khktmd 2015
Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020
Giải nghĩa chín từ Việt
1. ‘Dấu’ là một từ cổ, sách Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giảng: ‘dấu’ nghĩa là ‘yêu mến’. Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes (1651) cũng giải thích ‘dấu’ là một từ cổ để chỉ sự thương yêu. Ông cho ví dụ: Thuốc dấu là ‘bùa để làm cho yêu’.
Tục ngữ Việt Nam nói ‘Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu’, còn Hồ Xuân Hương trong bài thơ Cái quạt giấy (bài hai) thì viết ‘Chúa dấu vua yêu một cái này’. Có thể thấy, ‘dấu’ và ‘yêu’ là hai từ có ý nghĩa tương đương, ngày xưa dùng hai từ độc lập, nhưng bây giờ ta có thể thấy từ ‘yêu’ vẫn còn được viết hay nói một mình, còn từ ‘dấu’ thì không ai dùng một mình nữa. Giờ đây, thay vì ‘anh yêu em’ mà nói ‘anh dấu em’ thì không khéo lại bị hỏi ‘anh giấu cái gì?’.
2. Trong từ ‘chợ búa’ thì ‘búa’ có nghĩa là gì?
‘Búa’ trong ‘chợ búa’ chắc chắn không liên quan đến cái búa để đốn cây rồi. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng ý kiến được xem là vững chắc nhất thì cho rằng ‘búa’ là âm xưa của chữ [铺], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là ‘phố’, nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Chợ búa nói chung là nơi người ta tụ tập mua bán.
‘Búa’ trong tiếng Việt hiện đại đã dần mất nghĩa và không dùng độc lập, nhưng nếu nói nó vô nghĩa thì không đúng. Tiếng Việt có rất nhiều từ cổ bị mất nghĩa khi đứng một mình, nhưng chúng không vô nghĩa.
‘Búa’ trong tiếng Việt hiện đại đã dần mất nghĩa và không dùng độc lập, nhưng nếu nói nó vô nghĩa thì không đúng. Tiếng Việt có rất nhiều từ cổ bị mất nghĩa khi đứng một mình, nhưng chúng không vô nghĩa.
3. Người ta nói ‘gậy gộc’, ‘gậy’ thì hiểu rồi, còn ‘gộc’?
‘Gộc’ là từ mà hiện nay đã không còn nghĩa độc lập. Tiếng Hán, ‘gộc’ là chữ này [㭲]. Sách ‘Đại Nam quốc âm tự vị’ của Huỳnh Tịnh Của giảng: ‘Gộc’ là ‘cây củi có khúc đẩn(?) mà lớn’ và cho ví dụ ‘ông gộc’ là người già cả hơn hết hoặc làm lớn hơn hết trong một xứ. Cũng có tài liệu giảng ‘gộc’ là ‘đoạn gốc của cây tre, cây vầu’ hay có nghĩa là ‘to lớn’.
Theo đó, gậy gộc nghĩa là những cây gậy lớn, thường dùng để đánh nhau.
4. Mình hay nói ‘hỏi han’ nhau, ‘hỏi’ thì rõ nghĩa rồi, vậy ‘han’ có nghĩa không?
Tương tự như ‘gậy gộc’, ‘hỏi han’ không phải là từ láy mà là từ ghép đẳng lập, trong đó cả ‘hỏi’ và ‘han’ đều có nghĩa.
Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giải thích: ‘han’ nghĩa là ‘hỏi tới’, ‘nói tới’. Theo đó, ‘hỏi han’ nghĩa là hỏi một việc gì đó, hỏi tới hay nói tới một việc nào đó.
Truyện Kiều của Nguyễn Du từng dùng ‘han’ như một từ độc lập, không dính đến từ ‘hỏi’, trong câu: ‘Trước xe lơi lả han chào / Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi’ (Phần Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh). ‘Han chào’ chính là chào hỏi.
5. Khi mình nói về một chuyện gì đó ‘to tát’ thì ‘tát’ có nghĩa là gì?
‘To tát’ không phải là từ láy mà là từ ghép, cả ‘to’ và ‘tát’ đều có nghĩa. Tuy nhiên, ‘tát’ ở đây là một minh chứng cho hiện tượng dùng sai nhiều thì thành đúng trong ngôn ngữ. ‘Tát’ đúng ra phải dùng là ‘tác’.
‘Tác’ nghĩa là lớn, ta thường gặp qua từ ‘tuổi tác’. Khi nói ‘tuổi tác’ thì đã mang nghĩa lớn tuổi, già rồi. Tuy nhiên, ngày nay mình hay nói ‘tuổi tác đã lớn’, cách nói này xét về nguồn gốc thì không đúng, bị lặp từ
Do trong quá trình sử dụng đã có nhiều biến chuyển, nên ‘tuổi tác’ thường dùng để chỉ tuổi. Thậm chí tuổi còn nhỏ cũng dùng ‘tuổi tác’, ví dụ: ‘Tuổi tác còn nhỏ’, ‘tuổi tác mới có bây lớn’,…
Riêng từ ‘to tác’ để chỉ cái gì đó lớn thì đã dùng thành ‘to tát’. Tuy nhiên, để viết đúng chính tả tiếng Việt hiện đại thì mình vẫn cứ dùng ‘to tát’.
5. Có câu, ‘cần cù bù thông minh’, ‘cần cù’ là từ láy hay từ ghép? ‘Cù’ có nghĩa gì không?
‘Cần cù’ là từ ghép, cả ‘cần’ và ‘cù’ đều có nghĩa. Đây là từ gốc Hán, viết là 勤劬. ‘Cần’ là siêng năng chăm chỉ, ‘cù’ là khó nhọc, vất vả.
Chữ ‘cù’ này còn xuất hiện trong từ ‘cù lao’ (劬劳) chỉ công ơn cha mẹ (thường nói chín chữ cù lao).
Chữ ‘cù’ này còn xuất hiện trong từ ‘cù lao’ (劬劳) chỉ công ơn cha mẹ (thường nói chín chữ cù lao).
Truyện Kiều có câu: ‘Duyên hội ngộ, đức cù lao/Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn’. Không nên nhầm lẫn từ ‘cù lao’ này với từ ‘cù lao’ chỉ cồn đất/cát nổi lên giữa sông do phù sa bồi lắng.
7. Bếp núc
– Bếp là nơi nấu ăn;
– Núc là ‘đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn’, cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị)
– Núc là ‘đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn’, cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị)
8. ‘Thêu thùa’ là từ ghép tổ hợp (hay ghép đẳng lập), trong đó cả thêu và thùa đều có nghĩa
– Thêu là dùng chỉ màu đính lên bề mặt vải làm ra hoa văn;
– Thùa là kết chỉ thêm, làm cho đẹp thêm.
Về cơ bản thì thêu và thùa giống nhau, đều là hành động thêm hoa văn trang trí trên vải vóc cho đẹp. Nhưng thùa đôi khi còn có nghĩa là hành động mạng lại chỗ vải bị rách cho đẹp.
– Thùa là kết chỉ thêm, làm cho đẹp thêm.
Về cơ bản thì thêu và thùa giống nhau, đều là hành động thêm hoa văn trang trí trên vải vóc cho đẹp. Nhưng thùa đôi khi còn có nghĩa là hành động mạng lại chỗ vải bị rách cho đẹp.
9. ‘Vải vóc’ là một từ ghép với chữ ‘vóc’ cũng có nghĩa
– Vải là chỉ bông hoặc đồ dệt bằng chỉ bông;
– Vóc là một xấp hàng lụa vừa đủ một quần là sáu thước may.
– Vóc là một xấp hàng lụa vừa đủ một quần là sáu thước may.
Ngày nay thì vải không nhất thiết là dệt bằng chỉ bông mà có thể dệt bằng nhiều chất liệu khác. Còn vóc thì ít khi thấy dùng một mình nữa, người ta thường lầm tưởng ‘vải vóc’ là từ láy.
Gửi Gì Về Việt Nam?- Tác giả Duyên Anh
Còn nhớ Sàigòn không? Thành phố tóc gẫy chia ly, thành phố mắt mờ giã biệt một cuối tháng tư lạc tay thù. Còn nhớ Sàigòn không” Những tháng nhung xanh cũ, những ngày lụa đào xưa, thành phố ấy, Sàigòn yêu dấu, mặt trời thắp sáng ước mơ, ánh trăng soi rõ kỷ niệm. Mỗi vỉa hè là một giải chiêm bao. Mỗi đoạn đường là một cơn hạnh phúc.
Đã thấm niềm tưởng tiếc rồi đó, sau mười năm lưu lạc. Có chỗ nào tuyệt diệu hơn Sàigòn? Thành phố ấm quanh năm. Thành phố lá tương tư nhạc gió. Những đêm mưa, bụi khói khóc hư vô. Cổ tích ướp hơi thơ. Tình ái ngát hương thu nghìn cũ. Sàigòn dệt thơ làm nắng. Giữa tim hạ đã là xuân lãng đãng huyền thoại trong lối lụa Tú Xương, trên nền gấm Huyền Trân. Chỉ cần một câu vọng cổ, đã xao xuyến hồn già. Chỉ cần bước chân giao mùa, đã xanh mắt trẻ thơ, hồng môi thiếu nữ. Ơi thiếu nữ Sàigòn, những cô gái áo dài tha thướt phố phường, những cô gái áo ngắn gọn gàng công xưởng, những cô gái đồng phục nhịp nhàng trên đường xây dựng và bảo vệ quê hương, những cô gái Việt rộn ràng tiếng trống Mê Linh, miệt mài vó ngựa Bùi thị Xuân…
Vó ngựa lại một phen tung bụi mịt mù đất nước. Chiến tranh xâm lăng từ phương Bắc tràn xuống. Như tất cả tuổi trẻ thành phố, nông thôn, những chàng trai Sàigòn xếp bút nghiên theo việc đao cung, tạm biệt phồn hoa để dấn thân bảo vệ non sông. Mỗi tấc đất quê hương ông cha gửi lại đều ký thác bằng mồ hôi, nước mắt và máu. Thì chiến đấu giành lại từng tấc đất lọt vào tay quân thù cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt và máu. Tuổi trẻ Việt Nam đã kiêu hùng, vẫn kiêu hùng, mãi mãi kiêu hùng. Sự kiêu hùng ấy đã làm nên những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa…lại làm nên những chiến thắng Bình Long, Kontum, Quảng Trị… Tuổi trẻ Sàigòn đã vinh dự đóng góp xương máu cho những trang sử đấu tranh của giống nòi…
Trái tim dân tộc đã nhiều lần rạn nứt phân chia đòi đoạn. Hôm nay, thêm lần nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên nỗi đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sàigòn là một niềm nhớ không tên. Có nhớ Sàigòn không? Có nhớ niềm nhớ không tên, niềm nhớ ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có nhớ cổng trường xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường cũ lá me mưa xanh mướt ái ân? Sàigòn, niềm nhớ nhung trên những vệt sọn môi, trong ánh mắt và trong hơi thở. Sàigòn, niềm nhớ nhung trong hạnh phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua. Ở hôm nay ta sống và ngày mai ta chết. Ở nghìn dặm kẻ chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu phường. Ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố sắc…
Từ một niềm nhớ không tên, Sàigòn đã thành nỗi đau có tên. Hãy hình tưởng, Sàigòn, người tình chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù có ố gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sàigòn, thành phố của ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong mỗi trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên những thù hận, thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt lệ hôm nay. Hy vọng hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy những đe dọa ban ngày, những hãi hùng ban đêm. “Nếu cột đèn biết đi, cột đèn sẽ vượt biển tìm tự do”. Ai đã nói giùm tâm sự cột đèn Sàigòn? Dân tộc Việt Nam hiền hòa và luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời nghiệt ngã, lại hóa ra thuyền nhân khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển. Biển dẫn người về đâu? Về đâu và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền muộn. Đất đưa người ra biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu lưu. Biển dẫn người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát, niềm sợ hãi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rõ rệt tên tuổi của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân…
Bỏ quê hương ra đi, để lại Sàigòn héo hắt trong tay thù. Còn nhớ Sàigòn không? Nghĩ gì về Sàigòn bây giờ? Sàigòn bây giờ ra sao? Đừng hỏi mưa, hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bã trốn khỏi thành phố rồi. Hãy hỏi mẹ lang thang góc phố. Hãy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hãy hỏi chị ngồi lê chợ trời. Hãy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng hôn những vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người. Sàigòn bây giờ như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến muông thú Bách Thảo cũng gầy mòn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ vãng là bệ rạc hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ Sàigòn đã kềnh càng ghẻ lở vì nước phèn thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em nhỏ đã trắng rã vì khoai sắn triền miên. Sàigòn ra đường không áo dài. Sàigòn ra đường không cười nói, líu lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nhìn lên là công an độc ác. Thời tiết Sàigòn bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sàigòn bây giờ dằng dặc ngậm ngùi. Sàigòn bây giờ ở trong nhà với những phiền muộn, thở dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh, ngao ngán…
Nhưng có phải xa Sàigòn là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hãy hình tưởng trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hãy hình tưởng sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hãy hình tưởng hải tặc tàn bạo cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hãy nhìn thật lâu, thật kỹ ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi là “quán trọ trước cổng thiên đường”. Hãy nhìn rõ ràng những bước chân em bé lên ba, lên năm, trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu tại sao “Tôi biết tôi sẽ buồn”. Chừng đó lòng hoài hương bừng bừng sống dậy, thuyền nhân ao ước một ngày về cùng Sàigòn gấm vóc ngày xưa…
Đâu riêng gì Sàigòn phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi, đều bị phá sản, của cải và tình nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi ngạo nghễ tung bay. Hà Nội đã rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xã Hội Chủ Nghĩa bước giật lùi. Không còn ai chết đói mà chỉ còn những ai đói rách triền miên. Đất nghìn năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật và người đồng hóa, vật và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau. Những kẻ khố rách đi giải phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sàigòn tăm tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng Hà Nội. Hãy quan sát Hà Nội, thủ đô của “phẩm cách con người”, “đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ”. Hãy tìm cho Hà Nội một định nghĩa chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những hình ảnh sống động và đích thực của Hà Nội và đang của Sàigòn dưới mầu cờ kiêu ngạo ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh hoa của Sàigòn đã bị đẩy ra vỉa hè. Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm. Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa chiều. Gửi gì về cho Sàigòn? Một an ủi, một mơ ước hay một hứa hẹn? Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa hè, góc quán, gửi gì về?
Trái tim dân tộc đã nhiều lần rạn nứt phân chia đòi đoạn. Hôm nay, thêm lần nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên nỗi đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sàigòn là một niềm nhớ không tên. Có nhớ Sàigòn không? Có nhớ niềm nhớ không tên, niềm nhớ ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có nhớ cổng trường xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường cũ lá me mưa xanh mướt ái ân? Sàigòn, niềm nhớ nhung trên những vệt sọn môi, trong ánh mắt và trong hơi thở. Sàigòn, niềm nhớ nhung trong hạnh phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua. Ở hôm nay ta sống và ngày mai ta chết. Ở nghìn dặm kẻ chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu phường. Ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố sắc…
Từ một niềm nhớ không tên, Sàigòn đã thành nỗi đau có tên. Hãy hình tưởng, Sàigòn, người tình chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù có ố gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sàigòn, thành phố của ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong mỗi trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên những thù hận, thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt lệ hôm nay. Hy vọng hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy những đe dọa ban ngày, những hãi hùng ban đêm. “Nếu cột đèn biết đi, cột đèn sẽ vượt biển tìm tự do”. Ai đã nói giùm tâm sự cột đèn Sàigòn? Dân tộc Việt Nam hiền hòa và luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời nghiệt ngã, lại hóa ra thuyền nhân khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển. Biển dẫn người về đâu? Về đâu và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền muộn. Đất đưa người ra biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu lưu. Biển dẫn người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát, niềm sợ hãi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rõ rệt tên tuổi của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân…
Bỏ quê hương ra đi, để lại Sàigòn héo hắt trong tay thù. Còn nhớ Sàigòn không? Nghĩ gì về Sàigòn bây giờ? Sàigòn bây giờ ra sao? Đừng hỏi mưa, hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bã trốn khỏi thành phố rồi. Hãy hỏi mẹ lang thang góc phố. Hãy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hãy hỏi chị ngồi lê chợ trời. Hãy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng hôn những vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người. Sàigòn bây giờ như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến muông thú Bách Thảo cũng gầy mòn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ vãng là bệ rạc hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ Sàigòn đã kềnh càng ghẻ lở vì nước phèn thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em nhỏ đã trắng rã vì khoai sắn triền miên. Sàigòn ra đường không áo dài. Sàigòn ra đường không cười nói, líu lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nhìn lên là công an độc ác. Thời tiết Sàigòn bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sàigòn bây giờ dằng dặc ngậm ngùi. Sàigòn bây giờ ở trong nhà với những phiền muộn, thở dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh, ngao ngán…
Nhưng có phải xa Sàigòn là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hãy hình tưởng trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hãy hình tưởng sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hãy hình tưởng hải tặc tàn bạo cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hãy nhìn thật lâu, thật kỹ ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi là “quán trọ trước cổng thiên đường”. Hãy nhìn rõ ràng những bước chân em bé lên ba, lên năm, trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu tại sao “Tôi biết tôi sẽ buồn”. Chừng đó lòng hoài hương bừng bừng sống dậy, thuyền nhân ao ước một ngày về cùng Sàigòn gấm vóc ngày xưa…
Đâu riêng gì Sàigòn phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi, đều bị phá sản, của cải và tình nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi ngạo nghễ tung bay. Hà Nội đã rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xã Hội Chủ Nghĩa bước giật lùi. Không còn ai chết đói mà chỉ còn những ai đói rách triền miên. Đất nghìn năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật và người đồng hóa, vật và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau. Những kẻ khố rách đi giải phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sàigòn tăm tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng Hà Nội. Hãy quan sát Hà Nội, thủ đô của “phẩm cách con người”, “đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ”. Hãy tìm cho Hà Nội một định nghĩa chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những hình ảnh sống động và đích thực của Hà Nội và đang của Sàigòn dưới mầu cờ kiêu ngạo ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh hoa của Sàigòn đã bị đẩy ra vỉa hè. Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm. Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa chiều. Gửi gì về cho Sàigòn? Một an ủi, một mơ ước hay một hứa hẹn? Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa hè, góc quán, gửi gì về?
Gửi gì về?
Gửi gì về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất ngất sầu đau? Gửi gì về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi gì về cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi gì về cho bờ xa, cho bãi rộng? Gửi gì về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi gì về cho rừng sâu, cho biển thẳm. Gửi gì về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi gì về cho hoa bưởi, hoa cau? Gửi gì về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi gì về cho câu hò lan tỏa, cho điệu ru ấm nồng? Gửi gì về cho đường thơm tình tự, cho ngói đình ái ân, cho nhịp cầu thương nhớ? Gửi gì về? Gửi gì về? ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy cái đơn giản nhất, cái bình thường nhất đều đã bùi ngùi nhất trên khói sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta. Gửi gì về? Cho gửi một mơ ước trở lại.
Mơ ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với quê hương ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nhìn xuống. Nha Trang cát trắng với cầu Bóng huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng Ái Ân. Ta vào trường Võ Bị tìm lại dấu chân cũ, hình bóng xưa của những chàng trai “vốn giòng hào kiệt”. Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu. Hẳn nhiên, nhiều người đã “áo bào thay chiếu anh về đất”, về tận lòng đất Việt Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời Nhiều người đã ra đi, mang theo tâm sự Đặng Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già. Ta rời trường Võ Bị Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi trường còn đó, buồn bã với cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự nhiên mơ mộng, một ngày nào, học trò cũ về làm xôn xao dĩ vãng. Hồi tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ của hồi tưởng, ta đã ra công trường Hòa Bình của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay qua đồi, vào thăm viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta về, ta về cùng nắng ấm Sàigòn. Con đò đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ khóc thầm vì vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố Tự Do kia. Tiếng còi tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc nhở vạt hoàng hôn sông khói. Ôi, Sàigòn, một miếng Sàigòn thôi, đã đủ lòng ta ấm áp phương xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sàigòn. Hồn ta là phố phường cũ, là dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm thì với Sàigòn: “Em, Sàigòn ra sao? Còn nguyên màu áo, còn nuôi chiêm bao, còn chờ đợi nhau? Em, đường thương lối nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời gió, nước mắt mây mưa, đã mất gì chưa”? Đừng, đừng mất gì cả, bởi vì ta vẫn mơ một ngày về.
Gửi gì về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất ngất sầu đau? Gửi gì về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi gì về cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi gì về cho bờ xa, cho bãi rộng? Gửi gì về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi gì về cho rừng sâu, cho biển thẳm. Gửi gì về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi gì về cho hoa bưởi, hoa cau? Gửi gì về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi gì về cho câu hò lan tỏa, cho điệu ru ấm nồng? Gửi gì về cho đường thơm tình tự, cho ngói đình ái ân, cho nhịp cầu thương nhớ? Gửi gì về? Gửi gì về? ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy cái đơn giản nhất, cái bình thường nhất đều đã bùi ngùi nhất trên khói sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta. Gửi gì về? Cho gửi một mơ ước trở lại.
Mơ ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với quê hương ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nhìn xuống. Nha Trang cát trắng với cầu Bóng huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng Ái Ân. Ta vào trường Võ Bị tìm lại dấu chân cũ, hình bóng xưa của những chàng trai “vốn giòng hào kiệt”. Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu. Hẳn nhiên, nhiều người đã “áo bào thay chiếu anh về đất”, về tận lòng đất Việt Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời Nhiều người đã ra đi, mang theo tâm sự Đặng Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già. Ta rời trường Võ Bị Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi trường còn đó, buồn bã với cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự nhiên mơ mộng, một ngày nào, học trò cũ về làm xôn xao dĩ vãng. Hồi tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ của hồi tưởng, ta đã ra công trường Hòa Bình của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay qua đồi, vào thăm viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta về, ta về cùng nắng ấm Sàigòn. Con đò đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ khóc thầm vì vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố Tự Do kia. Tiếng còi tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc nhở vạt hoàng hôn sông khói. Ôi, Sàigòn, một miếng Sàigòn thôi, đã đủ lòng ta ấm áp phương xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sàigòn. Hồn ta là phố phường cũ, là dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm thì với Sàigòn: “Em, Sàigòn ra sao? Còn nguyên màu áo, còn nuôi chiêm bao, còn chờ đợi nhau? Em, đường thương lối nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời gió, nước mắt mây mưa, đã mất gì chưa”? Đừng, đừng mất gì cả, bởi vì ta vẫn mơ một ngày về.
Hưng vong là luật chung của muôn đời. Dâu biển đã xẩy ra cho cả tư tưởng, nói chi một triều đại, một chế độ hay một chủ nghĩa. Một thi sĩ đã định nghĩa cái không bao giờ có dâu biển, không bao giờ chết:
Ai cũng chết cả rồi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam
Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất:
Me ơi, tha thiết lắm rồi
Mất gì không mất tình người Việt Nam
Người Việt Nam vĩnh viễn. Tình Việt Nam vĩnh cửu. Đã không mất con người thì không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương cũng không mất. Còn đó, Sàigòn với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo Tàng Viện, với Lăng Ông Bà Chiểu. Còn đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối mùa hè rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. Còn đó, Huế với lăng tẩm, điện đài. Còn đó, Huế với “dấu xưa xe ngựa” với “nền cũ lâu đài”. Còn đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên những thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người không chết, người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ý nghĩa sống của người vẫn vàng thắm nhụy sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi chuông Thiên Mụ gọi về những xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một triều đại đã khuất lấp ngậm ngùi. Còn đó, Huế với sông Hương núi Ngự, với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. Còn đó, Huế với những lá đò dìu nhẹ trên mặt nước bình yên. Còn đó, Huế với giòng An Cựu “nắng đục mưa trong” và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ.
Sao em không về thăm thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà
Còn đó, Huế, còn nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt chiếu, với những nụ cười thật đẹp, thật thơ. Còn đó sân trường Đồng Khánh bướm trắng tung bay. Còn đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. Còn đó, còn nguyên đó, khi ta về. Còn đó, Hà Nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường Cổ Ngư thơ mộng thuở học trò. Còn đó đền Quan Thánh. Còn đó đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, hồ Gươm, tháp Rùa. Còn đó khu Giảng Võ Văn Miếu, chùa Một Cột. Còn đó 36 phố phường…
Còn quê hương Việt Nam. Còn nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng bao giờ đánh mất tình người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Mãi mãi Việt Nam. Mãi mãi Việt Nam…
Ai cũng chết cả rồi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam
Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất:
Me ơi, tha thiết lắm rồi
Mất gì không mất tình người Việt Nam
Người Việt Nam vĩnh viễn. Tình Việt Nam vĩnh cửu. Đã không mất con người thì không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương cũng không mất. Còn đó, Sàigòn với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo Tàng Viện, với Lăng Ông Bà Chiểu. Còn đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối mùa hè rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. Còn đó, Huế với lăng tẩm, điện đài. Còn đó, Huế với “dấu xưa xe ngựa” với “nền cũ lâu đài”. Còn đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên những thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người không chết, người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ý nghĩa sống của người vẫn vàng thắm nhụy sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi chuông Thiên Mụ gọi về những xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một triều đại đã khuất lấp ngậm ngùi. Còn đó, Huế với sông Hương núi Ngự, với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. Còn đó, Huế với những lá đò dìu nhẹ trên mặt nước bình yên. Còn đó, Huế với giòng An Cựu “nắng đục mưa trong” và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ.
Sao em không về thăm thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà
Còn đó, Huế, còn nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt chiếu, với những nụ cười thật đẹp, thật thơ. Còn đó sân trường Đồng Khánh bướm trắng tung bay. Còn đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. Còn đó, còn nguyên đó, khi ta về. Còn đó, Hà Nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường Cổ Ngư thơ mộng thuở học trò. Còn đó đền Quan Thánh. Còn đó đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, hồ Gươm, tháp Rùa. Còn đó khu Giảng Võ Văn Miếu, chùa Một Cột. Còn đó 36 phố phường…
Còn quê hương Việt Nam. Còn nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng bao giờ đánh mất tình người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Mãi mãi Việt Nam. Mãi mãi Việt Nam…
Cuộc sống ở lề đường Sài Gòn ngày xưa - Tác giả Đào Như
Ngày nay, lề đường Sài Gòn bị kinh tế thị trường tăng tốc xâm lấn quá nhiều, trở nên xô bồ, nên lại nhớ về lề đường Sài Gòn xưa.
Lề đường Sài Gòn xưa có hàng me, có sông Sài Gòn, có Bến Bạch Đằng, có những quán kem, quán càfé, quán ăn vỉa hè, nhất là các quán cóc lúc nào cũng bu quanh bởi đám học trò, sinh viên, trí thức, các thầy, các cô, giới lao động, giới taxi, giới xích lô, ba gác, bang bù…. Họ ăn đứng, ăn ngồi, những tô hủ tiếu, tô phở, bún riêu, bún ốc, bún bò, những đĩa ra-gu bánh mì, cà ri bánh mì thơm phức…, hay những chén Kem nhiều màu. Những ly cà phê đá. Những ly chè đậu xanh, đậu đỏ, sâm bổ lưỡng… vun đầy đá bào, đá nhận. Sài Gòn mà không còn ba món này, không có mấy hình ảnh này thì không còn là Sài Gòn nữa.
Những sinh hoạt bình dị này nhiều lúc lấn át cả những nhà hàng, những hotels: Continental, Caravelle, Pacific, Pagoda, Imperial, Givral… vì những thực khách của những quán ăn sang trọng theo kiểu Tây này cũng là những giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài Gòn. Ngoài những giới trí thức, nhà giàu người Việt, còn có cả những “ông Tây bà đầm”, những người ngoại quốc, Chà Và, Tàu, Cao Miên… Họ đến ăn ở đây, không phải chỉ vì nơi này họ mới có thể thưởng thức những món ăn thuần túy Việt nam, thuần túy Á đông, mà chính tại đây họ còn khám phá ra được nét đặt thù của Sài Gòn, của người Sài Gòn, của ‘Saigonaises’.
Lề đường Sài Gòn còn có những gánh hàng rong. Thương nhớ làm sao những tiếng rao hàng lúc nửa đêm trên lề đường của khu Bàn cờ, Nguyễn Thiện Thuật, Vườn Chuối, Chùa Kỳ Viên: “bánh ú hột vịt lộn, hôn?”, “bánh bò giò cháo quẩy bánh tiêu, hề”. Mới nghe thì không hiểu món gì, khi mua rồi, ăn thì cũng không thấy gì là tuyệt vời lắm, nhưng hương vị thật là gần gũi thân thương. Người ăn và món ăn gặp nhau như sư kết nghĩa. Đó là sư kỳ diệu của những lề đường Sài Gòn, không nhiều hương sắc màu mè nhưng thật đậm đà.
Xa Sài Gòn, không mấy ai xa được những ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu, ngã bảy. Làm sao quên được lề đường của Ngã Tư Quốc Tế. Cái lề đường ấy Quốc tế thật. Quốc tế quá cỡ! Cứ vào lúc gần giờ giới nghiêm, các vũ trường Lido, Baccaret, Côte d’Ivoire… gần đó đóng cửa, các cô cava thoát ra choáng gần hết chỗ lề đường Ngã Tư Quốc Tế. Mặt còn bự son phấn hai tay bê tô cháo lòng, tô bún ốc nóng, thơm và cay mùi tiêu, các cô húp vội vào lòng để thỏa mãn cơn đói. Thế mới biết với các cô, “nhảy” chì là một nghiệp dĩ lao động dành cho cuộc sống độ nhật nuôi thân.
Sài Gòn có nhiều ngả. Đường Sài Gòn có nhiều lề. Người Sài Gòn đi trên nhiều lề đường. Sài Gòn có nhiều ngả đi cũng như ngả đến. Người Sài Gòn chưa từng bị bắt buộc đi trên một lề đường nào nhất định. Người Sài Gòn phóng túng đi trên đường Tự Do, Công Lý, Độc Lập, Thống Nhất… Lề đường Sài Gòn xưa đã từng mang những tên nói lên niềm ước mơ của thời hiện tại. Lề đường Sài Gòn chịu đựng hai mùa mưa nắng. Nắng Sài Gòn trong như thủy tinh như Trịnh Công Sơn từng ngợi ca. Nguyên Sa – Trần Bích Lan – đã từng đi dưới nắng của Sài Gòn mà cao hứng:
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…”
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…”
Ố hay! Thế mới biết có sự liên kết trong tâm tưởng của Nguyên Sa giữa cái nắng của Sài Gòn và màu trắng của lụa Hà Đông năm nào. Cả hai đều để lại trong lòng người xa xứ những hoài niệm. Sài Gòn có những cơn mưa rào chợt đến chợt đi. Khi đến thì rạo rực như thác ngàn, như tình yêu “Em Sài Gòn”, khi đi thì lặng lẽ như mơ, để lại những lề đường ướt át, một chút ủ dột trong lòng người. Lề đường Sài Gòn cũng rất “thơ”: “Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội” nghe như niềm thổn thức của Phạm Đình Chương, đứng dưới mưa, trên lề đường Sài Gòn, nhớ về năm cửa Ô Hà Nội! Thế mới hay, các nhà thơ, các văn nghệ sĩ đã nhìn thấy một Hà Nội giữa Sài Gòn thuở ấy…
Nói đến lề đường Sài Gòn mà không nói đến Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, thì coi như trớt quớt. Những ông già này đã hóa ra người thiên cổ. Nhiều người Sài Gòn không tin là mấy ổng đã chết. Mấy ổng còn đâu đó ngày ngày đi lại với họ trên lề đường Sài Gòn bán sách sol. Nhất là ông già Vương Hồng Sển, ông già này mới thật là ngộ. Ăn ở đời với Cô Năm SaĐéc hơn nửa thế kỷ mà chưa phỉ tình, ông còn bóng bẩy viết thành truyên ký: “Năm Mươi Năm Mê Hát”. Duyên Anh thấy vây mới bảo ông này già mà còn ham… Duyên Anh và cụ Sển đã về trời. Không hiểu họ đang ở đâu đâu? Mấy đời mà hai ông này chịu xa Sài Gòn. Biết đâu họ đang ngồi chồm hổm trên lề đường Sài Gòn bàn chuyện thế tục: “Sài Gòn Ngày Dài Nhất”, “Sài Gòn Tạp Pín Lù”…
Nói đến lề đường Sài Gòn thì nhớ Phạm Duy. Mỗi khi nhớ Phạm Duy thì phải nhắc tới lề đường Sài Gòn. Cụ Phạm Duy nghe ăn nói kiểu này chắc giận. Cụ sẽ rầy rà: “bỏ đi Tám – ‘tao’ mà thuộc bọn lề đường hả?”. Xin lỗi cụ Phạm, cụ ắt hẵn là người của lề đường Sài Gòn rồi. Mời cụ nghe nè: “Nghèo mà mình không ham. Xin cô em đừng nên quá đáng. Nghèo mà mình không ham. Xin anh hai đừng nên làng chàng…”. Sau khi xa xứ nhiều năm, đã hơn hai thứ tóc trên đầu, tụi nầy thỉnh thoảng vẫn nghêu ngao bài vỉa hè ca này của cụ, đôi khi thấy mắt mình cay xè, không hiểu tại nhớ cụ hay nhớ nhớ lề đường Sài Gòn. Có người bảo nhớ cả hai.
Lề đường Sài Gòn có những hình ảnh đẹp khó quên, có bác xích lô ngủ trưa ngay trên chiếc xích lô của mình dưới bóng cây me trên lề đường Sài Gòn, sau khi uống chai la de Trái Thơm – La Rue, và loáng thoáng nghe những bản nhạc tình cảm “Mùa Thu Chết” hay “Gái Lội Qua Khe” từ một quán cóc hay quán càfé gần đâu đó. Có người khách nhìn bác xích lô đang ngủ, họ lắc đầu, họ không dám đánh thức bác xích lô mặc dầu họ đang cần bác… Đó là tinh thần của lề đường Sài Gòn xưa. Đó là phong cách của người Sài Gòn xưa.
Cuộc sống trên lề đường Sài Gòn siêu thoát, phàm tục, trắng đen, xanh đỏ, chan hòa màu sắc và cảm xúc tạo thành bức tranh Lề-Đường-Sài-Gòn ngộ nghĩnh không giống ai hết, cũng không chịu cho ai giống mình. Đã có biết bao biến động lịch sử xảy ra trên vùng đất này, ấy thế mà mỗi khi chúng ta nhớ lại những kỷ niệm ở Sài Gòn, những lề đường Sài Gòn chúng ta cứ nghĩ như nhớ về một vùng đất nước thanh bình, thời vàng son của một đời người.
Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020
Những loại thực phẩm cần tránh để đề phòng ngộ độc mùa lễ tết
Nhóm những người có thể dễ bị ảnh hưởng nhất bao gồm trẻ em, phụ nữ mang thai, người già và những người có hệ miễn dịch bị giảm sút hoặc có các căn bệnh nghiêm trọng, ví dụ như ung thư. Theo bà Lydia Buchtmann, đại diện cho Hội đồng Thông tin về An toàn Thực phẩm, “đối với những đối tượng dễ bị tổn thương này, ngộ độc thực phẩm thậm chí có thể đe dọa tính mạng”.
Sau đây là danh sách các loại đồ ăn mà bạn nên tránh nếu như bạn ở trong nhóm rủi ro cao hoặc nếu bạn đang chuẩn bị thực phẩm phục vụ những người thuộc nhóm này. Những người khỏe mạnh cũng nên thận trọng và chú ý đến cách chế biến các loại đồ ăn, bởi vì không ai có thể hoàn toàn miễn nhiễm với ngộ độc thực phẩm.
1. Dưa vàng (rockmelons)
Dưa vàng có nguồn gốc từ Châu Á, là một loại trái cây mùa hè được nhiều người ưa chuộng. Theo Bà Buchtmann, “dưa vàng có vỏ xốp, vì vậy mà nó có thể cho phép vi khuẩn từ trong đất thâm nhập vào phía trong phần thịt quả”.
Theo cơ quan Quản lý Thực phẩm NSW, dưa vàng có liên quan đến các đợt ngộ độc khuẩn salmonella hồi năm 2016 và một đợt dịch khuẩn Listeria ở những người cao niên hồi năm 2018.
Muốn giảm thiểu nguy cơ ngộ độc, chúng ta nên mua những quả dưa còn tươi và không bị dập. Dưa vàng cũng nên được bảo quản trong tủ lạnh trong vòng hai giờ đồng hồ sau khi gọt vỏ hoặc cắt nhỏ. Những phần dưa được để ở nhiệt độ phòng dài hơn khoảng thời gian đó thì chúng ta nên bỏ đi.
Khi chế biến dưa vàng tươi tại nhà, người tiêu dùng được khuyến cáo luôn luôn dùng dao, thớt thật sạch và không chung đụng với các loại thực phẩm khác.
Những người trong nhóm dễ bị tổn thương thì nên tránh dưa vàng hoàn toàn.
2. Giá đỗ, rau mầm
Theo bà Lydia Buchtmann, “đã có những vụ việc ngộ độc lớn liên quan tới các loại giá đỗ, từ alfalfa (cỏ linh lăng) trong các món salad cho tới các loại giá đỗ lớn thường dùng trong các món ăn châu Á”.
Nguyên do là ngay ở trong hạt đỗ trước khi nó nảy mầm, đã có thể xẩy ra nhiễm khuẩn. Do đó việc chế biến các loại rau mầm này bằng cách xào nấu nhanh có thể không đủ để tiêu diệt những loại vi khuẩn đang phát triển ở bên trong hạt.
Nếu như bạn không nằm trong nhóm có nguy cơ rủi ro cao, bạn có thể ăn những loại rau mầm này, với điều kiện bảo quản chúng ở nhiệt độ dưới 5 độ C. Và luôn nhớ tuân thủ hạn sử dụng được ghi trên bao bì và các hướng dẫn bảo quản khác.
3. Thịt ướp muối (cured meat) và cá hồi hun khói (smoked salmon)
Những đĩa đồ ăn nhẹ với những món thịt ướp như salami hay prosciutto thường rất là dễ chuẩn bị và được nhiều người yêu thích, tuy nhiên nếu chúng được để ở ngoài tủ lạnh trong hơn hai giờ đồng hồ, tốt nhất là bạn nên bỏ nó đi thay vì ăn chúng.
Những người trong nhóm dễ tổn thương được khuyến cáo không nên tiêu thụ các sản phẩm thịt ướp muối và cá hồi hun khói.
4. Rau lá xanh
Những loại rau như rau diếp (lettuce) và các loại rau lá xanh khác được đóng gói bán trong các siêu thị thường có ghi hạn sử dụng (use-by-date). Người tiêu dùng được khuyên rằng bạn không nên mở bao và tiêu thụ rau trong đó sau thời hạn trên.
“Tuy nhiên, nếu như bạn mở gói rau trước ngày use-by-date thì bạn cũng nên dùng hết nó trong vòng 24 giờ để giảm rủi ro ngộ độc thực phẩm.”
5. Trứng sống
Một bản báo cáo của OzFoodNet năm 2011 cho thấy, hơn một phần ba các vụ ngộ độc thực phẩm được thống kê tại Úc có liên quan tới trứng và các món làm từ trứng.
Nguyên nhân là vì trứng có thể bị nhiễm khuẩn Salmonella khi gà đẻ trứng và có thể trở thành nguồn gây ngộ độc nếu nó không được chế biến đúng cách.
Những người thuộc nhóm dễ tổn thương nên tránh các món ăn đồ sống, các loại nước sốt có chứa trứng sống hoặc trứng được nấu nhẹ như bánh Bánh Mousse, tiramisu, sốt Hollandaise hoặc mayonnaise.
Những người thuộc nhóm nguy cơ thấp hơn cũng nên đề phòng và luôn rửa tay sau khi tiếp xúc với trứng sống.
Tại sao kinh tế thị trường không thể định hướng xã hội chủ nghĩa?- Tác giả Nguyễn Hữu Đống
Kinh tế, thị trường, xã hội là các khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Các khái niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên khái niệm kinh tế thị trường xã hội. Phát triển kinh tế thị trường phụ thuộc vào thể chế kinh tế thị trường đúng đắn. Xã hội không thể phát triển nếu thiếu thể chế kinh tế thị trường. Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được ghi nhận tại Điều 51 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và một số văn bản chính sách, pháp luật khác. Vậy tại sao kinh tế thị trường lại không thể định hướng xã hội chủ nghĩa? Để trả lời câu hỏi này, trước hết, cần phải lý giải khái niệm “xã hội chủ nghĩa” và “kinh tế thị trường” là gì?
Xã hội chủ nghĩa là gì?
Xã hội chủ nghĩa là cụm từ gồm các khái niệm “xã hội” và “chủ nghĩa”.
Khái niệm “xã hội” gồm các từ “xã” và “hội”. Từ xã là nói về bản chất hoạt động của các “nhóm” (tập thể) trong “cộng đồng” (xã hội); từ hội là nói về tính chất tổ chức của các “cá nhân” (tập thể) trong nhóm. Tức giữa xã (bản chất nhóm) và hội (tính chất cá nhân) là tồn tại thực chất cộng đồng (xã hội các loài sinh vật, thực vật, động vật, loài người).
Mô hình cấu trúc mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa các cá thể, tập thể, xã hội được biểu thị như sau: tập thể (bản chất: hoạt động của các nhóm) – xã hội (thực chất: tổ chức, hoạt động của các cá nhân, nhóm, cộng đồng các loài sinh vật, thực vật, động vật, loài người) – cá thể (tính chất: tổ chức của các cá nhân).
Tức xã hội là nói về cá nhân, nhóm, cộng đồng các xã hội loài vật (sinh vật, thực vật, động vật), loài người. Xã hội loài người là khác với xã hội loài vật. Xã hội loài người thì tự nó có thể bảo đảm được các mục tiêu “công bằng, bình đẳng, công lý”; còn xã hội loài vật thì tự nó không thể bảo đảm được các mục tiêu như vậy.
Xã hội phát triển tức là loài vật, loài người đều phát triển. Loài vật không phát triển thì loài người cũng không thể phát triển. Xã hội loài người phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất “sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân (cá thể), nhóm (tập thể), cộng đồng (xã hội)” [1]. Xã hội phát triển gắn với chế độ xã hội “tiến bộ” và “dân chủ”; còn xã hội “không phát triển” (xã hội phản phát triển) là gắn với chế độ xã hội “không tiến bộ” (xã hội phản phát triển hay thoái bộ), chế độ xã hội “phản dân chủ” (chế độ phong kiến).
Khái niệm “chủ nghĩa” gồm có các từ “chủ” và “nghĩa”. Từ chủ là nói về bản chất “bên trong” (bản chất: chủ thể) của khái niệm chủ nghĩa; từ hội là nói về tính chất “bên ngoài” (tính chất: khách thể) của khái niệm chủ nghĩa. Giữa chủ và nghĩa là tồn tại “thực thể” (thực chất: thật) của khái niệm chủ nghĩa. Khái niệm chủ nghĩa được các nhà ngôn ngữ học nhìn nhận là “tư tưởng về triết học, chính trị” [2, tr. 174].
Tức là, khái niệm chủ nghĩa được biểu hiện ở ba hình thức tư tưởng cơ bản như sau: tư tưởng bên trong “tiến bộ” (bản chất: tư tưởng đúng); tư tưởng bên ngoài “phản tiến bộ” (tính chất: tư tưởng sai); và tư tưởng tiến bộ thật sự (thực chất: tư tưởng đúng thật) ở giữa. Do vậy, tư tưởng thì cần phải tiến bộ thật, còn chủ nghĩa thì cần phải đúng thật.
Khái niệm xã hội và chủ nghĩa là có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên khái niệm “chủ nghĩa xã hội” (bản chất: tư tưởng đúng, nhưng chưa thật), “xã hội chủ nghĩa” (tính chất: tư tưởng sai, không thật). Điều đó có nghĩa, khi cụm từ ‘chủ nghĩa’ đứng sau cụm từ ‘xã hội’ thì chúng trở thành tính từ hay tính chất “xã hội chủ nghĩa” [2, tr. 1140] – tư tưởng sai; tức xã hội chủ nghĩa là khái niệm đã “bị đánh tráo” [3] từ khái niệm “đúng” (bản chất: chủ nghĩa xã hội - chưa thật) thành khái niệm “sai” (tính chất: xã hội chủ nghĩa, không thật).
Xã hội chủ nghĩa là nói về tính chất của xã hội. Tính chất tốt đẹp của xã hội chỉ có thể là xã hội phát triển, tiến bộ, hay xã hội có mục tiêu dân chủ và giàu mạnh.
Do vậy, cụm từ xã hội chủ nghĩa được các đảng viên cộng sản nêu ra là không khoa học; tức xã hội không thật (tính chất giả dối), hay xã hội “phản phát triển” (tính chất sai: phản tiến bộ, phản dân chủ). Nói cách khác, xã hội chủ nghĩa là không thể hướng tới các mục tiêu dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh.
Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là gắn với chế độ xã hội, hình thành nên kinh tế thị trường xã hội. Trong xã hội phong kiến thì không thể có kinh tế thị trường; tức xã hội phong kiến thì không thể phát triển. Điều đó có nghĩa, thiếu kinh tế thị trường thì xã hội loài người không thể “phát triển” (sống thật). Bởi vậy, trong quốc gia dân chủ, kinh tế thị trường giữ vai trò “trung tâm” (ở giữa).
Mô hình cấu trúc của kinh tế thị trường hay phát triển có thể được biểu thị như sau: chưa phát triển (bản chất kinh tế tri thức: sự sống) – phát triển (thực chất kinh tế thị trường: sống thật) – không phát triển (tính chất kinh tế công nghiệp, nông nghiệp: cái chết).
Nếu so sánh kinh tế thị trường với các con số và bộ phận của thể trạng con người thì kinh tế thị trường tương tự như cái “cổ” gắn với thanh quản, khí quản, thực quản (số 3 - phần cổ); kinh tế nông nghiệp, công nghiệp tương tự như cái “dạ dày”, “trái tim” gắn với các chi tay, chân (số 1 - phần thân); còn kinh tế tri thức tương tự như “bộ não” gắn với các giác quan (số 2 - phần đầu). Con người sống được là nhờ có ba bộ phận cơ bản này. Mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa chúng có thể được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau: số 2 (bản chất: phần đầu) – số 3 (thực chất: phần cổ) – số 1 (tính chất: phần thân).
Điều đó có nghĩa, kinh tế thị trường có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất tổ chức, hoạt động của các cá nhân (doanh nghiệp tư nhân: số 1); nhóm (doanh nghiệp liên doanh, cổ phần: số 2); cộng đồng (doanh nghiệp hoạt động công ích, tư nhân, liên doanh, cổ phần: số 3).
Trong một quốc gia, về hình thức, kinh tế thị trường được nhìn nhận ở “thể chế kinh tế thị trường”. Thể chế kinh tế thị trường là khái niệm biểu hiện thực chất các cá nhân, nhóm, cộng đồng xây dựng, thực hiện nguyên tắc pháp luật, bảo đảm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển, tức bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giữa các doanh nghiệp hoạt động công ích (doanh nghiệp gắn với “thể chế chính trị”), doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp gắn với “thể chế kinh tế”), doanh nghiệp liên doanh, cổ phần (doanh nghiệp gắn với “thể chế văn hóa” [4]).
Mô hình cấu trúc của thể chế kinh tế thị trường có thể được biểu thị như sau: thể chế kinh tế thị trường chưa đầy đủ (bản chất kinh doanh: pháp luật chưa đúng đắn; kinh tế tăng trưởng về chất lượng) – thể chế kinh tế thị trường đầy đủ (thực chất sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: pháp luật đúng đắn; kinh tế phát triển) – thể chế kinh tế thị trường không đầy đủ (tính chất sản xuất: pháp luật không đúng đắn; kinh tế tăng trưởng về số lượng).
Từ mô hình cấu trúc nêu trên cho thấy, ở Việt Nam là chỉ có thể chế kinh tế thị trường không đầy đủ; bởi vì, pháp luật không đúng đắn, thể chế kinh tế thị trường “méo mó” (kinh tế thị trường đã không bảo đảm quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân). Hiện nay, kinh tế thị trường ở Việt Nam chưa được thế giới công nhận.
Nhìn về tính chất (hình thức mục tiêu), kinh tế Việt Nam mặc dù tăng trưởng có thể vượt chỉ tiêu “con số” đặt ra (7,02% năm 2019), nhưng nhìn về thực chất (nội dung, nguyên lý mục tiêu) thì con số đó là không thật (giả dối); tức đất nước không thể phát triển hay “không chịu phát triển” [5], nếu không chú trọng tăng trưởng kinh tế về chất lượng, mà chú trọng “tô hồng” các “con số” (số lượng).
Kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa liệu có dung hợp với nhau?
Từ các phân tích ở trên cho thấy, kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa là không thể dung hợp với nhau. Nói một cách hình ảnh cho thấy rằng, kinh tế thị trường tương tự như “nước” (hình thành nên sự sống), còn xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xã hội thì như “lửa” (dẫn đến cái chết). Lửa (dương, nóng) và nước (âm, lạnh) là không dung hợp với nhau.
Xã hội loài vật, loài người chỉ có thể tồn tại khi con người biết bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống trong thế giới tự nhiên, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong xã hội loài người.
Xã hội phát triển chỉ gắn với thể chế kinh tế thị trường đầy đủ; trong khi thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam lại định hướng “xã hội chủ nghĩa” (tính chất: sai trái) chứ không phải là hướng tới “xã hội dân chủ pháp quyền phát triển” [6].
Do vậy, về thực chất, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được ghi nhận tại Điều 51 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và một số văn bản chính sách, pháp luật khác là “một khái niệm chưa thật khoa học cả nội dung lẫn học thuật” [7]. Nói cách khác, kinh tế thị trường là không thể định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể được coi là tư tưởng giáo điều điển hình của những đảng viên cộng sản trung thành với chế độ xã hội phản tiến bộ.
Kết luận
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được ghi nhận tại Điều 51 Hiến pháp Việt Nam và các văn bản pháp luật khác là một biểu hiện tư tưởng phản tiến bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội của “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, hay tư tưởng “Đảng Cộng sản Việt Nam…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [8] trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường đều là tư tưởng phản tiến bộ. Các tư tưởng này là trái với quy luật khách quan của thế giới tự nhiên và xã hội loài người, rất cần phải được loại bỏ khỏi Hiến pháp Việt Nam.
Hiện nay, tư tưởng của những người đảng viên cộng sản nói chung trên thế giới và ở Việt Nam nói riêng, về cơ bản là không thật. Tức tư tưởng giả dối (sai trái) là “chính” (sai nhiều); tư tưởng chân thật (đúng đắn) chỉ là “phụ” (đúng ít).
Các tư tưởng giả dối, trong đó có tư tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được xuất phát từ các tư tưởng sai lầm chủ yếu sau đây:
Một là, tư tưởng về “chủ nghĩa duy vật biện chứng” (chủ nghĩa nội dung, hình thức; thiếu thực chất) của C. Mác, hay tư tưởng “ba phải” của nhiều đảng viên cộng sản - tư tưởng sai trái. Các tư tưởng này cần phải được loại bỏ bằng cuộc đấu tranh “chống chủ nghĩa hình thức” và “chống ba phải” [9].
Hai là, tư tưởng không chấp nhận cơ chế “tam quyền phân lập” [10] của “thần linh pháp quyền” (quyền lập pháp độc lập, hành pháp đối lập, tư pháp trung lập) trong nền kinh tế thị trường của “Bộ Chính trị” [3] (bộ không khoa học, không chân thật: bộ cai trị), Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng này cần phải được loại bỏ bằng cuộc đấu tranh tư tưởng của nhân dân để hình thành chế độ “đa đảng chính trị” (các đảng phái chân thật, tiến bộ) và cơ chế tam quyền phân lập trong quá trình xây dựng, thực hiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ ở Việt Nam.
Để có tư tưởng và hành động đúng đắn (thống nhất tư tưởng và hành động) trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường và bảo vệ Tổ quốc, cần phải thay đổi Hiến pháp; đồng thời, loại bỏ “hệ tư tưởng phụ thuộc” (tư tưởng không độc lập, tự do) vào các loại hình “chủ nghĩa”, như ‘chủ nghĩa duy vật’, ‘chủ nghĩa tư bản’, ‘chủ nghĩa xã hội’, ‘chủ nghĩa cộng sản’,… của các đảng viên cộng sản; bởi vì, khái niệm “chủ nghĩa” (bản chất: tư tưởng không khoa học, không chân thật) là đối lập với khái niệm “thật” (thực chất: tư tưởng khoa học, chân thật).
So sánh một cách hình ảnh tư tưởng của nhân dân Việt Nam với các con số và “Tết tây” (thật sự Tết: số 1), “Tết ta” (sự thật Tết: số 2), “Lễ Chúa Giáng sinh” (Tết thật: số 3) ở giữa Tết tây và Tết ta, có thể nhận thấy rằng:
Chỉ khi nhân dân Việt Nam được sống độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự về tư tưởng và hành động – tương tự nhân dân được mừng sự sống “năm mới” độc lập (tính chất kinh tế “hiệu quả”: số 1, Tết tây), mừng sức sống “năm cũ” tự do (bản chất văn hóa “tiết kiệm”: số 2, Tết ta), mừng cuộc sống “năm cũ, năm mới” độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự (thực chất chính trị xã hội “phát triển”: số 3, Lễ Chúa Giáng sinh) – thì kinh tế thị trường ở Việt Nam mới có thể phát triển nhanh và bền vững, thực hiện các mục tiêu xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)