mang tầm “bách khoa toàn thư” và quốc tế.

Thật lạ lùng làm sao, chỉ vì ủng hộ hay không ủng ông Trăm, ông Đen mà từ thường dân cho đến trí thức sẵn sàng lao vào nhau nhất là xem nhau như kẻ thù không đội trời chung.

Chỉ vì ẩn ức và khát khao thoát khỏi sự kìm kẹp của tập đoàn chính trị Tập Cận Bình mà cả dân tộc lại tự bộ lộc và chứng minh cho cả thế giới thấy sự rời rạc và sân hận không thể tin nổi.

Không tự giải quyết vấn đề của chính mình trái lại còn muốn “mượn gió bẻ măng” cho thấy tâm lý nhược tiểu và yếm thế của một dân tộc chưa trưởng thành dù có bề dày lịch lập quốc mấy nghìn năm. Một dân tộc như thế, thử hỏi làm sao có tương lai nếu không tự nhìn lại và thay đổi ngay từ bây giờ?

 

Thay lời kết

Về cơ bản, Đại hội Đảng là cơ hội để nhìn lại những gì đã làm được và chưa/không làm được; trên cơ sở đó chỉ ra nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục. Tiếp theo là vạch ra lộ trình, đường hướng và mục tiêu cho chặng đường mới.

Được biết, lần này Đảng ta đặt mục tiêu đến giữa thế kỷ 21 Việt Nam “sẽ trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bỏ qua cái đuôi “định hướng…”, cứ tạm xem mục tiêu như thế là vừa tầm. Vấn đề là làm sao để đạt được mục tiêu ấy khi những nền tảng văn hóa tối quan trọng cấu thành “nội lực quốc gia” đã đang rệu rã hay thậm chí mục ruỗng?

Đồng bằng sông Cửu Long – xương sống về kinh tế nông nghiệp của cả nước đang đứng trước nguy cơ tan rã; “rừng vàng biển bạc” ở những vùng miền còn lại cũng không còn là thế mạnh; nhân sĩ trí thức thì đa phần đang quay cuồng trong hai chữ lợi danh; dân chúng bình dân thì mạnh ai nấy sống; tham nhũng thì đã thành quốc nạn… Trong khi đó, quan trọng nhất là cái “hệ điều hành” chung của quốc gia đã quá cũ kỹ, lỗi thời đã vậy còn rơi vào khủng hoảng (nhân sự cấp cao) thì cơ sở nào để hứa hẹn trong tương lai sẽ lập nên kỳ tích?

Thế nên, nhìn lại và nhìn sâu vào bên trong để hiểu và nhận ra mình đang là ai, đang ở đâu và làm gì là thao tác nhận thức quan trọng nhất lúc này. Nếu không mọi hứa hẹn sẽ chỉ là hoang tưởng và ảo vọng.

Cách đây mấy mươi năm Lưu Quang Vũ từng nói:


“Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng áp phích trên tường bằng những lời đanh thép
Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn
Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh
Những bàn tay dám làm, những tấm lòng dám thật
Cuộc đời chẳng dừng chân một phút
Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp
Đến nay thành không đủ nữa rồi
Những người tốt tự bằng lòng với hôm nay
Mai sẽ là kẻ xấu…!”

Liệu rằng, đến giữa thế kỷ 21 ai sẽ dũng cảm tự nhận mình là người tốt hay kẻ xấu trước quốc dân đồng bào?


The US and China: Not Number One- Source CSIS





Vì Sao Tôi Sống Đến 100 Tuổi Mà Vẫn Mạnh Khỏe Và Minh Mẫn? - Tác già Nguyễn Trọng Vĩnh

Nhà tôi rất nghèo. Từ lúc lọt lòng đến 20 tuổi đi làm được, đều thiếu dinh dưỡng, thời niên thiếu phải lao động cật lực. Đã chết đi sống lại hai lần và một lần ốm cũng suýt chết.

Tôi lọt lòng được 6 tháng thì mẹ tôi mất, tôi sống nhờ “bú mày”, “cơm mớm” cho đến hơn 1 tuổi thì đã chết một lần, sau lại sống lại (bố tôi bảo thế). Tôi lên 3 tuổi thì bố tôi lấy dì ruột tôi, làm mẹ kế nuôi hai anh em tôi. Dì tôi làm thuê cuốc mướn, vẫn nghèo, ăn uống kham khổ. Không có ruộng đất, khi tôi lên 8 tuổi, gia đình tôi đưa nhau ra Bắc kiếm sống (rời quê Thanh Hóa). Bố tôi đi dạy học chữ nho ở tận Kiến An, mẹ kế cùng hai anh em tôi được ở nhờ nhà một người quen ở Hà Nội, ba mẹ con đi xe đất bán cho nhà máy gạch ở đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên hiện nay), ngày được hơn 1 hào, có lúc hai anh em tôi (anh Thọ 11 tuổi, tôi 8 tuổi) đi bán bánh mỳ dạo. Ba mẹ con bữa đói bữa no. Có lúc không kiếm được tiền phải đi kiếm các loại rau bờ bụi hoặc rau muối ở ruộng hoang về nấu ăn trừ bữa, có lúc phải lội xuống hồ hái “rau ngổ trâu” về luộc chấm muối ăn, đắng rất khó nuốt. Đến lúc hai anh em tôi đi làm công nhân được mà gia đình vẫn phải chia cơm mà ăn vì thóc cao gạo kém.
Riêng về tôi, lúc tôi lên 9 tuổi, do sưu thuế đốc thúc, bố tôi phải bán tôi làm con nuôi cho một gia đình ở làng Hữu Tiệp (cạnh đường Hoàng Hoa Thám bây giờ) được 6 đồng bạc Đông Dương để đem về làng nộp sưu (thuế thân). Thời gian từ đây đến 15 tuổi được ăn no, nhưng phải lao động cật lực. Vào lúc 9 - 10 tuổi làm các việc không tên trong nhà, khi 11 - 12 tuổi đi cắt hoa các làng xung quanh, đi cắt hàng rổ xảo lá cúc tần tận bên Vạn Bảo, đội về gần xái cổ, hoặc lên tận làng Bưởi, làng Trích Sài, Võng La kiếm hoa mò, hoa súng về cho chủ nhà đem đi bán, có lúc rét căm căm cũng phải lội xuống hồ mới lấy được hoa súng. Đến khi 13 -14 tuổi từ sáng tinh mơ, còn ngái ngủ, tôi đã phải cắp cái rổ đi bộ từ nhà qua đường Cổ Ngư lên các làng Yên Phụ, Nghi Tàm mua hoa hồng rồi vẫn đi bộ đem xuống bờ hồ Hoàn Kiếm để người “cô nuôi” bán và từ đó lại đi bộ về nhà bên đường Hoàng Hoa Thám, chả biết một ngày thằng bé 13 - 14 tuổi phải đi bộ bao nhiêu cây số. Về đến nhà, nghỉ ngơi được một lúc, lại phải giặt một rổ quần áo do cả nhà thay ra. Lúc 3 - 4 giờ chiều đi các làng Ngọc Hà, Đại Yên cắt hoa. Cắt hoa về là nấu nướng bữa cơm chiều, ăn xong là rửa bát. Tối đến làm hoa đến tận 10 giờ đêm mới được đi ngủ. Quãng đời thiếu niên lao động cực nhọc quá!
Khi tôi được 15 tuổi, bố tôi mới kiếm đủ tiền đến chuộc tôi đem về quê cho đi học. Thời gian đi học rất thiếu dinh dưỡng, toàn ăn cơm với muối rang hoặc váng cà, ngày nghỉ xuống song Mã câu được dăm con cá bống thì cải thiện được vài bữa. Có lúc bố tôi chậm gửi tiền về, hết gạo, đi học về qua nhà dì xin được đấu gạo nấu cháo ăn được vài bữa. Thôi học ra, Hà Nội đi làm, vẫn có lúc phải ăn đói.
Năm 1940, tôi bị thực dân Pháp bắt đầy lên Đắc Tô (Kontum) lúc ấy còn là rừng già rậm rạp, là ổ muỗi Anophen. Tôi bị sốt rét ác tính, thiếu thuốc, bị hôn mê, mắt trực thị ba ngày đêm. Các bạn tù một mặt chăm sóc, mặt khác đã lấy lồ ô về đóng quan tài sắp đem chon. May sao tôi lại tỉnh lại và sống. Sau tôi nói đùa với an hem là tôi đi đến nửa đường âm phủ , gặp quỷ sứ nó đuổi về.
Khi tôi làm Đại sứ nước ta ở Bắc Kinh, tôi bị ốm, nằm bệnh viện Trung Quốc một tháng, họ cũng làm mọi thứ, xét nghiệm máu, rửa ruột mấy lần, chụp chiếu đủ thứ mà không tìm ra nguyên nhân, cho uống cả thuốc Bắc và thuốc Tây mà không khỏi, vẫn chỉ kết luận là tim đạp nhanh “đậu tính” (150 lần/1phút) và sốt nhẹ. Sau một tháng tôi sút 10kg, chân tay lẩy bẩy, gầy rộc, xanh xao. Các đồng chí ở Sứ quán đã bàn là nếu Đại sứ chết thì chon ở Bắc Kinh hay đem thi hài về nước. Tôi nghĩ cứ nằm viện nữa thì suy sụp thêm, chắc chết nên xin về Sứ quán điều trị ngoại trú. Vì có đôi chút kiến thức đông y, tôi cho rằng không phải mắc bệnh lao mà chiều nào cũng sốt 38 độ, chắc phải có viêm nhiễm ở đâu đó trong cơ thể, bèn nhờ đồng chí phiên dịch ra hiệu thuốc mua ba vỉ kháng sinh thực vật là bồ công anh, kim ngâu hoa, lien kiều bỏ thêm vào thang thuốc lấy ở bệnh viện về sắc uống. Quả nhiên ba ngày sau hết sốt. Tôi điện về nước xin cho kết thúc nhiệm kỳ về nước, nhỡ có chết đỡ phức tạp.
Về nhà, tôi uống hết hai hộp tam thất bột Vân Nam mà tôi mua đem về và ăn cơm gạo lứt hai tháng thì sức khỏe hồi phục, tôi lại làm việc được và sống đến nay 97 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Bản than tôi cũng không nghĩ tới.
Bạn bè hỏi tôi có “bí quyết” gì? Không biết có phải “bí quyết” hay không, tôi xin trình bày thực tế như sau:
I – TẬP LUYỆN
Tôi tập thể dục đều đặn tùy theo tuổi và vừa sức là đi bộ, hiện nay tôi vẫn đi bộ mỗi ngày một cây số, đồng thời tập thể dục cả bộ não (không tập thì não chóng lão hóa): đọc sách báo, vừa viết bài, làm thơ, một tuần vài ba lần mời các cụ đến chơi “tổ tôm” để bắt óc phải suy nghĩ. Thường xuyên uống thuốc tuần hoàn não, loại chiết xuất từ lá cây bạch quả như O.P.Can, hatacan, tanakan, cesbral, ginkobiloba… không phải “tuần hoàn não Thái Dương”, đắt mà ít hiệu quả.
II – ĂN UỐNG
Thông thường tôi ăn đúng giờ giấc (trưa 11h30, tối 18h00), điều độ không no hẳn; bữa nào cũng có đạm, có rau, không cầu kỳ, khi thịt, khi cá, khi đậu phụ, ăn cá nhiều hơn. Cuối bữa có hoa quả, thường là chuối. Quả chuối được gọi là “quả của cuộc sống” vì nó chứa kali, phốt pho, ma nhê, sắt, vitamin A, C và 8 acidamin thiết yếu.
Tôi ăn gạo lứt, vừng đen hơn mười năm nay. Gạo lứt chứa rất nhiều vitamin và có chất selen là chất có tác dụng hãm chậm lão hóa vì nó khử chất mà y học gọi là “gốc tự do” chất phá hoại tế bào. Nấu cơm gạo lứt phải cho nước nhiều gấp bội so với nấu gạo thường. Vừng đen có tác dụng dưỡng huyết, ích gan, nhuận trường, bổ não. Vừng đen rang giã nhỏ, trộn muối, bỏ vào lọ ăn dần. Cuối bữa ăn, để lại độ một miếng cơm trong bát, rưới vài ba giọt nước mắm vào, đổ một thìa đầy vừng đen vào, trộn đều, xúc ăn.
Đọc các báo và tạp chí nói về sức khỏe cho biết ăn uống có đủ các chất và thành phần sau đây là thuốc trường sinh, tôi cố gắng thực hiện:
Vitamin E tác dụng kéo dài đời sống hồng cầu, củng cố thành mạch, hạ huyết áp, chống tập kết tiểu cầu tốt cho bệnh tim, chống “gốc tự do” hãm chậm lão hóa, chậm phát triển lú lẫn… Vitamin E có trong: dá đỗ, hành tây, vừng, lòng đỏ trứng gà, thịt vịt, bí đỏ, rau diếp, lá hẹ.
Selen có tác dụng khử “gốc tự do” , hãm chậm lão hóa, kéo dài tuổi thọ. Selen có trong: lòng đỏ trứng gà, gạo lứt, củ cải trắng, tỏi ta, nghệ vàng, thịt nạc, tôm nước ngọt…
Beta-Caroten có tác dụng cung cấp dinh dưỡng và các chất khoáng, lycopen; khử “gốc tự do”, kéo dài tuổi thọ. Beta-Caroten có trong: cà rốt, gấc, bí đỏ, cà chua, đu đủ chín, rau ngót, mồng tơi, rau đay, rau dền, dưa hấu.
Vitamin C có tác dụng tăng cường sức đề kháng, chống nhiễm khuẩn, tốt cho răng lợi, chống chảy máu chân răng, củng cố thành mạch, chống oxy hóa. Vitamin C có trong rau ngót, rau thơm, chuối, chanh, cam, quýt, bưởi…
Canxi có tác dụng chống lão hóa xương, bền răng, có trong tôm, cua, nghêu, sò, ốc, hến…
Lycopen có tác dụng ngừa bệnh tim, giảm loãng xương, chống “gốc tự do” kéo dài tuổi thọ, giảm nguy cơ Parkison.
Lycopen có trong cà chua…
Kẽm cũng rất cần thiết cho cơ thể, kẽm có trong dá đỗ, đậu hạt, đồ biển…
Chè xanh (phân biệt với chè đen và chè hồng) chè tươi càng tốt. Nhóm bác sĩ Nhật Bản phát biểu: “Uống chè có 10 điều tốt”. Người khó ngủ không nên uống chè vào buổi chiều và buổi tối. Sau này khoa học phân tích còn cho thấy thêm chè xanh chứa fluo, polyphenol, nhiều lượng kẽm, có hai chất EGC và EGCG nó hạn chế phân tử Aryl là chất gây ung thư. Chè xanh có chất anti oxidant kéo dài tuổi thọ, chè xanh có tác dụng tốt hưn vitamin C nhiều, toosst hơn vitamin E rất nhiều trong việc bảo vệ tế bào, chống viêm lợi, sâu răng, làm hơi thở không mùi, giải độc, giải rượu, giảm nhiễm xạ.
Đánh răng buổi tối rồi ngậm nước muối 1,6% trong 5 phút tốt cho răng lợi và không hôi miệng, nước muối 0,9% và chỉ xúc miệng không đủ diệt khuẩn.
III – PHÒNG, CHỐNG BỆNH TẬT
Định kỳ đi khám bệnh toàn diện để nếu phát hiện bệnh thì chữa trị kịp thời.
Tự theo dõi cơ thể mình, vì người ta mỗi người một khác, thức ăn uống có thứ tốt với người này lại không tốt với người khác, thuốc men có người uống khỏi bệnh, có người uống không khỏi. Có thời gian tôi bị viêm đại tràng, bác sĩ bảo phải kiêng trứng, kiêng mỡ, kiêng các chất cay, nóng, nhưng tôi ăn trứng và thịt mỡ không thấy việc gì, ăn hạt tiêu thấy không làm sao, nhưng ăn ớt là đau, ăn pate, đồ hộp, uống rượu là đau. Thế là hai năm tôi kiêng tuyệt đối rượu, ớt, pate, đồ hộp và khỏi bệnh hẳn. Kết luật là cái gì không thích ứng với cơ thể mình thì thải ra. Chủ yếu là phải tuân theo thực tế của cơ thể mình. Có lần tôi bị loạn nhịp tim, 3 nhịp nghỉ 1 nhịp, 7 lần nghỉ 1 nhịp, 11, 15 nghỉ nhịp loạn xạ, rất mệt. Đi khám, giáo sư cho Vastarel, Cordaron, tôi uống hết liều không khỏi, tôi hỏi có thuốc gì đặc hiệu, đắt mấy tôi cũng xin mua, giáo sư nói hiện tại không có thuốc nào hơn.
Vốn có nghiên cứu Đông y, tôi tự kê cho mình đơn thuốc gồm: Tam thất 10g, Đan sâm 12g, Diên hồ sách 12g, Sơn tra 12g, Sài hồ 10g, Mộc nhĩ đen 5g, Đại táo 5 quả. Sắc uống 8 thang tôi khỏi hẳn, mạch tôi đều đặn cho đến bây giờ. Bình thường huyết áp tôi không cao (khoảng +- 130/70) nhưng có lần đang ngồi chơi bỗng thấy người nôn nao khó chịu, tôi nằm nghỉ đo huyết áp thấy tăng đột ngột 222/110, tôi lấy 1 viên Adalat trữ sẵn cắn ra nuốt đi ½ và nằm thở đều, 1 giờ sau thì bình thường lại. Từ đó, đầu gường tôi bao giờ cũng sẵn có Adalat và Nitroglycerin, đi đâu trong túi tôi cũng có 1 viên Adalat và 1 viên Nitroglycerin. Có lần đang đi ở phố Tràng Tiền, bỗng tôi lại có cảm giác như nói trên, tôi ngồi ngay xuống lấy ra 2 viên thuốc trong túi bỏ vào miệng 1 viên nuốt khan, 1 viên cắn vỡ nuốt một nửa. Ngồi nghỉ khoảng 30 phút, lại đứng dạy đi.
Hiện giờ hàng ngày tôi uống 1 viên Aspirin 0,81 phòng nhồi máu cơ tim.
IV – SỐNG LÀNH MẠNH VÀ TRONG SẠCH
Tôi đã chừa thuốc lá được hơn nửa thế kỷ đến nay. Không uống rượu trắng và rượu mạnh, khi có điều kiện thì uống rượu vang vì rượu vang tốt cho tim.
Có lúc cắt thuốc bổ ngâm rượu thì cũng uống mỗi bữa ăn một ly.
Nhà nước, Đảng điều động làm công tác nào là cầm quyết định đi, không nghĩ công tác khó khăn hay dễ, không so đo vị trí công tác mới lương cao hay thấp. Đương ở quân đội hệ số lương có thể cao lại có thâm niên được điều ra công tác ngoài quân đội lương sẽ thấp hơn, tôi cũng sẵn sang.
Từ năm 1960 đến năm 1980, 20 năm không ai quản và xét, tôi vẫn đứng ở bậc lương cũ, tôi cũng không có ý kiến gì.
Đến khi làm Đại sứ ở Bắc Kinh, anh em ở Sứ quán phát hiện báo cáo về nước, Thủ tướng Phạm Văn Đồng mới nâng cho tôi lên chuyên viên 9, ngang lương Bộ trưởng lúc bấy giờ.
Tính trung thực thẳng thắn, thấy việc gì tôi cho là không đúng, tôi cãi cả với đồng chí Lê Đức Thọ, phê bình cả Tổng bí thư. Suốt đời tôi chưa sai hẹn, thất hứa với ai bao giờ.
Trong quá trình công tác, tôi thường được giữ những vị trí chủ chốt không thấp, có quyền quyết định chi tiêu, nhưng không hề lạm dụng công quỹ cho việc riêng. Đọc báo biết ai khốn khó tôi đều gửi tiền chia sẻ, của ít lòng nhiều.
Sống đúng với lương tâm của mình, nên tôi cảm thấy rất thanh thản. Có lẽ đay cũng là một nguyên nhân khiến tôi sống lâu.

Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020

Dầu Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín - Tác giả Trang Nguyen

 

Ngày nay dầu khuynh diệp bác sĩ Tín không còn nữa nhưng người dân miền Nam tuổi trung niên trở lên ai cũng nhớ đến cái mùi đặc trưng của loại dầu gió thông dụng này. Dầu trị nhiều chứng bệnh, cảm mạo, sổ mũi, đau nhức cơ bắp, ho, đau bụng, đau răng, trầy chảy máu, ngừa gió, ngừa ban cho trẻ em… Người thường dùng nhất là các bà già, phụ nữ sinh đẻ nên dầu khuynh diệp còn được gọi là “dầu bà đẻ”.
Tôi chỉ mới biết “dầu bà đẻ” khi đem chuyện dầu gió ngày xưa ra trò chuyện với mấy ông bạn già. Những câu chuyện góp nhặt đây đó đánh thức ký ức của tôi thời còn bé. Nhớ lại, có lần ba tôi dẫn tôi đến Nhà bảo sanh Hoà Hưng thăm má tôi sanh thằng em út. Vừa bước vào cửa chính đã ngửi thấy nồng nực mùi dầu. Mùi khuynh diệp càng lúc càng nồng khi đi ngang qua các buồng sản phụ dọc theo hai bên. Hồi đó, tôi không để ý lắm cái mùi dầu khuynh diệp vì tủ thuốc trong nhà lúc nào cũng có vài ba chai dầu Nhị Thiên Ðường, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và hũ cù là Mac-Phsu phòng dùng khi cần thiết. Nhưng sau này, khi tôi có dịp ngửi lại mùi dầu khuynh diệp OPC hiệu mẹ bồng con (“hậu duệ” của dầu khuynh diệp bác sĩ Tín). Mùi không đậm bằng dầu gió ngày xưa nhưng tôi vẫn cảm thấy cái mùi thật thân thương và gần gũi!
Ba loại dầu gió này rất thông dụng trong từng gia đình. Mặc dù vậy, dầu khuynh diệp vẫn là loại dầu gió phổ biến nhất bởi công dụng của dầu trị nhiều thứ, kể cả nhức răng. Có lần tôi xúi thằng bạn hàng xóm có cái răng hàm bị sâu khoét một lỗ, nó cứ lấy tay bịt miệng, mặt mày nhăn nhó. Tôi bảo lấy cục bông gòn nhỏ se tròn lại nhúng vào dầu khuynh diệp nhét vào lỗ răng sâu. Nó làm theo đúng là hết thật. Té ra, dầu khuynh diệp hiệu nghiệm thiệt! Hồi đó, nhãn hiệu trên chai dầu khuynh diệp bác sĩ Tín không có ghi cách dùng nào nhưng sau này các loại dầu gió đều phải ghi trên nhãn hiệu “dùng ngoài da”.
Bác sĩ Tín, người sáng chế ra dầu khuynh diệp, tên thật là Bùi Thứ, sinh quán tại Quảng Nam. Ông kết hôn sớm với bà Nguyễn Thị Hoà, người cùng quê. Hồi đi học ông tham gia phong trào bãi khoá tại trường Quốc Học và tham gia lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh cũng như thường lui tới chùa Từ Ðàm, nơi giam lỏng nhà cách mạng Phan Bội Châu nên ông bị sở mật thám Pháp theo dõi ghi tên vào sổ đen. Kết quả là ông bị đuổi học. Sau khi rời Quốc Học, ông ra Hà Nội theo học tại trường Albert Sarraut và đổi tên thành Bùi Kiến Tín.
Ðỗ Tú tài Pháp, ông vào học tại Ðại học Luật khoa Hà Nội nhưng được học bổng sang Pháp học ngành Y. Tốt nghiệp bác sĩ, ông về nước cùng với những người bạn học là bác sĩ Trương Ðình Ngô, dược sĩ Trương Xuân Nam lập một cơ sở nghiên cứu bào chế Âu dược tại Quy Nhơn. Ông làm các loại thuốc ho, bổ huyết, thuốc trị táo bón. Bà Hòa tích cực tham gia cùng chồng ngay từ những ngày này. Bác sĩ Tín nói cần một cái nồi đồng thật lớn để nấu thuốc, bà liền nhận nhiệm vụ đi kiếm cho ra cái nồi như thế. Bà về quê, ngay lúc đám giỗ ở một nhà thuộc tộc Bùi thì gặp ông Bùi Thuyên, cha ruột nhà thơ Bùi Giáng. Nghe chuyện, ông Bùi Thuyên bèn cho mượn cái nồi khá to!
Bác sĩ Tín lại có duyên nợ với ngành Ðông Y nên khi cơ sở sản xuất thuốc dời vào Sài Gòn vào năm 1944, bác sĩ Tín đưa cả gia đình từ Quảng Nam vào lập nghiệp tại Sài Gòn và lập ra viện bào chế đông dược miền Nam tại Phú Lâm, gọi là nhà thuốc Bác Sĩ Tín. Và từ đó tạo lập nên thương hiệu “Dầu khuynh diệp bác sĩ Tín”. Dầu gió được bác sĩ Tín bào chế có công thức đặc biệt bao gồm các loại dầu tràm, dầu bạc hà, dầu hương nhu… và không thể thiếu tinh dầu khuynh diệp. Ðây là loại tinh dầu có mùi rất đặc trưng.
Ðể có được nguyên liệu tốt, năm 1954 ông mua một miếng đất rộng 30ha nằm dọc theo xa lộ Biên Hòa, bên tay phải từ Suối Tiên về Biên Hòa (đối diện Nghĩa Trang Quân Ðội) trồng cây khuynh diệp. Năm 1960, lứa khuynh diệp đầu tiên từ Pháp đưa về được trồng ngay tại đây. Rồi sau đó, ông dùng hạt giống của cây khuynh diệp đã trồng, ươm cây con để trồng trên hai trang trại mới mua rộng 40ha tại xã Lộc Châu, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Ðồng.
Tiến sĩ kinh tế Bùi Kiến Thành, trưởng nam của bác sĩ Tín, nói về tâm tư của cha mình khi dầu khuynh diệp bác sĩ Tín đã gần như chiếm lĩnh thị trường miền Nam vào thuở thập niên 1960. Trong luận án tốt nghiệp bác sĩ, ông đã nêu tinh thần dân tộc và mong muốn góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam hùng mạnh. Ông ước ao làm sao 20 triệu dân hiện tại có sức khỏe tốt để nâng dân số lên 50 triệu cho đúng với tầm cỡ lãnh thổ? Dân Việt Nam lúc đó không có đủ tiền để mua thuốc Tây. Còn Ðông dược rất tốt nhưng sản xuất chưa đúng với phương pháp khoa học nên kém hiệu quả. Và ông muốn thay đổi thực tế này. Do đó bác sĩ Tín cho làm logo hình ảnh một anh lực sĩ nâng cả đất nước Việt Nam lên, bên dưới hình ảnh có ghi ba chữ “Ðại Cường Việt”. Logo này được in trên các nhãn hiệu sản phẩm dầu gió, dầu xoa bóp, dầu cù là.
“Với papa tôi, làm giàu không chỉ cho cá nhân ông mà còn là làm giàu cho đất nước, cho ích nước lợi dân. Thí dụ, khi papa tôi làm thuốc ho Bác sĩ Tín, ông đã có ý thức về chủ quyền với câu khẩu hiệu ‘uống thuốc ho Bác sĩ Tín thở không khí tự do’. Bán thuốc không chỉ để dân khỏe ra mà ông còn muốn xây dựng nhận thức, ý thức chủ quyền cho dân”.
Ông Thành nhớ lại: “Papa tôi đã mua một chiếc xe tải lớn, dài 7-8 mét nhưng không đóng thùng mà để lên đó một chiếc xe hơi Austin mới cáu cạnh. Gắn kèm chiếc xe là cái bảng to ghi: Giải thưởng Bác sĩ Tín. Ai mua dầu của BS Tín cũng được cho một con số kèm theo. Ði cùng với chiếc xe là đoàn múa lân đánh trống tùng tùng xèng. Xe chạy từ Nghệ An, Hà Tĩnh suốt cho tới Cà Mau. Một chiếc xe quá lạ lùng và tưng bừng như vậy bảo sao dừng ở bãi chợ nào, trẻ em, người lớn đều không xúm coi rần rần? Xổ số trúng thưởng sau đó được tổ chức rất nghiêm túc, ngoài xe hơi Austin còn có mấy chục giải phụ là xe đạp. Ðó là chiêu mà ông nghĩ ra để từ Nam chí Bắc, ai ai cũng biết đến dầu khuynh diệp bác sĩ Tín. Papa tôi đã mua mấy chục chiếc xe tải để đi khắp nơi quảng bá và bán tận tay tới người dân. Mỗi năm có khoảng 20 triệu chai dầu khuynh diệp được bán ra”.
Trong một bài viết tưởng nhớ bác sĩ Tín đăng trên facebook của Ban Tu chính phổ hệ Bùi Kiến Tiến – Bùi Kiến Quang rằng, bác sĩ Tín tham gia nội các của Thủ tướng Ngô Ðình Diệm hồi năm 1954. Ông giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin. Nhưng sau khi Ðệ Nhất Cộng Hoà được thiết lập, ông từ bỏ tham chính và được phục vụ trong quân đội với cấp bậc Y sĩ Trung tá làm việc tại Huế và Cà Mau một thời gian. Sau đó ông được giữ chức Y sĩ Trưởng Phủ Tổng thống và Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống (1960). Năm 1969, ông ra tranh cử Dân biểu Quốc hội nhưng thua phiếu Luật sư Trần Văn Tuyên. Kể từ đó ông chú tâm vào việc kinh doanh, công tác xã hội và tôn giáo.
Thành công trong lĩnh vực đông y dược, bác sĩ Tín lấn sân sang các ngành nghề kinh doanh khác như kỹ nghệ, tài chánh và xây dựng. Ông cùng với trưởng nam Bùi Kiến Thành đồng sáng lập Công ty sản xuất bình điện Prestolite của thương hiệu ắc-quy Autolite thuộc hãng xe Ford của Mỹ nhượng quyền; thành lập Ðông Phương Ngân hàng và Việt Nam Công Thương Ngân hàng tại Sài Gòn; thành lập Công ty địa ốc Tân Ba, khai thác cát tinh bán cho Nhật, sản xuất muối Cà Ná; mở Công ty Nông nghiệp Khánh Hoà thu mua cơm dừa bán cho các cơ sở làm xà bông. Ông cùng các con lập ra Viện Bào chế Tiandi ở Chợ Lớn và Viện bào chế Hana tại đường Trương Minh Ký, Phú Nhuận. Không những dừng lại đó, ông còn có ý tưởng xây dựng khu Disney Land tại Biên Hoà giống như bên Mỹ, rộng 290ha. Tiếc rằng ý tưởng của ông phải dừng lại vào năm 1975 khi Sài Gòn thất thủ. Ông cùng gia đình di tản sang Pháp.
Ông mất vào năm 1994, thọ 83 tuổi. Tuy thế, dư âm của dầu khuynh diệp bác sĩ Tín đến nay vẫn còn sống mãi trong ký ức người dân Sài Gòn.

Hồn Việt: tinh tế là viết mà như nói!





Cái TÔI Của Người Việt- Tác giả Từ Thức

 

Gặp một người bạn . Trong một giờ, anh ta nói về anh 57 phút, anh đã làm những gì khiến Tây phải le lưỡi. Ba phút còn lại, trước khi chia tay, anh ta mới hỏi : À, hồi này bạn làm gì, sống chết ra sao.

Tại sao cái tôi, cái ‘’ égo ‘’ của người Việt lớn thế ? Gặp không biết bao nhiêu người vỗ ngực, tự cho mình là vĩ nhân. Không phải chỉ vỗ ngực, còn trèo lên nóc nhà gào khản cổ : tôi giỏi quá, tôi phục tôi quá, tại sao tôi tài ba đến thế ?

Một lần ngồi nhậu với 5 ông , có cảm tưởng ngồi với 5 giải Nobel văn chương. Nói chuyện với một ông bác sĩ trong hẻm, tưởng ông ta đã kiếm ra Pénicilline. Những ông như vậy, nhan nhản. Nói ‘’ ông ‘’, vì hầu như đó là một cái bệnh độc quyền của đàn ông. Như ung thư vú là bệnh của đàn bà.

In một hai cuốn sách tào lao tặng bố vợ, nghĩ mình ngồi chung một chiếu với Marcel Proust, Victor Hugo, Beaudelaire, Nguyễn Du . Lập một cái đảng có ba đảng viên, kể cả em gái và mẹ vợ, nghĩ mình là lãnh tụ, ăn nói như lãnh tụ, đi đứng , tắm rửa như lãnh tụ. Viết vài bài lăng nhăng, đầu Ngô mình Sở, nghĩ mình là triết gia, đại trí thức, sẵn sàng dẫn dân tộc đi lên ( hay đi xuống ). Học gạo được cái bằng ( chưa nói tới chuyện mua được cái bằng ), nghĩ mình đã kiếm ra điện và nước nóng.

Câu nói người ta thường nghe : mày có biết tao là ai không ? Nghe khiếp quá, điều tra, khám phá ra "tao " không phải là huy chương vàng 100m thế vận hội, cũng không phài là người đã sáng chế ra máy bay phản lực, chỉ là con ông cháu cha. Và chính ông , cha cũng chỉ là kẻ leo lên nhờ nịnh hót hay thủ đoạn bất nhân, mờ ám


TÔI, TÔI, TÔI

Một ông bạn in một tấm danh thiếp khổ lớn, dầy đặc những chức tước, trong đó có ‘’ nhà nghiên cứu ‘’. Những người quen không biết ông ta nghiên cứu cáí gì, lúc nào. Người viết bài này đáng nhận là nhà nghiên cứu hơn, vì thỉnh thoảng vào Google tìm mẹo trị mắc xương cá, hay cách nấu canh hẹ tầu hũ.

Bất cứ người Việt nào cũng là một cái nhà gì đó. Hơn một cái nhà, đó là những lâu đài

Cũng lạ, cái TÔI to tổ bố ở một xứ như VN. VN, xứ người ta nói ảnh hưởng văn hoá Phật giáo, tôn giáo của vô ngã , cái tôi không có . Nơi chịu ảnh hưởng Lão giáo, những người đã ra suối rửa tai khi nghe thiên hạ nhắc tới tên mình. Nơi người công giáo hành đạo nhiệt thành, và Công giáo coi vị tha, nghĩ tới người khác, là đức tính hàng đầu. Khổng giáo ? Khổng tử nói : biết, nói là biết ; không biết, nói là không biết ; thế là biết đấy. Người Việt ta cái gì cũng biết, quên rằng thỉnh thoảng nhận mình không biết là dấu hiệu của sự thông minh.

Không lẽ người Việt không hiểu tôn giáo mình đang theo ?

Có ai đã gặp một người Nhật vỗ ngực : tôi, tôi, tôi. Nói chuyện với người Nhật, chưa gì họ đã mang giấy bút ra ghi chép. Làm như những điều bạn nói là khuôn vàng, thước ngọc. Hỏi những người khác, mới biết cái ông ngồi trịnh trọng ghi chép đó là bực thầy .

Nhớ mãi một buổi hội thảo của người Việt. Ông MC nói về mình trước khi giới thiệu diễn giả. Không phải chỉ giới thiệu diễn giả, nhưng tất cả những người ngồi trên bàn cử tọa, chức tước, bắng cấp, tiểu sử, kể cả, nhất là những chi tiết oanh liệt không liên hệ gì tới đề tài thuyết trình. Sau phần giới thiệu những chủ tọa đoàn, tới lượt …những người tham dự. Chúng tôi hân hạnh có sự tham dự của Giáo sư X, tiến sĩ Y, chủ tịch Z. Vì tất cả đều có bằng cấp, chức tước cùng mình, việc giới thiệu tất cả văn võ bá quan kéo dài cả giờ. Mời 14 giờ, bắt đầu 15 giờ 15, giới thiệu xong phải thảo luận vội vàng cho kịp giờ trả phòng. Thảo luận nghĩa là mỗi người lên cầm micro nói các anh láo cả, chỉ có tôi là có lý.


TÔI LÀ CHÂN LÝ

Nước Việt nghèo , chậm tiến, lạc hậu, thua thiên hạ mọi mặt. Đáng lẽ người Việt phải khiêm nhượng, biết người, biết mình. Nhưng không, trong tự điển cá nhân của người Việt không có chữ khiêm tốn. Nhiều lần tôi gân cổ cãi với bạn bè, về nhà nghĩ : không chừng nó có lý. Tại sao không nhìn nhận ngay ? Bởi vì cái tôi nó lớn quá. Bênh vực cái tôi trước đã, thực hư tính sau.

Socrate nói càng học càng thấy mình không biết gì. Những nhà khoa học nói khoa học bắt đầu bằng sự hoài nghi. Có hoài nghi mới đặt lại vấn đề, mới học hỏi, tìm tòi. Người Việt ta không bao giờ hoài nghi về cái biết mênh mông, cái tài quán thế, trùm thiên hạ của mình.

Nước Việt sống dưới ách đô hộ của một nhóm mafia, tự phong cho mình toàn quyền sinh sát. Thế kỷ 21 vẫn chưa có quyền suy nghĩ. Viết vài chữ, nói vài câu phải lo có đúng ý người trên hay không. Vẫn khư khư bám vào một chế độ kỳ quái đã bị cả thế giới từ bỏ. Trong hoàn cảnh đó, đáng lẽ không có người Việt nào nên hãnh diện quá đáng, nếu không xấu hổ, vì quả thực không có gì vẻ vang phải cúi đầu để sống. Hay bất lực, nhìn quê hương mình lao xuống vực thẳm

Ở đâu cũng có những cái tôi, nhưng ở người Việt, nó đạt một tỷ số đáng ngại. Mỗi lần, hiếm hoi, gặp một người đồng hương có khả năng nhưng khiêm tốn, tôi nghĩ bụng : ông nội này mất gốc rồi.

Thảo luận với người Việt rất khó, vì ai cũng nghĩ là mình nắm chân lý trong tay. Nghĩ khác là xúc phạm ông ta, xúc phạm chân lý, bôi nhọ sự thật. Phải căm thù, phải tiêu diệt, phải triệt hạ, phải tố cáo , chụp mũ.

Cái tôi lớn, phải chăng đó là nét đặc thù của một dân tộc đầy tự ti mặc cảm ? Trong cái kiêu hãnh lố bịch của người ‘’ mang dép râu mà đi vào vũ trụ ‘’ của Tố Hữu, có cái tự ti của những người vẫn mang dép râu ở thế kỷ 20, 21.

Trong y học, égocentrisme là một cái bệnh, pathologie . Và trong 9 trên 10 trường hợp, những người có mặc cảm tự cao, tự đại ( complexe de supériorité ) là để che đậy tự ti mặc cảm ( complexe d’infériorité ).

Những người có thực tài không cần huyênh hoang, và tăi năng của họ đã được nhìn nhận. Những người có thực tài rất khiêm nhượng, vì họ không so sánh với người khác. Họ so sánh mình với mình, so sánh mình hôm nay với mình hôm qua, so sánh tác phẩm mới với tác phẩm cũ của chính mình, so sánh thành quả hôm nay với thành quả những năm trước. Và thường thường thất vọng.

Khi một nghệ sĩ thoả mãn với tác phẩm của mình, anh ta hết là nghệ sĩ. Anh ta không tìm tòi nữa, anh ta về hưu. Như một công chức, một tài xế xe đò về hưu.

Khi một nhà khoa học thỏa mãn với khám phá của mình, anh ta không khám phá nữa . Một lý thuyết gia thoả mãn, anh ta không đọc nữa, không tìm tòi nữa. Chúng ta không có khoa học gia, vì học xong có cái bằng là đủ sướng rồi, treo bằng lên tường ngắm mỗi ngày, tìm kiếm gì nữa.


ĐÈN DẦU VÀ ĐÈN ĐIỆN

Thomas Edison nói nếu hài lòng với đèn dầu, tìm cách cải thiện đèn dầu, sẽ không bao giờ kiếm ra điện.

Người Việt ta dễ thoả mãn quá, dễ kiêu hãnh quá, dễ ‘’ tự sướng’’ quá. Chúng ta hài lòng với ngọn đèn dầu leo lét trong nhà, nghĩ là hải đăng. Hậu quả là cái gì của ta nó cũng nho nhỏ. Cùng lắm là xinh xắn, dễ thương, nhưng đồ sộ, vĩ đại thì không có. Không thể có. Tham vọng nhỏ, thành quả nhỏ.

Pablo Picasso khi thành công, được ca tụng ở ‘’période rose ‘’( thời kỳ hồng ), nếu thỏa mãn, sẽ không có ‘’ période bleue’’, thời kỳ xanh. Nếu thoả mãn với ‘’ période bleue ‘’ sẽ không có tranh lập thể, đưa hội họa đi vạn dặm. Một giai thoại : Picasso mời bạn bè ăn tiệm. Cuối bữa ăn, gọi tính tiền. Chủ tiệm nói xin miễn chuyện tiền bạc, được tiếp Picasso là hân hạnh rồi. Pablo vẽ vài nét trên tấm khăn phủ bàn, tặng chủ tiệm. Ông này nói xin maître ký tên. Picasso trả lời : tôi chỉ trả bữa cơm, không muốn mua tiệm ăn.

Nếu Picasso là người Việt, sẽ thấy đời mình đã quá đủ để thoả mãn : vua biết mặt, chúa biết tên, chữ ký đáng ngàn vàng, chỉ việc ngồi hưởng và chiêm ngưỡng dung nhan mình. May mắn cho hội họa, ông ta là người Tây Ban Nha , hỳ hục tìm tòi cho tới chết

Mỗi lần nghe, hay coi Jean Marie Le Clézio, Patrick Modiano trong những chương trình văn học trên France Culture, hay trên France 5, ít người nghĩ họ đã chiếm giải Nobel Văn chương.

Họ khiêm nhượng, ngập ngừng, do dự, gần như cáo lỗi sắp sửa nói những điều tào lao.

Le Clézio, Nobel 2008, khoanh tay, chăm chú nghe một tác giả vừa chân ướt chân ráo vào nghề, nói về một cuốn sách đầu tay. Modiano , Nobel 2014, tìm chữ một cách khó khăn, ngượng ngập, ít khi chấm dứt một câu , như muốn nói : thôi, bỏ qua đi, những điều tôi muốn nói chẳng có gì đáng nghe. Ông ta thực sự ngạc nhiên không hiểu tại sao có người nghĩ đến mình để trao giải. Ông ta nói có người đọc sách của mình đã là một phép lạ.


NGƯỜI VÀ TA

Những năm đầu ở Pháp, có thời tôi cư ngụ Rue Marcadet, Paris. Bên cạnh là một cặp vợ chồng già, hiền lành, bình dị như một cặp thư ký hay công nhân về hưu. Mỗi lần gặp ở thang máy, bà vồn vã chào, hỏi thăm đủ chuyện. Thỉnh thoảng ông mời vào nhà, uống trà, hỏi chuyện về Phật giáo mà ông nói đọc nhiều, nhưng có điều không hiểu. Thí dụ ông muốn so sánh khái niệm về Niết bàn của Phật giáo với thiên đàng của Thiên Chúa giáo.

Ông là một người công giáo thuần thành, nhưng muốn tìm hiểu về những tôn giáo khác.

Tuyệt nhiên không bao giờ ông bà nói về mình. Nếu không coi TV , chắc không bao giờ tôi biết bà là Yvonne Loriot, danh cầm hàng đầu của Pháp, chiếm giải nhất 7 lần khi học ở Conservatoire de Paris, trước khi trở thành một giáo sư âm nhạc có uy tín.

Ông là Olivier Messaien, một trong những tác giả nhạc cổ điển lớn nhất của hậu bán thế kỷ 20. Rất nhiều các nhạc sư, nhạc trưởng nổi tiếng ở Âu Châu , như Pierre Boulez, Iannis Xenakis hãnh diện là đệ tử của ông. Tác phẩm opéra ‘’ Saint-Francois d’Assise‘’ của ông được trình diễn trên khắp thê giới, được đón nhận như những tác phẩm của Mozart, Beethoven

Ông bà sống trong một căn nhà bình dân, ăn uống đơn giản như một cặp vợ chồng nghèo.. Tiền bản quyền nhạc đem tặng- một cách kín đáo- các hội từ thiện, hay giúp trùng tu nhà thờ Notre Dame de Lorette gần nhà. Những lúc rảnh rỗi, bà theo ông vào rừng, thu thanh để nghiên cứu tiếng chim hót.

Ai biết hai ông bà già , lễ độ , gần như vụng về, đang xếp hàng mua ổ bánh mì, là những nhân vật chiếm chỗ lớn trong bất cứ một tài liệu nào về âm nhạc cổ điển cận đại , tuần trước còn là thượng khách của hoàng gia Thụy Điển.

Khi nào ta có những người như Modiano, Le Clézio, Messaien- chưa nói tới tài năng, chỉ nói tới thái độ khiêm tốn – VN sẽ là một dân tộc trưởng thành. Trong khi chờ đợi, chúng ta tiếp tục leo lên nóc nhà , gào : tại sao tôi tài giỏi quá như vậy. Khi gào mỏi , leo xuống, đóng áo thụng vái nhau.

Cái tôi lớn là bệnh của những người ngồi đáy giếng. Nếu tiếp xúc với thiên hạ ( với điều kiện biết mở mắt nhìn ), nếu chịu khó đọc, tìm hiểu, sẽ thấy cái hiếu biết của chúng ta nó quả thực nhỏ bé, tội nghiệp

Đó cũng là một trò vui, nếu hậu quả không nghiêm trọng.

Chúng ta đều đồng ý với nhau là đất nước đang trên bờ vực thẳm, không thể nhẫn tâm khoanh tay nhìn. Nhưng chúng ta không ngồi nổi với nhau. Những cái tôi đụng nhau chan chát, chúng ta ghét nhau hơn ghét kẻ thù. Người Việt nào cũng có lần uất ức vì không được đãi ngộ, đối xử xứng đáng địa vị, với tài năng lớn lao của mình.Tổ chức nào cũng không sống nổi ba bẩy 21 ngày, cũng phải chia thành hai, thành bốn, tách ra như những tế bào. Bởi vì trong thâm tâm, mỗi người chúng ta nghĩ chỉ có mình mới xứng đáng lãnh đạo.

Không được thỏa mãn, chúng ta phá nhau hơn phá kẻ thù.

Cái TÔI của chúng ta nó lớn quá. Lớn hơn cả việc chung, hơn cả vận mệnh dân tộc.