Diễn Đàn Trái Chiều : BÀI 272: CÂU CHUYỆN BIỂU TÌNH 6/1/2021 (diendantraichieu.blogspot.com)
Chúng ta vẫn còn Xuân, nên – ít ra cho các bà các cô – xin nói ngay về… nhân duyên! Cái nhân (nguyên nhân sâu xa) là cuộc phiêu lưu của Tổ hợp SVB Financial Group lại bị đại họa. Cái duyên là biến cố nhất thời mà bất hợp thời là lạm phát khiến Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất (interest rate) và chi phối phân lời trái phiếu (yield)! Hãy nghĩ tới một con bệnh gặp cơn gió lạnh: con thuyền đã bấp bênh nay gặp bão, và chìm!...
Như mọi khi, trước hết là về bối cảnh, cho một bài sẽ khá dài.
Ta vừa chứng kiến một vụ đắm đò khi California Department of Financial Protection and Innovation (CDFPI) ra lệnh đóng cửa ngân hàng lớn hạng thứ 16 của Mỹ là Silicon Valley Bank of Santa Clara (SVB) giữa ngày Thứ Sáu 10 Tháng Ba 2023. Biến cố khó xảy ra nội trong ngày đó mà phải có triệu chứng và lý do từ trước. Vì vậy, xin tổng hợp các dữ kiện về bối cảnh làm cơ sở theo dõi tiếp hậu quả. Mà xin nhớ cho hai thực thể: Ngân hàng SVB chỉ là tấm bình phong vừa bị lật, doanh nghiệp mẹ là Tổ hợp SVB mới chéo giò và bị đóng cửa hôm Thứ Sáu.
Xin được vắn tắt (từ A tới B) các sự kiện do báo chí tường thuật. Sau đó mới phân tách về nhân duyên hầu dự đoán ra hậu quả.
A/ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NÂNG LÃI SUẤT. Do nạn lạm phát, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ (sẽ viết tắt là FED) đã dồn dập nâng lãi suất từ cuối năm ngoái, vốn ở mức quá thấp từ nhiều năm, để chặn đà mất giá của đồng bạc khi vật giá gia tăng. Hậu quả là giới đầu tư hết dám lấy rủi ro như xưa: tiền bạc thành đắt hơn. Sự kiện đó gieo họa cho các doanh nghiệp vừa mới thành lập (loại thân chủ chính của Ngân hàng SVB).
B/ MỘT SỐ THÂN CHỦ CỦA SVB THIẾU HIỆN KIM. Do khó khăn ngắn hạn đó (thời khoảng dưới hai năm), thị trường cổ phiếu phát hành lần đầu (Initial Public Offering, IPO) của loại doanh nghiệp tân lập bèn chặn hết mọi hy vọng vay tiền để khuếch trương. Việc vay mượn riêng cũng thành đắt giá hơn. Nhiều thân chủ của Ngân hàng SVB đành rút tiền ký thác hầu có đủ hiện kim (thanh khoản hay tiền mặt). SVB bèn kiếm tiền đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đến tuần qua là cao điểm.
C/ NGÂN HÀNG SVB BÁN LỖ TRÁI PHIẾU. Hôm Thứ Tư 08 Tháng Ba, SVB phải bán 21 tỷ bạc trong tích sản (assets), đa số là Công khố phiếu Hoa Kỳ (trái phiếu do nhà nước phát hành, U.S. Treasuries) với phân lời trung bình là 1,79%. Mức quá thấp so với phân lời (yield) loại Công khố phiếu có kỳ hạn 10 năm đang ở mức 3,9%. Làm tính trừ ta thấy ra cái lỗ, được SVB xác nhận ở khoảng 1,8 tỷ bạc. Tới lượt SVB lo kiếm tiền để tăng vốn. Bằng cách bán cổ phiếu của mình.
D/ VỤ BÁN CỔ PHIẾU THẤT BẠI. Ngân hàng SVB thông báo hôm Thứ Năm 09/Tháng Ba sẽ bán 2,25 tỷ các loại cổ phiếu của mình để trám vào lỗ hổng. Cuối hôm đó, cổ phiếu SVB mất giá 60% vì giới đầu tư sợ rằng việc các thân chủ rút tiền ký thác sẽ khiến SVB còn phải tìm thêm thanh khoản!
E/ NHIỀU ĐẠI GIA ĐÃ NHÌN THẤY XA HƠN. Tình hình không chỉ xoay vần trong vài ngày, một số đại gia tỷ phú trong giới đầu tư đã thấy sớm hơn. Trong thế giới tận dụng loại “tư bản mạo hiểm” (“venture capital”, VC, sẽ giải thích sau) nhiều doanh nghiệp khuyên các thân chủ sớm rút tiền khỏi Ngân hàng SVB để tránh lỗ vốn, thí dụ là tỷ phú Peter Thiel của quỹ đầu tư Future Fund. Lập tức, một đại gia như General Atlantic đã được SVB dạm hỏi khi bán cổ phiếu cũng có phản ứng lắc đầu. Phản ứng dây chuyền đã xảy ra, mà xảy ra sớm hơn ta biết!
F/ CDFPI NHẬP CUỘC, ĐÓNG CỬA SVB. Do khách hàng ồ ạt vào Ngân hàng SVB rút ký thác, cơ quan hữu trách của California là California Department of Financial Protection and Innovation (CDFPI) lập tức can thiệp: 1/ đóng cửa SVB, 2/ cho cơ quan FDIC Federal Deposit Insurance Corporation quyền quản lý thay; 3/ FDIC bèn lập ra ngân hàng khác là Deposit Insurance National Bank of Santa Clara (DINB) để từ Thứ Hai 13 sẽ quản lý tài sản trị giá 209 tỷ đô la, kể cả 174,5 tỷ ký thác để bảo vệ quyền lợi của giới ký thác có bảo hiểm với FDIC.
G/ LÝ DO KHỦNG HOẢNG PHẢI ĐƯỢC THẤY TỪ LÂU. Lý do khiến thân chủ (đa số là nhân viên các tổ hợp điện tử và giới đầu tư loại ‘tư bản mạo hiểm’) rút tiền ký thác nên được thấy từ lâu: Ngân hàng SVB là phân vụ của Tổ hợp SVB Financial Group, chính tổ hợp này mới bị rung chuyển. Chứ vì đặc tính chuyên biệt với vùng Silicon Valley, lại do vụ khủng hoảng tài chánh năm 2008, các ngân hàng đều thủ thế và trữ vốn khá cao: rủi ro từ Ngân hàng SVB thật ra lại có giới hạn.
Có gì hơi lạ núp sau tấm bình phong là Ngân hàng SVB! Xin được qua phần phân tách - và thưa trước là còn nhức đầu hơn!
1/ Từ thời lập quốc Hoa Kỳ đã có đặc tính ham phiêu lưu để khám phá điều mới lạ. Cũng vậy, thị trường mà có sáng kiến mới hay doanh nghiệp mới, thì cần vốn giúp mình vượt giông bão đi tới thành công. Đó là hình thái liên doanh giữa ai có vốn và người có sáng kiến muốn khai triển kỹ thuật mới để làm giàu rồi chia nhau kết quả. Về hình thái gây vốn, họ dùng từ “venture capital” hay VC là “tư bản mạo hiểm”. Hiện tượng đã có cả trăm năm trước, rồi bùng nổ với tiến bộ khoa học và thuật lý về sau. Nơi bùng nổ đáng kể là Silicon Valley tại miền Bắc Cali!
2/ Nơi đó, Tổ hợp SVB Financial Group là công ty tài chánh chuyên vận động vốn loại “tư bản mạo hiểm” để tài trợ các doanh nghiệp hay sáng kiến mới, liên hệ đến thuật lý cao cấp (high technology). Làm chủ Tổ hợp là các đại gia có tiền và dám lấy rủi ro để kiếm thêm tiền. Tổ hợp giải quyết các dịch vụ đa năng và phức tạp, như a) ráp nối loại tư bản mạo hiểm (VC); b) tài trợ dự án của các công ty cần vốn giữa một số đối tác tư nhân (là private equity firms) thay vì ra thị trường chứng khoán; c) đầu tư vào ngành thuật lý hoặc sinh thuật lý (biotechnology); d) làm môi giới cho các đại gia cực giàu tại Silicon Valley. Vì vậy, ngoài ngân hàng thương mại SVB vừa nổi tiếng, Tổ hợp còn nhiều phân bộ chuyên môn khác, như SVB Securities là loại ngân hàng đầu tư, SVB Capital chuyên về vốn mạo hiển, hay SVB Private chỉ lo cho thân chủ riêng! Rắc rối thật.
3/ Ngân hàng SVB là một công cụ của Tổ hợp để huy động vốn vào các việc đó. Tiếng là một ngân hàng thương mại (nhận ký thác và cho vay), thật ra SVB còn là ngân hàng đầu tư vì có nghiệp vụ với tư bản mạo hiểm và điều hành các bộ phận có thể đầu tư vào ngân hàng của các thân chủ của Tổ hợp SVB! Chỉ nghĩ đến hệ thống kế toán hay quản trị tài chánh của Tổ hợp SVB và của Ngân hàng SVB là ta hết hồn vì quá sức phức tạp! Huống hồ, Ngân hàng SVB có 29 văn phòng tại Mỹ, chưa kể các cơ sở tại Anh, Ấn Độ, Canada, Đan Mạch, Đức, Hong Hong, Israel, Ireland, Thụy Điển và… Trung Cộng!
4/ Đa số dư luận ở ngoài môi trường nhiêu khê này khó theo sát mọi chuyện nên ít biết tới vai trò của Tổ hợp SVB, nhất là các chủ vốn ở đằng sau, như Vanguard hay BlackRock…. Họ mới là các tập đoàn phát huy tinh thần toàn cầu hóa, đã ào ạt vào Trung Cộng, còn hướng dẫn thị trường về cách làm giàu khi vay tiền của họ cho các sáng kiến mới hoặc cho doanh nghiệp tân lập. Ngân hàng SVB chỉ là tấm bình phong lòe loẹt vừa bị lật, ít ai chú ý tới sự kiện là chính Tổ hợp SVB đã bị chặn và cấm giao dịch cổ phiếu vào ngày Thứ Sáu 10/Tháng Ba. Tổ hợp SVB đã bị lung lay từ trước… mà ta chưa biết!
5/ Giữa tuần trước, doanh nghiệp giám định giá trị trái phiếu là Moody’s Investors Service Inc. báo cho Tổ hợp SVB rằng họ sẽ hạ mức đáng tin về chuyện vay mượn của Ngân hàng SVB! Tức là trước khi Ngân hàng SVB gặp nạn thì doanh nghiệp mẹ là Tổ hợp SVB đã biết mình lâm họa. Phải ở trong nghề và biết về kế toán tài chánh mới cảm ra nhiều ngoắt ngoéo bên trong. Giới tài phiệt thì hiểu liền nhờ có đầy nhân viên chuyên môn.
6/ Họ biết Tổ hợp SVB lâm họa mà ngạc nhiên về phản ứng quá chậm lụt, thậm chí hấp tấp. Moody’s tính hạ mức tín nhiệm vào tài sản của Tổ hợp vì một lý do chủ yếu: tài sản thuộc diện trái phiếu mất giá vì lãi suất tăng. Tổng quản trị CEO của Ngân hàng SVB là Greg Becker và ban tham mưu lật đật gọi Goldman Sachs để xin ý kiến của giới ngân hàng, rồi bay qua New York để thảo luận với Moody’s và các doanh nghiệp định giá trái phiếu khác. Rồi lập kế hoạch ứng phó nhằm nâng giá trị tài sản.
7/ Tóm lược kế hoạch là bán hơn 20 tỷ bạc từ loại trái phiếu có phân lời thấp, rồi tái đầu tư phần tiền sẽ thu vào loại tài sản có tiềm năng sinh lời cao hơn. (Tiềm năng là khả năng tiềm thế, tức là mong sẽ có - mà chưa chắc đã hẳn như vậy!) Có thể là không lời mà sẽ lỗ, nhưng nếu lỗ thì lại bán cổ phiếu để bù lỗ. Miễn sao tài sản của Ngân hàng SVB không bị hạ mức tín nhiệm. Kết quả? - Thưa kế hoạch “tan theo ngày nắng vội”! Lý do ư?
8/ Dù dư luận chưa biết, giới đầu tư và bạn hàng (kể cả chủ nợ) đều thấp thoáng biết sự biến động ấy. Các thân chủ của Tổ hợp chưa biết sẽ lời ra sao nhưng sợ lỗ. Chi bằng rút vốn để thoát kế hoạch… mạo hiểm đó! Ôi chữ mạo hiểm ác liệt: cái vỏ là Ngân hàng SVB đã bị lật, chứ Tổ hợp SVB mới thật hết hồn. Đây là vài chi tiết giải thích (xin lỗi, quá chuyên môn):
9/ Sắp bị bác sĩ Moody’s cho biết cơ thể mắc bệnh, Tổ hợp mới cho Ngân hàng SVB bán cổ phiếu trị giá 2,25 tỷ bạc. Có General Atlantic đồng ý mua 500 triệu bạc, chứ nhiều đại gia khác chưa kịp tính VÌ QUÁ GẤP. Rốt cuộc cả thị trường cùng biết Ngân hàng lỗ 1,8 tỷ Mỹ kim và cổ phiếu mất giá 60%. Lý do là sự hấp tấp! Khi dạm bán cả tỷ bạc thì không thể bắt bạn hàng nạp tiền nội trong 24 giờ. Một nghiệp vụ lớn như vậy cần một mật ước để bên kia suy tính hơn thiệt, chứ đòi tiền ngay khiến bên kia kết luận tình hình đã nguy ngập rồi. Họ hốt hoảng vì thấy ta hốt hoảng! Tổ hợp SVB lật đật vì biết quá chậm về nội tình, chẳng lẽ như vậy sao? Có lẽ không chậm mà gian!
10/ Ngày 27 Tháng Hai năm nay, Tổng quản trị Ngân hàng SVB đã bán một phần hùn của ông trong Tổ hợp SVB, trị giá 3,6 triệu đô la. Nghiệp vụ được trình cho Hội đồng Giao dịch Chứng phiếu (Securities and Exchange Commission SEC) từ một kế hoạch trù tính trước đó một tháng, 26 Tháng Giêng! Tức là các ông trùm trong Tổ hợp biết lắm điều bên ngoài chưa rõ. Có lẽ loại chi tiết mật đó đã bị rò rỉ ra ngoài nên gây phản ứng cho thị trường và giải thích vì sao General Atlantic và nhiều đại gia khác đã từ chối cuộc chơi. Thế còn Tổ hợp SVB?
11/ Cuối năm ngoái, một phúc trình của Tổ hợp SVB gửi Fed Ngân hàng Trung Ương cho thấy một lỗ hổng gọi là số tích lũy của lợi tức toàn diện lên tới 1.911 tỷ đô la. Khái niệm đó quá chuyên môn của lãnh vực kế toán tài chánh mà tất nhiên được các chuyên gia kế toán hay thuế vụ biết rõ. Đó là “Accumulated Other Comprehensive Income” (AOCI), “gồm có mà không giới hạn là khoản lời (hay lỗ) không hiện thực qua nghiệp vụ bán chứng phiếu; lời (hay lỗ) khi thực hiện nghiệp vụ đối xung thanh khoản, điều chỉnh tích lũy các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ và điều chỉnh tích lũy về phúc lợi bổng lộc và hưu liễm”. Diễn nôm thì Tổ hợp SVB bị lỗ từ năm ngoái, mà mấy ai hay?
Bài này đã dài… gấp đôi mọi khi vì đề cập tới chuyện quá rắc rối, với hy vọng không làm quý vị nản chí. Còn kết luận? Chỉ có một thôi nhé, vì xin để một kỳ sau!
- Tổ hợp SVB kín đáo hoạt động trong lãnh vực tư bản mạo hiểm với loại thân chủ chuyên biệt. Đa số khách giao dịch với Ngân hàng SVB cũng như vậy, chứ không là thân chủ của loại ngân hàng thương mại giao dịch với mọi người trong nhiều ngành. Vì vậy, hậu quả sẽ KHÓ là một vụ khủng hoảng tài chánh năm 2008, xuất phát từ vụ trái bóng thị trường gia cư địa ốc bị bể năm 2006-2007.
Về vụ ca sĩ Tuấn Ngọc đổi lời bài hát TÌNH BƠ VƠ của nhạc sĩ Lam Phương từ “Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi” sang “Trời vào thu chiều nay buồn lắm em ơi” thì quả không có gì biện minh được, ngoài chữ “hèn”. Bởi Tuấn Ngọc đã từng hát bài này nhiều lần ở hải ngoại mà không đổi lời, nhưng về Việt Nam hát kiếm danh kiếm tiền thì lại sửa lời trơ trẽn cho vừa lòng quan chức nào đó đang duyệt bài hoặc ngồi nghe phía dưới.
Coi, nước Việt Nam từ xưa tới giờ lúc nào mà không buồn. Trước 1975 thì buồn về nội chiến tương tàn, sau 1975 buồn vì thù trong giặc ngoài gặm sạch tài nguyên đất nước bỏ mặc cho dân tình đói khổ. Mà thí dụ nước Việt Nam không xảy ra những cảnh nồi da xáo thịt chó đẻ đó thì nỗi buồn của nhạc sĩ Lam Phương phải được giữ nguyên cho ông, tại sao lại sửa lời để nịnh bợ bưng bô ?
Xét về mặt nịnh bợ bưng bô thì không chỉ có trong âm nhạc mà các ngành nghề nghệ thuật khác cũng đều tự nguyện. Vừa qua cũng ngay trên FB này, tôi đã từng viết bài “GIẢI MÃ MỘT GIAI THOẠI VỀ TRỊNH CÔNG SƠN” chửi thẳng vào thái độ “hai mang” của ông ta khi ông ta đề nghị tôi tặng ông 4 câu thơ trong ngày sinh nhật ông, để ông treo lên tường nhà. Trời đất, tôi là một nhà thơ “bẻ kiếm ngang trời” đâu có chuyện ca ngợi một nhạc sĩ nhân cách tầm thường đổi màu từ nhạc vàng sang nhạc đỏ nhanh như chớp. Bởi vậy tôi đã đọc ông 4 câu về CHẤT ĐỘC HÓA HỌC khiến ông suýt ngất xỉu được bè bạn đem vô trong cạo gió. 4 câu như sau:
Gã nhạc sĩ VÀNG
Chơi ghi ta ĐỎ
Âm nhạc từ đó
Biến thành DA CAM !
Khỏi phải nói, ai cũng biết trong hội họa thì màu vàng pha màu đỏ sẽ biến thành màu da cam. Mà chất độc màu da cam trong âm nhạc tác hại lâu dài ra sao thì miễn bàn.
Qua cái hèn của Trịnh Công Sơn trước đây và Tuấn Ngọc bây giờ, chúng ta càng thấy người nghệ sĩ, người cầm bút cần phải giữ mình hơn bao giờ hết, chứ đừng vì ba cái bã hư danh mà bán rẻ tài năng (nếu có) và lòng tự trọng.
Cũng khỏi phải nói đâu xa mà nói ngay trường hợp chính tôi. Đó là chuyện xảy ra trong một bữa tiệc mừng huân chương lao động của Nhà Xuất Bản Kim Đồng cách đây khá lâu. Trong tiệc, tôi và vợ tôi ngồi cùng bàn với ông Nguyễn Thắng Vu, nguyên Giám đốc NXB kiêm Chủ tịch Hội đồng xuất bản hiện thời. Sau màn tay bắt mặt mừng, ông Nguyễn Thắng Vu mời bà Phạm Phương Thảo, Phó Bí Thư Thành Ủy kiêm Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân TP đến gặp tôi tại bàn. Qua vài câu chào hỏi xã giao, ông Vu chửi thẳng vào mặt bà Thảo trước mặt các quan chức: “Bà bảo Bùi Chí Vinh là thằng có tư tưởng phản động không có lợi cho NXB. Bà không cho phép tôi được sử dụng Bùi Chí Vinh. Nhưng qua những gì Bùi Chí Vinh đã làm việc và tự vươn lên để nổi tiếng thì tôi thấy Bùi Chí Vinh không phải như những gì bà đã áp đặt cho chúng tôi. Bùi Chí Vinh không có NXB Kim Đồng vẫn tiếp tục lừng danh với hàng loạt kịch bản phim nhựa ra mắt toàn quốc và quốc tế, được công chúng lẫn dư luận trong và ngoài nước thừa nhận. Vậy bà và các đồng chí của bà nghĩ sao ?
Trước phát biểu của ông Nguyễn Thắng Vu, bà Phạm Phương Thảo quay sang tôi đánh trống lảng “Bùi Chí Vinh cứ tiếp tục viết truyện thiếu nhi, và chỉ nên viết truyện thiếu nhi thôi, đừng nên viết những gì khác”.
Hai phát biểu của hai nhân vật đã nói lên khá nhiều điều. Tôi bừng tĩnh hiểu mối quan hệ tỉnh cảm của tôi với NXB Kim Đồng cứ phai nhạt dần, vì sao bộ truyện NĂM SÀI GÒN đang phát hành trôi chảy đến tập 40 bỗng bị NXB yêu cầu tác giả ngưng viết (cho dù trên thị trường sách cả nước lúc đó, bộ NĂM SÀI GÒN đang là bộ sách bán chạy nhất). Tất cả chỉ vì NXB Kim Đồng quá sợ quy chụp tư tưởng của bọn quan chức đầu não địa phương. Cũng may, vâng, cũng may khi về hưu ông Nguyễn Thắng Vu còn một chút đởm lược và dũng khí, còn dám chửi thẳng mặt một trong vài kẻ gây tai họa cho tôi và cho văn học nước nhà.
Tối thiểu thì ông Vu cũng không hèn như Trịnh Công Sơn hoặc như Tuấn Ngọc:
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ !
1981, năm Con Gà, trong một bài phóng sự của tờ LA Times do một nữ phóng viên gốc Trung Hoa viết về nơi phố thị Bolsa, bà đã ví von nơi này như là một “Little bit Saigon”. Dần dà người ta bỏ đi chữ bit, “Little Saigon” định danh từ đó. Nhìn lại, 24 năm, sang năm 2005 Ất Dậu là 3 con gà. Chợt nhớ Ất Dậu 1945 ngày xưa ở Việt Nam…
Năm 1982 là năm định hình cho một phố thị Việt Nam tại quận Cam, con đường huyết mạch chính là Bolsa Ave với khoảng 100 cửa hàng Việt Nam mọc lên lúc bấy giờ. Tuy nhiên, chưa nhộn nhịp hẳn vì hãy còn những khoảng đất vườn dâu, vườn cam, vườn rau nằm rải rác hai bên đường. Một chợ thực phẩm duy nhất là chợ Hòa Bình nằm cùng dãy với quán Café Le Crossand D’orée.
Ít người biết rằng, không phải con đường Bolsa khai sinh ra nơi tập trung buôn bán, mà khởi đầu là trên con đường Wesminster, gần đến đường Golden West đã có ngôi chợ Việt Nam, chợ Quê Hương, đầu tiên tại đấy cho mãi đến 1982 vẫn còn, và rải rác dọc trên con đường này từ năm 1977 đến 1982 nhiều cửa hàng đã thành hình. Nhưng kể từ khi MiNi Mall (khu nhà sách Tú Quỳnh, nhà hàng Thành Mỹ) thành hình trên đường Bolsa, rồi Nguyễn Huệ, rồi khu nhà hàng Song Long nối tiếp, hầu hết các tiệm ở đường Wesminster cũng lục tục dọn qua khu tập trung mới trên đường Bolsa. Chợ Quê Hương đổi chủ rồi cũng bị chợ Hòa Bình hút hết khách nên ế ẩm và đóng cửa, chấm dứt thời kỳ phôi thai kinh doanh trên con đường Westminster bất hạnh.
Trong sự thành hình của con phố Bolsa, sau 30 năm, dân Việt cư kỳ cựu ở vùng đất này nên nhắc đến một sự việc có tầm vóc tinh thần rất lớn đối với người Việt Tỵ Nạn sinh sống tại Little Saigon mà có lẽ theo thời gian đã chìm vào quên lãng, những người đến Little Saigon định cư sau này có thể cũng không nghe ai kể lại. Đó là cây cột cờ Việt nam đầu tiên được dựng lên tại khu thương xá Nguyễn Huệ, nơi có nhà hàng Đồng Khánh và phở Nguyễn Huệ. Nơi đây, lá quốc kỳ Việt Nam được phép chính thức treo phất phới trên nền trời, khẳng định và đại diện cho một dân tộc, một quốc gia, một sắc dân Tỵ Nạn Cộng sản đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ. Lá cờ tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, tiêu biểu cho một giá trị lịch sử đã được gìn giữ và hy sinh bằng biết bao xương máu cho lá cờ ấy, lá cờ Vàng Việt Nam biểu tượng của một dân tộc có tự do đã bị cướp đoạt. Họ hoặc vượt thoát hoặc bị xua đuổi khỏi quê nhà và chỉ mang theo một ấn chứng duy nhất là lá cờ của dân tộc họ, lá quốc kỳ xác định một quốc gia mà thế giới đã công nhận.
Trước năm 1989, là năm cộng sản Việt Nam mở cửa mời đón kiều bào về thăm quê hương, trước đó đối với người Việt Tỵ Nạn tại hải ngoại, quê nhà chỉ còn có trong tâm tưởng, không biết đến bao giờ mới trở về lại cố hương.
Năm 1984, một phóng viên tờ LA Times đăng bài phóng sự về chuyến đến thăm Little Saigon, ông nêu lên nhận xét “Little Saigon không chỉ là một trung tâm thương mại, đối với tôi, Little Saigon là trung tâm của quá khứ và một lịch sử được mang theo từ Việt Nam…”
Thực vậy, Little Saigon được xem là “thủ đô Tỵ Nạn”, một nơi có sinh hoạt chính trị mạnh mẽ, đồng thời tập trung hầu hết các văn nhân nghệ sĩ về đây sinh sống, đã tạo cho Little Saigon có một sắc thái đô thị đặc biệt, thu hút không riêng du khách Việt, du khách ngoại quốc cũng tò mò tìm đến viếng thăm nơi gọi là “Vietnamese Town”
Trở lại, vào cuối năm 1984, một số quân nhân đứng lên lập nhóm để vận động với chính quyền thành phố Wesminster, xin được dựng cột cờ treo lá quốc kỳ Việt Nam tại khu thương xá Nguyễn Huệ. Nhóm này gồm năm người:
Khoảnh đất dựng cột cờ đã xin được của chủ phố là ông Triệu Phát. Mọi thứ được tiến hành trong hồi hộp nôn nao nhưng bằng tinh thần của quân đội, quả quyết, tự tin, danh dự. Tại sao hồi hộp? Đấy là khoảng thời gian tinh thần chống cộng ở cao điểm, thành phần cộng kiều trà trộn hoạt động ngầm trong cộng đồng Việt Nam thì luôn nằm trong bóng tối, họ theo dõi mọi sinh hoạt của cộng đồng Tỵ Nạn. Theo thống kê của chính quyền Orange County thời đó, mức quan tâm về tội phạm băng đảng trong cộng đồng Việt Nam không phải là con số nhỏ (số thống kê vào năm 1989 là 41%). Thời đó, chuyện nổ súng thanh toán trong hàng quán, vũ trường gần như là chuyện thường tình. Đối với quân nhân thì xem là trò trẻ con, nhưng tình huống nổ súng bất ngờ không biết ai là ai, đáng phải đề phòng.
Khi tin tức dựng cột cờ được công khai phổ biến thì có truyền đơn rơi, thư hăm dọa phóng vào nhóm quân nhân khởi xướng tổ chức dựng cột cờ. Cường cụt đã nhiều lần được dán “note” vào kiếng xe anh với lời lẽ đại ý “Hãy bỏ ý đồ ngu xuẩn dựng cột cờ, thời thế đã thay đổi, đã hết thời của các anh v.v…” Vì những hăm dọa được tung ra tới tấp từ trong bóng tối như vậy, nhóm dựng cột cờ phải lưu tâm đề phòng, một mặt vẫn tiến hành việc làm của họ.
Ngày 18 tháng 3 năm 1989 Lễ Thượng Kỳ được tổ chức. Nhóm dựng cờ gửi thư mời đại diện các tổ chức chính trị, hội đoàn, đặc biệt là các tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp trong quân đội hiện đang sống trong vùng hoặc lân cận. Ngày Lễ ấy có hai vị tướng đến chứng kiến là Tướng Nguyễn Ngọc Oánh ở Fressno về và Tướng Nguyễn Bảo Trị. Nhóm có mời được Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ đến dự. Từ San Jose, nguyên Đại Úy Không Quân Lại Thế Hùng xuống để điều hợp Lễ Thượng Kỳ.
Đêm trước ngày thượng kỳ, Cao Xuân Huy trải “nốp” sleeping bag dưới chân cột cờ ngủ giữ vì cộng kiều tung thư hăm dọa sẽ ủi sập cột cờ. “Nằm đó, nó ủi thì mình chết trước” Cao Xuân Huy nói rồi cười khẩy, tiếp “Bộ tui để nó ủi khơi khơi dễ dàng à! ĐM, tui hổng biết làm gì tụi nó à?” Lữ Mộc Sinh thì nổi máu con gà điên pollo loco, thề nặng “Tui mà không kéo lá cờ lên được thì tui chặt bàn tay tui dưới cột cờ rồi kéo nó lên”.
Đêm đó, ngoài một số quân nhân tự nguyện âm thầm thức suốt đêm canh giữ, còn có một số “anh em Bolsa”, những tay thứ thiệt, cũng ngấm ngầm lập vòng đai, đặt điểm trong các quán gần đó để “coi thằng nào lạ mặt nhốn nháo là hỏi giấy, ĐM, VC là tụi em thịt liền”. Rõ ràng là một đêm dài căng thẳng. Làm sao mấy quân nhân ấy không thủ “giò gà”. Đêm rồi qua, chỉ có mấy con mèo hoang quậy kêu ngoài thùng rác giấc khuya.
Sáng ngày thượng kỳ, các quan khách, tướng lãnh đứng trên lan can lầu, trước văn phòng Luật Sư Trần Sơn Hà nhìn xuống. An ninh toàn khu vực đã được kín đáo trấn thủ chặt chẽ, kể cả bên kia đường, ngã tư đường. Cường cụt ngồi xe lăn, dưới hai chân cụt, cây UZI sẵn sàng. Hai tay nghiêm trang nâng lá quốc kỳ xếp thẳng băng vàng rực, cùng với lá quốc kỳ hoa sao Mỹ. Quân nhân Hổ, cụt một chân, đẩy xe lăn cho Cường cụt hai chân. Lại Thế Hùng điều khiển nghi lễ Thượng Kỳ. Tony Diamond kéo quốc kỳ Việt nam lên, Cường cụt kéo quốc kỳ Mỹ lên. Theo quy định cho phép, lá quốc kỳ Mỹ phải treo cao hơn quốc kỳ Việt Nam vì là cờ quốc gia chủ. Cường cụt lúc thượng kỳ quá xúc động, lòng yêu nước tăng lên sao ấy, chỉ kéo cờ Hoa Kỳ bằng ngang cờ Việt Nam. Vậy mới có chuyện.
Đám phản chiến Mỹ bỗng xuất hiện sau đó, đòi cắt dây hạ cờ Việt Nam xuống vì đã dám kéo cao bằng ngang cờ Mỹ. Nhóm đại diện Cựu Quân Nhân Mỹ bèn can thiệp. Nhóm dựng cờ phải theo luật định, nhích lá cờ Việt Nam xuống thấp nửa lá cờ Mỹ. Tạm êm chuyện. Cộng kiều có lẽ nhận được chỉ thị mới, bất động, không thấy cho xe đến ủi, không thấy bắn sẻ, không pháo kích, không đặt plastic hay gài mìn claymort, chỉ có gió xuân thoang thoảng mùi hoa trúc đào và trên cao gió lộng, lá cờ vàng tung bay phần phật. Lần đầu tiên nơi hải ngoại, lá cờ của hồn thiêng sông núi Việt Nam vươn mình uốn lượn như con rồng tung mình vờn gió xuân.
Một cụ già mù có người con trai đưa đến dự lễ, khi lắng nghe có tiếng phần phật cờ reo, ông níu cánh tay người con hỏi: “Cờ đã kéo lên được chưa con?” “Dạ, kéo lên xong rồi Ba”. Cụ già bật khóc nức nở, gương mặt không còn ánh sáng đôi mắt lộ đầy xúc động mếu máo, bàn tay run run vịn chặt vai người con trai bên cạnh, anh cũng rưng rưng theo nỗi niềm của người cha. Cao Xuân Huy tình cờ đứng gần, chứng kiến, quay vội vào tường cho giọt nước mắt nóng hổi của mình lăn khỏi con mắt.
Bầu không khí trang nghiêm long trọng ấy, khi lá Cờ Vàng Việt Nam tung bay trên nền trời Little Saigon, ai chứng kiến mà không vui buồn lẫn lộn, xúc động ngậm ngùi hòa lẫn hãnh diện lâng lâng. Ôi phải 10 năm, từ 1975 đến 1985, mười năm sau mới thực sự tận mắt nhìn thấy lại lá cờ oai linh của đất nước Việt Nam tung bay cùng gió lộng. Thôi… âu cũng là niềm an ủi lớn lao cho tâm trạng lưu vong trên đất khách quê người… cho ấm lòng chiến sĩ….
Nhà báo Du Miên cho biết, cột cờ Việt Nam tuy dựng lên là được sự cho phép của City Westminster, nhưng dựng xong vẫn chưa có văn bản chính thức. Sau khi dân Mỹ tại đây thấy cờ Việt Nam kéo lên, đã phản đối mạnh mẽ lên cơ quan chính quyền thành phố, họ đòi hạ xuống, khiến City lúng túng. Bấy giờ ông Trần Duy Hòe (thuộc Lực Lượng Đặc Biệt) phải xông xáo ra vào city đòi hỏi phải có văn bản cho phép chính thức cho cây cột cờ đã thành hình. Cuối cùng, một nghị quyết của chính quyền thành phố Westminster được ban hành, chấp nhận trên pháp lý về sự hiện hữu hợp lý của cây cột cờ. Đó là công lao của Ông Hòe và một số người thầm lặng cùng sát cánh với ông.
Vài hôm sau ngày thượng kỳ, dây cột cờ bằng nylon bị cắt đứt, lá cờ chao đảo chới với như kẻ sắp chết đuối kêu cứu. Thay dây mới. Lại bị cắt đứt. Kỳ này chúng ông thay bằng dây thép, siết bù lon lại, xem cộng kiều các con làm sao. Lữ Mộc Sinh tập họp anh em Bolsa, giao phó: “Tụi anh đã làm xong việc dựng cột và treo cờ. Đến phiên tụi em giữ cờ”. Như vậy, lá quốc kỳ Việt Nam lành lặn tung bay cũng nhờ có một phần góp tay canh giữ của “anh em Bolsa” thời ấy.
Những ngày kế tiếp sau ngày thượng kỳ, dưới chân cột cờ liên tục được nhiều người mang đến những chậu hoa tươi bày kín khắp cả chung quanh, bày tỏ niềm vui và lòng yêu kính lá quốc kỳ. Ngày 30 tháng 4 năm 1985, sau hơn một tháng dựng cờ được tổ chức “Đêm Không Ngủ” dưới ngọn cờ vàng. Đêm không ngủ đầu tiên dưới ngọn cờ quê hương thật là đầy ý nghĩa, thật đậm đà tình người, thật vui và cũng siết ngậm ngùi khi thả hồn nhớ nghĩ về quê nhà, bên ấy còn bao người thân ngóng chờ mòn mỏi, bên các trại Tỵ Nạn thì khổ cực, kêu cứu tuyệt vọng…
Thêm một chi tiết. Nơi khoảnh đất dành cho cột cờ có ngọn đèn đường đứng sát bên ngoài, nên nhìn vào cột cờ bị che khuất. Do hồn thiêng sông núi xui khiến sao đó, xuất hiện anh Diệp Thanh Tùng, tự nguyện chờ nửa khuya, mang xe cần cẩu lớn đến, cắt dây điện ra, dời cột đèn vào sâu trong sân, nối dây điện lại cho đèn cháy bình thường. Hỏi ra, anh là nhân viên đang làm trong Ty Điện Lực, thấy cột đèn che cột cờ coi chướng mắt không chịu nổi, bèn nổi máu anh hùng, bứng cột đèn đi chỗ khác chơi. Làm xong việc, lặng lẽ ra đi. Ai tin chuyện này có thể xảy ra, vậy mà đã xảy ra, mới thấy cây cột cờ linh thiêng thật.
Từ 1985-1988, 3 năm liền tổ chức đêm 30 tháng 4 tại khuôn viên nhỏ hẹp nơi chiếc cột cờ phất phới lá cờ vàng. Ba năm ấy, một quân nhân Thủy Quân Lục Chiến là Huỳnh Minh Châu, người cao lớn, tính ít nói và hiền lành, tự nguyện làm người thay cờ, giữ cho lá cờ luôn được lành lặn và rực rỡ. Tiếp tục lặng lẽ bao năm trời đến ngày hôm nay, không biết đã có bao nhiêu tấm lòng âm thầm nối tiếp duy trì gìn giữ để từng ngày từng đêm trên bầu trời Bolsa vẫn không vắng bóng lá cờ. Ai biết? Ai thương?
Sau khi tin tức lan truyền về cột cờ đầu tiên ở hải ngoại, có một vị là nhân viên của sứ quán Việt Nam ngày trước ở San Francisco, đã liên lạc với nhóm dựng cờ để mang lá quốc kỳ Việt Nam treo ở tòa sứ quán mà ông đang gìn giữ cẩn thận, mang đến bàn giao cho nhóm để treo lá quốc kỳ ấy lên. Buổi lễ được tổ chức thật cảm động và trang nghiêm ở trung tâm sinh hoạt Nguyễn Khoa Nam. Ông Trần Duy Hòe đại diện đứng ra nhận lá quốc kỳ.
Sau năm 1989, do Cộng Sản Việt Nam mở cửa, Việt Nam dần dà không còn là một quê hương xa vời trong tâm tưởng như những năm về trước. Vết thương lòng đã nguôi ngoai, dấu chân của lịch sử cát bụi đã lấp bằng. Những lá cờ Việt Nam được dựng treo khắp nơi ở hải ngoại khắp thế giới, người Việt ở hải ngoại nhìn những lá cờ treo quá quen mắt. Nhưng nếu ai là người chứng kiến phút giây lịch sử khi lá cờ Việt Nam lần đầu tiên được kéo lên tung bay trên bầu trời Tỵ Nạn nơi xứ người, mới cảm nhận được trọn vẹn sự linh thiêng, tôn quý đối với một lá cờ được giữ gìn bằng biết bao xương máu của những vị anh hùng vị quốc vong thân.
Sau năm 2000, tôi tưởng có lẽ chính mình cũng đã quên đi. Bỗng một hôm, nhìn thấy hàng ngàn người Việt Nam Tỵ Nạn ngồi biểu tình trong đêm lạnh, khi cùng nhịp, phất lên lá cờ vàng nhỏ bé trong tay, hàng ngàn lá cờ nhịp nhàng đồng phất lên theo những cánh tay ấy đã khiến tôi nghẹn cứng cả lồng ngực. Sức mạnh khủng khiếp của màu cờ đánh thức một cái gì bừng dậy trong tôi. Tôi không hiểu là cái gì, nhưng tôi biết chắc, hồn thiêng sông núi Việt Nam là một điều có thật, đừng quên.
Đến cuối năm 2004, sau gần 30 năm từ mốc lịch sử 1975, lá cờ hồn thiêng sông núi, lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ, riêng tại Hoa Kỳ, đã được hầu hết các tiểu bang trên nước Mỹ công nhận là lá cờ của người dân Việt Nam Tự Do, không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, đã vượt thoát ra đi, đi tìm tự do và định cư trên khắp thế giới. Lòng đấu tranh kiên quyết gìn giữ màu cờ dân tộc đã được đáp đền, đã được hồn thiêng sông núi Việt Nam, anh linh của anh hùng tử sĩ hy sinh dưới lá quốc kỳ tự do ấy phù trợ cho tấm lòng son sắt của dân tộc.
Khi nào bạn có dịp đi ngang qua cây cột cờ đầu tiên dựng trên con phố Bolsa nơi Little Saigon, xin bạn gửi lên lá cờ vàng tung bay ấy một cái nhìn trìu mến. Chính lá cờ Vàng ấy mới thực sự làm ấn chứng đầu tiên cho cái thị tứ mà về sau, vào ngày 17 tháng 6 năm 1988 đã được chính quyền sở tại công nhận chính danh “Little Saigon” (bảng hướng dẫn exit vào Little Saigon đã được dựng trên freeway 22 trước khi vào exit Magnolia). vì nơi đây, đã trở thành một thành phố được mệnh danh “Thủ Đô Người Việt Nam Tỵ Nạn”.
Ca khúc “Papa” là một câu chuyện không phải tìm ở đâu xa mà từ chính đời sống gia đình của Paul Anka, được xâu chuỗi và tái hiện bằng những “lát cắt” về năm tháng đã đi qua đời người cha của chính tác giả. Nó được “vẽ” đầy thương yêu trên nền nhạc thanh tao tự sự, ghi dựng lại hình ảnh người cha cần mẫn, luôn tràn đầy tình yêu thương vô bờ bến. Đó còn là một điểm tựa vững chãi, thủy chung, luôn biết hướng những người con của mình đến những điều thanh tao, cao đẹp.
“Papa” với giai điệu sôi nổi nhưng ca từ lại trầm buồn, lắng sâu, và rất giản dị như lời chia sẻ, tâm tình. Chiều dài của bài hát là câu chuyện về một cậu bé, từ nhỏ được sống trong tình cảm của cha, được cha quan tâm và dạy dỗ để trở thành một người đàn ông đúng nghĩa, mạnh mẽ và cứng cỏi trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.
Lời của ca khúc cho chúng ta biết thêm những câu chuyện mà không ít gia đình trên thế giới đều soi rọi để có thể thấy được trong đó lòng hết mực thương yêu người vợ ốm yếu và ra đi sớm, nên mọi sức lực và tinh thần của người cha dồn trọn cho cho những đứa con, để khi nhũng cô cậu bé lớn lên, mỗi khi nhìn đến con cái của mình, lại nhớ người bố thầm lặng chở che thuở nào.
“Papa” được Paul Anka viết trên giai điệu pop phù hợp với dòng chảy của âm nhạc đại chúng Mỹ ở những năm 1970, mang lại những gì lạc quan cho người nghe, dù câu chuyện được kể trong bài hát nó cũng bình dị chân thành, không có gì lên gân và to tát. Đó có lẽ là lẽ sống ở đời không thể nào khác được của bất cứ người cha, người mẹ nào trên thế giới với tình yêu tha thiết dành cho con.
Không chỉ là câu chuyện của một gia đình cụ thể nào đó, trong “Papa”, chúng ta sẽ cùng thấy được “bức tranh” những di dân thuộc thế hệ đầu tiên tới Bắc Mỹ, ngày ngày cố gắng làm lụng để lo từng miếng ăn cho gia đình, từng đôi giày cho con. Tối đến, người cha ẵm con vào giường, nghe con cầu nguyện, rồi hôn con. Tình yêu và hạt giống đức tin mà người cha đã gieo trong những năm tháng thơ ấu đã nẩy mầm trong tâm hồn cậu bé!
Cuộc sống tha hương nơi xứ người không dễ dàng nhưng dù nhiều đau buồn và nước mắt nhưng cả gia đình vẫn gắn bó bên nhau. Thời gian lướt nhanh, cậu bé ngày nào nay đã trưởng thành, nhớ lại những kỷ niệm đẹp về cha và bắt chước cha thực hiện những điều đó cho con của mình và cũng chứa chan hy vọng rằng con của ông cũng sẽ ghi nhớ về ông, với những hoài niệm đẹp như vậy.
“Papa” có hai lời khác nhau, một lời thường được hát vào thập niên 1970, và một lời vào thập niên 1990. Dù ở phiên bản nào, ca khúc gây xúc động cho đến những câu cuối cùng.
Đến sàn diễn năm châu
Dặt dìu điệu surf chứa chan hoài niệm nhớ thương, “Papa” là một trong những bài hát về cha hay nhất, bởi nó có thể làm rung động những trái tim lạnh lùng nhất, có thể làm tan chảy những suy nghĩ băng giá về người cha của bất kỳ đứa con ngỗ ngược nào. Được ví là “nhạc phẩm kinh điển về người cha”, “Papa” của Paul Anka từng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
“Cha rất mừng thấy con khôn lớn.
Hãy đi! Lo lắng cuộc sống riêng con.
Đừng quá lo! Cha một mình không sao nhé con!”.
Không dành quá nhiều ca từ để tả thực, nhưng ai nghe bài này rồi đều có những hình dung rất giống nhau, đó là những sức mạnh thần kỳ để người cha tưởng chừng có khi gục ngã trước những nghiệt oan của cuộc sống, nhưng không, ông vẫn mạnh mẽ và đứng vững trước mọi thử thách để nuôi dạy con nên người. “Papa” mang lại cho mỗi chúng ta một “câu thần chú” nhắn nhủ thông điệp yêu thương: Rồi người cha cũng sẽ luôn là tấm gương sáng nhất để con cái noi theo. Những phẩm chất quen thuộc và đáng quý này của người cha trong bài hát chắc chắn khiến người nghe ít nhiều liên tưởng đến chính cha của mình!
Paul Anka không chỉ có “Papa”
Paul Anka tên đầy đủ là Paul Anka Albert, sinh ngày 30 Tháng Bảy 1941 tại Ottawa (Canada), có cha là người Syria và mẹ là người Lebanon. Anka theo học tại trường trung học Fisher Park, nơi anh là một phần của bộ ba giọng hát thuộc nhóm Bobby Soxers. Paul Anka bắt đầu đến với âm nhạc từ cuối những năm 1950 và trở nên nổi tiếng sau hơn 10 năm kế đó. Ông khởi nghiệp từ việc hát hợp xướng trong nhà thờ St-Elias Antiochian và cũng từ đây, ông học lý thuyết âm nhạc và piano với người thầy âm nhạc đầu tiên – Winnifred Rees.
Thành công đến với Paul Anka năm… 14 tuổi với đĩa đơn đầu tiên “I Confess”! Năm 1956, Paul đến New York để thử giọng tại phòng thu âm ABC danh tiếng. Đây cũng là những bước đầu tiên trong sự nghiệp âm nhạc của Paul. Năm 1957, Paul Anka sáng tác và trực tiếp thể hiện ca khúc “Diana”, bài hát đưa tên tuổi Paul nổi tiếng trên toàn nước Mỹ và Canada. “Diana” trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất lịch sử âm nhạc của một nghệ sĩ người Canada tại Hoa Kỳ. Và sau đó trong suốt hai thập niên 1960 và 1970, ông nổi tiếng với các nhạc phẩm như “Lonely Boy”, “Put Your Head On My Shoulder”, và “(You’re) Having My Baby”.
Ông cũng đã sáng tác những bản nhạc nổi tiếng làm chủ đề cho “The Tonight Show” với Johnny Carson và một trong những bài top hit lớn nhất của ca sĩ Tom Jones, “She’s a Lady”. Ông còn viết lời Anh cho một bài hát trở thành thương hiệu của nam danh ca Frank Sinatra, “My Way”, từ tác phẩm nguyên thủy tiếng Pháp “Comme D’habitude” của Claude François, Jacques Revaux và Gilles Thibaut.
Năm 1983, Paul Anka đồng sáng tác “I Never Heard” với Michael Jackson. Bài hát được đổi tên và phát hành năm 2009 dưới tựa đề “This Is It”. Hai người cũng đồng sáng tác bài “Love Never Felt So Good” năm 1983, được phát hành trong album di cảo “Xscape” của Michael Jackson năm 2014.
Ít người nhớ rằng, năm 1962, Paul Anka còn nổi danh với vai diễn đầu tiên trong bộ phim lớn “The Longest Day” về Đệ nhị Thế chiến. Bài hát chủ đề của bộ phim này cũng do Paul Anka sáng tác và thể hiện. Danh ca kiêm tài tử màn bạc này còn xuất hiện trong các bộ phim có chủ đề về đời sống tuổi teen như “Girls Town” (năm 1959) và “Look In Any Window” (năm 1961).
Paul Anka cũng vào vai chính trong phim truyền hình “The Case of the Maligned Mobster” (năm 1991), vai một nhà môi giới du thuyền trong phim “Captain Ron” (năm 1992) và vai một chủ sòng bạc trong phim “3000 Miles to Graceland” (năm 2001). Ông xuất hiện nhiều lần trên phim truyền hình “Las Vegas” của đài NBC và vào năm 2016, ông là khách mời trong tập “Winter” của Gilmore Girls với tựa đề “A Year in Life”.
Không chỉ là danh ca và tài tử điện ảnh, Paul Anka còn là một doanh nhân thành công. Năm 1978, Paul Anka quyết định mở “Jubilation”, một nhà hàng nhưng cũng là một câu lạc bộ được coi là một trong những hộp đêm hiện đại đầu tiên ở Las Vegas. Tới năm 2012, Anka là đồng sáng lập và cũng là thành viên Hội đồng quản trị của “Công ty Khởi nghiệp Công nghệ Holographic” (ARHT Media) cùng với Kevin O’Leary và Brian Mulroney.
Với nhiều cống hiến, Paul Anka được khắc tên mình trong các giải thưởng và thành tích như “Giải thưởng Juno cho nhà soạn nhạc của năm”, được giới thiệu vào “Đại sảnh Danh vọng Âm nhạc Canada” (năm 1980), được giới thiệu vào “Đại lộ Danh vọng của Canada” (năm 2005)… Một con phố ở Ottawa được đặt tên là Paul Anka Drive (năm 1972) và tới năm 1981, Hội đồng thành phố Ottawa đặt tên ngày 26 Tháng Tám là “Ngày Paul Anka”!
Riêng về “Papa”, có một điều kỳ lạ là bài hát dù rất hay và vẫn say đắm lòng người trong nửa thế kỷ nhưng nó chưa từng đứng trong một TOP HIT nào. Và dù mang sức mạnh lan tỏa về tình cảm gia đình và có sức sống bền bỉ và mãnh liệt trong trái tim hàng triệu khán giả suốt thời gian dài nhưng “Papa” lại không phải là một ca khúc thành công về mặt thương mại.
Sau bản thu âm kinh điển của chính Paul Anka từ ngày xa xưa ấy, bài hát này tới nay được nhiều ca sĩ nhiều thế hệ, ở nhiều đất nước thể hiện. Cuối năm 1974 đầu năm 1975, “Papa” đã được nhiều người yêu nhạc tại miền Nam Việt Nam biết tới, trong đó có bản Việt ngữ của nhạc sĩ Trung Hành với tựa đề “Người Cha Yêu Dấu”; sau đó là của tác giả Lê Toàn với tựa đề “Cha Tôi”. Có người nói rằng, có khi chỉ nghe đoạn intro, họ đã chảy nước mắt, bởi sự rung cảm chân thành của ca khúc, như mạch nước ngầm mát trong, hiền hòa quyện trào trong tâm sự của người cha dành cho con; và con dành cho cha, về những phi thường từ những điều tưởng chừng như bình thường…