khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2021

Đài VOA phỏng vấn Sean Le, người lính Hải Quân Hoa Kỳ, về Cờ Vàng

Cùng lắng nghe anh Sean Le, một cựu quân nhân Navy, phục vụ 20 năm cho đất nước Hoa Kỳ. Anh chưa bao giờ vắng mặt trong các cuộc xuống đường ủng hộ tổng thống Donald Trump trong nhiều ngày qua. Lúc nào vô tình hay cố ý gặp anh trong đoàn người yêu sự công bằng đó, mọi người đều thấy anh một mình vác trên vai lá cờ thiêng nho nhỏ, hoặc hai tay bệ vệ giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ bay cao.
Đây là 1 phần nhỏ trích trong bài trả lời phỏng vấn của đài VOA vào ngày 10 tháng 01, 2021
"Một lần nữa về chuyện lá cờ VNCH, Tôi muốn nhấn mạnh về lá cờ VNCH của chúng ta với các bạn. Trong những lần rally, lá cờ VNCH được đem theo không ngoài mục đích là biểu tượng cho nguồn gốc của chúng tôi. Niềm tự hào của một thế hệ mà đã một lần trong đời Tôi được tận hưởng tí không khí tự do, nhưng nó đã mất và bị đánh cắp bởi một lý do tương tự; sự đói khát quyền lực và cai trị toàn diện.
Hiện nay, tất cả chúng ta cũng đang trong tình cảnh tương tự. Có nhiều người Mỹ hay các sắc tộc khác khi thấy lá cờ vàng 3 sọc đỏ tung bay trên cao cùng với đoàn người lần lượt theo sau, họ thắc mắc chặn chúng tôi lại và hỏi: “Lá cờ đó là sao và nó có ý nghĩa gì?" Chúng tôi tự hào và giải thích rằng "Lá cờ đó là lá cờ của Miền Nam Việt Nam. Một lá cờ vô nhiễm không có một giọt máu của chủ nghĩa cộng sản nào cả. Một lá cờ mà đã ước lượng có khoản hơn 2 triệu người dân miền Nam Việt Nam đã bỏ mình xa quê hương để bảo vệ."
Như các bạn đã thấy, chúng tôi cũng như nhiều người Mỹ gốc Việt khác rất trân trọng lá cờ Mỹ và lá cờ VNCH cùng một lúc. Đối với những người như Tôi, một lá cờ tượng trưng cho nguồn gốc của tôi, và một lá cờ mà Tôi hằng mang ơn. Tôi phục vụ nước Mỹ vì đây là quốc gia thứ 2 của Tôi, Tôi tự hào về điều đó, và luôn đặt quốc gia này lên hàng đầu cũng như sẽ bảo vệ Nó với tất cả khả năng của mình có. Chúng tôi đã tuyên thề với tổ quốc và sẽ luôn luôn giữ vững lời thề đó. Còn lá cờ VNCH là biểu tượng nguồn gốc của chúng ta, bất cứ khi nào có dịp thì hãy nhắc nhở về Nó mọi lúc mọi nơi mà bạn có thể.
Đương nhiên là hiện tại vào thời điểm này, còn rất nhiều người dân Việt Nam đang sống tại VN. Chúng tôi luôn mong ước và hy vọng rằng sẽ có một ngày nào đó chúng ta cùng góp sức, đem lại tự do và nền dân chủ thật sự cho họ.
Vì thế, nếu như một số bạn muốn dùng danh nghĩa cá nhân, hay một sự kiện nhỏ nào đó của một ai đó, để gán tội bạo loạn cho tất cả những người cầm theo cờ VNCH đã tham gia biểu tình ôn hoà hôm đó, điều đó là hoàn toàn sai và ấu trĩ.
Các bạn có thể phản biện mọi chiều hướng thế nào đó là quyền là của các bạn. Nhưng nếu bạn hỏi Tôi, thì đó là câu trả lời rất thật của một người lính.”





Mùa Xuân Với Những Quả Dưa Dân Tộc - Tác giả Thái Văn Kiểm


 Nhìn quả dưa hấu xanh vỏ đỏ lòng, tôi sực nhớ đó là Quả Dưa Dân Tộc, vì quả dưa này gắn bó với lịch sử và dòng giống Lạc Việt, từ thuở khai bang lập quốc. Nhìn quả dưa đỏ, chúng ta liên tưởng miền Nam nước Việt, cứ mỗi độ xuân về, chúng ta nhìn thấy những núi dưa hấu chồng chất dọc đường, bến xe, bến đò và chung quanh các chợ, chen lẫn với những cành mai mảnh khảnh, đầy cả nụ xanh hoa vàng. Đó là hai phẩm vật quí mà hằng năm Trời đất ban cho nhân dân miền Nam, để trang trí bàn thờ tổ tiên và làm cho tươi thắm đời sống gia đình trong lúc xuân về khắp núi sông.

Đối với nhân dân miền Nam, quả dưa hấu tượng trưng cho thanh xuân (vỏ xanh), xinh đẹp (ruột đỏ như má hồng và môi son của thiếu nữ đang xuân độ), duyên dáng (hạt huyền như răng của phụ nữ thời xưa) hiền hòa (ngon ngọt và mát dịu) và viên mãn (hình thể tròn láng, không bị côn trùng làm hư hao).
Ngoài dưa hồng ra, miền Nam còn có lắm dưa khác như: dưa gang, dưa leo, dưa bở, dưa chuột, v.v... thứ nào tánh nấy, thảy đều có công dụng thiết thực trong đời sống hằng ngày của nhân dân ta, đồng thời cũng là đề tài phong phú cho nền thi ca đồng ruộng.
Nhắc tới thi ca đồng ruộng, chúng tôi hồi tưởng một thời xa xưa khi được mẹ hiền nuôi dưỡng với cơm mem cá bống, được ru ngủ với nhiều câu hò bài hát, âm điệu nhịp nhàng, đã đưa như cái nôi chiếc võng. Lớn lên tôi nghĩ rằng cả một dân tộc đã được mẹ hiền đưa vào thế giới thi ca và âm nhạc từ khi mới lọt lòng.
Tôi cũng nghĩ rằng thể thơ lục bát với nhịp hai thì (2 temps)) phát xuất từ cái nôi chiếc võng, cũng như những câu hò giã gạo với nhịp ba thì phát xuất từ việc chày cối va chạm, làm cho gạo trắng dưới trăng thanh, và cũng như thể thơ song thất (lục bát) với nhịp ba thì trước, bốn thì sau, đã phát xuất từ mái chèo rẽ sóng, chèo sóng vướng tơ duyên, đưa chiếc thuyền nan nhẹ nhàng ghé vào mười hai bến nước...
Trong số những câu hò, điệu hát đã vọng từ thuở xa xưa đó, tôi còn ghi trong ký ức những câu hò sau đây, có nhắc tới các thứ dưa, đã từng nuôi dưỡng dân tộc ta qua nhiều thế hệ:
Ước gì em hóa ra dưa,
Để anh đem rửa nước mưa chậu đồng;
Ước gì em hóa dưa hồng,
Để cho anh bế anh bồng trên tay.
Cá nục nấu với dưa hồng,
Lơ lơ có kẻ mất chồng như chơi!
Tiếc công đan giỏ bỏ dưa,
Giỏ thưa dưa lọt công đà uổng công!
Trái dưa gang sọc đen sọc trắng,
Ngọn rau đắng trong trắng ngoài xanh.
Chim quyên uốn lưỡi trên cành,
Bởi em ở bạc ông Trời đành bỏ em!
Câu hò đầu tiên diễn tả một ước mơ của một thiếu nữ mong chờ sớm được người yêu nâng niu bồng bế như một quả dưa.
Câu hò số hai ca tụng một món ăn tuy có vẻ quê mùa, nhưng thuần túy Việt Nam và dành cho người sành điệu. Đồng thời câu hò này cũng để cảnh giác những thiếu nữ, đàn bà phản lo trau dồi nghệ thuật nấu nướng, không khéo có thể mất chồng như chơi.
Câu hò ở giữa mô tả một sự tiếc nuối muộn màng, vì không biết dự trù trước, lúc đan giỏ, sau này sẽ dùng vào việc gì, dùng để đựng thứ gì, đến nỗi để cho dưa lọt qua các lỗ quá to đối với quả dưa! Dưa này chắc hẳn là dưa chuột, vì ta liên tưởng tới chú chuột gặp lỗ nào cũng chui qua được cả!
Câu hò sau cùng mới là đầy đủ màu sắc, hương vị, và cả âm thanh nữa, kết hợp thành một bức tranh linh động với những yếu tố tương phản, chống đối, nhằm diễn tả một tâm trạng đổi thay, đánh dấu một khúc quanh trên đường tình ái của đôi gái trai giữa đường đứt gánh. Chàng đổ lỗi cho nàng thay đen đổi trắng, trong trắng ngoài xanh, tham quí phụ bần, uốn lưỡi như chim quyên, chỉ biết đào đất ăn trùng mà quên cả tình xưa nghĩa cũ?
Những lời trách móc thời xưa quá thanh tao tế nhị, đến nỗi có thể lồng vào thi ca, biến thành âm nhạc. Trong cái sự bực tức, nhọc nhằn, hờn giận, mà vẫn giữ được phong độ của người lễ giáo, hào hoa, chỉ mượn lời thơ câu hò mà ứng phó, mà diễn tả tâm tình, không thèm dùng lời thô bỉ để mắng nhiếc con người bội bạc, và để phó mặc cho ông Xanh phán xét cuối cùng.
Qua những câu hò kể trên, chúng ta nhận thấy trái dưa thật sự gắn liền một cách mật thiết đối với đời sống vật chất lẫn tâm tình của nhân dân ta. Từ quả dưa chuột nhỏ bé cho tới quả dưa đỏ to lớn, qua các thứ dưa leo, dưa gang, dưa hồng, dưa bở, tất cả đều cùng lăn lộn với ta trên đường đời kể từ thuở khai bang lập quốc...
Mai An Tiêm và quả dưa đỏ
Chúng ta hãy lùi lại đời Hùng Vương thứ 17 để tìm một người ngoại lai, tên là Mai An-Tiêm, mới 7 tuổi do thuyền buôn chở đến. Người này có lẽ thuộc giống Mã Lai, hoặc Indonésien, là những sắc dân có tiếng bơi lội và chèo ghe rất giỏi. Hùng Vương bèn mua về làm con nuôi, kịp lúc lớn lên thì diện mạo đoan chính, nhờ biết nhiều việc.
Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp soạn vào cuối nhà Trần, thì An Tiêm rất được vua Hùng Vương yêu chuộng, An-Tiêm sinh ra kiêu mãn, thường nói rằng tất cả những của cải là vật tiền thân, chớ không phải của trông nhờ vào nơi ơn Chúa.
Vua Hùng Vương nghe nói cả giận, bèn đày An-Tiêm ra một hòn đảo ở ngoài cửa biển Nga-Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa, gần cửa bể Thần Phù. Nơi đây không có dấu chân người lai vãng. Vua chỉ cho mang theo ít lương thực đủ sống bốn năm tháng mà thôi, ăn hết rồi tất phải chết. Dụng ý nhà Vua là muốn cho An Tiêm hồi tâm mà chấp nhận rằng không có vật tiền thân, mà tất cả đều là ơn vua lộc nước.
Mai An-Tiêm không một chút sờn lòng, bèn bảo vợ là Việt Nga rằng: "Trời đã sinh thì Trời phải dưỡng, có lo gì?"
Chẳng bao lâu, vào cuối xuân đầu hạ, An-Tiêm "bỗng thấy một con bạch hạc từ phương tây bay lại, đậu trên một mỏm núi cao, kêu lên ba tiếng, thì sáu bảy hạt dưa rơi trên cát, rồi đâm chồi nảy lộc, lan trên cát xanh tốt rườm rà, rồi thành trái dưa, nhiều không kể xiết".
An-Tiêm mừng rỡ nói rằng: "Đây đâu phải là quái vật, đó là Trời cho để ta nuôi ta đó!"
An-Tiêm bèn bổ dưa ra ăn thì thấy mùi vị thơm tho ngọt ngào, ăn vào thì tinh thần khỏe khoắn, rồi cứ mỗi năm trồng tỉa thêm, ăn không hết bèn đem thả trôi ngoài biển mỗi ngày 10 trái, có khắc chữ, với mục đích làm cho các ghe thuyền chài lưới và buôn bán trong vùng duyên hải để ý mà tìm tới xuất xứ. Quả thật ít lâu sau, có nhiều ghe thuyền tìm tới đổi gạo lấy dưa, đem về đất liền mà bán.
Mai An-Tiêm cũng nhân cơ hội đổi dưa lấy gạo nuôi vợ con. Nhưng vì không biết dưa ấy tên gì, mới nhân chim tha từ phương Tây đem đến, bèn đặt tên là "Tây qua". Về sau An-Tiêm gây được giống dưa thật tốt mới nghĩ tới vợ, là con quan lạc tướng mà phải chịu đựng bao cảnh nhọc nhằn, mới đặt tên là "Việt-Nga qua".
Từ đó những dân chài lưới, những kẻ buôn bán ưa thích mùi vị của Tây qua, đều đem phẩm vật hàng hóa của mình tới đây đổi lấy dưa. Nhân dân các nơi xa gần, từ trên nguồn xuống tới biển, tấp nập tìm tới tranh nhau mua hạt giống, đem về gieo trồng tỉa khắp nơi. Hòn đảo của An-Tiêm cũng trở thành một hải cảng phồn thịnh khác thường. Nhân dân bèn suy tôn vợ chồng An-Tiêm là "Tây Qua Phụ Mẫu".
Sau một thời gian khá lâu, Hùng Vương nghe tiếng đồn mà nhớ đến An-Tiêm, bèn sai người tìm tới chỗ An-Tiêm để dò thăm tin tức. Người ấy trở về tâu sự thực lên Hùng Vương. Vương than rằng: "Nó bảo là vật tiền thân của nó, thực quả không nói dối vậy?
Hùng Vương bèn triệu Mai An-Tiêm về, cho phục chức và cho thêm tỳ thiếp, rồi đặt tên chỗ An-Tiêm khai phá là "An-Tiêm Sa-Châư", thôn ấy là Mai-An; đến nay dân địa phương còn thỉnh trái Tây-qua tôn phụng tổ khảo mà tế tự hằng năm.
Hòn đảo của An-Tiêm còn có tên là Qua-Châu, nơi sản xuất quả dưa đỏ, thường gọi là dưa hấu. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển Quảng Bình, mục Thổ Sản, thì dưa hấu danh tiếng nhất sản xuất tại Hữu Cung, huyện Phong Lộc, tức là phủ Quảng Ninh bây giờ.
Dân địa phương gọi nơi đây là Hoa Cai, Hậu Cai, thay vì dùng danh từ Hán-Việt Hữu Cung. Còn quả dưa đỏ, dân miền Nam gọi là dưa hấu, do danh từ "hảo qua" của người Tàu mà biến thành. Hảo qua có nghĩa là quả dưa ngon ngọt, hiền lành.
Trước ngày đảo chánh Nhật, mồng 9 tháng 3 năm 1945, tôi đã nhiều lần đến sân bay Hữu Cung để mua dưa hấu. Dưa hình thuẫn, to lớn, cân nặng tới năm, bảy kí, vỏ xanh lòng đỏ như đôi môi thắm tươi của trinh nữ, hạt huyền đen nhánh như hàm răng của giai nhân nước Việt cổ điển. Khi ăn vào thì mát ruột, khoan khoái trong người, tưởng như xua đuổi được mọi sự ưu phiền mệt nhọc trên cõi trần ai. Rồi ta tưởng nhớ tới An-Tiêm, anh chàng "Robinson" đầu tiên của nước Việt, đã tự túc tự lập trên hoang đảo Qua-Châu, nhờ sức phấn đấu kiên cường và niềm tin tuyệt đối nơi Thượng Đế.
Nguyễn Trọng Thuật và quả dưa đỏ
Nhà văn Nguyễn Trọng Thuật, tác giả tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ đăng trong Nam Phong Tạp Chí số 104, Avil 1926, có nhắc lại hình dáng Mai An-Tiêm rời đất liền chèo ghe qua cửa bể Thần Phù:
Lênh đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì sống, bống (l) tu thì chìm!
An-Tiêm đã không chìm, nhờ đức tin vào Thượng Đế và hẳn cũng phải tin vào chính mình, từ nay phải tự lực cánh sinh. cứ mạnh dạn chèo ghe ra giữa bể khơi, "ngoảnh lại trời tây tựa hồ có ý buồn, mà trông ra bể lại càng thích ý được hưởng một cuộc hòa du hiếm có trong thân thế, lòng thơ phơi phới", bèn ngâm lên một bài rằng:
Vừng trăng lừng lững bể Đông,
Thần châu mù mịt mây phong non Đoài,
Sông kênh dào dạt doành khơi,
Lưng ngao ngùn ngụt chân trời mênh mông,
Sa chân xuống cõi trần hoàn,
Đã xem xem khắp kỳ quan của Trời.
Ta nhớ lại một buổi trưa trời nắng như đốt, vợ chồng và con An-Tiêm bổ một quả dưa ăn, An-Tiêm cảm hứng ngâm lên một bài thơ ký sự quả dưa đỏ rằng:
Gặp em ngoài cõi bể Đông,
Yêu em về một tấm lòng thắm tươi.
Răng đen nhoẽn miệng em cười,
Dẫu trời nóng nực cũng nguôi cơn nồng.
Yêu em anh bế anh bồng,
Nước non ghi nghĩa tương phùng từ đây.
Nàng Việt-Nga nghe chồng ngâm mấy câu thơ dưa, mà so sánh dưa với mỹ nhân, bèn thừa hứng ngâm tiếp:
Nhờ duyên cái phận em tròn,
Bỏ công giữ phấn gìn son những ngày,
Tương phùng nghĩa cả là đây,
Nắng mưa che chở, nước mây đào bồng,
Chàng về chốn cũ non sông,
Thì chàng chờ thiếp về cùng với nghe!
Qua-Châu xưa kia hẳn là một hòn đảo, nhưng nay đã dính liền mà còn cách xa biển tới ba bốn cây số. Đi sâu vào chi tiết, chúng ta được biết Qua-Châu thuộc làng Văn Đức, tổng Tân Phong, huyện Nga Sơn. Muốn đi tới đó, thì phải theo con đường tỉnh số 5, cho tới cây số 37, đi thêm 500 thước nữa, rồi rẽ sang tay phải, theo con đường nhỏ lên núi, trèo qua một cái đèo nữa, thì tới một thung lũng có đền thờ vợ chồng Mai An-Tiêm. Hằng năm, dân địa phương cử hành lễ giỗ vào ngày mồng 3 tháng 8.
Chim Lạc và cuộc Nam tiến của quả dưa đỏ
Rời khỏi Nga Sơn, rời sân bay Đồng Hới, chúng ta thẳng tiến vào Nam, để dừng chân tại Nha Trang, tức là linh địa Ea Trang (Sông Lau) của xứ Kauthara thuở trước, cấu tạo bằng nhiều đồi núi, bãi cát và hòn đảo rải rác nơi cửa bể Đại An. Đại An là tên một ngọn núi tọa lạc phía Tây Nha Trang chừng 8 cây số, trong quận Vĩnh Xương bây giờ. Ngọn núi này, cũng như hầu hết những ngọn đồi ở châu thành Nha Trang, xưa kia là những hòn đảo, mà đất phù sa của sông Cái đã bồi lấp và gắn liền với nhau.
Ngày xưa, sông Cái không chảy thẳng ra xóm Cù Lao Nha Trang như bây giờ. Nó chảy vòng hòn núi Đồng Bò về tới eo bể Thủy Triều, gần vịnh Cam Ranh. Đường quốc lộ 1 từ Diên Khánh chạy tới Suối Dầu, Hòa Tân, ngang Thủy Triều, chính là thung lũng cũ của con sông Cái. Nói cách khác, tất cả dẫy núi Đồng Bò, phía Tây Nam thành phố Nha Trang, xưa kia là một hòn đảo lớn.
Hồi đầu năm 1953, tôi có dịp hướng dẫn nhiều nhân sĩ quan sát tất cả vùng này, và sau những lời giải thích tỉ mỉ họ đã hoàn toàn đồng ý về sự trạng "thương hải biến vi tang điền" hay đúng hơn "thương hải biến vi qua-điền, qua-sơn" nghĩa là: biển xanh đã biến thành ruộng dâu, ruộng dưa, hay là núi dưa vậy.
Núi dưa đây là hòn núi Đại An đã nói trên kia. Trong thần thoại Poh Inô Nagar, tức Bà Chúa Xứ Champa, mà ta tôn xưng là Thiên Y Thánh Mẫu, có nhắc tới một vườn dưa hấu, mà vợ chồng người tiều phu đã dày công trồng tỉa trên triền núi Đại An.
Phải chăng từ đời thượng cổ đã có những giống chim gan dạ nương theo gió mùa bay thẳng từ Bắc vào Nam, mang theo trong lòng rất nhiều hạt dưa của Mai An-Tiêm, để gieo rắc nơi địa phần Bà Chúa Xứ? Giả thuyết này có vẻ phù hợp với cuộc Nam tiến của dân tộc ta, mà giống chim kia là tiền phong dẫn đạo.
Trên đường bay về Nam, những giống chim trên kia còn tiến xa hơn nữa. Tung mây lướt gió, chim mỏi cánh sẽ tạm đậu trên Cồn Sơn, mà tên thật đúng là Pulo Condor.
Cái tên kỳ lạ này đã làm nhiều người thắc mắc, trong số đó có học giả Hồ Phi Lạc. Hồ tiên sinh đã có lần giải thích là một hòn đảo (Pulo), trên đó thường có giống chim đại bàng (Condor) bay ngang và đậu lại. Tiên sinh cũng thêm rằng: Không chừng đây là giống chim Lạc, một loại thần điểu (oiseau totem) của dân tộc Lạc Việt ngày xưa.
Nhưng bây giờ chúng ta có thể bổ chính rõ ràng hơn mà nói rằng: Pulo, Poulo trong ngôn ngữ Mã Lai có nghĩa là hòn đảo, cũng như danh từ Knor, Knour trong ngôn ngữ Chiêm Thành đã được Việt âm hóa thành Cù lao vậy. Còn danh từ Condor, Kondur trong Mã ngữ chỉ định một loài dưa, một thứ bí bầu, thuộc họ Cucurbitacées, cũng do những giống chim từ phương xa mang lại hạt giống mà gieo nơi hoang đảo.
Ngày xưa, những nhà hàng hải Tây phương thường ghé lại Poulo Condor, để núp gió, lấy nước, mua dưa đổi bí mà ăn, chờ cho trời êm biển lặng tiếp tục hành trình. Họ đã phiên dịch tên đảo này là Ile aux Courges (Đảo bí bầu) và họ cũng gọi biển này là Mer aux Calebasses (Biển bầu eo).
Quả dưa đỏ và triết lý nhân sinh của dân tộc Lạc-Việt
Như đã trình bày trên kia, những hạt dưa, hạt bí, hạt bầu, gieo rắc bởi những giống chim mạo hiểm, có thể gọi là lạc điểu hay Việt điểu, luôn luôn xây tổ trên cành Nam (Việt điểu sào Nam chi), trải qua không gian và thời gian, đã giúp cho những chàng "Robinson" có phương tiện mà sinh sống tự túc theo phương châm:
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc?
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn?
(Nguyễn Công Trứ)
Nghĩa là:
Biết đủ tự cho là đủ, chờ đủ biết bao giờ mới đủ?
Biết nhàn tự cho là nhàn, đợi nhàn biết bao giờ mới nhàn?
Hay là:
Biết đủ dù không chi cũng đủ,
Nên lui đã có dịp thời lui.
(Ưng Trình)
Cái nếp sống tự túc đó, dân ta đã quen sống từ ngàn xưa. Ngay như thi sĩ Tản Đà, người đã ngao du khắp ba kỳ và đã nếm đủ sơn hào hải vị, như:
Hà tươi cửa biển Tư Văn (Tourane),
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà.
....
Sơn dương sò huyết Hòn Gay,
Đồng Sành cá đốí, Giáp Lai, lợn rừng.
(Thú ăn chơi)
mà đến khi về nhà cũng phải bằng lòng với "cái dưa thời khú, cái cà thời thâm":
Muốn ăn rau sắn chùa Hương,
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa.
Người đi ta ở lại nhà,
Cái dưa thời khú, cái cà thời thâm.
Nhờ câu phong thi này đã được đăng trên mặt báo mà nữ sĩ Đỗ Song Khê khi đi chùa Hương về tới Phủ Lý, động lòng, lập tức gởi một gói rau sắn cho Tản Đà tiên sinh, với bốn câu thơ họa lại như sau:
Kính dâng rau sắn chùa Hương
Đỡ ai tiền tốn, con đường đỡ xa.
Không đi thì gởi lại nhà,
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.
Cho nên, dù là dưa khú, dưa chua, dưa trường, dưa cải... tất cả đều được thi vị hóa trong đời sống bình dị, hoặc lam lũ, của nhân dân ta, từ động Tam Thanh (2) tới Cây Dừa ba ngọn (3), trải qua xứ Quảng cần cù và tiết kiệm:
Nói cho lắm cũng nước mắm dưa cải,
Nói cho phải cũng dưa cải nước mắm.
Tuy thế, dân ta cũng biết rằng, dù cho cuộc sống hằng ngày buộc phải nhờ vả rau dưa khoai sắn, ta vẫn cố gắng giữ gìn cái phong độ đặc biệt của dòng giống Lạc Hồng, không "đá thúng đụng nia, lăn dưa đá cá".
Và ngày nay, tuy dân ta khai khẩn được một dãy đất phì nhiêu sung mãn, ta vẫn không quên thức khuya dậy sớm, cuốc bẫm cầy sâu, để khỏi mang tiếng là giống người "qua thục đế lạc" chỉ trông chờ "dưa chín là cuống rụng", cũng như "chờ cho sung rụng nằm dài gốc cây"!
Lại nữa, dân ta cũng không quên lời nhắn nhủ của tiền nhân khuyên ta nên thận trọng:
Qua điền bắt nạp lũ,
Lý hạ bất chỉnh quan.
Nghĩa là: Khi đi ngang ruộng dưa thì đừng cúi xuống sửa dép (sợ người ta nghi mình ăn cắp dưa) và khi đi dưới cây mận thì đừng sửa mũ (sợ người ta nghi mình với tay hái mận).
Tự mình biết giữ gìn như vậy, vừa thận trọng, vừa tự trọng, lại biết quí trọng quả dưa, dân ta đã đưa quả dưa từ đám ruộng phì nhiêu lên bàn thờ tổ tiên, để hoài niệm người xưa đã tự lực cánh sinh nơi hoang đảo và truyền lại cho dân ta một nếp sống hào hùng và những hạt dưa mầu nhiệm.

Trở lại tuổi thơ cùng Lucky Luke - Tác giả Nguyễn Ngọc Chính.

 

Các bạn vào lứa " năm ,sau ,bảy bó” ở miền Nam chắc hẳn vẫn còn nhớ Lucky Luke, nhân vật Cao bồi Miền Tây “Wild Wild West” bắn súng còn nhanh hơn… cái bóng của mình!
Đó không phải là lời khen ngợi của người viết bài này mà đó lại là câu quảng cáo cho tập truyện Lucky Luke khi đăng trên tạp chí Pilote, năm 1968. Để ra mắt tập truyện tranh “Dalton City”, Pilote đã giám cả quyết: “Lucky Luke: L’homme qui tire plus vite que son ombre”.
Ấy vậy mà chuyện tranh Luck Luke nổi tiếng thế giới lại không xuất phát từ Mỹ, xứ sở của các chàng cowboy… mà lại từ Bỉ, một quốc gia nhỏ bé tại Châu Âu! Cha đẻ của Lucky Luke là họa sĩ người Bỉ, Maurice de Bevere (1923-2001), còn có biệt danh là Morris. Mãi về sau Morris mới sang Hoa Kỳ.
Lucky Luke “ra chào đời” năm 1947 qua “ông bố” Morris và kể từ đó, một loạt truyện tranh Lucky Luck được phát hành làm “nức lòng” người đọc khắp nơi. Độc giả có thể là cậu bé 9 tuổi và cũng có thể là ông già 99 tuổi… nhưng tựu chung đều say mê với các cuộc phiêu lưu khắp Miền Tây Hoang Dã của Hoa Kỳ.
Lucky Luke xuất hiện lần đầu tiên trên Spirou năm 1947 với câu chuyện lịch sử về tiểu bang Arizona, “Des rails sur la prairie”. Nhân vật này “sống thọ” trong suốt 30 năm (1947-1977) với khoảng 270 triệu bản bằng 31 ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt.
Lucky Luke trong vai “trừ gian, diệt bạo” đã một mình một ngựa (chú ngựa Jolly Jumper) và một súng kè kè bên hông… anh rong ruổi khắp các thị trấn Miền Tây đang mọc lên như nấm sau mưa. Anh đi tới đâu thì ở đó “công lý” được thực thi và khi anh giã từ thì thị trấn được sống trong yên bình.
Công sức của Lucky Luke quả thật đáng khâm phục và tài năng của họa sĩ Morris cũng thật đáng ngưỡng mộ khi ông sáng tác không ngừng nghỉ những cuộc phiêu lưu của một “người hùng cô đơn”!
Giống như các bộ phim cao bồi, hình ảnh thường thấy trong Lucky Luke là những đồng cỏ bạt ngàn, những thị trấn đìu hiu, những quán rượu “saloon” bát nháo, những chuyến xe lửa chạy bằng hơi nước... và nhà tù, nơi trú ngụ thường xuyên của các tay giang hồ tứ chiếng.
Trong Lucky Luke, tên các thị trấn thường được viết trên bảng gỗ với những câu nửa đe dọa, nửa hài hước. Trong các “boom towns” luôn có quán rượu, ngân hàng, đồn cảnh sát sheriff...
Quán rượu cũng là nơi thường xuyên xảy ra ẩu đả và kết thúc với một kẻ… bay ra ngoài, rơi vào máng nước dành cho ngựa ngoài cửa. Còn trong nhà tù, các tù nhân luôn làm công việc đập đá với cặp chân bị xiềng bằng “ball chain”. Các chuyến xe lửa thì thường không tới đúng giờ vì bị cướp chặn đường… “ăn hàng”.
Trong cuốn “O.K Corral” có cuộc đấu súng huyền thoại của Miền Tây, kẻ nào “bắn chậm thì chết”. Trong “Pony Express” là đoàn ngựa tốc hành với việc cố gắng rút ngắn thời gian vận chuyển thư từ giữa miền Tây và miền Đông.
Mọi chuyện ở các thị trấn Miền Tây được Morris vẽ một cách hài hước nhưng lại đầy tính “nhân văn”. Tên cướp “Billy the Kid” cũng chỉ bị Lucky Luke phạt bằng cách… phết vào mông. Trong toàn bộ các tập truyện, Lucky Luke chỉ một lần duy nhất bắn hạ Mad Jim trong tập về mỏ vàng (La Mine d'Or de Dick Digger) và một lần khác bắn bị thương Phil de Fer, một nhân vật có “đôi chân dài” như các kiều nữ thời bây giờ.
Cuộc chiến với người da đỏ cũng thường xuyên được đề cập đến nhưng luôn kết thúc êm đẹp với sự kiện hai bên cùng ngồi hút… "tẩu thuốc hòa bình" (peace pipe). Và hình ảnh không đổi cuối mỗi tập truyện là Lucky Luke cưỡi chú ngựa Jolly Jumper đi về phía cuối chân trời và hát bằng tiếng Anh: "Tôi là gã cao bồi nghèo đơn độc, rong ruổi trên đường dài xa quê hương, mà đường về nhà còn xa vời vợi...”
“I'm a poor lonesome cow-boy
And a long far way from home”
Ban đầu, Lucky Luke luôn xuất hiện với điếu thuốc lá trên môi, nhưng về sau để tránh hình ảnh người hùng nghiện thuốc lá, Morris cho thay thế bằng một cọng cỏ ngậm trên miệng. Xử lý các tình huống một cách hài hước, thông minh, cộng với tài bắn súng “nhanh như chớp” và kể cả sự may mắn, Lucky Luke luôn thành công ở cuối mỗi tập truyện.
Đồng hành với Lucky Luke là Jolly Jumper, “chú ngựa chạy nhanh nhất miền Tây”. Là con ngựa đặc biệt, nên Jolly Jumper biết đi trên dây, thông minh tới mức cùng chơi cờ với Lucky Luke và khi nói chuyện có thể trích dẫn cả… văn học.
Jolly Jumper nhiều lần cứu Lucky Luke thoát khỏi các tình huống khó khăn nhưng hai nhân vật này lại thường xuyên trêu chọc nhau. Như trong tập “Sarah Bernhardt”, Jolly Jumper “chê” vì Lucky Luke soi gương “làm đỏm” trước khi đi gặp mgười đẹp. Còn Lucky Luke lại nhận xét Jolly Jumper “ở truồng” khi chú ngựa này không có yên trên lưng.
Đặc biệt Jolly Jumper rất ghét Rantanplan, được mệnh danh là "con vật ngu ngốc nhất miền Tây" hay "chú chó ngốc hơn cả cái bóng của mình". Rantanplan là chú chó của trại giam và sheriff giao nhiệm vụ canh giữ bọn “tứ quái” Dalton.
Morris đã xây dựng Rantanplan dựa trên một nguyên mẫu có thực là Rin Tin Tin, một chú chó thông minh, dũng cảm thường xuất hiện trên các bộ phim của hãng Warner Bros vào những năm 1920. Nhưng ngược lại với Rin Tin Tin, Rantanplan là chú chó ngu ngốc, chết nhác, tham ăn, và có cái mũi… bị điếc.
Nhân vật phản diện thường xuyên nhất trong tập truyện tranh là anh em nhà Dalton. Morris đã xây dựng nên bốn tên cướp mang dòng họ Dalton nhưng lại cho chúng chết ngay khi vừa xuất hiện. Về sau, Morris đã cho chúng sống lại bằng cách xuất hiện các anh em họ của Dalton.
Băng cướp Dalton sau bao gồm: Joe, Jack, William và Averell. Trong đó Joe là anh cả, lùn nhất nhưng cũng hung hãn nhất, là thủ lãnh của cả nhóm. Sau đó tới Jack, William, dần cao hơn nhưng cũng bớt hung hãn hơn. Cuối cùng là Averell, em út, cao nhất và cũng… ngốc nhất nhà.
Trong Lucky Luke có cả những người Mexico với cái mũ rộng vành (sombrero) thường ngồi ngủ ngay cạnh đường ray xe lửa. Những người Hoa với mái tóc đuôi sam thường làm nghề đầu bếp hoặc giặt ủi... trong thời Miền Tây đổ xô đi tìm vàng (gold rush).
Ngược lại, một số nhân vật hư cấu trong truyện lại được Morris vẽ theo nguyên mẫu nổi tiếng. Chẳng hạn như một phù thủy da đỏ có gương mặt của ca sĩ Elton John, nhân vật săn tiền thường “Chasseur de primes” có vẻ bề ngoài của diễn viên cowboy Lee Van Cleef. Một tên cướp giống có khuôn mặt giống với “vua hề” Louis de Funès và diễn viên Jack Palance trở thành “chân dài” trong “Fil de Fer”!

Cửa Thiền Nào Chốn Hỏi Mai Hoa - Tác giả Hương Giang Thái Văn Kiểm


Mở màn năm Mậu Dần 1998 mà biểu tượng là con cọp, vốn là một đề tài mà thiên hạ đã nói đi nói lại nhiều lần, nay tôi xin nói sang một đề tài khác, nhưng vẫn có nhiều liên hệ với mùa xuân và với Tết ta, đặc biệt là Tết của miền Trung Nam nước Việt. Đó là cây mai vòi hoa vàng, dáng điệu mảnh khảnh thường mọc trên đồi cao hoặc dưới chân đèo hẻo lánh và cheo leo, mà nhà thờ Tôn Thọ Tường (1825-1877) đã khéo léo mô tả trong bài thơ tiên khởi sau đây:

Cảm vịnh cây mai nơi chùa Cây Mai
Đau đớn thân mai cách dưới đèo
Mười phần trong sạch phận cheo leo
Sương in tuyết đóng cành thưa thớt
Xuân tới thu về cảnh quạnh hiu
Lặng lẽ chuông quen con bóng xế
Tò le kèn lạ mặt trời chiều
Những tay rượu thánh thơ thần cũ
Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.
Từ thời ấy tức là thời Đông Tây giáp mặt trong sự giận hờn chinh chiến, khói lửa khắp nơi, rồi tiếp theo là một sự hợp tác rất e dè vả cưỡng bách, khiến cho Tôn Thọ Tường phải trải bày tâm sự chát chua trên thi đàn cho thiên hạ thấu hiểu và mặc sức luận bàn vòi nhiều cay đắng.
Thi bá Đông Hồ Lâm Tấn Phác (l906-1969) đã từng phê bình bài thơ trên với những lời lẽ chính xác và sâu sắc như sau:
"Thơ này thuộc về thơ vừa cảm cựu vừa thuật hoài, vừa than tiếc nhớ thương người xưa cảnh cũ, vừa cảm nghĩ thân thế, vừa ký thác tâm sự mình. Lời thơ vừa tả cảnh, tả tình, vịnh vật mà thật là ngụ ý. Tác giả Tôn Thọ Tường làm bài thơ này kể được là đúng thể thức tỉ như phú của Kinnh Thi. Thơ lại được xây dựng có phép tắc vững vàng, có nghệ thuật điêu luyện. Thi tứ thì thê nhiên mà bút thế thì linh động, thuộc về văn chương đại nhã, không phải là văn chương tiểu xảo".
Rồi nhà thơ Đông Hồ, như muốn biểu lộ lòng quảng đại của mình đối với người xưa cảnh cũ đang ở trong thế kẹt của một thời đại nhiễu nhương, đã thốt đôi lời bàn thêm:
Y như hễ nói tới nhà thơ Tôn Thọ Tường thì tôi nhớ đến bài thơ Tôn phu nhân qui Hán, nó có một giọng đỏng đảnh. chanh chua đáng ghét. Trái lại thơ Từ Thứ qui Tào, cũng như Chùa Cây Mai này thì lại dễ khiến cho người ta tha thứ. Tha thứ vì chút liên tài liên mạng".
Riêng về thắng cảnh lịch sử chùa Cây Mai, nhà thơ không ngớt khen ngợi với những lời vô cùng tốt đẹp:
"Nghĩ như: danh thắng trong thiên hạ, không thiếu chi những cao sơn đại xuyên, thì một gò đất con con ở đồn Cây Mai trong Phú Lâm, gần gặn giữa thủ đô kinh hoa này, phỏng có thủy tú sơn kỳ chi đó mà khách du xuân phải nhọc công tìm đến ngoạn thưởng ngâm đề. Nhưng chúng ta ai mà chẳng nhớ:
Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc tinh".
(Núi có danh đó, há phải vì núi cao vòi vọi, mà vì núi có thần tiên lai vãng. Nước có thiêng đó, há phải vì nước sâu thẳm mà vì nước có giao long tàng ẩn).
Suy nghĩ như vậy, nhà thơ Đông Hồ đã cám cảnh sinh tình, họa lại bài thơ vần "eo" rất khó của Tôn Thọ Tường bằng một bài thơ tuyệt diệu, sẵn có bút pháp tinh vi, rồng bay phượng múa:
Lọ thẳm khơi sông chót vót đèo
Rồng thiêng tiên náu bước xuân leo
Giang Nam mộng cũ xuân man mác
Thi xã hồn xưa gió hắt hiu
Cốt cách thẹn thò băng ngọc tối
Phong tao e ấp tuyết sương chiều
Năm ba hồi nở năm ba nụ
Tâm sự ngày xưa chút bấy nhiêu.
Theo sách Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức (1765-1825), đồn Cây Mai chính là trung tâm điểm của thành Prey Nkor (Sài Gòn) ngày xưa. Nguyên là trên gò Cây Mai (mai khâu) có môt ngôi chùa, ở địa phận thôn Phú Giao; huyện Tân Long (Tân An) có bảy cây mai, bóng ngã lơ thơ, nùi hương phảng phất, rất thích ý cho những người tìm phương du ngoạn. Sau nhiều cuộc binh đao, trên gò này chỉ còn lại một cây bạch mai mà thôi!
Có một điều thắc mắc mà chúng ta nên nêu ra đây là cây mai ở dưới đèo trong bài thơ của Tôn Thọ Tường và cây mai còn sót lại trên đồn Cây Mai có phải là một giống, một loài hay không? Có thắc mắc chăng là cây mai dưới đèo: mai này là mai vàng hay mai trắng? Nếu là mai vàng thì nó thuộc loại Ochna Harmandii, họ ochmacée, đúng như BS Trần Văn Tích viết trong bài "Mai không phải là Mai" đăng trong Làng Văn số 156, tháng 8/1997 vừa qua.
Tôi xin thêm: sở dĩ tên khoa học của loài hoa này có chữ Harmandii vì người phát giác ra nó là giáo sư bác sĩ hải quân Harmand (l845-l921), vốn là một nhà nhân loại học (anthropologiste) và một nhà thiên nhiên học (naturaliste) danh tiếng. Ông là người Âu châu đầu tiên đi xuyên qua cao nguyên Bolovens trong năm 1877, sau khi đã khảo sát tường tận những bộ lạc Kha, tức là Kha Lơ (Cà Lơ), xuyên qua rừng núi và cao nguyên Ai Lao (vùng Trấn Ninh) cho thấu sông Tchépone mà ông đã đi ngược lên tới đèo Ai Lao chia đôi Lào Việt. Rồi ông xuyên dãy Trường Sơn đi về phía Quảng Trị, rồi đi về hướng nam cho tới Huế. Chính trong cuộc thám hiểm gian lao này, ông đã tìm ra rất nhiều kỳ hoa dị thảo mà sau này sẽ được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi nhà thảo vật học danh tiếng Louis Pierre, sáng lập viên của Thảo Cầm Viên Sài Gòn.
Sau đó BS Harmand được chính phủ Pháp giao cho trọng trách toàn quyền Đông Dương với nhiệm vụ đặc biệt thương thuyết với chính phủ Nam Triều ở Huế mà đại diện là các cụ Hiệp Biện hưu trí Trần Đình Túc làm khâm sai toàn quyền, và thượng thơ Nguyễn Trọng Hợp. Cụ Trần Đình Túc quê quán làng Hà Trung, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; còn cụ Nguyễn Trọng Hợp là tiên tổ của thi sĩ Lệ Vân (tức Tôn Thất Thiện phu nhân), tác giả sách "Bóng Dáng Giai Nhân Trên Đường Bắc Tiến và Nam Tiến". Cả hai cụ lương đống triều đình đã hết lòng phò vua giúp nước, nhưng gặp phải thời thế cực kỳ khó khăn mà phải cắn răng ký kết Hiệp Ước Quí Mùi 1883, mà lịch sử quen gọi là hiệp ước Harmand-Nguyễn Trọng Hợp, có mang thêm chữ ký của cụ Trần Đình Túc và ông de Campeaux, Trú Sứ ở Huế. Hiệp ước này gồm có 27 điều khoản trong đó có mấy khoản bắt ép nước Nam phải chịu đo hộ Pháp và chịu thu hẹp từ tỉnh Khánh Hòa ra tới Đèo Ngang mà thôi.
Trở lại vấn đề cây mai, nếu nó là mai trắng mà thân cao lớn (arborcscent), đó là Nam Mai, tên khoa học là Orchrocarpus Siamensis Odoratissimus, cùng giống Callophyllum, thuộc họ Guttifères. Trong Nam cũng có nơi gọi là Mai Mù U. Mai rất thơm, hoa có bốn cánh dày và mịn như sáp, cho nên cũng gọi là Lạp Mai. Đó là cây mai mà thời tiền chiến chúng tôi gồm có các bạn Bùi Quang Tung, Lê Ngọc Trụ và Nguyễn Triệu đã quan chiêm lúc viếng thăm đồn Cây Mai, dưới sự hướng dẫn của sử gia Phạm Văn Sơn, thiếu tá Quân Lực VNCH, tác giả nhiều bộ sử dân sự vả quân sự Việt-Nam.
Giống mai trắng nào có trái hình bầu dục, to bằng quả trứng gà so, lúc chín rụng xuống đất, người ta lượm chôn để mọc thêm trong vườn cho có bóng mát và sau nảy được thưởng thức mùi hương thơm vào mùa xuân. Rồi chờ đầu hạ, người ta sẽ đem chiếu ra trải dưới gốc cây để lượm những cánh hoa rơi rụng mà ướp với trà, để dành vào những lọ kẽm, chờ bạn tri âm đến thì pha ra mà uống cho thấm giọng, lên mấy câu vọng cổ!
Đây là trường hợp của nhà thơ Đông Hồ ở Hà Tiên, cứ vào dịp Tết thì người nhà lên núi Lăng có nhiều bạch mai thơm phức bao quanh những ngôi cổ mộ của giòng tổng binh Mạc Cửu, tìm cắt mấy nhánh hoa xinh đẹp mang lên Sài Gòn tặng nhà thơ. Thế là tiên sinh trịnh trọng và nâng niu đem cắm vào các độc bình quí từ Long Môn (Quảng Đông, Nam Việt) do tổ tiên mang sang từ cuối thế kỷ 17, rồi tiên sinh chờ qua ngày mồng Một Tết trang trọng mời một số thân hữu về nơi vương giả hương đình thưởng thức trà Bạch Mai do chính tiên sinh chế biến với một nghệ thuật siêu thần. Từ ấm trà Lưu Bội, Mạnh Thần, tiên sinh rót vào chén Tống (tướng), rồi chuyển nhẹ sang chén quân đều tay, cùng một màu sắc, vàng óng như mật ong lóng lánh, tiên sinh nâng chén mời bạn hiền thưởng trà xuân, điểm xuyết bằng những câu chuyện văn hoa tế nhị rút từ văn hóa đông tây, kim cổ.
Vào một dịp Tết thời vàng son ấy, tôi nhớ đã đến tận Yễm Yễm Thư Quán, 72-Đ, đường Trần Văn Thạch Sài Gòn rước nhà thơ Đông Hồ và nhà cổ học Vương Hồng Sển cùng đi vào Phú Lâm, Phú Thọ, xem các chùa Phụng Sơn Tự (Chùa Gò), cũng có tên là chùa Bàu Chuông, xưa kia của người Chân Lạp, rồi đi xa hơn nữa để viếng cảnh chùa Giác Viên. Cả hai chùa đều có trồng bạch mai cao lớn, mỗi nơi có tới bốn năm cây sum suê hoa lá, thân hình thẳng tắp và trơn tru, không cong queo, khúc khuỷu, u nần như cây mù u, cùng giống Callophyllum. Lại còn một số khác biệt nữa là trái mù u thì tròn mà nhỏ thua trái bạch mai, vốn hình thuẩn. Cả hai thứ đều có thể ép ra dầu để gia dụng.
Trên đường về Sài Gòn chúng tôi có đi qua đồn Cây Mai. Xưa kia trên đồi có chùa An Tôn, tương truyền và ghi theo "Đại Nam nhất thống chí - Tỉnh Gia Định", năm Gia Long thứ 15 (l816) nhà sư trụ trì, khi tu bổ chùa có đào được ba phiến vàng lá, mỗi phiến nặng ba đồng cân, trên mặt khắc Phật cỡi voi. Ngưòi ta cho đấy là vật trấn áp cây tháp (stupa) của vị Hồ tăng ngày trước. Chỗ này là thắng địa của phương Nam. Nhưng cảnh chùa có lúc thạnh lúc suy, cây mai có lúc tươi lúc tàn, sự việc ấy như là ám hợp với nhau. Mỗi khi hoa mai rụng bay đi chỗ nào không biết thi cảnh chùa như buồn tẻ nhớ nhung, tăng đồ vắng vẻ. Đến lúc cảnh chùa trở lại vui vẻ thì hoa mai từ trên không bay về không ngớt, như chùa với hoa tương ứng, có hẹn hò với nhau, cùng suy cùng thịnh!
Trước kia không ai để ý, từ khi dựng chùa đến nay, sự suy thịnh đã trở đi trở lại nhiều lân. Có phải Thiên nữ tán hoa chăng? Hay là như cây quỳnh ở Dương Châu (Đông Việt) chăng? Ngày trước một thi nhân đi qua đây có để bài thơ rằng:
Thiền môn hà xứ phỏng mai hoa
Tạm yết chính an thuyết phạm gia
Hương nhập trà bình yên chí noãn
Nhất sinh trần tự bán tiêu ma
tạm dịch:
Cửa thiền nào hỏi chốn mai hoa
Tạm nghỉ chinh an thuyết Phật gia
Hương đượm bình chè vừa bốc khói
Một đời niềm tục nửa tiêu ma!
Tra kỹ "Từ Nguyên" chúng ta được biết: Dương Châu là địa danh, quỳnh thụ là cây hoa quỳnh, thuộc bộ Cactacées. Xưa kia bên Tàu ở Dương Châu có một cây quỳnh trồng từ đời Đường, qua đòi Tống có xây quán Phồn Ly và đình Võ Song ở bên cây quỳnh. Vua Nhân Tông đến quán ấy bứng cây quỳnh về trồng trong cấm uyển, chẳng bao lâu cây quỳnh khô héo vi bất hạp thủy thổ. Vua bèn cho bứng đem trả lại nơi Dương Châu thì tự nhiên cây quỳnh sống lại tươi tốt muôn phần.
Theo Petrus Ký, tác giả bài thuyết trình "Souvenirs historiquess sur Saign et ses Environs" tại Collège des Interprètes năm 1885, soái tướng Nguyễn Tri Phương và thượng thơ Phan Thanh Giản lúc vào Nam đương đầu với Pháp, có xây trên đồn Cây Mai một vọng lâu để nhìn xa thấy rộng...
Trên kia chúng ta đã nói về những giống mai ở miền Trung và Nam Việt-Nam, tựu trung thuộc hai loại Ochna và Ochrocarpus. Trong loại Ochna cũng có thứ màu trắng nhưng hiếm hoi lắm. Chúng tôi đã có cơ hội mua được một cây mai trồng chậu, gốc là mai vàng, nhưng có ghép thi hai cành mai trắng (cung loại Ochna Harmandii, Pierre) nơi chợ Bình Tây (Quách Đàm), Chợ Lớn. Đồng thời chúng tôi cũng đã phát giác được một cây bạch mai (loại Ochna) tại nhà GS Lê Thọ Xuân, chuyên khảo lịch sử và phong tục miền Nam, trước kia hay viết trên tạp chí Tri Tân thời tiền chiến.
Lạ hơn nữa là trong chuyến Mỹ du vào Tết Đinh Sửu 1997 đáp lời mời của nguyệt san Thế Giới ở Houston, của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Bắc Cali và của hội Văn Nghệ Sĩ Tự Do Miền Đông Hoa Kỳ, chúng tôi rất vui mừng tìm ra trong một khách sạn của người Việt một chậu hoa trồng cây hồng mai, chính tông loại Ochna Harmandii, khiến cho tôi vui mừng hết sức, như là tìm ra một .khối vàng vô giá, ngày nào cũng tìm tới nơi mà chiêm ngưỡng không chán, khiến cho ông bạn quí Hà Bỉnh Trung và thi sĩ Vĩnh Liêm vô cùng ngạc nhiên!
Trở về với các giống mai ở Bắc Việt và Trung Quốc thì đúng như nhận xét của BS Trần Văn Tích, đó là những giống mai mơ đào (prunus) thuộc họ Rosacées, tên khoa học đầy đủ là Prunus armeniaca Lin., do nhà thảo mộc học Carl Von Linné (l707-l778) gốc Thụy Điển định danh.
Theo "Quảng Sự Loại" thì mai bên Tàu có năm loại: hồng mai, bạch mai, hoàng mai, lục mai và lạp mai. Theo "Từ Nguyên", ở đông nam huyện Lư Giang, tỉnh An Huy, cách ba mươi dặm có núi Mai Sơn (núi mai, mai đây là mai chua) tục truyền xưa kia Tào Tháo hành quân tới đây chỉ trông thấy mai mơ mà chảy nước miếng và hết khát!
Riêng về chuyện Lục Khải ở Giang Nam gởi một cành mai cho Phạm Ngạc ở Trường An với bài thơ:
Chiết mai phùng dịch sứ
Ký dữ lủng đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liễu tặng nhất chi xuân
thì đã có một nhà thơ dịch thơ ngũ ngôn; rất ngắn gọn mà lại đầy đủ ý nghĩa:
Bẻ mai gặp sứ trạm
Gởi cho người bạn thân
Giang Nam không vật lạ
Kính tặng một cành xuân
Vương Tăng đời Tống, vịnh mai xuân có câu:
Trong đời chưa nói việc hòa canh
Đã đến đầu trăm hoa mà nở trước
Câu thơ trên này do Vương Tăng đưa cho Lữ Mông Chính xem. Chính đoán trước rằng Tăng sẽ thi đậu trạng nguyên và sẽ làm tể tướng. Sau quả nhiên thành sự thật.
Ngày xưa những người chăn dân dựng nước ưa nói hai chữ điều canh, có nghĩa là hòa canh, nghĩa là nấu canh, thêm mắm muối tiêu hành cho ngon lành, Tây nói là assaisonner la soupe. Đó là cả một nghệ thuật cao siêu không khác chi việc chăn dân dựng nước!
Tích này xuất từ Kinh Thi, khi nhắc đến vua Cao Tông nhà Thương nói với tể tướng Phó Duyệt rằng: nhược tác hòa canh, nhi duy diêm mai! Ý dặn dò Phó Duyệt thay vua chăn dân thì phải hành sự như nấu canh, muốn cho ngon ngọt thì phải nhớ thêm muối và quả mơ vào cho hòa tăng chất vị. Từ đấy về sau hai chữ điều canh có nghĩa là tể tướng.
Côn thi bá Lý Bạch vịnh mai mùa hạ như sau:
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc dịch
Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa
dịch nghĩa:
Tiếng sáo thổi trong lầu Hoàng Hạc
Tháng năm mai rụng chốn Giang thành
So sánh thứ lớp các loại boa, các cụ nhà ta ngày xưa sắp xếp như sau:
Lan vị vương giả chi hương
Cúc đồng ẩn dật chi sĩ
Quốc sắc thiên hương nãi mẫu đơn chi phú quí
Băng cơ ngọc cốt nãi mai ngạc chi thành kỳ!
Như thế là giống hoa mai vẫn xếp vào hàng đầu, là vì, ngoài hương sắc thanh kỳ trang trọng, còn đượm tình thương nhớ quê hương!

Vắng dần tiếng quết bánh phồng mỗi độ Xuân sang - Tác giả Anh Tú

 

Bánh phồng là thứ không thể thiếu trong ngày giỗ Tết ở miền Nam. Bánh phồng đi vào thi ca, nghệ thuật như đặc trưng của không gian Tết.
Trong tuồng “Tuyệt Tình Ca,” soạn giả Hoa Phượng viết: “Cứ mỗi lần bông ô môi nở hường trong gió chướng, mỗi lần tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang…” Trong bài tân cổ “Xuân Này Con Không Về,” soạn giả Loan Thảo viết: “Ngày quết bánh phồng đêm canh nồi bánh tét…” Bài hát rất hay, thế nhưng Loan Thảo có nhầm lẫn không? Bánh phồng truyền thống ngày xưa quết vào ban đêm hay ban ngày?
Với người miền Nam bánh phồng thân thuộc không chỉ vì khẩu vị, nguyên liệu đều là thứ cây nhà lá vườn mà cách làm bánh, cách nướng bánh cũng tạo ra không gian đầm ấm, đoàn kết gia đình tình làng nghĩa xóm.
Khác với những thức ăn khác có thể làm trong im lặng, bánh phồng là loại bánh biết nói, tiếng chày quết bánh phồng vang vang trầm ấm giữa đêm khuya về sáng trong mùa giáp Tết, nhất là sau ngày 23 Tháng Chạp đã trở thành ký ức, là hoài niệm về không gian Tết của bao thế hệ người Việt sinh từ những năm 1960 về trước.
Vì sao quết bánh ban đêm?
Ca khúc “Xuân Này Con Không Về” của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân được soạn giả Loan Thảo viết thành bài tân cổ giao duyên cùng tên khá nổi tiếng trong nhiều thập niên qua. Bài hát rất dễ thương, rất Tết, với những hình ảnh rất quê hương “én liệng trời cao mai đào vàng trước ngõ,” “mẹ… ngồi tựa cửa mong chờ”…
Nhưng trong đó có câu “Ngày quết bánh phồng đêm canh nồi bánh tét…” chừng như có sự nhầm lẫn vì thời ấy, bánh phồng hiếm khi quết ban ngày mà thường quết bánh vào nửa đêm về sáng. Chính nhịp chày âm vang trong gió chướng lúc nửa đêm về sáng đã pha chất thi vị cho không gian làng quê những ngày giáp Tết mà soạn giả Hoa Phượng đã viết rằng “tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang…”
Không phải người dân cố tình tạo ra sự lãng mạn, thi vị mà điều kiện sản xuất thủ công thời đó, các công đoạn của việc làm bánh phồng buộc phải làm đêm mới thật sự an toàn, bảo đảm bánh thật ngon nở phồng, thơm xốp. Các công đoạn này không được rời rạc mà phải liên tục và phối hợp nhuần nhuyễn của những bàn tay khéo léo, thật tỉ mỉ.
Phân chia theo nguyên liệu, có hai loại bánh phồng nếp và bánh phồng mì (sắn theo miền Bắc). Dù theo loại nào cách làm bánh cũng trải qua các công đoạn xội nếp, hấp mì; quết bột; cán bánh và phơi liên tục với nhau. Xôi nếp phải quết khi đang nóng, bột nếp quết xong phải cán ngay nếu không sẽ bị khô, sượng, cán xong phải phơi dưới nắng trực tiếp để bánh khô đều, không bị ương, sượng. Chính vì vậy, bánh phồng thường được quết từ nửa đêm về sáng để kịp đưa ra phơi nắng sớm. Quết bánh ban ngày nếu chậm trễ không kịp phơi nắng bánh sẽ không ngon.
Ngay với những làng nghề làm bánh phồng bán ra thị trường như Đăng Hưng Phước, Chợ Gạo, Tiền Giang hay bánh tráng Sơn Đốc ở xã Hưng Nhượng, Giồng Trôm, Bến Tre, những gia đình làm bánh phải ngủ từ lúc chạng vạng để lấy sức và trễ lắm là lúc gà gáy đợt đầu là tiếng chày quết bánh phồng đã vang lên râm ran khắp xóm.
Tình người trong bánh
Thông thường mỗi mẻ bánh là 16 lít nếp, khi xôi chín chia thành hai cối, quết thật nhuyễn. Người không chuyên không có công cụ quết bằng chày vồ rất nặng nhọc, mất sức vì mỗi cối phải quết trên 300 chày. Những nhà làm bánh chuyên nghiệp có chày giả đạp bằng chân, do hai ba người cùng phối hợp. Trong lúc quết có một thợ vùa, ngồi ngay bên cạnh cối để lăn trở bột và cho thêm các loại gia vị nước cốt, đường vào bột. Bánh ngon hay dở phần lớn được quyết định từ khâu này, người vùa khéo tay lăn trở đều gia vị ngấm tan đều, bột nhuyễn mịn không bị chai sượng.
Bột đã nhuyễn mịn được chuyển sang công đoạn bắt, cán gồm một người bắt bột và nhóm bảy, tám người cán bánh ngồi quanh nhau trên tấm đệm hay trên sạp gỗ.
Người thợ cả bắt bột vò thành viên tròn, ném cho từng người cán dùng ống cán tre ép bột thành chiếc bánh tròn đều. Công đoạn này quyết định tính thẩm mỹ của cái bánh. Những người bắt bánh chuyên nghiệp chỉ bằng tay có thể ngắt ra những cục bột khối lượng bằng nhau chỉ chênh lệch một vài gram.
Mỗi mẻ bột có thể cho ra 300 hay 500 bánh tùy theo nhu cầu khách hàng mà không dư không thiếu. Những bàn tay cán bột khéo léo mềm mại như múa trên cục bột lại làm ra cái bánh có độ dày đều nhau tăm tắp vì nếu có chỗ dày chỗ mỏng khi phơi bánh sẽ bị nổ và khi nướng bánh không tròn đều, giòn xốp. Bánh cán xong được trải ra các tấm đệm bằng hoặc chiếu lát để kịp phơi khi trời hửng nắng.
Thời gian phơi bánh không cần lâu lắm, chỉ trong một buổi, nhưng cần nắng tốt để bánh không bị sình ương.
Tình làng nghĩa xóm kết trong cái bánh!
Ngày nay, ở xã Hưng Nhượng hầu hết những lò bánh phồng thương hiệu Sơn Đốc đã cơ giới hóa các khâu quết, cán ép để tăng năng suất và giảm chi phí, riêng lò chú Út vẫn duy trì việc cán thủ công.
Chú Út giải thích rằng, so với cán máy, bánh cán tay khi nướng chín đẹp hơn vì nó phồng đều, cái bánh vẫn tròn mà không bị cong vênh. Bánh thủ công cán tay cũng xốp đều hơn do bột khô hơn bánh cán máy. Chính vì vậy, dù tốn nhiều lao động hơn, giá thành cao hơn trong khi giá bán vẫn như nhau nhưng chú Út vẫn duy trì việc cán thủ công mà không cán máy. Chú giải thích, mình chịu thiệt một chút nhưng làm ra cái bánh ngon đẹp cho khách hàng như tặng thêm niềm vui cho khách trong ba ngày Tết.
Cách suy nghĩ của chú Út có thể nói là đi ngược với thời cuộc hiện nay, khi mọi người đều chạy theo lợi nhuận. Đó có thể là tình yêu nghề cũng có thể là sự rơi rớt lại của sinh hoạt tình làng nghĩa xóm trước đây khi cái bánh chưa là hàng hóa, người dân tự làm bánh để cúng ông bà và đãi khách dịp Tết.
Vì tính chất, quy củ của việc làm bánh phồng chặt chẽ như vậy, nên ngày xưa hiếm có gia đình nào tự một mình đủ sức làm bánh phồng, cũng không ai nghĩ đến chuyện thuê mướn nhân công làm bánh.
Người ta thường hợp thành nhóm dần đổi công với nhau, nay làm nhà này, mai nhà khác. Đàn ông thì dần công quết bánh, vùa, vô nước bánh, phụ nữ thì dần công cán bánh. Không khí xúm xít đoàn kết này làm những ngày cận Tết thêm bận rộn nhưng cũng thêm vui. Chính vì vậy, ký ức Tết trong bánh phồng với người có tuổi càng đậm đà hơn.
Nhưng đâu chỉ có trong ngày Tết, bánh phồng xưa còn phổ biến trong đời sống hằng ngày qua món xôi đậu gói bánh phồng. Món ăn sáng bình dân, ngon miệng no lâu thích hợp với tuổi học trò.
Chỉ còn là ký ức?
Với giới trẻ ngày nay bánh phồng đơn thuần chỉ là cái bánh quê. Người có lòng nhớ thì mua bánh chợ về cúng Tết, hiếm có gia đình nào làm bánh phồng để ăn. Đám giỗ kỵ ngày nay thường vắng món bánh phồng. Giới trẻ có quá nhiều thứ “sang chảnh” để lựa chọn nào hot dog, pizza… nên món xôi đậu gói bằng bánh phồng cũng không còn đất sống.
Tiếng chày quết bánh phồng đã chìm vào quá khứ. Tại sao như vậy? Phải chăng bánh phồng không ngon? Phải chăng vì vô tình chạy theo những món ăn thời thượng, người Việt quay lưng với truyền thống văn hóa ẩm thực của ông cha?
Có một điều có thể nhận ra ngay là sự tinh tế, thi vị nhưng cũng là khó khăn khi nướng bánh phồng. Muốn bánh nở đều, thơm xốp phải nướng bằng lửa rơm, hoặc bằng than thật đượm. Người nướng phải thật khéo tay lăn trở, đổi mặt thật đều để bánh phồng xốp.
Với các cô gái trẻ được khen nướng bánh khéo đã là một thành tích đáng tự hào. Với trẻ con, nhìn miếng bánh nở phình trên bếp chuyển màu từ trắng sang hồng nhạt loang lổ da beo giống như phép màu phù thủy.
Ngày nay đa số gia đình đều dùng bếp gas và không phải ai cũng có lò nướng điện nên việc nướng bánh đã thành trở ngại.
Vắng tiếng quết bánh phồng, không gian Tết đã nhạt đi. Vắng màu sắc vàng hồng của bánh trên bàn thờ gia tiên, vị Tết càng thêm nhạt. Trong cuộc hành trình trở về ký ức, mong rằng mỗi gia đình nên mang theo cho mình hương vị ngọt béo của chiếc bánh phồng trên bàn thờ Tết, bên tách trà, câu chuyện hàn huyên chờ đón Giao Thừa, chắc hẳn vị Tết sẽ nồng hơn.