khktmd 2015
Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016
Việt Kiều Mỹ bị bắt vô cớ ở VN, phải làm gì để được can thiệp thả ra về lại Hoa Kỳ
Trong mấy ngày qua, cộng đồng Facebook xôn xao về việc một công dân Hoa Kỳ gốc Việt, cô Nancy Nguyễn, bị bắt cóc và giam biệt tích bởi công an Việt Nam.
Khi được tin này, BPSOS đã lập tức chuyển thông tin cá nhân của cô Nancy Nguyễn đến Toà Đại Sứ Hoa Kỳ và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để can thiệp. Chính phủ Hoa Kỳ cho biết họ rất quan tâm về trường hợp này và các nhân viên sứ quán Hoa Kỳ ở cả Sàigòn lẫn Hà Nội thuộc bộ phận Dịch Vụ Công Dân Hoa Kỳ (American Citizen Services) đang ráo riết can thiệp.
Theo thoả thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết năm 1994, Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ có quyền tiếp xúc với công dân bị giam giữ nội trong vòng 96 tiếng đồng hồ kể từ khi bị bắt. Công dân Hoa Kỳ có quyền cự tuyệt không trả lời và không hợp tác với nhân viên thẩm vấn của Việt Nam cho đến khi đã nói chuyện được với Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ.
Như một biện pháp phòng thân, công dân Hoa Kỳ cần giữ các số điện thoại dưới đây để liên lạc khi mình hay thân nhân của mình là công dân Hoa Kỳ gặp khó khăn ở Việt Nam:
Trong giờ làm việc: (04) 3850-5000 nếu gọi từ Việt Nam, hoặc 011-84-4-3850-5000 nếu gọi từ Hoa Kỳ.
Ngoài giờ làm việc: 090-340-1991 nếu gọi từ Việt Nam, hoặc 011-84-90-340-1991 nếu gọi từ Hoa Kỳ.
Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ và chính quyền Hoa Kỳ nói chung có trách nhiệm bảo vệ công dân.
Chúng tôi khuyên những công dân Hoa Kỳ trước khi lên đường đến Việt Nam nên để lại cho thân nhân ở Hoa Kỳ các thông tin liên lạc kể trên cùng với một bản photocopy passport của mình, phòng khi nhỡ ngại và cần sự can thiệp của Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Trở lại với trường hợp của cô Nancy Nguyễn, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi sự can thiệp của Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ và đang làm việc với Quốc Hội Hoa Kỳ để sẵn sàng lên tiếng nếu đến Thứ Hai phía Việt Nam vẫn chưa chấp nhận để Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam nói chuyện trực tiếp với cô Nancy Nguyễn.
Cá chết miền Trung : Ngư dân thất nghiệp, dân lo nhiễm độc
Phỏng vấn Linh mục Mai Xuân Ái (Quảng Bình)
Phỏng vấn Linh mục Nguyễn đình Thục(Nghệ An)
Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016
Kẻ Thù Dân Tộc Viet Nam: TẬP CẬN BÌNH
41 năm sau ngày Cộng Sản chiếm Sài Gòn, bạn thù đã rõ. Người dân mong chờ một chế độ dân chủ cùng các thành phần đối lập tranh đấu chống áp bức trước những quốc nạn tham nhũng, đàn áp nhân quyền, hiểm họa môi sinh, cầu cứu người bạn Hoa Kỳ còn đảng CSVN bám víu quyền lực, chống phá nhân dân, cầu cứu đàn anh cộng sản Trung Quốc. Bài học chính trị ngày 30 tháng 4 năm 1975 của đảng CSVN dạy dân Việt Nam: phải biết phân biệt bạn thù, nay dân Việt đã nhìn rõ mặt kẻ thù phương Bắc: Tập Cận Bình và đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ).
Ðầu thế kỷ thứ 21, Tập Cận Bình là một lãnh tụ Cộng Sản nhiều quyền lực nhất, thâm độc nhất. Với bộ mặt giả nhân giả nghĩa và nụ cười nham hiểm họ Tập đã đánh lừa cả thế giới và dân Trung Hoa sau hơn nửa đường của nhiệm kỳ năm năm chủ tịch nhà nước và tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Trong hơn hai năm đầu, Tập Cận Bình đã tạo một hy vọng giả tạo cho dân Trung Hoa qua chính sách bài trừ tham nhũng và cải tổ chính quyền. Các nhà tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền hơn hai năm trước đã nghĩ là Tập Cận Bình sẽ đi một đường dân chủ cấp tiến vì chính họ Tập và ông bố của Tập Cận Bình đã là nạn nhân của Mao Trạch Ðông.
Dưới thời Mao, dân Trung Hoa đã bị cai trị bằng bạo lực vô sản, chuyên chính, Mao là nhà độc tài với chủ thuyết Cộng Sản, đàn áp và giết những người chống đối đảng. Năm 1935 bố của Tập Cận Bình xém bị xử tử, năm 1962 bị đuổi ra khỏi đảng, qua thời Cách Mạng Văn Hóa, bố của Tập Cận Bình bị tra tấn đã bị bắt buộc về hưu, có lúc tuyệt vọng ông ta đã định tự tử. Tập Cận Bình bị xem là con nhà tư sản, bị đuổi về quê làm lao động, trốn khỏi nông trường bị bắt lại, bị tiếp tục đi lao động khổ sai. Ðến thời Ðặng Tiểu Bình, hai bố con Tập Cận Bình được trọng dụng. Bố của TCB sáng lập vùng kinh tế đặc biệt Thẩm Quyến, cán bộ trung kiên nòng cốt của đảng năm 1987 ông ta đã đứng cùng với Hồ Cẩm Ðào, trung thành với họ Hồ nên bố của TCB không bỏ phiếu loại trừ họ Hồ ra khỏi đảng nhờ vậy khi Hồ Cẩm Ðào lên làm chủ tịch cha con họ Tập được trọng dụng. Tập Cận Bình có tinh thần thực tiễn như Ðặng Tiểu Bình, quản trị ba tỉnh Phúc Kiến, Thượng Hải, Chiết Giang thành công với chủ trương đặt phát triển kinh tế lên hàng đầu. Cả hai cha con họ Tập thành công, khác hẳn với các nhận định của giới quan sát Tây Phương là nhờ tinh thần thờ Mao chủ tịch. Họ Tập không chủ trương một xã hội dân sự mà chủ trương xã hội thần phục lãnh tụ như họ Mao. Các nạn nhân thời Mao đã thất vọng với Tập Cận Bình khi thấy họ Tập đi con đường của Mao, họ đã bật ngửa khi được đọc bản tiểu sử mới về bố Tập Cận Bình được đảng CSTQ mới phát hành. Cuốn tiểu sử này ghi ngược lại về cuộc đời hai cha con họ Tập. Năm 1935, Mao Trạch Ðông đã cứu cha họ Tập khi ông suýt bị xử tử! Sau đó Mao cử bố Tập Cận Bình đi làm cán bộ ở Giang Nam rồi lên đến bí thư sau 1949. Tập Cận Bình đổ tội cho Khang Sinh chứ không phải Mao Trạch Ðông đã hại cha ông ta. Khang Sinh là giám đốc công an tình báo của đảng Cộng Sản Trung Quốc thập niên 1940 và trong thời kỳ cao điểm cách mạng văn hóa thập niên 1960 và 1970. Họ Khang trung thành và sát cánh với Mao Trạch Ðông trong thời chiến tranh Trung-Nhật, Khang ảnh hưởng Tập Cận Bình với tinh thần bài Nhật. Cuốn tiểu sử mới cho biết Vệ Binh Ðỏ đã bắt nhốt cha con Tập Cận Bình là vì lệnh của Chu Ân Lai để bảo vệ Tập Cận Bình chứ không phải để hãm hại ông ta!
Tập Cận Bình được xem là có công trong việc hủy bỏ chính sách một con ở Trung Hoa, một chính sách kế hoạch hóa gia đình của Ðặng Tiểu Bình từ năm 1978 đến 1980 khi họ Ðặng mở cửa giao hảo với Hoa Kỳ và Tây Phương. Họ Ðặng cởi mở đối với Tây Phương nhưng tàn nhẫn với dân Trung Hoa che đậy bằng những lời dối trá. Liên Hiệp Quốc và Quốc Tế Nhân Quyền kêu gọi tự do ngôn luận, bình đẳng nhưng kế hoạch hóa gia đình không phải là mối quan tâm của thế giới. Họ Ðặng cho thế giới thấy chính sách một con là chính sách tình nguyện, người không theo chỉ bị phạt chứ không bị đàn áp bằng võ lực. Tây Phương có cảm tình với những cố gắng hiện đại hóa và kiểm soát dân số của Trung Hoa nên vô tình đồng lõa với tội ác Cộng Sản, một tội ác mà tác giả Mei Fong của cuốn sách “Một Con” xem là một tội ác văn hóa nguy hiểm độc hại hơn Cách Mạng Văn Hóa hay Bước Nhảy Vọt đưa đến nạn đói thời Mao Trạch Ðông.
Chính sách một con đã phá hủy gia đình, danh từ “anh em” biến mất trong xã hội Trung Hoa, tạo ra giai cấp hoàng tử, ảnh hưởng lâu dài trên 120,000 trẻ con nuôi Trung Hoa ở các nước (khi chúng lớn lên mới biết chúng không phải là trẻ mồ côi mà là những đứa trẻ được sinh ra trong gia đình có hơn một con cha mẹ phải đem đi giấu và cho người nước ngoài nuôi qua các chương trình nhận trẻ mồ côi). Chính sách một con đưa đến phá thai, bắt buộc giải phẫu ngừa thai. Trung Cộng cấm gia đình người Hoa nuôi con nuôi cùng với chính sách hộ khẩu đưa đến tội sát nhân. Chính sách khiến người Trung Hoa chỉ thích con trai, phương pháp siêu âm để biết trai gái trở thành một dụng cụ để khuyến khích phá thai.
Xã hội Trung Hoa già nua, lao động giảm, vì thiếu đàn bà con gái nên các hình tượng như người Robot đàn bà kích thước cao như người thật trở nên có giá, thanh niên mua giá hơn 5.000 Mỹ kim. Tập Cận Bình bị ảnh hưởng cô con gái cưng cho đi du học Harvard về đã bỏ chính sách một con. Bỏ chính sách một con của Ðặng Tiểu Bình nhưng họ Tập đi con đường khác họ Ðặng. Xã hội Cộng Sản không khác gì những chuyện Tàu thời Ðông Châu Liệt Quốc hay Hán Sở tranh hùng, con người lãnh tụ mang hai ba bộ mặt. Qua sách viết về Tập Cận Bình của Agnes Andresy, Ðặng Tiểu Bình khi mở cửa để buôn bán với Âu Mỹ đã ca ngợi Mao Trạch Ðông. Năm 1981, Ðặng Tiểu Bình tuyên bố rằng những cống hiến của Mao nhiều hơn là lỗi lầm, công nhiều hơn tội, theo tỷ lệ là 7/3. Nói để lấy lòng những đảng viên Cộng Sản trung thành cuồng tín nhưng trên thực tế họ Ðặng hủy bỏ tất cả những gì Mao Trạch Ðông làm. Ðông-Tây khác nhau trong cái nhìn về giai đoạn Ðặng Tiểu Bình. Giới Tây Phương cho rằng họ Ðặng đã cứu hệ thống cơ cấu xã hội và đảng CSTQ sau khi Mao Trạch Ðông đã đập phá nhưng họ Tập lại cho rằng họ Ðặng đã phá hoại tinh thần và huyền thoại Mao Trạch Ðông. Con em của bọn sáng lập viên đảng Cộng Sản như Tập Cận Bình bây giờ tự xem là những kẻ thừa hưởng “di sản dưới vòm trời” mà cha ông của họ đã có công chiếm và chinh phục dưới sự lãnh đạo của Mao. Cha ông của họ gốc gác dân quê nay đã lên cầm đầu vương quốc ấy.
Họ Tập tôn thờ Mao và tượng Mao được dựng khắp nơi trong khi tượng Lê Nin bị giật sập ở các nước Ðông Âu và Liên Xô cũ. (Con cháu đảng CSVN cũng bắt chước họ Tập trong hơn hai năm qua, tượng Hồ Chí Minh được dựng khắp nơi để chờ ngày dân nổi lên giật sập!). Chính cái tinh thần mới quái gở gìn giữ quyền lợi và truyền thống mà Lưu Nguyên con của Lưu Thiếu Kỳ, người bị Mao Trạch Ðông loại bỏ và giết, lại đứng ra ủng hộ Tập Cận Bình lập lại ý thức hệ Mao, sửa lại tiểu sử của cha con họ Tập. Con của bọn cán bộ trung thành với Mao ngày trước bị thanh trừng hay bị sát hại nay lập ra hội “Con Cháu Giang Nam” ở Bắc Kinh và hội Bắc Kinh “phát triển văn hóa” của các cha già dân tộc.
Câu châm ngôn của Hồng Vệ Binh trong thời cách mạng văn hóa giờ đây thành châm ngôn của các ông hoàng trong đảng như con cháu họ Hồ Cẩm Ðào, Giang Trạch Dân, Tập Cận Bình: “Nếu cha là anh hùng thì con cũng là người hùng còn cha phản cách mạng thì con là quả trứng thối.” Một bọn a dua chạy theo quyền lực và quyền lợi, bắt chước họ Tập, quên Mao là kẻ sát hại cha mình. Huyền thoại Mao được họ Tập làm sống lại vì như lịch sử nước Trung Hoa trong mấy ngàn năm, huyền thoại cần để củng cố quyền lực nhất là khi Tập Cận Bình lên tóm quyền hành Tổng tư lệnh quân đội từ tổng bí thư đảng qua chủ tịch nhà nước, và hơn 10 chủ tịch ủy ban khác trong thời gian Trung Cộng phải đối đầu với những khó khan từ trong nước: kinh tế khó khăn đang xuống dốc, hàng triệu công nhân thất nghiệp, nhu cầu xuất cảng xuống, ngân hàng có nhiều món nợ xấu, các hiểm họa môi sinh càng ngày càng tăng với không khí ô nhiễm từ các xưởng kỹ nghệ lớn, ngoài nước đảng đang bị Hoa Kỳ, Nhật và các nước Ðông Nam Á đoàn kết chống bá quyền Trung Cộng bành trướng từ Ðài Loan qua đến các đảo Ðiếu Ngư và các đảo ở Biển Ðông. Ðiển hình của thái độ Tập Cận Bình, ngoài mặt mạnh trong yếu, là câu tuyên bố của Ngoại Trưởng Vương Nghị với Nhật “phải tôn trọng lịch sử, Ðài Loan là một phần của Trung Hoa, không được phao tin đồn thất thiệt là kinh tế Trung Hoa trên đường đi xuống, các đảo ở Biển Ðông là của Trung Cộng.”
Mô hình lãnh đạo của Mao là mô hình của Tập Cận Bình, tóm tất cả quyền hành từ đảng qua đến quân đội, họ Tập nguy hiểm hơn hai chủ tịch tiền nhiệm Hồ Cẩm Ðào và Giang Trạch Dân. Bắt chước Mao, Tập Cận Bình chỉ dùng một số cận thần tin cậy trung thành ngay từ khi họ Tập bắt đầu nắm quyền, như chánh văn phòng Lật Chiến Thư (Li Zhanshu) trung thành tuyệt đối với Tập Cận Bình. Khác với các chủ tịch tiền nhiệm, phụ tá của họ Tập không tiếp xúc với người ngoài vòng trong và nhất là với người nước ngoài. Họ Tập theo mô hình Mao để tránh bị ám sát và lật đổ, nhất là sau chiến dịch chống tham nhũng, bằng cách kiểm soát chặt chẽ quân đội qua quyền chủ tịch ủy ban quân quản và dùng vệ sĩ thân tín, Thiếu Tướng Vương Thiếu Quân, như Mao Trạch Ðông đã dùng Ðại Tá Uông Ðông Hưng. Họ Tập cũng bắt chước dáng điệu của Mao ngồi bất động khi tiếp xúc hay ban hiệu lệnh. Bắt chước kiểu của Mao, họ Tập nhấn mạnh “văn hóa và báo chí phải là họng và lưỡi của đảng” không có tự do báo chí ngôn luận, nhấn mạnh quân đội phải dưới quyền kiểm soát của đảng. Họ Tập cấm tự do ngôn luận, tự do dân chủ Tây Phương, những giá trị mà giới trẻ Trung Hoa đang theo đuổi, cảnh cáo đảng viên không được nói xàm, nói “vô trách nhiệm” theo những giá trị dân chủ Tây Phương.
David Shambough đã xem thời đại Tập Cận Bình nguy hiểm hơn Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Ðào, “dân Trung Hoa bị áp bức hơn lúc nào hết kể từ sau biến cố Thiên An Môn 1989-1992.” Trong hai năm qua, Tập Cận Bình dẹp nhà thờ, kéo thánh giá xuống, đàn áp Tân Cương Tây Tạng, nhốt luật sư nhân quyền, giới hạn hoạt động cơ quan từ thiện NGO, thay sách vở ngoại quốc trong đại học kể cả những sách chuyên môn bằng sách của Trung Hoa.
Thời Mao, dân gọi bác Mao, thời nay dân và đám cận thần gọi Tập Cận Bình là “bố Tập,” hình ảnh “Bố” giống như “bố già” của Mafia đang được đài truyền hình CCTV và ký giả bớt dùng sau khi đảng khuyên cáo nhưng trên mạng lưới chữ “Bố Tập” vẫn được thông dụng.
Trong thời đại thông tin kỹ thuật, Tập Cận Bình nguy hiểm hơn Mao Trạch Ðông, cùng một ý hướng làm hoàng đế bắt chư hầu các nước thần phục nhưng Tập Cận Bình có đầy đủ tin tức và phương tiện hơn Mao vào thời cách mạng Cộng Sản bắt đầu ở Trung Hoa. Trong tay họ Tập có đầy đủ tin tức từ trong nước ra ngoại quốc, họ Tập dùng đàn em tin cận sử dụng mạng lưới tin tức chứ không như Mao Trạch Ðông dùng Vệ Binh Ðỏ thất học. Ý thức hệ mới của Tập Cận Bình là sửa đổi nhưng không cách mạng, sửa đổi là tổng hợp ý thức hệ cách mạng của Mao và theo thời đại mới. Cải tổ nhưng không theo hệ thống Tây Phương, các công ty quốc doanh vẫn ưu tiên trong kinh tế thương mại, dùng pháp luật để loại trừ đối lập chứ không phải là pháp trị tôn trọng dân quyền và nhân quyền, cải tổ sử dụng sinh viên trí thức cúi lưng quỳ gối ngay cả bọn con cháu đi học ở ngoại quốc về. Tập trung quyền hành của Tập Cận Bình khác với cải tổ của Ðặng Tiểu Bình. Họ Ðặng chia quyền lãnh đạo và giới hạn hai nhiệm kỳ, họ Tập nhấn mạnh hai nhiệm kỳ năm năm và dự tính thêm một nhiệm kỳ thứ ba giống như Putin và Nguyễn Phú Trọng cũng đang học bài học này.
Cuốn sách họ Tập đang viết thay cho cuốn sách Hồng, “Tư Tưởng Tập Cận Bình” lập thuyết “Trung Quốc Maxít (Sino - Marxist Theory) khác với lời dạy của Ðặng Tiểu Bình. Chương trình kinh tế chính trị của họ Tập nhắm đến năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập đảng cộng sản, lợi tức mỗi đầu người dân Trung Hoa sẽ là 30.000 Mỹ kim, tổng sản lượng Trung Hoa sẽ chiếm 30% tổng sản lượng thế giới.
TT Obama trong chuyến đi Á Châu sắp đến sẽ đối diện với những tham vọng của Chủ Tịch Tập Cận Bình khác với một Ðặng Tiểu Bình qua Mỹ năm 1979 để bắt đầu một hy vọng mới cho thế giới.
Dân Hà Nội Mua Láng Giềng Xa, Bán Láng Giềng Gần
Nhiều người dân Hà Nội hoan nghênh và cảm thấy háo hức về chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng Thống Barack Obama, đồng thời bày tỏ lòng ngưỡng mộ nhà lãnh đạo Hoa Kỳ.
Anh Nguyễn Văn Hồng, một người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, hiện là tài xế xe taxi, cho biết anh rất hoan nghênh chuyến thăm viếng của tổng thống Hoa Kỳ.
“Tôi rất vui khi thấy tổng thống Mỹ thăm Việt Nam, đặc biệt ông Obama là một nhà lãnh đạo giỏi. Cho dù ông ấy là người da đen, nhưng đối với người Mỹ, ai làm được việc thì họ bầu lên,” anh Hồng nói.
Những người trẻ tuổi hơn nhìn tổng thống Mỹ như một tấm gương với lòng ngưỡng mộ.
Cô Đinh Thị Minh, người gốc Quảng Ninh, đang học đại học tại Hà Nội, cho biết muốn vinh dự được nhìn tổng thống một lần.
Cô nói: “Cháu ngưỡng mộ Tổng Thống Barack Obama từ rất lâu. Cháu thường lên mạng tìm những bài phát biểu của tổng thống, không chỉ nghe để cải thiện phần tiếng Anh của mình, mà còn biết các ý tưởng mà tổng thống đưa ra để phục vụ tốt cho người dân.”
Ông Anthony Line, người Úc, sống ở Hà Nội được tám năm, cũng đồng tình với anh Hồng.
“Tôi nghĩ ông Obama đến thăm Việt Nam là tốt, sẽ làm cho kinh tế phát triển hơn, nhiều việc làm hơn. Tôi hoan nghênh việc ông đến thăm Việt Nam,” ông Line nói.
Ông Nguyễn Văn Tân, một người bán nước chè trên phố Hai Bà Trưng, gần hồ Hoàn Kiếm, cho rằng chuyến viếng thăm của ông Obama tốt cho người dân Việt.
“Ông Obama sang thì cũng tốt cho mình vì có quan hệ tốt,” ông Tân nói.
Em Vương Đình Tuấn, người Thanh Hóa, lên Hà Nội học cho biết em “chưa bao giờ” gặp tổng thống và mong muốn “lần này sẽ được gặp” mặc dù biết là khó.
“Em cũng biết Tổng Thống Barack Obama là người luôn cổ vũ hòa bình, nên em ủng hộ ông,” em Tuấn nói thêm.
Khi được hỏi, nếu phải chọn giữa Mỹ và Trung Quốc để làm bạn, người Việt Nam sẽ chọn ai, ông Hồng nói: “Theo tôi, có lẽ có tới 70% người dân Việt Nam thích chọn Mỹ làm bạn.”
Theo các giới chức Tòa Bạch Ốc, ông Obama sẽ đáp xuống phi trường Nội Bài, Hà Nội, vào đêm Chủ Nhật, 22 Tháng Năm. Sáng hôm sau, ông sẽ có cuộc gặp gỡ với Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang và có thể gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.
Các chủ đề ông Obama sẽ đề cập tới trong chuyến thăm Việt Nam bao gồm kinh tế, quan hệ giữa người dân hai nước, an ninh, nhân quyền, và các vấn đề trong khu vực và thế giới.
Không thấy ông Daniel Russel, phụ tá ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương nói liệu ông Obama có gặp Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân hay không.
Siết chặt an ninh
Cho tới nay, chưa ai biết phái đoàn Tổng Thống Barack Obama ở khách sạn nào trong số các khách sạn sang trọng tại Hà Nội như JW Marriott, Hilton, Sofitel Plaza, Intercontinental, Metropole, và Grand Plaza, vì lý do an ninh.
Tuy nhiên, khi phóng viên nhật báo Người Việt đến khách sạn JW Marriott Hotel ở cạnh Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia thuộc huyện Nam Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, chúng tôi thấy hai chiếc limousine chở tổng thống và khoảng hơn một chục chiếc xe SUV màu đen hiệu Chevrolet mang bảng số tiểu bang Maryland đậu ngay trước cửa ra vào của khách sạn, cùng với nhiều nhân viên người Mỹ đứng gần những chiếc xe này.
Maryland cũng là nơi căn cứ Không Quân Andrew, nơi chiếc Air Force One đậu, tọa lạc.
Những chiếc xe này có thể đã được các máy bay C-17 của Không Quân Mỹ chở đến Việt Nam từ mấy hôm trước, kèm theo một chiếc trực thăng Marine One.
Khi chúng tôi hỏi xin phỏng vấn giới chức điều hành khách sạn, họ đều từ chối.
Thậm chí, nhân viên bảo vệ ở đây không cho chúng tôi quay phim ngay cả bên ngoài khách sạn, và nói rằng “vì lý do an ninh.”
Khi chúng tôi bước ra bên ngoài quay phim, một người khác, cao cấp hơn, cũng bước ra cấm chúng tôi quay phim chụp ảnh, và nói rằng “dù đứng bên ngoài cũng không được chĩa máy vào quay mặt tiền khách sạn.”
Theo Tòa Bạch Ốc, ông Obama sẽ đọc một bài diễn văn về quan hệ Việt-Mỹ tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia ngay cạnh khách sạn JW Marriott này.
Được biết, JW Marriott Hotel cao tám tầng, có 450 phòng, trong đó có ba nhà hàng, và nhiều phòng lớn có thể tổ chức hội nghị. Đây là khách sạn 5 sao loại sang nhất trong các loại khách sạn của tập đoàn Marriott.
Theo giới truyền thông Việt Nam cho biết, phái đoàn của ông Obama bao gồm khoảng từ 800 đến 1,000 người, và có sáu khách sạn ở Hà Nội đã được họ đặt thuê toàn bộ phòng.
Ngoài Tổng Thống Barack Obama, phái đoàn sẽ bao gồm Ngoại Trưởng John Kerry, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Susan Rice, Đại Diện Thương Mại Mỹ Michael Froman, và nhiều người khác nữa.
Khi phóng viên nhật báo Người Việt phỏng vấn anh Hồng trên đường Giảng Võ thì có một đoàn xe hơi cảnh sát cùng với khoảng 30 chiếc mô tô hụ còi chạy mở đường vào con đường đầy xe cộ, nhưng không có phái đoàn nào theo sau, như thể họ đang thực tập trên các con đường đông đúc xe cộ của Hà Nội.
Theo báo Người Lao Động, công an Hà Nội sẽ huy động 100% cảnh sát giao thông để bảo đảm trật tự giao thông cho đoàn xe chở tổng thống Mỹ.
Ngoài ra, trong ngày ông Obama ở Hà Nội, thành phố sẽ cấm nhiều tuyến đường để bảo đảm giao thông thông suốt cho đoàn xe.
Anh Hồng nhận định: “Rất ít khi có một tổng thống Mỹ đến Việt Nam, điều này cũng đúng thôi, mình phải chấp nhận lái xe đi đường khác xa hơn, để họ tiếp nhà lãnh đạo Mỹ cho dễ dàng.”
Cũng theo giới truyền thông trong nước, hôm Thứ Sáu, một chiếc trực thăng Marine One thứ nhì được máy bay C-17 chở đến phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, chặng dừng chân thứ nhì của ông Obama trong chuyến thăm Việt Nam.
Gỡ bỏ cấm vận vũ khí?
Theo nhật báo The Los Angeles Times trích lời các giới chức Hoa Kỳ nói rằng, tại Việt Nam, ông Obama nhiều phần sẽ gỡ bỏ thêm một phần lệnh cấm vận vũ khí đới với quốc gia cựu thù này - nhưng không loại trừ khả năng ông có thể gỡ bỏ tất cả - sau khi lệnh này đã được gỡ bỏ phần nào lần đầu tiên vào năm 2014.
Ngoài ra, Hà Nội đang cân nhắc một yêu cầu của Washington, theo đó, sẽ cho phép tàu chiến Mỹ vào quân cảng Cam Ranh thường xuyên hơn, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc có các hành động bành trướng trên Biển Đông.
Cho tới hôm Thứ Sáu, vẫn theo báo LAT, ông Obama vẫn chưa có quyết định gì về nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí vì còn lo ngại vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.
Cũng trong hôm Thứ Sáu, sáu dân biểu thuộc lưỡng đảng tại Hạ Viện Hoa Kỳ ký một lá thư gởi Tổng Thống Barack Obama yêu cầu ông “giữ nguyên lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với CSVN” vì “Việt Nam không có một tiến triển nào về nhân quyền.”
Sáu dân biểu ký tên trên lá thư này là Alan Lowenthal (Dân Chủ-California), Loretta Sanchez (Dân Chủ-California), Christopher Smith (Cộng Hòa-New Jersey), Zoe Lofgren (Dân Chủ-California), Jim McDemott (Dân Chủ-Washington), và Judy Chu (Dân Chủ-California
Ai Nói: "Nên làm bạn với Mỹ hơn", chắc còn nhớ câu:"Khi Đồng Minh Tháo Chạy"
Đỗ Dzũng (NV): Là một người Hà Nội, anh nghĩ sao về chuyến viếng thăm của Tổng Thống Barack Obama đến Việt Nam?
Nguyễn Văn Hồng (NVH): Là một người dân Hà Nội, cá nhân tôi cũng như người dân Việt Nam rất hoan nghênh chuyến viếng thăm của tổng thống đến nước Việt Nam của chúng tôi.
NV: Về cá nhân Tổng Thống Barack Obama, ông là tổng thống thứ 3 đến Việt Nam. Trước đây có 2 tổng thống là Bill Clinton và ông George Bush. Ông Obama là người da đen. Anh nghĩ ông Obama có gì đặc biệt?
NVH: Theo tôi nghĩ, người da đen hay người da trắng, miễn lãnh đạo tốt thì không có vấn đề gì cả.
NV: Lúc nãy trên đường đi, chúng ta thấy có xe cảnh sát thực tập đi đường để chuẩn bị cho ngày ông Obama đến đây, tức là họ mở đường. Anh là một tài xế taxi, anh có cảm thấy là chuyến đi này của ông Obama ảnh hưởng đến cuộc sống, đời sống của anh không? Anh có bị chặn đường không?
NVH: Không có vấn đề gì cả, vì khi lãnh đạo các nước sang thì người dân phải có trách nhiệm là nhường đường hoặc là làm bất cứ điều gì có lợi cho đoàn đi qua thông thoáng.
NV: Nếu nói riêng về cảm tính của anh, giả sử cho anh chọn, nếu là ông Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang đây với ông Obama sang đây, anh thích gặp ai hơn?
NVH: Nếu mà nói về hai ông đó thì riêng cá nhân tôi, tôi có cảm tình với ông Obama hơn.
NV: Vì sao?
NVH: Vì ông ấy là một người lãnh đạo rất tốt với nước Mỹ và không có vấn đề gì với Việt Nam nên tôi cảm thấy là ông ấy thân thiện hơn.
NV: Nếu mà cho người dân Việt Nam chọn, theo như anh nhìn, giữa hai người, Obama và Tập Cận Bình, người ta chọn ai? Bao nhiêu phần trăm?
NVH: Theo nhận xét riêng của cá nhân tôi, có lẽ khoảng 70% người dân Việt Nam sẽ ủng hộ ông tổng thống Mỹ.
NV: Vì sao vậy anh?
NVH: Vì cũng như lý do tôi vừa nói, ông Obama rất là thân thiện và ông ấy là một người lãnh đạo rất tốt của nước Mỹ.
NV: Nếu bây giờ giả sử cho người dân Việt Nam chọn, hoặc làm bạn với nước Mỹ, hoặc làm bạn với Trung Quốc, anh thích ai hơn, và tại sao?
NVH: Theo tôi thì nên làm bạn với Mỹ hơn.
NV: Câu hỏi cuối cùng với anh Hồng: Anh thấy các lãnh đạo Việt Nam, khi tiếp các lãnh đạo thế giới, đặc biệt là tổng thống Mỹ, thì anh thấy có xứng tầm hay không về mặt hình dáng hay về mặt quốc gia?
NVH: Theo tôi, hình dáng của người Việt Nam thì nhỏ bé hơn, đứng thì trông cũng không được đẹp lắm nhưng vốn người Việt Nam đã như vậy, và chúng tôi thấy các lãnh đạo của Việt Nam có vẻ không được tự nhiên lắm.
NV: Xin cảm ơn anh.
Công dân Mỹ gốc Việt mất tích trước khi Tổng thống Obama đến Việt Nam
Một công dân Mỹ mất tích tại Sài Gòn trước khi Tổng thống Obama đến Việt Nam.
Cô Nancy Nguyễn, có biệt danh Bánh Ngọt được bạn bè và người thân cho là mất tích đêm hôm qua sau khi về tới Sài Gòn ba ngày trước. Trên Facebook của cô công khai một bức thư gửi cho cha mẹ nói rằng cô về Việt Nam để thực hiện giấc mơ tranh đấu của cô.
Nancy Nguyễn đã tới thăm Dòng Chúa Cứu Thế và Linh mục Lê Ngọc Thanh thông báo trên Facebook của ông rằng rất lo ngại cho sự biến mất của cô.
Chiều tối hôm qua không ai liên lạc được với Nancy và có nguồn tin chưa tiện tiết lộ báo rằng cô đã bị công an bắt.
Nancy Nguyễn từng tham gia biểu tình ở Hồng Kông khi phong trào dù vàng nổ ra. Cô hăng say trong sinh hoạt chính trị ở hải ngoại nhưng luôn chủ trương bất bạo động và tin tưởng vào sự thành công của phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.
Trong thời gian gần đây nhiều người trẻ hải ngoại đã có mặt tại Việt Nam để có thể quan sát, tham dự các cuộc biểu tình chống ô nhiễm môi trường trước chuyến công du của tổng thống Obama đến Việt Nam vào ngày 22 tháng này.
Một trong những đổi chác của Mỹ và CSVN: LM Nguyễn Văn Lý ra tù
Linh mục Nguyễn Văn Lý, tù nhân lương tâm được nhiều người trong và ngoài nước biết tiếng, vừa ra khỏi tù trong ngày 20 tháng 5.
Linh mục Phan Văn Lợi, một thân hữu cùng trong nhóm Nguyễn Kim Điền với người vừa được trả tự do, cho biết sau khi ông đến Tòa Giám mục thăm linh mục Nguyễn Văn Lý về:
“Sáng hôm nay vào lúc 11 giờ tôi đã đến tại Nhà Chung, thuộc Tòa Tổng Giám mục Huế để thăm linh mục Lý và tôi được nói chuyện với linh mục Lý trong vòng nửa giờ đồng hồ.Theo tôi nhận thấy tình trạng sức khỏe của ngài thật sa sút, người ốm o lại, mất đi cái gọi là ‘nét đẹp’ ngày xưa. Ngài cao 1,8 mét nhưng ốm lắm và không thể đứng thẳng người được, đi phải lom khom. Đó là sự tàn phá về mặt thể xác qua 8 năm ở trong nhà tù.
Nhưng về mặt tinh thần, cha Lý vẫn minh mẫn, sáng suốt, vẫn kiên trì. Tôi biết sở dĩ hôm nay ngài được về Nhà Chung là do sự đấu tranh cuối cùng của ngài. Ban đầu Nhà nước quyết định đưa cha Lý về lại giáo xứ Bến Củi, một giáo xứ nhỏ cách thành phố Huế 30 cây số về phía bắc. Đó là nơi họ quản thúc cha Lý hơn 1 tháng trời vào năm 2007, sau đó đưa ngài ra tòa và xử án 8 năm tù. Nhưng cha Lý nói nếu các ông đưa tôi về Bến Củi thì tôi xin được tiếp tục ở lại trong nhà tù này.
Họ cũng nói với cha Lý rằng đây là đặc xá của chủ tịch nước, nhưng cha Lý nói không có đặc xá gì cả mà đây là món quà mà các ông muốn cho Hoa Kỳ trước khi tổng thống Mỹ đến Việt Nam mà thôi. Hơn nữa tôi không có tội gì để các ông gọi là đặc xá. Họ nói ông có tội là tội tuyên truyền. Cha Lý nói có tuyên truyền nhưng không phải tội. Đó là cha Lý tuyên truyền ba điều mà ông cho là quan trọng mà phía cơ quan chức năng không dám đối chất: thứ nhất là những bí mật về ông Hồ Chí Minh, thứ hai là cái chết của đức tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, chính các ông đã đầu độc vào năm 1988; thứ ba là chính nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam làm mất Hoàng Sa và Trường Sa.
Sáng hôm nay khi gặp phường để làm thủ tục giấy tờ, cha Lý nói không được cho công an, an ninh canh gác trước Nhà Chung để dò xét, ngăn cản những người đến thăm linh mục Lý. Ngài nói nếu làm thế là đưa ra lời mời ngài tiếp tục tranh đấu.”
Xin được nhắc lại linh mục Nguyễn Văn Lý vào ngày 15 tháng năm vừa qua ông tròn 70 tuổi.
Ông được nhiều người biết đến với câu nói ‘tự do tôn giáo hay là chết’ cũng như bức ảnh ông bị miệng tại phiên xử ở Huế vào năm 2007 với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tòa năm ấy tuyên án ông 8 năm tù giam và 5 năm quản chế.
Đó không phải là lần đầu ông bị bắt và bị tuyên án tù. Lần đầu tiên ông bị bắt vào năm 1977 và bị tuyên án 20 năm tù. Lần thứ hai vào năm 1983, ông bị kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với cáo buộc ‘gây rối trật tự’. Vào năm 2001, ông bị kết án 15 năm tù giam với cáo buộc ‘phá hoại chính sách đoàn kết’ và không chấp hành quyết định quản chế hành chính.
Ông là một trong những thành viên sáng lập ra Khối 8406 và Đảng Thăng Tiến Việt Nam.
Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016
Thể chế của ma cà rồng và ngụy tín về một lãnh tụ - Tác giả Nguyễn Hoàng Văn
“Đất nước này rồi sẽ về đâu?”, câu hỏi day dứt như một điệp khúc bất tận với những tiếng thở dài tưởng chừng bất tận khi những tin dữ dồn dập tiếp nối nhau và, bất chợt, tôi rờn rợn nghĩ đến xứ sở u ám của những con ma cà rồng trên màn ảnh Hollywood.
Tôi hoàn toàn không tin chuyện ma quỷ. Tôi cũng chưa bao giờ đủ kiên nhẫn chịu đựng một phim ma quá năm phút dẫu đạo diễn và tài tử lừng danh đến mấy. Nhưng càng đối mặt với những câu chuyện đau đớn về đất nước, tôi càng bị ám ảnh bởi cái xứ sở lạnh lẽo nhờ nhờ sáng tối không hề dành cho con người ấy.
Kể ra thì đất nước đã từng bị ví như là một thứ đất của ma rồi, như Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, từ tận năm 1990. Nhưng dẫu sao thì đó cũng chỉ là một phần nhỏ của đất nước và, bất quá, chỉ là thứ chính trị tủn mủn quanh cái đình làng đã phủ bóng cờ đỏ búa liềm với cuộc tranh giành quyền lực và đền đáp ân oán giữa đám người đầy mưu ma chước quỷ, những cai tổng, lý trưởng và trương tuần lưng lận tấm thẻ đảng viên, mở mồm là thưa nhau… đồng chí. Nếu chữ “ma” ở đây hàm ý sự chết chóc thì đất nước chúng ta đã là một nơi mà cái chết đã quá đỗi… bình thường.
Có lẽ chưa bao giờ người Việt Nam giết nhau một cách dễ dàng, thoải mái và… vô duyên như lúc này, giết từ một vụ quẹt xe nhỏ nhặt bên đường, giết từ một ánh mắt không ưa trong quán nhậu, thậm chí ngay trong tiệc cưới. Trong thời chiến chúng ta đã đau đớn đối mặt với những cái chết chớp nhoáng và dữ dội nhưng bây giờ thì chai sạn với đủ kiểu lìa đời. Người Việt Nam đang bị giết, từng ngày từng giờ, ồn ào hay thầm lặng, gấp gáp hay từ từ, tức tưởi chết ngay hay đau đớn chết mòn. Chết nạn trên đường vì những rắc rối trong chuyện đô thị hoá và thặng dư xe máy từ… tận Trung Quốc: chuyện bình thường. Chết lúc hành nghề giữa biển vì những rắc rối trong “tình hữu nghị lâu đời”: chuyện bình thường. Từng người, từng người chết giữa trụ sở công quyền vì những rắc rối trong “nhận thức pháp lý” của những chức sắc nhà nước: chuyện cũng bình thường. Từng làng và từng “làng ung thư” chết mòn vì những rắc rối môi trường: thì cũng bình thường thôi. Rừng chết và sông đang giãy chết với vô số dự án thuỷ điện: vẫn là chuyện bình thường. Và cả biển. Biển đang giãy chết, còn chế độ thì hùng hục đưa cả “hệ thống chính trị vào cuộc” để dụ dỗ lẫn đe nẹt cả nước phải nhởn nhơ như không có gì đáng gọi là rắc rối!
Nếu chết là hết thì ma, theo truyền thuyết, lại là những linh hồn vất vưởng, không nơi thờ tự. Nhưng đất nước chúng ta bây giờ đâu chỉ ma với những kiếp sống vật vờ? Đâu chỉ ma với những “công bộc quốc gia” quản trị tài nguyên như những âm hồn và bảo vệ đất nước như những âm binh? Tình thế còn tồi tệ đến mức chúng ta phải nghiến răng nghĩ tới giống ma chuyên hút máu người.
Nếu ma cà rồng “sinh tồn” bằng cách cắn cổ hút máu người thì đất nước chúng ta, sau mấy mươi năm dưới ách toàn trị, cũng đang quằn quại trong cái cuộc mưu sinh có khác nào trò cắn cổ nhau? Nếu những nạn nhân của ma cà rồng, sau vết cắn đầu tiên, bị hoá thân thành chính giống ma này thì đất nước đã bước vào một thời kỳ mà bất cứ thân phận nạn nhân nào, vô tình hay cố ý, cũng có thể dễ dàng xoay chuyển để đóng trọn vai trò thủ phạm. Có một thời, để sống, người ta phải đấu tố, phải đạp lên đầu, phải giẫm vào cổ họng nhau. Và bây giờ, cũng để sống, người Việt Nam thản nhiên hại nhau, thản nhiên lừa lọc bán rẻ hay đầu độc nhau. Để sống, con người phải hành xử như ma, như quỷ. Mà ai cũng cần phải sống cả, nên cách sống ma quỷ hoá ấy đã trở thành... bình thường. Nói có phần quá đáng thì, để sinh tồn, người Việt Nam đang hút máu của người Việt Nam. Và nói không quá đáng chút nào thì, để tồn tại, chế độ toàn trị đã sa đoạ hoá dân tộc bằng thứ văn hoá hút máu người. Văn hoá dân tộc đang bị chuyển hoá thành một thứ văn hoá ma cà rồng.
Nếu ma cà rồng là những xác chết biết đi thì cái “cộng đồng văn hoá hút máu người” với những thể chế chính trị tại Nga, Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn lại cùng chia sẻ một đặc điểm mang tính biểu tượng ở mấy cái xác chết chỉ biết nằm.
Khó mà gọi là ngẫu nhiên khi bốn chế độ hút máu người ấy đều tôn thờ... xác chết, mà là mấy cái xác lạnh ngắt bất toàn, không một chút huyết cầu.[1] Xác Vladimir Lenin, sau gần một thế kỷ tẩm ướp và vô số lần súc rửa định kỳ, theo một thông tin vào năm 2008, chỉ còn lại “10 phần trăm Lenin”.[2] Rồi Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành, thi thể lạnh ngắt của những lãnh tụ chết chưa chôn này còn lại được mấy phần? Năm 1976, chỉ sau bảy năm thôi, khi Trung Quốc chuẩn bị ướp xác cho Mao thì mũi Hồ Chí Minh đã thối và râu thì đã rụng, phải che mắt thế gian bằng hàng giả thế vì.[3] Mà Mao, trong giai đoạn chuẩn bị tang lễ, đã bị hành hạ hay tra tấn còn tệ hơn cả con cá hay con vịt trong công đoạn nhồi nhét gia vị hương liệu trước khi bỏ vào nồi hầm. Bụng Mao bị mổ banh, cắt bỏ hết đồ lòng để nhét bông gòn tẩm thuốc ướp. Từng mạch máu của Mao bị hút, hút sạch sẽ, hút đến hồng huyết cầu cuối cùng cũng để bơm thuốc ướp. Thuốc ướp tràn ngập, thuốc ướp ê hề, thuốc ướp nhiều đến độ da Mao bóng nhẫy vì nước thuốc rỉ ra qua lỗ chân lông, mặt Mao phù lên như trái banh, cổ Mao phồng ra bằng cái đầu, hai tai Mao sưng vù, dựng đứng thành một góc 90 độ. Một Mao Trạch Đông mà nhân chứng diễn tả “trông thật là quái dị”, cái sự quái dị rất ư là... bình thường với thế giới quỷ ma.[4]
Như một biểu tượng, mấy cái xác ướp bất toàn này lại yên vị giữa vị trí thờ tự để đảm nhiệm vai trò nuôi dưỡng... linh hồn cho chế độ. Chúng ta chế biến thật kỹ một con cá hay con vịt trước khi ném vào nồi là để phục vụ cái nhu cầu khoái khẩu của chúng ta. Chế độ cộng sản thì “chế biến” cái thi hài bị cắt xẻo và hút máu của lãnh tụ để phục vụ cái tham vọng quyền lực đời đời của nó. Nó dùng thuốc ướp để nuôi dưỡng hòng da thịt lãnh tụ... sống đời. Đến lượt, sự “sống đời” của khối da thịt bị tùng xẻo từ bên trong ấy sẽ đảm nhiệm vai trò của một thứ “thuốc ướp” hòng bảo quản cho sự “sống đời” của chế độ. Và, như là luật nhân quả, mối quan hệ cộng sinh oan khuất này lại đưa đến những biến tướng quái dị trong các mối quan hệ của xã hội, nhân quần.
Tôi phải nói ngay là tôi không tin vào sự quả báo theo ý nghĩa tâm linh. Nhưng tôi rất tin vào nó như một quy luật xã hội. Những kẻ, như tôi từng biết, từng hăng hái xung phong và hung hãn đi đầu trong phong trào đập chùa phá miếu sau năm 1975 – có thể xem như một thứ… “tiền bối” của đám “dư luận viên” bắng nhắng hiện tại – lại là những kẻ bị tàn mạt, hậu vận chẳng ra gì, con cháu đời sau tàn mạt, chẳng ra gì. Đây không phải là sự báo ứng do một thế lực siêu nhiên từ trên cao chi phối mà là một quy luật nằm ngay dưới mặt đất bởi chỉ có hạng không ra gì mới sốt sắng giẫm đạp lên tín ngưỡng của người khác. Thứ đã không ra gì thì sẽ bị nhân gian e sợ và xa lánh, xử sự theo đúng cách cần xử sự với thứ không ra gì và, bởi thế, thứ không ra gì sẽ khó mà ngóc đầu lên nổi.
Quy luật đó, xem ra, cũng hiệu nghiệm khi cả xã hội cúc cung tôn thờ những giá trị chẳng ra gì. Tôn thờ một cái xác chết chẳng ra gì, chấp nhận một chế độ chẳng ra gì cũng có nghĩa là đã chọn lựa một phần số… chẳng ra gì. Chế độ đã chẳng ra gì thì, để tương xứng với mình, phải sa đoạ hoá con người để họ… chẳng ra gì với nhau. Hậu quả là một thời đại chẳng ra gì. Chẳng ra gì với quá khứ khi lãnh thổ thấm máu tổ tiên bị cắt xẻ và sang nhượng hàng loạt. Chẳng ra gì với tương lai theo những gánh nợ trút lên đầu con cháu. Chẳng ra gì với trời đất, núi rừng, cây cỏ. Chẳng ra gì đến toàn phần, toàn diện.
Kiều rằng: Những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Cái còn lại của những đấng tài hoa là những “tinh anh” chứ không phải là phần thân xác của họ, dù bảo quản và bồi đắp bằng cách nào đi nữa. Không chỉ là Nguyễn Du, nhà thơ Bùi Giáng cũng cho chúng ta thấy điều đó, thật rõ, thật đơn giản, qua hình ảnh bàn chân “đè” lên dòng nước:
Ngươi con gái lôi qua khe
Bàn chân vơi nươc la?nh đè lên nhau
Nôi niêm tương la?i xưa sau
Bàn chân vơi nươc cùng nhau la?i đè
Chúng ta có dùng chân “đè” lên cái gì đó là để, hoặc, in dấu chân mình lên, hoặc, giữ nó nằm yên trong vị trí đã dành cho nó. Nước thì chảy cũng như thời gian thì trôi và ai có thể in dấu chân mình lên cái dòng chảy ấy? Và ai có thể chặn cái dòng trôi ấy lại? Chỉ những bậc tài danh, họ in và họ níu giữ thời gian bằng những “tinh anh” gói ghém trong sự nghiệp, trong tư tưởng và trong “nỗi niềm tưởng lại”. Như khi Nguyễn Du “Độc Tiểu Thanh Ký” với nỗi niềm “Bất tri tam bách dư niên hậu”, “tưởng lại xưa” mình 300 năm và “tưởng lại sau” cũng chừng ấy năm, cái nỗi niềm mà hôm nay, sau chưa đầy hai phần ba chặng đường, chúng ta vẫn đều đặn nhắc đi, nhắc lại.
Nhưng chế độ toàn trị thì khác, thô bỉ và thô bạo. Sợ bị lãng quên, nó cố in cho bằng được dấu chân và, để làm như thế, nó bắt cái dòng chảy kia phải đóng băng, đặc lại. Thời gian phải đóng băng với những giai đoạn u tối nhất thì lãnh tụ mới khả dĩ là “đỉnh cao tri tuệ” và chế độ mới khả dĩ loé lên một chút công lao. Phải đóng băng với thế kỷ 19 khi Karl Marx viết Tư bản luận. Phải đóng băng với thập niên 30 của thế kỷ 20 khi dân tộc còm cõi dưới ách thực dân. Và phải đóng băng với “tình hữu nghị” của thập niên 60 khi ngửa tay nhận súng đạn và lương khô từ tay kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Đó là một chủ trương ngu dân. Trò ngu dân nào cũng làm hao kiệt sinh lực đất nước cả, và để tồn tại và in lại dấu chân, nó đã huỷ diệt sức sống của dân tộc y như là loài ma cà rồng nhe nanh cắn cổ. Mà càng nhìn kỹ bao nhiêu, càng thấy nó giống với loài ma hút máu ấy bấy nhiêu. Ma cà rồng kỵ ánh sáng. Nó thì vật vã bưng bít thông tin và duy trì bóng tối. Ma cà rồng không thể hắt bóng. Nó thì phủ nhận sạch trơn những vết đen mình đã tạo ra. Ma cà rồng không phản chiếu hình bóng trong gương. Nó thì tránh né, không dám nhìn vào chân dung của mình khi bị tấm gương lịch sử chiếu rọi.
Và cũng giống như ma cà rồng, chế độ toàn trị chỉ có thể huỷ diệt khi bị đâm cọc xuyên tim, bị chặt đầu phơi ra ánh sáng. “Quả tim” hay “cái đầu” mà nó bảo bọc bằng bóng tối chính là những huyền thoại về lãnh tụ, là những chiến công và những kỳ tích chỉ có thể loé lên khi kéo ngược thời gian về trước. Phải phủ ánh sáng lên cái vệt đen nó hằng che đậy và phải phơi bày cái chân dung phản chiếu mà nó không dám ngước mắt nhìn.
Cái vệt tối hay chân dung phản chiếu đó, lúc này, chính là cảnh tang tóc dọc theo bờ biển miền Trung.
Hởi những ngư dân Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế đang đau đớn khi gia sản bị mất trắng. Thảm hoạ không chỉ là riêng của các bác các anh mà là thảm hoạ chung của dân tộc, một thảm hoạ mà cái giá phải trả không chỉ là của hôm nay mà còn của nhiều nhiều đời sau nữa. Cội nguồn sâu xa của thảm hoạ quốc gia xuyên thấu thời gian này không chỉ là sự vô lương tâm và tham lam của một công ty như Formosa và không chỉ là sự ngu xuẩn và vô trách nhiệm của những viên thượng thư và tri phủ hằng thưa nhau “đồng chí”. Sâu xa hơn, thảm hoạ đã bắt nguồn từ cái thể chế chính trị đã bắt thời gian phải ngưng lại như thế, đã đẻ ra những tri phủ và thượng thư ngu muội như thế, đã sang nhượng lãnh thổ cha ông trong những điều kiện mập mờ và thua thiệt như thế. Ngày nào cái thể chế đó còn tồn tại, ngày đó đất nước vẫn còn bị đầu độc, vẫn bị thua thiệt trước ngoại bang và sự chết, chết tức tưởi trước mắt hay chết đau đớn dần mòn, vẫn tiếp tục là chuyện bình thường.
Hỡi những ngư dân đang tan nát vì nguồn sống bị huỷ diệt kia ơi. Trong các bác các anh, hẳn, vẫn còn không ít người thật thà tôn thờ Hồ Chí Minh như cha một “cha già dân tộc”. Các bác và các anh phải hiểu rằng sự tôn thờ này chính là cái “nhân” khởi nguồn cho sự báo ứng hiện tại, khởi nguồn cho sự chà đạp và huỷ diệt những giềng mối của đạo lý và của môi trường sống. Hồ Chí Minh chẳng đã, nấp dưới chiêu bài “giành độc lập”, xem quyền lực của mình cao hơn môi trường sống của dân tộc qua lời hăm he “dẫu đốt cháy cả dãy Trường Sơn” hay sao?[5] Hồ Chí Minh chẳng đã hỗn láo với cả dân tộc mình khi, vào năm 1945, chỉ mới 55 tuổi, đã bắt cả nước gọi mình là bác, rồi sau đó, là “cha già dân tộc” hay sao?[6] Và Hồ Chí Minh chẳng đã vô đạo đến mức, trong di chúc soạn đi soạn lại suốt bốn năm trời, chỉ tuyên bố sẽ đi gặp cụ Mác, cụ Lê và các “đàn anh cách mạng” mà không có lấy nửa lời để nhắc đến tổ tiên mình hay sao?[7]
Một Hồ Chí Minh toàn thây đủ đầy hồn vía đã là thứ chẳng ra gì đừng nói là cái xác lạnh ngắt đầy hàng giả thế vì của va. Cái chế độ thờ xác cũng quái dị và bất toàn như chính cái xác bất toàn mà nó đang thờ. Dân tộc Việt Nam không thể mãi mãi cúi đầu tôn thờ cái xác không còn chút máu để tiếp tục quay cuồng trong cuộc sinh tồn trông như là hút máu lẫn nhau.
Để giành lại quyền sống thì phải đâm vào tim nó. Mà để đâm cho trúng tim nó thì, trước hết, phải gọi nó đúng tên. Cái thế lực đang cai trị đất nước như một lũ âm binh hoàn toàn không xứng đáng với danh hiệu “chính quyền”. Phải gọi đúng tên nó như một thứ ngụy quyền. Và phải gọi đúng xương cốt tinh thần của nó như một thứ ngụy tín. Ngụy quyền cộng sản và ngụy tín Hồ Chí Minh.
_____________________________
Chú thích và tài liệu tham khảo:
[1] Ferdinand Marcos – nhà độc tài Phillpines – cũng được ướp xác nhưng đây là chuyện của gia đình. Xác ướp này đặt tại tỉnh Ilocos Norte.
Khi qua đời năm 1953 Stalin cũng để lại ý nguyện ướp xác, để thi hài cạnh xác ướp Lenin. Tuy nhiên đến năm 1956, sau khi Đại hội đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 20 lên án tệ sùng bái cá nhân, Stalin bị hạ bệ,thi hài bị mang đi chôn tại nơi khác.
[3] Zhisui Li (1994) The Private Life of Chairman Mao: The inside story of the man who make modern China (Random House, London)n trang 23. Zhisui Li (Lý Chí Thỏa) là bác sĩ riêng của Mao sau sang định cư tại Mỹ và viết cuốn hồi ký trên
[4] Zhisui Li, sđd. trang 17–21. Sau khi Mao trút hơi thở cuối cùng vào sáng 9.9.1976, toán bác sĩ riêng được lệnh phải bảo quản thi hài trong vòng hai tuần để “cán bộ nhân dân mọi miền đến viếng”. Tuy nhiên sau đó uỷ viên Bộ chính trị Uông Đông Hưng (Wang Dongxing) – người phụ trách an ninh cho Mao – đã kéo Lý Chí Thoả ra một góc riêng, thông báo rằng Bộ Chính Trị đã quyết định bảo tồn đời đời: “Nhiệm vụ của anh là phải tìm cách thực hiện”.
Tôi xin lược dịch đoạn này:
Tôi sững sờ. “Nhưng ngài đã bảo tôi chỉ bảo quản thi hài trong trong hai tuần thôi mà” Tôi phản đối. “Tại sao lại gìn giữ thi thể vĩnh viễn. Năm 1956 Chủ tịch Mao đã trở thành người đầu tiên viết lời hứa là sẽ hoả táng sau khi chết. Tôi còn nhớ rõ ràng”. “Đó là quyết định của Bộ chính trị. Chúng tôi chỉ mới vừa quyết định”. Uông Đông Hưng trả lời.”
“Không thể nào làm được”, tôi phản đối, “Làm sao ngài có thể cảm thấy được việc này?”
“Thủ tướng Hoa (Hoa Quốc Phong) và tôi đều ủng hộ giải pháp này”, Uông trả lời.
“Nhưng việc này không thể thực hiện được”, tôi cãi lại. Tôi nhớ lại chuyến đi Liên Xô cùng với Mao năm 1957, tôi có ghé thăm xác Lenin và Stalin. Tôi được cho biết là mũi và tai của Lenin cũng như cơ thịt của Stalin đều rã nát và phải làm giả bằng sáp. Kỹ thuật ướp xác của Liên Xô dĩ là tối tân hơn của Trung Quốc nhiều. Tôi không thể tưởng tượng ra cách để ướp xác của Mao.
“Anh phải quan tâm đến nỗi lòng của chúng tôi”, Uông Đông Hưng trả lời với đôi mắt nhấp nháy.
“Vâng, dĩ nhiên”. Tôi đồng ý. “Nhưng khoa học Trung Quốc chưa tiến bộ đủ cho công tác này”.
“Vì vậy nên chúng tôi sẽ tìm ra người để giúp anh. Bất cứ thứ gì anh cần, thiết bị, tiện nghi, bất cứ thứ gì, chỉ cần báo cho tôi biết”. Uông cam kết với tôi. “Trung ương bảo đảm rằng anh sẽ có mọi thứ cần thiết”.
Thống chế lão thành Diệp Kiếm Anh đến nhập bọn. Diệp Kiếm Anh là một trong những đảng viên đầu tiên của đảng Cộng Sản Trung Hoa, một trong những người thành lập ra Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc và là một trong những uỷ viên bộ chính trị tôi mến nhất.
Thống chế Diệp hỏi ý kiến tôi về việc lưu giữ xác Mao chủ tịch. Tôi nhắc lại sự phản đối của mình. Sau một hồi im lặng, ông nói: “Bác sĩ Lý, trong tình thế này chúng ta không có chọn lựa nào khác là tuân thủ quyết định của Bộ chính trị. Nhưng tại sao bác sĩ không tham vấn với Viện Thủ công và Mỹ nghệ để họ có thể làm tượng chủ tịch Mao bằng sáp? Nói họ làm giống như thật. Nếu cần thiết thì sau này chúng ta có thể dùng tượng sáp này để thay thế”.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Ít ra cũng có Diệp Kiếm Anh, phó chủ tịch quân uỷ trung tương, một trong những thành viên then chốt của Bộ chính trị, không khăng khăng đòi phải làm chuyện không thể làm được.
Uông Đông Hưng đồng ý, nhưng dặn tội không được hé môi về chuyện này.
Đầu tiên là nhiệm vụ giữ xác Mao Trạch Đông trong hai tuần và việc này khá đơn giản, tác giả thuật:
Chúng tôi đã bơm tất cả 22 lít thuốc ướp, nhiều hơn quy định của công thức trên đến 6 lít với hy vọng rằng sẽ chắc ăn. Việc này kéo dài lê thê và mãi đến 10 giờ sáng hôm sau mới xong.
Kết quả thật kinh khủng. Mặt của Mao phù lên. Trông giống như trái banh vậy còn cổ của ông ta thì to bằng cái đầu. Nước da ông ta bóng nhẫy khi thuốc ướp bắt đầu rò rỉ ra khắp lỗ chân lông, trong giống như đang chảy mồ hôi. Hai tai ông ta cũng sưng vù lên, dựng đứng thành một góc 90 độ so với cái đầu. Thi hài này trông thật là quái dị. Nhân viên cận vệ và phục dịch ai nấy cũng kinh hoảng. Trương Ngọc Phượng (Zhang Yufeng – thư ký riêng và là tình nhân của Mao) la lên: “Các người đã làm gì để chủ tịch nhìn kinh khủng như thế này. Các người nghĩ rằng trung ương sẽ cho phép các người làm những chuyện như thế này à?”
Hứa Tĩnh thì vẫn giữ bình tĩnh nhưng tôi cảm thấy lo lắng cho Trương (Trương Bình Trường - Zang Bingchang). Mặt mày tái mét, anh ta trở nên bồn chồn. Tôi cố trấn an anh ta: “Đừng lo. Chúng ta sẽ nghĩ ra cách nào đó để giải quyết”.
Bằng cách nào đó chúng tôi phải khôi phục nhân dạng của Mao nhưng không có cách nào để lấy thuốc ướp ra ngoài. Tôi nói, “Thân thể ông ta phù lên thì cũng được vì có quần áo che lại. Nhưng chúng ta phải sửa mặt và cổ của ông ta lại.”
Trương đề nghị: “Có lẽ nếu chúng ta xoa bóp thì chúng ta sẽ đẩy thuốc ướp trở lại thân thể”. Cả toán dùng khăn tay và những nùi bông gòn để xoa bóp, bắt đầu từ mặt của Mao trước, cố xoa bóp để ép thuốc ướp chạy về cơ thể. Khi Trần xoa bóp quá mạnh, một mảng da trên má phải của Mao bị rách, tuột ra ngoài. Trần run lẩy bẩy vì sợ. Nhưng Mã trấn an: “Chúng ta có thể trang điểm. Anh ta dùng một nùi bông để quẹt vaseline và một thứ nước màu rồi thấm lên chỗ da rách. Việc trang điểm này thật hiệu quả và không ai có thể nhận ra vết rách nữa.
Bốn người này miệt mài làm việc đến ba giờ chiều. Cuối cùng, mặt Mao bình thường trở lại. Hai tai không còn dựng đứng nữa. Chỉ cần cổ còn phù lên nhưng các nhân viên bảo vệ và phục vụ cho rằng như vậy là đỡ lắm rồi. Nhưng khi mặc quần áo cho thi hài của Mao thì không ai tài nào cài nút được vì ngực ông ta phồng lên to quá. Thế là phải cắt dọc ở phần sống lưng mới có thể cài được, cả quần của ông ta cũng được mặt theo cách này mới có thể vừa với thân hình mới.
[6] Thành Tín (1991), Hoa xuyên tuyết (Nxb. Nhân Quyền, California), tr. 117. Thành Tín là bút hiệu của Bùi Tín, cho biết lần đầu tiên Hồ Chí Minh công khai xưng là “bác” năm 1945 trước công chúng, lúc đó ông ta 55 tuổi.
[7] “Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.”
Hồ Chí Minh soạn di chúc từ 1965 đến 1969.
Bản di chúc đầu tiên hoàn tất ngày 15.5.1965 có chữ ký của “nhân chứng” Lê Duẩn ở góc trái, gồm ba trang.
Sau đó Hồ Chí Minh “lén” viết hai bản khác. Bản thứ hai, gồm 6 trang viết tay: viết lại đoạn mở đầu, thêm phần giải thích về bản 1965 và thêm một số đoạn khác. Nhưng Hồ Chí Minh không yên tâm và tiếp tục viết thêm, thế là có bản thứ ba ký ngày 10.5.1969 ra đời.
Sau khi Hồ Chí Minh chết Bộ Chính trị mới khám phá ra hai bản di chúc viết “vụng” này nên quyết định xào nấu thành bản “chính thức”:
Phần “nhập đề”: trích từ bản 1969. Đoạn viết về việc hậu sự, Hồ Chí Minh gọi là “việc riêng”, lấy từ bản 1968 .
Việc xào nấu di chúc này bị giữ kín, mãi đến năm 1989 mới được công bố qua thông báo số 151 của Bộ Chính trị, ký ngày 19.8.1989.
Viết cho người trẻ hôm nay
Tôi đã đi biểu tình từ nhiều năm trước với một thái độ bình thản đặc biệt. Không vui không buồn, thậm chí còn phải vượt qua nỗi lười nhác cố hữu để bước chân xuống đường giữa trời nắng nóng.
Nóng, mệt, ngột ngạt lắm, nhưng phải đi.
Đi với người Sài gòn, với đồng bào mình.
Đi để tỏ lòng phẫn nộ với một tình hữu nghị điếm đàng, mà kết quả là giàn khoan ngạo nghễ trên lãnh hải của cha ông, là xác anh em ngư phủ phải về nhà trên những khoang thuyền ướp đá.
Tôi đã đi, và tôi thấy cảnh nồi da xáo thịt. Đánh đập, làm nhục, dò xét, theo dõi…
Tôi đã đi. Và tôi ngậm ngùi biết mấy khi thấy nhiều người trẻ Sài gòn vẫn chụm đầu tình tự dưới những hàng me. Như thể cách đó chưa đầy một góc phố, đã có những người trẻ khác đổ mồ hôi, và cả máu nữa.
Tôi đã chụp những người trẻ Sài gòn rạng rỡ trong tấm áo T shirt màu dỏ sao vàng, tươi cười nắm tay nhau đi đòi chủ quyền cho đất nước.
Bao nhiêu tấm áo đỏ màu cờ đó đã bị đánh đập, câu lưu? Tôi không biết!
Và hôm nay, tôi cũng thong thả xuống đường. Một bộ quần áo sạch, một đôi giày mềm, một túi xách với chiếc máy ảnh thân yêu, tôi lại đi bên những người trẻ Sài gòn
Có những người trẻ năm xưa nay gặp lại.
Có những khuôn mặt mới, trẻ hơn, tươi hơn.
Có những cô gái xuống đường vì biển xanh của tổ quốc nhưng ăn mặc như thể cho một chiều Sài gòn “hẹn hò đây đó”
Có cô gái trẻ miền tây mù tịt về chính trị chính em nhưng sẵn sàng bước chân vì quê hương đang hạn mặn.
Có những bạn trẻ gốc Bắc di cư, tranh thủ hoà vào đám đông trước giờ lễ chiều chủ nhật.
Và cũng có những khuôn mặt trẻ khác, đằng đằng sát khi, hung ác. Sẵn sàng quăng quật, đánh đập đồng bào mình không thương tiếc.
Tôi đi. Và tôi thấy trong đám đông đó chỉ thấy màu xanh của biển cả. Tôi không “thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”, không thấy T shirt cờ đỏ sao vàng mà chỉ thấy áo in hình cá, hình biển.
Tôi thấy trên những khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi đó hình dong của đất nước tôi. Một đất nước đang cùng bừng tỉnh trước cơn mê muội của một tình hữu nghị điếm đàng nhất lịch sử.
Tôi thấy lòng yêu biển cả, lo âu về môi trường và khát vọng tự do của những người trẻ đang nổi giận.
Và hơn hết, nỗi giận đó được biểu hiện bằng những hình thái công chính, văn minh. Nó cao hơn mọi mưu đồ vương bá hay những tuyên truyền xúc xiểm hạ cấp.
Tôi ghét những chiêm nghiệm đầy đe doạ của người xưa: “dân như nước. Nâng thuyền cũng dân mà lật thuyền cũng là dân”
Tôi muốn nói một điều duy nhất: “Soil, water, air! Youth take care”.
Hãy giao cho người trẻ hôm nay bầu trời, biển cả của đất nước. Vì chính khát vọng tự do mà ta thấy trên gương mặt người trẻ hôm nay mới làm cho non nước trường tồn, chứ không phải bất cứ mưu đồ vương bá nào khác.
Tôi muốn bắt tay các bạn trẻ đã xuống đường với lòng kính trọng và thương mến đặc biệt, thưa các bạn.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)