khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 23 tháng 9, 2017

GS Phạm Minh Hoàng Nói Gì Sau Khi Bị Việt Cộng Trục Xuất?










NGUYỄN THIỆN NHÂN KHAI MAN BẰNG GIẢ, KHÔNG RA TRƯỜNG Ở ĐỨC - SỬ DỤNG BẰNG CẤP CỦA ĐỨA CON TRAI NGUYỄN THIỆN NGHĨA.







Trong hồ sơ lý lịch Nguyễn Thiện Nhân ghi rõ...:

6/1970-12/1979: Nhập ngũ, sau đó học đại học và làm nghiên cứu sinh tại Đại học Kỹ thuật Magdeburg – Cộng hòa Dân chủ Đức (1972-1979)…

Ghi chú quan trọng: Trường Đại học Kỹ thuật Magdeburg được thành lập năm 1993 thì làm gì có trường cho ông Nhân học năm 1972 và ra trường năm 1979.

Trường Đại học Otto-von-Guericke-Universität Magdeburg được thành lập năm 1993 từ việc sát nhập ba trường cũ là Technische Universität, Pädagogische Hochschule und Medizinische Akademie Magdeburg.

Bạn ở Đức hãy vào phòng lưu trử hồ sơ alumni tại đây để tìm hiểu sự thật là không hề có tên Nguyễn Thiện Nhân: phòng lưu trữ (Archiv telefon 0049-391-6712780)

Vấn đề khác là năm 2012, con trai ông Nhân là Nguyễn Thiện Nghĩa ra trường ở đây và ông Nhân đã tới chúc mừng rồi sau đó sử dụng bằng cấp của đứa con trai.


Erster Doktor-Umzug durch Magdeburg im neuen Jahr

25.01.2012 -  

Als frischgebackener „Dr. -Ing.“ der Otto-von-Guericke-Universität Magdeburg zog der Informationstechniker Thien Nghia Nguyen am Dienstagnachmittag (24.1.2012) traditionell mit Doktorhut versehen und auf einem Fass vom Universitätscampus zum Alten Markt. Begleitet vom Rektor Prof. Dr. Klaus Erich Pollmann, von seinem Doktorvater Prof. Dr. Bernd Michaelis, weiteren Kollegen der Fakultät, Gutachtern, Forschungspartnern der Volkswagen AG und Freunden wurde er am Otto-von-Guericke-Denkmal bereits vom Oberbürgermeister Dr. Lutz Trümper erwartet.

Unter den ersten Gratulanten war auch sein Vater Dr. Thien Nhan Nguyen, selbst Alumnus der Universität Magdeburg und heute Vize-Premier der Republik Vietnam und Bildungsminister des Landes. "Gute menschliche Beziehungen sind sehr wichtig für Landesbeziehungen", betonte der Vize-Premierminister auf dem Universitätscampus. Er denke sehr gern und mit Dankbarkeit an seine Studienzeit in Magdeburg zurück und möchte viele seiner Landsleute motivieren, sich in Deutschland ausbilden zu lassen und von den Studien- und Lehrbedingungen in Magdeburg zu profitieren

Der 1981 in Vietnam geborene Thien Nghia Nguyen studierte von 2001 bis 2007 Informationstechnologie an der Fakultät für Elektrotechnik und Informationstechnik der Universität Magdeburg. Er forschte und promovierte auf dem Gebiet der Fahrerassistenzsysteme und entwickelte im Rahmen des vom Bund geförderten Verbundprojektes Adaptive und kooperative Technologien für den intelligenten Verkehr AKTIV im Auftrag der Konzernforschung von Volkswagen moderne Technologien und Kamerasysteme in Fahrzeugen, die das Umfeld wahrnehmen und so plötzliche Gefahrensituationen erkennen können.

Vietnamesische Studierende bilden nach der chinesischen, bulgarischen ukrainischen und russischen die fünftstärkste Gruppe internationaler Studierender an der Otto-von-Guericke-Universität Magdeburg.

Ansprechpartner: Dr. Peter Milde, Fakultät für Elektrotechnik und Informationstechnik, Tel:. 0391 67-18872, E-Mail: peter.milde@ovgu.de

 
Năm 1999 ông Nhân ghi danh học Trường Đại học Kỹ thuật Magdeburg ra trường với giấy chứng chỉ E-Business (BWL10) - (không phải tiến sĩ) - rồi sau đó hợp thức hóa hồ sơ đánh lận khai man năm 1979. Bạn có thể tìm thấy thông tin này ở phòng lưu trử phòng lưu trữ - Xin gọi điện để hẹn xem hồ sơ (Archiv telefon 0049-391-6712780).
Bằng "Chứng chỉ" bên Mỹ gọi là Certificate - học từ 3-6 tháng thì có bằng này.  Do đó bằng Certificate này ông Nhân không dám khai vào hồ sơ vì sợ bị lộ!
 
 
 


 

Kỹ Sư Khoa Học Kỹ Thuật Minh Đức Mãi Mãi Hãnh Diện Được Đào Tạo Bởi Những Bậc Thầy Có Bằng Thật Và Học Thật: Giải Ảo Giáo Dục Và Đào Tạo










VN Tuần Qua, 23/9/2017







Tiểu thương chợ An Đông, Saigon, biểu tình







Hòa thượng Thích Quảng Ba không được phép vào VN







Luke Nguyễn, sợi dây nối kết gia đình







Hậu quả cơn bảo Doksuri vào miền Trung VN







Phỏng vấn bà Lê Hiền Đức







Số phận "giặc lái" gốc VC: Nguyễn Thành Trung







Danh Sách Việt Cộng Nằm Vùng







Julie Quang hát Thu Ca Điệu Ru Đơn, nhạc Phạm Duy







Tchaikovsky: Mùa Thu, Tháng Mười







Đức Mẹ Maria Hiện Ra Ở Khắp Nơi Trên Thế Giới - Tác giả Nguyễn Ngọc Ngạn







Như Quỳnh hát Khóc Mẹ Dân Oan







Những cái nhất của Bùi Chu







Đức Cha "chân dài"







Học viện Công Giáo Việt Nam: Khai giảng niên khoá 2017 - 2018







Mục đích thành lập Đại Học Công Giáo đầu tiên tại Việt Nam







Thứ Năm, 21 tháng 9, 2017

Chủ Nhật, 17 tháng 9, 2017

Người dân tiếp tục bao vây nhà Nguyễn Phú Trọng tố cáo đích danh bọn phản động tham nhũng







Mục sư Nguyễn Công Chính và bà Trần Thị Hồng đồng tố cáo tội ác của CSVN tại San Jose vào ngày 16/9/2017










Lễ Phát Bằng Cử Nhân Chính Trị Kinh Doanh Khóa 7 Đại Học Đà Lạt (1970-1974)







30/4/1975: Saigon, Mỹ nó bỏ rồi!










Nguyễn Xuân Nghĩa và Bùi Diễm: Mạn Đàm Lịch Sử Cận Đại, phần 10




Mời đọc phần 1 đến phần 9:


http://svkhktmdk1.blogspot.com/2017/09/nguyen-xuan-nghia-va-bui-diem-man-am.html


Phần 10:





Phim "The Vietnam War": Người Việt Bắc Cali đã nói gì với đài KQED?







Nhất Hạnh và mặt trái đàng sau - Tác giả Lữ Giang



"Công Đức Tu Hành Sư Có Lọng"


Đài BBC ngày 30.8.2017 cho biết Thiền sư Nhất Hạnh đã về thăm quê hương sau một thập niên xa cách. Chuyến bay đưa Thiền sư đã hạ cánh tại Đà Nẵng vào trưa hôm thứ Ba 29/08. Trong chuyến về Việt Nam lần này, “Sư Ông” sẽ về thăm Tổ đình Từ Hiếu, Huế - nơi “Sư Ông” bắt đầu con đường xuất gia tu học vào năm 1942.

Báo Tuổi Trẻ trong nước ngày 29/8 cho biết “tham gia đoàn đón thiền sư tại Đà Nẵng có Thượng tọa Thích Thanh Phong, trưởng ban kinh tế tài chính Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm Tp.HCM”.

Thiền sư Nhất Hạnh về đến Đà Nẵng

Thượng tọa Thích Thanh Phong là một sư quốc doanh, hay nói rõ hơn, một sư công an, có tên thật là Phạm Đức Phong, sinh năm 1968 tại Hưng Yên, được đưa từ chùa Quán Sứ Hà Nội vào Sài Gòn năm 2000, Ủy viên Thường trực HĐTS Trung ương GHPG nhà nước, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHTNVN, được nhiều bằng khen và giấy khen. Nhiệm vụ của ông là theo dõi các hoạt động của Thiền sư Nhất Hạnh.

Một câu hỏi được đặt ra là ngoài việc thăm tổ đình Từ Hiếu, Thiền sư Nhất Hạnh còn có sứ mạng nào khác không? Trước khi tìm câu trả lời, chúng tôi xin nhắc lại vài nét về Thiền sư Nhất Hạnh.
 
VÀI NÉT VỀ THIẾN SƯ NHẤT HẠNH

Lý lịch của Thiền sư Nhất Hạnh vẫn không được công bố như các vị tăng sĩ nổi danh khác, có lẽ vì có nhiều điều không muốn nói ra. Sau khi sưu tra tại Thừa Thiên, chúng tôi được biết Thiền sư Nhất Hạnh có tên thật là Nguyễn Đình Bảo sinh ngày 11.10.1926 tại làng Thành Trung, xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Khi viết sử, ông lấy bút hiệu là Nguyễn Lang. Thân Phụ là người gốc Thanh Hóa, mẹ người làng Lệ Lộc, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Ông là con thứ trong một gia đình 5 con. Ông có người em là Nguyễn Đình An dạy học ở Nha Trang trước 1975. Hiện ở Long Điền còn có tổ đình dòng họ Nguyễn Đình của ông, nên chúng tôi xác định được ông tên là Nguyễn Đình Bảo chứ không Phải Nguyễn Xuân Bảo.
 
1. Bị Hòa Thượng Trí Thủ đuổi ra khỏi chùa

Năm 1942 ông vào tu ở chùa Từ Hiếu, thôn Dương Xuân Thượng III, Phường Thủy Xuân, Huế, do Hoà thượng Huệ Minh trụ trì. Chùa này lúc đầu là "Thảo Am An Dưỡng" do Hòa Thượng Thích Nhất Định lập và về sau được vua Tự Đức ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Vì sư tổ của Tổ đình Từ Hiếu là Hòa Thượng Thích Nhất Định, nên khi đặt Pháp danh cho các tăng sinh tại đây, các vị chủ trì thường dùng chữ “Nhất” để làm chữ đệm. Có lẽ cũng vì thế, Nguyễn Đình Bảo đã được ban cho Pháp danh là Nhất Hạnh.

Cuối năm 1947, Phật học đường Trung Việt được lập tại chùa Báo Quốc do Hòa Thượng Thích Trí Thú làm Giám viện. Tăng sinh Nhất Hạnh được đến học tại đây, nhưng không hiểu vì lý do gì sau một thời gian ông bị thầy Trí Thủ đuổi ra. Ông Võ Văn Ái, người thường sát cánh với Thiền Sư Nhất Hạnh đã tiết lộ: “Việc thứ hai xẩy ra vào cuối thập niên 40, thời ông là học tăng tại chùa Bảo quốc, Huế. Chẳng biết phạm lỗi gì rất nặng, nên bị đuổi ra khỏi chùa. Cố Hoà thượng T.T. (Trí Thủ) gửi thư đến các chùa từ miền Trung vào tới Nam ra lệnh cấm không được chứa chấp ông. Thế nhưng ông vẫn giữ bộ áo tăng sĩ, không ra đời. Tôi nghĩ những hành động đi riêng sau này của ông đối với Phật giáo Việt, Phải chăng là một cách “trả thù” sự ép chế trước kia?” (Lê Thị Huệ, Phỏng vấn nhà thơ, nhà tranh đấu nhân quyền Thi Vũ Võ Văn Ái, Câu hỏi và trả lời 43).

Thiền Sư Nhất Hạnh không bao giờ tự nhận mình là Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng. Những danh xưng này do người khác gán cho ông mà thôi. Ông không phải là tăng sĩ.
 
2. Được đi du học Hoa Kỳ

Cuối năm 1948 ông rời Huế và lên Đà Lạt cư trú ở chùa Linh Dơn do Hòa Thượng Thích Từ Mãn trụ trì. Ông và Đại đức Thích Thiện Minh mở lớp Sơ đẳng Phật học dạy về Phật giáo. Sau đó ông xuống Nha Trang học trung học. Năm 1956 ông vào Sài Gòn học Đại Học Văn Khoa và cư ngụ ở Phật Học Đường Nam Việt, số 243 Sư Vạn Hạnh, Quận 10, Saigon. Từ năm 1964 Phật Học Đường này trở thành chùa Ấn Quang. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa, ông xin đi du học Mỹ.

Ông Huỳnh Văn Lang, hiện ở Orange County, lúc đó là Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết năm 1961 có hai sinh viên Phật Giáo được Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho đặc cách đi du học không phải qua Hội Đồng Du Học, đó là Đại đức Thích Trí Không (Trần Quang Thuận) và Thiền sư Nhất Hạnh.

Tôi biết Trần Quang Thuận được đi là nhờ ông Tôn Thất Hối, bạn đồng liêu với ông Diệm giới thiệu. Sau này ông Hối là bố vợ của Trần Quang Thuận. Thích Trí Không được đi du học Sri Lanka rồi sau qua Anh. Sau khi xuất, Trần Quang Thuận làm việc cho CIA nhưng bị sa thải năm 1963 sau khi tổ chức vụ thiêu sống Thích Quảng Đức bị bại lộ.

Thiền sư Nhất Hạnh được ông Tôn Thất Thiết, Chánh Văn Phòng của ông Diệm giới thiệu. Thiền sư đã học về môn tôn giáo đối chiếu(comparative religion) tại Princeton University ở tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ, và tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại đây.
 
3.- Trở thành Thiền Sư Đại Vọng Ngữ

Để tạo uy thế cho chính mình, năm 1964, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã mời Thiền sư Nhất Hạnh về nước để làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh mới thành lập và giúp ông thống nhất Phật giáo. Nhưng Hòa Thượng Trí Thủ, lúc đó là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đã bác bỏ, viện lý do Nhất Hạnh không phải là tăng sĩ vì đã bị ông đuổi năm 1948. Ông đòi đưa Thích Minh Châu từ Ấn Độ về. Cơ quan an ninh nói Thích Minh Châu là một đảng viên đảng CSVN và đang hoạt động cho Hà Nội tại Ấn Độ với hồ sơ đầy đủ, nhưng Viện Hóa Đạo nhất quyết xin đưa ông về và cam kết không cho ông hoạt động cho Cộng Sản nữa. Lâm vào thế kẹt, Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã phê vào hồ sơ: “Cứ cho về và theo dõi”!

Không được làm Viện trưởng Đại Học Vạn Hãnh, tháng 9 năm 1965 ông đi lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (School Of Youth For Social Service), lúc đầu tại chùa Từ Nghiêm. Mục tiêu của trường được ghi rõ là “Lớp học giáo lý và các buổi hội thảo về chấm dứt cốt nhục tương tàn”, tức tuyên truyền phản chiến với những câu hát như “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?...” Tại đây ông đã gặp cô Fleurette Cao Ngọc Phượng, người Bến Tre, sinh năm 1938, và cô ta trở thành “Sư Cô” của ông. Sau đó ông đi làm phản chiến.

Trong bài “Ngày em hai mươi tuổi” Thiền sư Nhất Hạnh có ghi lại: “Tôi rời đất nước năm 1966, vào tháng năm. Lúc đó chiến tranh Việt Nam đã đi tới mức khủng khiếp. Tôi nghĩ rằng mình phải ra đi để cất lên tiếng kêu gọi hòa bình...” Ông đến Pháp. Cuối tháng 5 năm 1966, khi ông đang thuyết trình ở Pháp thì được tổ chức Fellowship for Reconciliation và Cornell University ở New York, hai tổ chức Phản chiến của Mỹ, mời qua thăm Mỹ. Ngày 1.6.1966 ông đã được đưa ra trước diễn đàn Quốc Hội Mỹ đọc một bản tuyên cáo nói về lập trương 5 điểm của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang gióng 5 điểm đòi hỏi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Từ đó ông bắt đầu xử dụng vọng ngữ một cách trắng trợn để mô tả cuộc chiến của Mỹ và VNCH chống lại Cộng Sản. Mọi người có thể tím thấy các lời vọng ngữ này tràn ngập trong cuốn “Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddist proposal for peace”(Việt Nam, Hoa Sen trong Biển Lửa, một Đề Nghị Hòa Bình của Phật Giáo), trong tuyên bố của Giáo Hội Ấn Quang tại Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Kyoto từ 16 đến 22.10.1970, trong bài diễn văn về vụ Mỹ tàn sát tại Bến Tre…

Sau vụ 911, ngày 25.9.2001 một nhóm phản chiến Mỹ đã đưa Thiền sư Nhất Hạnh đến nói chuyện về sự tàn ác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tại nhà thờ Riverside Church trước hàng ngàn cử tọa người Hoa Kỳ. Bài thuyết trình láo phét của ông về vụ Mỹ dội bom xuống Bến Tre trước năm 1975 khiến 300.000 người chết, đã làm nhiều người Việt phẫn nộ, biểu tình chống ông. Dân số Bên Tre lúc đó chỉ có khoảng 80.000, nhưng ông dám nói Mỹ đã giết tại đây tới 300.000 người! Khi biết rõ sự thật, ông không hề đính chánh hay xin lỗi. Từ đó ông được gọi là Thiền Sư Đại Vọng Ngữ. Kinh Pháp Cú, ở Phẩm Thế Gian, câu 176, có nói: “Những ai vi phạm đạo Nhất thừa, những ai ưa nói lời vọng ngữ, những ai không tin tưởng đời sau, thì chẳng có điều ác nào họ không làm được.”
 
THAM VỌNG CỦA THIỀN SƯ NHẤT HẠNH

Thiền sư Nhất Hạnh là một cư sĩ, không phải là tăng sĩ nên ông theo Pháp môn Tịnh độ, nhưng ông biến cải Pháp môn này lại thành “em>Pháp môn Tiếp Hiệnp”, thường được gọi là “Pháp Môn Làng Maip”, áp dụng cho cả tăng sĩ lẫn cư sĩ. Trong Thông Điệp đầu năm 2002 dưới đầu để “Phật giáo dân tộc - Đạo Bụt hiện đại” ông nói rõ mục đích của Pháp môn Tiếp Hiện của ông là: “em>tất cả các Chùa, Viện, Niệm Phật Đường và tư gia thuộc môn phái thực hiện được những bước tiến sau đây trong đường hướng xây dựng một nền Phật giáo dân tộc và một đạo Bụt hiện đại.” Ông mơ tưởng đưa Phật giáo Việt Nam trở lại thời nhà Lý, chính quyền và giáo quyền là một.

Phương pháp của ông là khởi đầu từ hỗn hợp giữa Yoga, Tài chi và Pháp luân công để tiến tới Thiền định rồi Thanh tâm tịnh. Pháp môn này sẽ dần dần thay thế các Pháp môn khác ở trong và ngoài nước để biến Phật giáo Việt Nam thành một tổ chức thống nhất. Đây là Phương pháp Mỹ cũng đang tìm cách áp dụng tại Trung Quốc để làm thay đổi xã hội ở đó.
 
XÓA BỎ GIÁO HỘI ẤN QUANG: SỨ MẠNG KHÔNH THÀNH!

Xóa bỏ Giáo Hội PGVNTN, thường đươc gọi là Phật Giáo Ấn Quang, ở trong nước là chủ trương và kế hoạch của nhà cầm quyền CSVN. Thiền sư Nhất Hạnh chỉ “tương kế tựu kế” vì nó Phù hợp với muc tiêu và chủ trương của ông. Điều kiện: Nhà cầm quyền cho phép Thiền sư Nhất Hạnh thiết lập Làng Mai Bát Nhã tại Lâm Đồng với điều kiện ông thuyết phục được Hòa Thượng Quảng Độ và các chức sắc của GHPGVNTN giải tán giáo hội này và sát nhập vào Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước. Ông hy vọng với hạt mầm gieo được ở Lâm Đồng, ông sẽ làm cho Pháp Môn Làng Mai lan ra cả nước, 400 thành 800, 800 thành 1.600... Chúng tôi gọi đó là “Chiến thuật vết dầu loang”.
 
1. Một kế hoạch chu đáo

Để chuẩn bị cho việc khai thác Thiền Sư Nhất Hạnh, nhà cầm quyền CSVN đã cho Sư Cô Thích Đàm Lan và Thượng tọa Đức Nghi qua Làng Mai ở Pháp “thọ giáo” với Thiền sư Nhất Hạnh, và mời Đoàn Thiền Sư Nhất Hạnh và Sư Cô Chân Không về thăm Việt Nam.

Thượng Tọa Đức Nghi đã đến San Diego, nam California, thăm tu viện Lộc Uyển của Thiền Sư Nhất Hạnh. Thượng tọa còn hứa sẽ khôi phục lại trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội do Thiền sư Nhất Hạnh lập năm 1964 và dâng tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng cho Thiền Sư Nhất Hạnh. Tu viện này đã được đổi tên thành tu viện Làng Mai Bát Nhã.

Ngày 7.7.2006, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã ban hành công văn số 525-TGC-PG chấp thuận cho phép Làng Mai Bát Nhã tu học theo Pháp môn Làng Mai.

Với những sự “nới lỏng” như trên, Làng Mai tưởng mình đã “trúng mối” nên giúp Thầy Đức Nghi Phát triển Làng Mai Bát Nhã với hy vọng từ đó sẽ phát triển “Pháp môn Làng Mai” ở trong nước. Tăng thân Làng Mai kêu gọi Phật tử trong và ngoài nước giúp đỡ 2 tỉ 800 triệu để Thầy Đức Nghi đứng tên mua 8 mẫu đất nhằm mở rộng cơ sở Làng Mai Bát Nhã, cấp cho Thầy Đức Nghi 12 tỷ 509 triệu để xây dựng tăng xá, ni xá và các loại thiền đường, và 90 ngàn Mỹ kim để xây dựng nhà dưỡng lão trên khuôn viên tu viện Bát Nhã, v.v. Thấy “thời cơ đã đến”, Thiền sư Nhất Hạnh quyết định về Việt Nam thực hiện “diệu kế” của mình.
 
2. Thi hành “sứ mạng” thất bại

Đoàn Thiền sư Nhất Hạnh đã được nhà cầm quyền cho về thăm Việt Nam hai lần để thi hành “sứ mạng”: Lần thứ nhất vào đầu năm 2005 dưới hình thức một Đoàn Múa Lân đi trình diễn để hấp dẫn Phật tử. Ngày 11.1.2005, Ông Phạm Thế Doanh, Phó Trưởng Ban Tôn Giáo Chính Phủ khẳng định: “Giáo Hội Phật Giáo sẽ tạo mọi điều kiện, cũng như đảm bảo an ninh cho đoàn trong thời gian ở Việt Nam.”

Trong chuyến đi này, Thiền sư Nhất Hạnh đã thất bại trong việc xin tiếp kiến Hoà Thượng Quảng Độ và gặp Thượng Toạ Tuệ Sỹ, nhưng ông đã thuyết phục được các tăng sĩ và Phật tử của hai giáo hội ở Huế cùng “bồ tát” chung, với hy vọng sẽ dần dần tiến tới sáp nhập. Tuy nhiên, khi ông đi rồi, mỗi bên ai về nhà nấy.

Thất bại trong lần thứ nhất. Đoàn trở lại Việt Nam đầu năm 2007 dưới hình thức “Trai Đoàn Giải Oan”.Thiền sư Nhất Hạnh hy vọng rằng với danh nghĩa “cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh...”, các tăng sĩ và Phật tử thuộc hai giáo hội sẽ cùng đến và ông sẽ CỘT cả hai bên lại với nhau. Nhưng Phe GHPGVNTN cũng không đến.
 
3. Làng Mai bị trắng tay

Vì Thiền sư Nhất Hạnh không thực hiện được sứ mạng giao phó, ngày 29.10.2008 ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã công bố văn thư số 1329/TGC-PG lên án các hoạt động của các tăng thân Làng Mai:

Ba lần về Việt Nam, tăng thân Làng Mai (Nước Pháp) đã thực hiện một số việc như: tấn phong giáo phẩm không thông qua GHPGVN, đề cập sai lệch những vấn đề chính trị của đất nước, đưa lên internet (Website Làng Mai) một số thông tin sai sự thực và thực tế ở Việt Nam. Những việc làm ấy là vi phạm pháp luật Việt Nam.”

Ngày 13.11.2008, công an xã Đambri, Lâm Đồng, đã áp dụng biện pháp cưỡng hành để trục xuất 400 đệ tử xuất gia và tăng sinh tu học theo Pháp môn Làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhã. Trong số này, có 40 ni cô đến từ Huế và một số tu sĩ từ nước ngoài vào.

NHẤT HẠNH TRỞ VỀ VIỆT NAM LÀM GÌ?

Mục tiêu chuyến đi Việt Nam lần này của Thiền sư Nhất Hạnh đươc nói là về thăm Tổ đình Từ Hiếu, nhưng nhiều người tin rằng mục tiêu của ông là thử tìm xem có con đường nào khác để đưa Pháp Môn Làng Mai xâm nhập vào Việt Nam trước khi ông từ bỏ cuộc đời này. Đó là ước vọng của ông. Nhưng đa số không tin ông có thể làm được chuyện đó vì cả nhà cấm quyền lẫn các chức sắc GHVNTN đều biết rất rõ mục tiêu và chiến thuật của ông.

Ngoài ra, có nhiều dấu hiệu cho thấy người Mỹ đã nhận ra rằng Thiền sư Nhất Hạnh khó hoàn thành được sứ mạng trước khi qua đời, vì mục tiêu và chiến thuật của ông đã bị bại lộ. Trong thập niên gần đây, một số tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam khác đã được giúp đỡ để tiến hành kế hoạch mà họ muốn ông làm trước đây. Lá bài Nhất Hạnh không còn là lá bài duy nhất nữa.



 

Từ Bauxite đến Tu viện Bát Nhã - Tác giả Mai Thanh Truyết





Kể từ đầu năm 2009, câu chuyện Bauxite bắt đầu nở rộ từ trong nước và ra hải ngoại. Dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký sắc lịnh số 167 ngày 1/11/2007 và đã bắt đầu khởi công từ đầu năm 2008 ở công trường Bảo Lâm (Bảo Lộc) và giữa năm 2008 ở công trường Nhân Cơ, Đắk Nông, nhưng chỉ chính thức công bố vào đầu năm 2009 mà thôi. Mặc dù có biết bao góp ý từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, cùng kinh nghiệm của những quốc gia đang khai thác như Liên bang Nga, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu. Từ đó đến nay, người Việt tại hải ngoại góp ý nhiều bài viết trên báo chí, trên mạng lưới toàn cầu cũng như trên đủ loại truyền thông khác như paltalk, truyền hình, truyền thanh của những nhà chuyên môn, ký giả và những người còn lưu tâm đến Đất và Nước Việt Nam về vấn đề trên. Quyển “Từ Bauxite đến Uranium: Tiến trình Đô hộ Việt Nam của Trung Cộng” đã xuất bản vào tháng 4/2009 và tái bản 2013 do GS Trần minh Xuân. TS Phan Văn Song và người viết.
 
Hiện nay, tại Tân Rai và Nhân Cơ, có hai hình ảnh nổi bật nhứt là hai dãy nhà cao từng sừng sửng trên bầu trời, cao nhứt ở hai vùng nầy. Đó là hai tòa nhà "Bạch cung" Chinalco, một ở Nhân Cơ, tổng hành dinh của địa điểm khai thác và 5 địa điểm khai thác khác, chiếm diện tích tổng cộng 1.800 Km2, 1/3 diện tích của tỉnh Đắk Nông. Dãy nhà thứ hai ở Tân Rai, thuộc xả Lộc Thắng, Lâm Đồng chiếm diện tích khai thác là 2.297 Km2.
 
Kết luận của người viết là Trung Cộng, qua sự đồng thuận của đảng CS Bắc Việt đã sử dụng hai vùng khai thác bauxite nầy chỉ là Diện và Điểm là một âm mưu của TC nhắm tới là chính thức và hợp thức hóa sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, và thậm chí những người quân nhân tình báo chiến lược để chiếm đóng và khai thác tất cả lợi điểm của vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam từ kinh tế, chính trị, quân sự, và khoáng sản ở nơi nầy.

Câu chuyện Bauxite đã được chúng tôi khơi nguồn từ năm 2009, và quan điểm dứt khoát của chúng tôi là hình thái khai thác trên chỉ là một cuộc xâm lăng không tiếng súng của TC.

Có thể nói, tất cả góp ý về việc khai thác quặng bauxite ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam là một việc làm hoàn toàn không ứng hợp với việc bảo vệ môi trường cùng hiệu quả kinh tế của việc khai thác, cũng như ảnh hưởng đến đời sống người dân, đặc biệt là những người thiểu số. Tất cả đểu khuyến cáo là không hiệu quả kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Cộng bị buộc phải đóng cửa trên 100 nhà máy khai thác bauxite trong đó có một nhà máy vừa mới khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của người dân và sức ép của luật môi trường.

Tuy nhiên, trong vòng chưa đầy một tháng, tháng 6 năm 2009, hai sự kiện nổi bật là sự kiện đánh phá nhà thờ Tam Tòa ở Quảng Bình và nhứt là việc đánh đập tăng ni và tống xuất ra khỏi tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng đã làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước cũng như trên thế giới.
 
Câu hỏi được đặt ra là, tại sao những sự kiện đánh phá tôn giáo lại nở rộ ra trong thời điểm nầy?

Tất cả chúng ta điều biết CSBV đang nhức nhối và gánh chịu rất nhiều áp lực từ phía người dân trong nước và hải ngoại vì những việc làm "sai trái" trong khi chấp nhận cho Trung Cộng (TC) tiến chiếm đất biên giới miền Bắc, để mất Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa, để TC cấm cột mốc ở Đão Bảy Cạnh, đão lớn nhứt ở Côn Sơn, lãnh hải bị thâu hẹp và ngư dân đánh cá Việt Nam bị xua đuổi và bị đánh chìm tàu, cùng sự kiện để cho người Hán xâm nhập vào Việt Nam không cần hộ chiếu…

Nhưng một sự việc quan trọng nhứt là, CSBV lại để cho TC khai thác dưới danh nghĩa là khai thác Bauxite ở cao nguyên Trung phần Việt Nam qua công ty Chinalco. Việc làm nầy tạo ra cơ hội cho TC đem nguồn nhân sự đóng cùng khắp ở Việt Nam đặc biệt là ở Tân Rai (Lâm Đồng), Nhân Cơ (Đắk Nông), và Nông Sơn (Quảng Nam).

Trong một số bài viết trước, chúng tôi đã chứng minh là TC đến các vùng vừa kể trên không phải để khai thác bauxite mà là khai thác quặng mỏ uranium.

Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto, Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa.

Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên.

Theo ước tính của Hội đồng Năng lượng Thế giới (World Energy Council), trữ lượng Urranium trên thế giới là 13,792 triệu tấn, trong đó Việt Nam chứa 1,7% tức 237.300 tấn. Riêng tại vùng Nông Sơn, sự phân bổ được ghi nhận qua ước tính RAR (Resonable Assured Resources) như sau: tại Bến Giang (Đông Nam Nông Sơn) 1.337 tấn, Khế Hòa và Khế Cao, 6.744 tấn, và An Điền có trữ lượng 500 tấn quặng với nồng độ 0,034% Uranium.
 
Tu viện Bát Nhã


Vào năm 2005, trong chuyến về Việt Nam lần thứ nhất của Thiền sư Nhất Hạnh, Thượng tọa Đức Nghi đã thỉnh mời thiền sư và tăng thân Làng Mai lên thăm tu viện Bát Nhã và Thượng tọa đã tuyên bố cúng dường tu viện Bát Nhã cho thiền sư Nhất Hạnh.” Xin nhắc lại là Thượng Tọa Đức Nghi đã từng đến San Diego, nam California, thăm tu viện Lộc Uyển của Thiền Sư Nhất Hạnh trước đó, và hứa sẽ khôi phục lại trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội do Thiền sư Nhất Hạnh lập năm 1964 và dâng tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng cho Thiền Sư Nhất Hạnh.

Việc xây dựng tu viện Bát Nhã sau đó được thực hiện từ tháng 3 năm 2005 đến tháng 1 năm 2008. Chi phí mua đất và xây dựng từ 20-4-2005 đến 11-3-2008 là 14 tỉ 162 triệu đồng tiền Việt Nam do phật tử trong và ngoài nước đóng góp.

Và vào ngày 27, 28, 29 tháng 6 năm 2009, 200 thanh niên thuộc xã hội đen của công-an VC sai bảo, tới Thiền-Viện Bát-Nhã đâp phá đồ đạc, vứt bỏ đồ ăn, cúp điện nước, khóa hết cửa ra vào. Mọi sự hỗ trợ bên ngoài đều vô vọng vì con đường độc đạo từ Bảo-Lộc vào Bát-Nhã đều có đám thanh niên tụ tập để kiểm tra!!!

Rồi, vì một lý do thầm kín nào đó, ngày 1 tháng 9 năm 2009, Thượng tọa Đức Nghi đã gửi Bản Kiến Nghị tới 3 nơi: Hội đồng trị sư Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Trị sư Tỉnh hội Phật Giáo Lâm Đồng và Ban Đại diện Phật Giáo thị xã Bảo Lộc mà nội dung có những đoạn như sau:”Cách đây trên 3 năm, con đã nhiệt tình bảo lãnh để Làng Mai tu tập tại tu viện Bát Nhã. Được Giáo Hội Trung ương cho phép, văn thư số 212 ngày 22-5-2006, Ban Tôn Giáo Chính phủ cho phép, văn thư số 525 ngày 7-7-2006. Ban đầu con cứ tưởng Làng Mai tôn trọng Giáo hội Phật Giáo Việt Nam và Nghị định 22 của Ban Tôn giáo Chính phủ, cứ tưởng tôn trọng lời đề nghị của con tại Làng Mai 2006, lời đề nghị của con tại chùa Từ Hiếu năm 2007, lời đề nghị của con tại tu viện Bát Nhã năm 2008.Cả 3 lần trực tiếp gặp Sư ông Làng Mai (Thích Nhất Hạnh) để nói lên thực trạng của tu viện Bát Nhã. Giáo hội Làng Mai chưa được phép sinh hoạt tại Việt Nam, con chỉ đứng đơn xin tu theo pháp môn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã. Nên mọi việc xảy ra con chịu trách nhiệm trước Giáo Hội và Nhà Nước. Con muốn tương lai tu viện Bát Nhã sẽ lên tới 1.000 tu sinh, nhưng những lời đề nghị của con lên Sư ông và quý vị giáo thọ không ai lắng nghe cả. Đã 3 năm qua, con đã hơn 10 lần bị kiểm điểm vì vi phạm Hiến chương Giáo Hội và Nghị định 22 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.

… Kể từ hôm nay, ngày 01 tháng 09 năm 2009, con xin rút lại tất cả những văn thư con xin phép cho Làng Mai tu tập. Con không bảo lãnh, không chiụ trách nhiệm mọi việc sẽ xảy ra của Làng Mai tại tu viện Bát Nhã trong thời gian tới.”
 
Sau đó, tình trạng của trên 400 “tu sinh” tại đây được cho biết là phải rời tu viện Bát Nhã. Những tu sinh này sau đó phải đến cu ngụ tại chùa Phước Huệ, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Nhưng họ vẫn bị truy đuổi khỏi chùa này.

“Thầy” Nhất Hạnh vội vã viết thư cho Chủ tịch CS Nguyễn Minh Triết lá thư:”Tôi không biết hiện giờ Chủ Tịch đang ở đâu, nên nhờ mạng Phù Sa gửi một bản thư này đến Chủ Tịch. Đây là một tiếng chuông chánh niệm. Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương nhờ. Ngày xưa trong Cách Mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc che chở. Bây giờ cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (Tu viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy tìm tới tỵ nạn nơi một chùa khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc). Tôi xin Chủ Tịch kịp thời ngăn chận hành động sai trái chống luân thường đạo lý này”.

Đến cuối năm 2009, khoảng gần 400 tu sĩ Làng Mai cư ngụ tại chùa Phước Huệ bị yêu cầu phải rời khỏi chùa này chậm nhất là vào ngày 31 tháng 12. Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc đó đã phải nộp đơn lên Tổng thống Pháp Sarkozy xin cho 400 tu sĩ Làng Mai ở Bát Nhã được tị nạn ở Pháp.
Và cuối cùng 400 tu sinh cũng bị tống xuất sau khi “Thầy” xin CS BV can thiệp không được.
Lý do vì sao các tu sinh bị tống xuất khỏi tu việc Bát Nhã.

Có nhiều lý do có thể được giải thích sau đây:
  • Phải chăng CSBV, trước quá nhiều áp lực của cộng đồng thế giới nhứt là người Việt trong và ngoài nước, đã tìm cách xoay chuyển sự chú ý của dư luận sang một hướng khác để người Việt quốc gia tập trung vào câu chuyện đàp áp tôn giáo mà quên đi hành động "Lê Chiêu Thống-Trần Ích Tắc" của họ? Vì làm như vậy, CSBV đã thu hẹp tầm quan trọng của vấn đề để chuyển sang tính cách nội bộ trong quốc gia, trong việc đàn áp tôn giáo hơn là những việc bán nước tày trời kể trên, liên quan đến những sự xáo trộn toàn vùng Đông Nam Á có thể xảy ra khi câu chuyện TC khai thác quặng mỏ uranium trở thành hiện thực.
  • Thêm một hướng suy khác nữa là, vị trí của tu viện Bát Nhã nằm trong địa bàn hoạt động mà CS BV đã nhượng cho TC khai thác bauxite ở xả Lộc Thắng chỉ cách thị xả Bão Lộc 15 Km về hướng Bắc với diện tích khai thác là 2.297 Km2. Tu viện Bát Nhã hiện có khoảng 400 tu sinh và có nhiều xác suất là số tu sinh sẽ tăng lên nhiều hơn nữa theo thời gian. Do đó, chủng tử của Phật giáo chắc chắn sẽ được gieo trồng cùng khắp ở miền cao nguyên trù phú nầy trong một tương lai không xa. Việc làm nầy sẽ là một trở ngại lớn cho sự có mặt của TC ở đây, vì tôn giáo là một khắc tinh của chủ nghĩa cộng sản. Do đó, dưới áp lực của đàn anh nước lớn và theo lệnh của ông chủ, CSBV bắt buộc phải triệt hạ tu viện Bát Nhã với bất cứ giá nào, dưới mọi hình thức đán áp man rợ như thời Trung Cổ để làm trọn nhiệm vụ bán nước của mình.
Qua hai hướng suy nghĩ trên về vấn đề đàn áp tu viện Bát Nhã trong giai đoạn thực hiện dự án khai thác dự án của CSBV, từ đây chúng ta có thể liên kết vào sự kiện khai thác bauxite hay uranium của TC tại vùng nầy, hay nếu nói theo ngôn ngữ của Việt Nam hiện tại thì hai vấn đề trên có "liên hệ hữu cơ" mật thiết với nhau.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải có thái độ thích ứng với sự kiện đã xảy ra.
 
Người con Việt phải làm gì?


Chắc chắn, mỗi người chúng ta dù ở trong nước hay ngoài nước đều có trách nhiệm và bổn phận trước việc tiến chiếm Cao nguyên Trung phần của TC qua sự tiếp tay của thái thú biết nói tiếng Việt là CSBV.

Do đó, người Việt hải ngoại và quốc nội cần nên cảnh giác và thận trọng trong mục tiêu tranh đấu ngõ hầu nhận thức rõ đâu là Diện và đâu là Điểm như sự việc dựng chuyện khai thác quặng bauxite, nhưng thực sự là khai thác quặng mỏ uranium. Và việc đàn áp tu sinh Bát Nhã chính là để che đậy hành động bán nước của những người cầm quyền hiện tại mà thôi.

Bất tuân dân sự sẽ là một chiêu thức tuyệt vời của toàn dân Việt trong điều kiện đấu tranh bất bạo động trước tiến trình toàn cầu hóa hiện nay.

Sau cùng, để kết luận, CSBV đã cố tình dựng lên vụ Bát Nhã là tạo ra một phát súng nhắm vào hai hướng:

Một là làm sai lạc hướng đấu tranh của người Việt còn nặng tình với quốc gia.

Và hai là nhằm vào việc xóa tan mầm mống phật giáo trong lòng dân tộc.

Hai việc trên chắc chắn sẽ được khắc ghi vào những trang sử đen tối nhứt của Việt Nam thời hiện đại qua câu chuyện Bắc thuộc lần thứ 5 nhằm thực hiện những điểu khoản ký kết của CSBV ghi trong Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990.
 
 
 
 

MÀN KỊCH ĐÃ HẠ - Tác giả Người Lính Già Oregon




Trong vở hài kịch nổi tiếng của Molière, Tartuffe ou l’hypocrite (1664), nhân vật chính, Tartuffe, là một gã vô lại, cơ hội chủ nghĩa, được Orgon, thuộc giới trung lưu (bourgeois), rước về nhà với sự chấp thuận của bà mẹ mộ đạo cuồng tín, Mme Pernelle, và hai mẹ con xem gã như một thánh sống. Trong khi, ngược lại, cả gia đình, từ Elmire, vợ kế của ông, đến Damis, con trai, đến Mariane, con gái, đến người anh vợ, đến cô người làm trực tính, trực ngôn, đều khinh ghét gã. Orgon, mỗi lần đi đâu về, đều ân cần vấn an Tartuffe trước tiên. Và dự tính gả Mariane cho gã, mặc dù cô đã có người yêu, là Valère. Trước mọi người, Tartuffe có thái độ khiêm cung, nói năng nhỏ nhẹ, dáng vẻ nghiêm trang, miệng lúc nào cũng kêu tên Chúa. Một hôm, có dịp gặp riêng Elmire, gã thả lời ong bướm. Từ phòng bên, Damis nghe được, liền báo cho bố biết, nhưng Tartuffe chối bay chối biến và tố ngược Damis vu khống, khiến Orgon, vì quá mê gã, bèn từ con, đuổi đi, và viết giấy tặng hết nhà cửa, tài sản cho gã. Còn Elmire giả vờ nói với gã, sẽ không tiết lộ việc này nếu gã chịu từ bỏ Mariane để cho cô lấy Valère. Rồi bày mưu, hẹn gặp Tartuffe tại phòng, làm như muốn đáp lại tình yêu của gã, nhưng trước đó, đã sắp xếp cho Orgon núp dưới bàn, nghe hết. Orgon bèn nổi giận lôi đình, đuổi gã ra khỏi nhà, trong khi Mme Pernelle vẫn không tin. Nhưng Tartuffe lại đuổi ngược gia chủ, sau khi trưng ra đầy đủ giấy tờ. Vua biết được câu chuyện, ra lệnh bắt gã. Vở kịch kết thúc có hậu cho gia đình Orgon với tin loan báo đám cưới của Mariane với Valère.
 
I. Tartuffe trong bối cảnh Portland, Oregon:

Tôi kể sơ về nội dung vở hài kịch Pháp, thế kỷ XVII, của Molière, để nhắc đến một vở hài kịch tương tự, đương thời, mà nhân vật là người thế kỷ XXI, đang sống giữa Cộng đồng của chúng tôi, tức Portland, Oregon. Anh là một nhạc sĩ nổi tiếng, đối với người Việt tỵ nạn trên thế giới, mặc nhiên trở thành người của quần chúng (public figure), nhưng tôi tạm gọi “không tên”, cho có vẻ lập dị như những bài hát của anh. Từ lúc chưa thành phó tế, anh nhạc sĩ không tên này luôn cư xử với mọi người còn hơn một nhà tu hành thứ thiệt: lễ độ, tươi cười, nhã nhặn, dáng vẻ e ấp như cô dâu mới về nhà chồng, và nhũn như con chi chi. Một lần, trong bữa ăn tại nhà một người bạn tôi, vốn mê những bài không tên, anh nhạc sĩ tuyên bố rằng anh đã có lời hứa với Chúa là sẽ không bao giờ hát và làm nhạc đời nữa. Liền sau đó, anh cầm đàn, hát một bài sặc mùi đạo, mà anh nói mới sáng tác. Tôi quên tựa đề, nhưng nhớ mang máng nội dung, đầy tính tượng trưng: một người leo lên dốc đá cheo leo, trượt chân ngã xuống mấy bận, cuối cùng cũng thành công, nhờ Chúa giơ tay dắt lên. Và kết thúc là một coda cao vút, ngân vang như tiếng kinh cầu, ai nghe cũng cảm động.

Nhiều lần, trước đây, bạn bè, người quen, và đồng hương Portland, Công giáo hay không, vốn dị ứng với anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này, cho anh là một tên đạo đức giả thật. Biết tôi là con chiên trong giáo xứ Mỹ mà anh đang phục vụ, họ đã mớm ý cho, và thúc giục, tôi viết một bài tố anh ta về ba tội: làm ăng-ten trong trại tù cải tạo, làm thầy sáu mà không thuộc giáo lý, lợi dụng tiền bá tánh để làm giàu cá nhân… Tôi từ chối, bác bỏ những lời buộc tội mà tôi cho hoặc quá cũ, hoặc thiếu bằng chứng cụ thể, hoặc không đủ thuyết phục. Và qua đó, vô tình đóng vai luật sư bào chữa cho anh ta –điều mà anh chưa hề biết. Như sau:
 
A. Làm ăng ten trong tù?

Tôi nói với họ rằng tôi cũng đã ở tù tám năm ngoài Bắc, nhưng không chung trại, chung đội với anh ta, nên không chứng kiến tận mắt, và bởi vậy, không dám lên tiếng bàn bạc về điều gì mình không rõ, không thấy, mặc dù đã đọc nhức mắt nhiều bài viết ký tên tác giả đường hoàng, và nghe rát tai những tin đồn nặc danh, nửa thực nửa hư, thuộc loại tabloids, rất tiêu cực về anh. Tuy nhiên, tôi thắc mắc, về từ ngữ, khi các tác giả, độc giả, và tù nhân cải tạo gọi anh là ăng-ten, không biết có đúng (lắm) không. Bởi một lý do đơn giản: hệ thống ăng-ten trong tù được bố trí ngầm –không, hoặc khó, có ai phát giác được, và làm sao?– và đôi khi ăng-ten chính là thằng bạn tù tử tế, hiền như ma sơ, nằm cạnh bên. Thông thường, bọn ăng-ten được giao phó nhiệm vụ theo dõi và báo cáo, một cách bí mật, cho cán bộ trại về những hành động, và tư tưởng, của đồng đội, đặc biệt âm mưu trốn trại –là điều mà bọn cai tù lo sợ nhất. Nhưng để lập công, chúng báo cáo, hoặc bịa ra, đủ thứ chuyện, thượng vàng hạ cám, kể cả thở dài trong đêm, ngủ gật trong giờ “học tập”, hay lén hôn vợ trong nhà thăm nuôi v.v...

Riêng anh nhạc sĩ, qua lời của nhiều nhân chứng, có thời gian được cử làm thi đua, và đội trưởng một đội, với nhiệm vụ báo cáo một cách công khai, hợp pháp, về người và việc trong trại, trong đội, và mặc tình hành hạ đồng tù. Tôi nghĩ, đã là công khai thì không còn bị gọi ăng-ten nữa. Phải chăng vì hành động hắc ám, muốn lấy điểm với cai tù, mà anh đã bị những nạn nhân và nhân chứng quen miệng gán cho cái nickname ăng-ten, là danh xưng nặng nề và bỉ ổi nhất, mặc dù về hậu quả, tội làm ăng-ten hay làm đội trưởng, mà ác ôn, cũng ngang nhau, bên tám lạng bên nửa cân? Hoặc giả, có thể ở trại này, anh ta làm ăng-ten, ở trại nọ, làm đội trưởng ác ôn? Hoặc có thể ở cùng một trại, có lúc anh làm đội trưởng ác ôn, có lúc làm ăng-ten, cho nên lẫn lộn về chữ dùng chăng?
 
B. Làm thầy sáu dỏm?

1) Năm 1992, tôi đang nghỉ hè ở San José. Anh nhạc sĩ không tên, lúc ấy mới qua Mỹ, dự định tổ chức buổi tái ngộ với những fans của mình trong một hội trường gần đó và anh ta bị một số cựu quân nhân cảnh cáo, tẩy chay, và dọa hành hung, và cửa hội trường bị họ chận, cấm không cho ai vào dự, bởi bất mãn với thành tích “ăng-ten” của anh. Cho nên, tôi biết rất rõ. Anh bèn chạy lên Portland, để tỵ nạn. Tại đây, theo tin đồn miệng, hay phổ biến trên Mạng, nhưng không ai dám xác nhận: đầu tiên, anh ta vô chùa xin quy y. Bị chùa từ chối, anh bèn nhảy sang nhà thờ Tin Lành. Bị từ chối nữa, anh chưa biết đi đâu, thì bất ngờ được tiến cử lên LM chánh xứ La Vang bởi những người thân cận của ông. Biết anh là nhạc sĩ nổi tiếng, LM chánh xứ nhận ngay, cho vào ca đoàn và sau giữ chức “sứ vụ tông đồ mục vụ” (?), nhưng anh rất mù mờ về giáo lý, khiến giáo dân bàn tán, khó chịu. Về sau, không biết bằng cách nào, anh thuyết phục được ông LM chấp thuận cho học làm thầy sáu, mà không qua thủ tục bắt buộc cho tất cả ứng viên phó tế khác: phải đi học lấy bằng MA về Thần học (theology) tại University of Portland. Vì kém Anh văn, lại không có BA ở Mỹ, anh được Tòa Tổng Giám Mục Portland –thời đó, còn quá dễ dãi– châm chước cho tham dự các lớp Kinh Thánh căn bản do giáo phận tổ chức và học thần học “hàm thụ” tại chỗ với một LM trẻ, đệ tử của LM chánh xứ, và với sự giúp đỡ làm homework của một giáo viên dạy giáo lý tại La Vang. Năm 2001, anh được phong chức phó tế. Theo thiển ý, anh làm thầy sáu ngang, tức là tắt, cũng như làm quan tắt, chứ không phải làm thầy sáu chui hay dỏm, như dư luận dị nghị. Lúc ấy, LM chánh xứ đã đổi đi và một LM khác lên thay, và với ý kiến của giáo dân, ông cha xứ mới này từ chối, không nhận anh về giáo xứ La Vang, mặc dù đang rất cần một phó tế người Việt.
 
2) Rồi thầy sáu Việt Nam này được Tòa Tổng Giám Mục Portland bổ nhiệm về phục vụ một giáo xứ Mỹ, từ 2001 cho đến hôm nay.
 
a. Trong buổi lễ chiều Chúa Nhật, có tôi, anh được cha xứ Mỹ mời đứng lên tự giới thiệu, trước giáo dân Mỹ và thiểu số, gồm khá đông người Mễ, Phi, Nga… và lèo tèo vài bổn đạo Việt Nam. Vì thế, anh tha hồ bốc phét, khiếp quá, tuy không ác liệt như kho đạn Long Bình, hoặc văng miểng tới mây xanh như vài vị thuộc hàng cự phách trong Làng Nổ Oregon, về thân thế và lý lịch. Anh ta nói, và tôi còn nhớ rõ, tuy là một Trung úy Phật tử, nhưng anh đã có ơn gọi đi tu theo Công giáo, từ lúc còn ở Việt Nam trước 1975, sau khi một cô bạn gái dạy anh học kinh Kính Mừng, và đi đánh trận [hồi nào?], nhờ đọc kinh Kính Mừng, anh đã nhiều lần thoát chết, và sau 1975, trong tù VC, cũng nhờ đọc kinh ấy, anh đã khỏi bệnh mất ngủ [sic]. Nào là qua Mỹ, bị bệnh gần chết, anh đã nhờ Chúa và Đức Mẹ Maria cứu khỏi. Nào là anh có bằng Cử Nhân Luật ở VN, đặt nhạc trữ tình, nhưng, anh thêm, với thiên chức thầy sáu, từ nay anh sẽ quên đi “quá khứ sai lầm” đó. Nào là, động trời hơn, chức vụ cuối cùng của anh, trước ngày Sài Gòn sụp đổ, là chỉ huy Bộ Thông Tin của chính phủ Miền Nam và dùng chữ minister –bởi, tôi tự hỏi, anh cố tình nổ sảng hay không hiểu chữ đó có nghĩa “bộ trưởng”? Nào là anh bị giam nhiều năm tại những trại tù khắc nghiệt của VC, và ở đó được bạn bè rửa tội cho… Giáo dân Mỹ tò mò lắng nghe, không phản ứng, một phần vì lịch sự, một phần vì không ở trong chăn nên anh nói hươu nói vượn gì cũng tin tuốt luốt, một phần vì chỉ hiểu lõm bõm, cũng như tôi, tiếng Anh đầy accent An Nam Mít của anh.
 
b. Trung bình mỗi tháng, anh đến nhà thờ một lần để phụ giúp cha xứ làm lễ, và mỗi lần, trước và sau lễ, thấy tôi, anh ta gật đầu chào, và ngược lại, nhưng không bắt tay nhau, bởi mặc cảm từ cả hai phía. Tiếp xúc với anh, tôi cảm thấy khó thoải mái, nếu không muốn nói khó chịu, vì cử chỉ và lời ăn tiếng nói, khiêm nhường, hay nhún nhường quá đáng, của anh, có cái vẻ gì đó không thật, nếu không muốn nói giả tạo, làm tôi nghĩ đến vở kịch và nhân vật của Molière. Càng khó chịu hơn khi, sau này, nghe tin về một phép lạ, được ai đó đồn ầm trên báo và Mạng Việt Nam, đã xảy ra cho cặp kính mát của anh, nghĩa là giơ nó lên ánh mặt trời người ta thấy có hình Đức Mẹ hiện ra rõ ràng. Phép lạ nhảm nhí, lố bịch đó, ít lâu sau, không còn được ai nhắc nữa, nhưng nhiều người vẫn nhớ, để kể lại với ít nhiều châm biếm, mỉa mai.
 
c. Làm giàu từ những hoạt động từ thiện?

Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha chánh xứ cho anh thời gian rộng rãi để lo cho Hội Từ Thiện, mà anh sáng lập năm 2005, và quảng cáo rầm rộ trong một flyer (đính kèm).


 

Phải công nhận anh điều hành Hội một cách khoa học và qui mô, gồm cả việc bán điện thoại V247 và dược thảo chữa bách bệnh (trong đó có thuốc “tăng cường hạnh phúc gia đình”) và đã kiếm được tiền một cách hợp pháp, ít ra theo giấy tờ và báo cáo. Được tờ The Sentinel của Giáo phận và cha xứ nhiệt liệt ca ngợi, và anh mặc nhiên trở thành thầy sáu cưng của Tòa Giám Mục Portland. Thậm chí, cũng năm ngoái, 2016, cha xứ đã đi Manila, Philippines làm từ thiện, cùng với anh ta.

Có một điều làm đồng hương chê bai: thành công như thế, nhưng anh không bao giờ tham gia sinh hoạt Cộng Đồng, không đóng góp tài năng hay tài chánh cho Cộng Đồng khi cần. Nhưng sau hai mươi năm, vẫn né, vẫn núp dưới chiếc veste đen và cổ cồn trắng, và những ngày Chúa Nhật, dưới lễ phục –được sử dụng như một áo giáp vững chắc. Và rất tự tin, tưởng rằng người ta đã quên.

Nhưng người ta vẫn nhớ. Tôi thành thật nói với những kẻ còn căm ghét anh rằng, dù có tội gì chăng nữa, anh đã cải tà qui chánh và chọn con đường tu rồi thì hãy cho anh ta một cơ hội làm lại cuộc đời. Bằng cách để yên cho anh tu hành, leave him alone, như người Mỹ thường nói. Và tôi im lặng. Kiên nhẫn chờ đợi, và cầu mong, một ngày anh sớm thành “chánh quả”.
 
II. Áo gấm về làng:

Đùng một cái, có tin anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này trở về Việt Nam làm một tua ra mắt và bán sách (Chuyện tình không tên) viết kể lại chuyện tình “hàm thụ” ngày xưa một cách vô duyên, lẩm cẩm, vớ vẩn (đối với một người trên bảy bó, quá tuổi hồi xuân, nếu không vớ vẩn, lẩm cẩm, vô duyên thì còn là cái gì?), đồng thời tổ chức hát những bài không tên cũ rích, cùng với những ca sĩ hải ngoại cóc nhái, vô liêm sỉ, mùa chay nào cũng có nước mắt, cộng với vài ca sĩ lô-can quốc nội, suốt tháng 8 này, tại Hà Nội, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, và Sài Gòn. Tin được tung ra, chuyền đi nhanh như tên bắn, làm mọi người sửng sốt, thất vọng, nhưng không ngạc nhiên, vì bản chất là bản chất, ở đây, giả dối, và, như VC nói, không bao giờ thay đổi. Đối với anh ta, vấn đề chỉ là thời gian cho vở kịch bịp bợm, có lớp lang, dài đến hai mươi năm, hạ màn, trót lọt.

Hôm nay, tôi không còn chọn lựa, vì anh nhạc sĩ kiêm phó tế này đã vượt qua lằn ranh đỏ (red line). Nhìn những bức ảnh của anh chụp ngày 28/7 tại phi trường Nội Bài, và phổ biến tràn ngập trên Mạng, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, hớn hở, khác xa hồi mới đến Portland, vào đầu thập niên 90, còn lẻ loi, lêu bêu, bèo nhèo, và cười nói tươi rói với các ca sĩ địa phương, bạn bè và thân nhân ra đón, tặng hoa, níu lấy tay, khiến những người tỵ nạn chống VC và các cựu tù binh cải tạo hiện ở hải ngoại không khỏi thấy ngứa mắt và ứa gan.

Mặt nạ rơi xuống, anh ta hiện nguyên hình một Tartuffe bằng xương bằng thịt đã đóng vai trò của mình quá xuất sắc, và bây giờ, cụ thể hơn, đã trở thành một công cụ ngu ngốc, nhưng hãnh diện, của VC, trong việc thực thi Nghị quyết 36, cũng như hơn bốn mươi năm trước, tại các trại tù, trong việc đối xử ác độc với các sĩ quan VNCH đồng đội của anh. Vì sao?
 
1) Thời điểm trở về (tự nguyện, hay được VC mời dụ?) của anh rất phù hợp với “ý đồ” và kế hoạch thâm độc của VC và tình thế hiện tại trong nước. Xin nhắc, tháng 8 là tháng VC kỷ niệm Hà Nội khởi nghĩa (19/8/1945), còn gọi là “Cánh mạng tháng 8”. Không phải bởi trùng hợp, ngẫu nhiên, hay tự phát, mà có đến hơn hai trăm người dân (ở không, rảnh quá sao?), được gọi là fans, đội mưa hàng giờ để đón nhạc sĩ thần tượng, tại phi trường, theo tin báo chí quốc nội –một vinh dự hãn hữu mà từ trước đến nay, không có Việt Kiều nào được nhận lãnh… VC là một lũ lưu manh, xảo quyệt, biết tận dụng mọi thủ đoạn. Khi cần đàn áp biểu tình, hay đập phá nhà thờ, tu viện, chúng điều động hàng trăm côn đồ, thay vì công an, và tuyên bố đó là “hành động tự phát” của nhân dân. Làm sao có một “hành động tự phát” nào dưới chế độ độc tài, đảng trị hiện nay, mà không được bọn lãnh đạo cho phép, sắp xếp, cổ võ, hoặc ngược lại, mà không bị ngăn chận, trừng phạt, đàn áp dã man?

Vai trò của anh này rất cần thiết cho VC trong giai đoạn và bối cảnh hiện tại bởi anh ta là một phó tế Công giáo và một nhạc sĩ nổi danh. Nhất cử lưỡng tiện. Như sau:

a. Về mặt nổi, anh ta trở về trong tư cách nghệ sĩ trình diễn, được nhiều người hâm mộ tiếp đón –theo dàn dựng của VC, là chuyện thường tình đối với công luận. Ngoài ra, VC ngu gì mà không biết anh là cựu sĩ quan bị tù cải tạo nổi tiếng, nhưng vẫn cho phép về trình diễn, mà không qua thủ tục kiểm duyệt khắt khe, cấm cản gì ráo, không bắt “cởi quần áo khám nghiệm” như những ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại khác (nghĩa bóng) về nước trình diễn, hay những cô gái quê (nghĩa đen) muốn lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, kể cả những thằng ngưòi nửa điên nửa khùng, đui què sứt mẻ. Qua việc dành mọi ưu đãi cho anh nhạc sĩ này, phải chăng chúng muốn tuyên truyền, một lần nữa, chính sách “hòa hợp hòa giải”, “xóa bỏ hận thù” bịp bợm, mà chúng đã khổ công khua chiêng gõ mõ ầm ỉ, nhưng vẫn thất bại, suốt bao năm qua?
 
b. Về mặt chìm, là phó tế, anh bị dùng như một đối trọng (contrepoids) với những vị linh mục và giáo dân dũng cảm trong nước, từ mấy tháng nay, đã và đang ngày đêm xuống đường biểu tình chống tập đoàn Formosa và bọn lãnh đạo tham nhũng bán nước cầu vinh, cũng như, ở hải ngoại, chúng đang sử dụng những linh mục trẻ, quốc doanh, bố lếu bố láo, hay giả mạo, tại Texas, Florida hay Connecticut –đã lợi dụng bục giảng để công khai tuyên bố những lời mất dạy về VNCH và Ngày Quốc Hận 30/4. Cho phép một nhà tu hành Công giáo, dù chỉ là phó tế, chức nhỏ nhất trong hàng giáo phẩm, về nước ca hát, VC muốn chứng tỏ cho cả thế giới thấy rằng chúng không kỳ thị tôn giáo, và qua đó, và cùng với sự im lặng của Hội đồng Giám mục Việt Nam, chúng có thêm đồng minh và phương tiện để tiêu diệt một cách tinh vi và mạnh mẽ hơn những linh mục và giáo dân đang biểu tình phản kháng chúng. Đã không ủng hộ họ thì chớ, mà vô tình (hay nhận lệnh) anh thầy tu tắt này cũng không nhiều thì ít đã đồng lõa, tiếp tay triệt tiêu sự chiến đấu đầy chính nghĩa của họ, trước công luận?
 
2) Ngoài ra, khi về VN trình diễn nhạc đời, mà là nhạc tình sa đọa, đương nhiên anh ta đã tự lột bỏ chức thánh cao quý và chiếc áo tu hành mà anh, một Xuân Tóc Đỏ mới, đã may mắn vớ được –đã tạm thời che chở anh trước cơn thịnh nộ của những đồng hương tỵ nạn và các sĩ quan tù nhân cải tạo, một thời là nạn nhân trực tiếp, hay gián tiếp, của anh.

Thêm nữa, phải chăng vì chóa mắt trước danh và lợi, và lòng trần chưa dứt bỏ được tham sân si, anh ta đã vi phạm trầm trọng lời thề hứa, với Chúa, mà trong vai trò Tartuffe, anh thường lớn tiếng rêu rao, khi có dịp, là từ bỏ những bài trữ tình, dù có tên hay không tên, của anh?

Nhân tiện, NLGO tôi, trong tư cách một khách thưởng ngoạn, xin có lời bàn nhỏ về những bài không tên: nhạc thì ủy mị, rên siết, sướt mướt, nghĩa là tầm thường, và nội dung bài nào, nhất là bài không tên cuối cùng, cũng xúi giục người đàn bà có chồng ngoại tình, trong tư tưởng, với thằng bồ cũ rất bựa, rất nham nhở, rất cà chớn và rất độc ác đã công khai khoe khoang thành tích chơi gái, không biết giữ gìn thanh danh, bảo vệ hạnh phúc gia đình cho người đã (lỡ dại) trao thân cho nó. Tôi thực tình không hiểu nổi, về mặt nghệ thuật, và nhất là đạo đức, não trạng nào đã khiến người ta, ở hải ngoại hay trong nước, có thể mê mẩn những bài hát có nội dung vô luân đến thế, đến nỗi phải tiến cử anh ta học làm thầy sáu, hoặc phải đứng hàng giờ dưới mưa, chờ đón anh ta trở về nước, hoặc phải tranh nhau để được hát chung trong cuộc lưu diễn này. Trước 1975, chẳng hạn, một con bé hàng xóm của tôi, mới mười tuổi, thường nghêu ngao hát những câu, “mưa bên chồng có làm em khóc… có làm em nhớ những khi mình mặn nồng…”. Đúng là bệnh hoạn!





Tôi nghĩ rằng Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha xứ họ đạo Mỹ chưa biết mục đích thật sự về VN lần này của anh. Nhưng tôi tin rồi họ cũng sẽ biết, kể cả việc làm “ăng-ten”, bức hại đồng đội trong tù, và việc rửa tội chui, còn là một nghi vấn đối với nhiều người. Vì tôi tin vào công lý tuyệt đối của Thiên Chúa, hay luật nhân quả (karma) trong đời thường. Còn anh dại gì mà khai thật. Họ cứ tưởng anh về VN lần này, cũng như mọi lần trước (và chắc chắn đã được nêu lên trong đơn xin phép của anh), là để làm từ thiện.
 
III. Thay cho lời kết:

Có lẽ sau bài viết này, tôi sẽ phải đi lễ tại một nhà thờ khác trong khu vực. Lý do duy nhất là để tránh nhìn thấy bộ mặt tởm lợm của một kẻ mà từ nay sẽ tiếp tục là chỗ trú ẩn an toàn cho sự lừa bịp và gian dối hóa thân. Một Tartuffe thời đại, mà những hành vi vừa qua tại Việt Nam có hậu quả rất khốc hại và lâu dài trên cả nước –còn tồi tệ hơn chính nhân vật đạo đức giả trong vở kịch của Molière.


 

Tiếng Việt phát triển ra thế giới một cách... đáng xấu hổ!




Gần đây, ngoài tiếng Anh và tiếng bản địa, tiếng Việt đã được "sử dụng" và phát triển tại khá nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... tại các siêu thị, nhà hàng một số bảng lưu ý đã viết bằng tiếng Việt nhằm mục đích phụ vụ riêng cho người Việt Nam. Tuy nhiên, sự "phát triển" này là đáng xấu hổ và chúng ta, những người Việt, cần tự hỏi vì sao và vì sao?
 


Cảnh báo ăn cắp của người Việt ở Đài Loan.
 
 
Tiếng Việt được sử dụng ngày càng nhiều trên thế giới, nhưng nội dung thì thật đáng xấu hổ cho người Việt Nam.

Không ít người Việt Nam khi ra nước ngoài (du lịch, học tập ...) đã có những hành động xấu như trộm cắp trong chợ, siêu thị, khi ăn buffet thì tham lam lấy thức ăn quá nhiều rồi bỏ phí...v.v... khiến hình ảnh Việt Nam đang dần trở nên xấu xí. Một số nước thậm chí đã trưng biển cảnh báo bằng tiếng Việt về tình trạng này.

Mới đây, tờ Sankei Shimbun Nhật Bản đưa tin, một thành viên phi hành đoàn của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) bị tình nghi buôn lậu hàng mỹ phẩm, quần áo ăn cắp và có thể đang tìm cách buôn lậu ra khỏi nước Nhật. Tình trạng người Việt Nam ăn cắp đồ tại Nhật cũng có xu hướng gia tăng.

Những câu chuyện về người Việt ăn cắp, như giám đốc một công ty tên tuổi ở TP.HCM, vẫn lấy trộm ô dù trong siêu thị tại Nhật, lan truyền nhanh trên mạng xã hội khiến nhiều người cũng cảm thấy xấu hổ.
 


Biển cánh báo tại một siêu thị ở Nhật Bản
 
 
Nhiều siêu thị ở Nhật vì thế đã ghi biển "nhắc nhở", cảnh báo bằng tiếng Việt. Hồi tháng 6/2013, bức ảnh chụp biển cảnh báo hành vi ăn cắp vặt, cụ thể: “Ăn cắp vặt là phạm tội. Nếu ăn cắp vặt thì bị phạt tù dưới 10 năm. Ngay khi phát hiện ăn cắp vặt thì chúng tôi sẽ thông báo cho cảnh sát ngay lập tức. Camera phòng chống tội phạm đang hoạt động. Tăng cường điều tra”, đã được đưa lên mạng.

Không chỉ ở Nhật Bản, mà các nước và vùng lãnh thổ khác như Thái Lan, Đài Loan cũng đều có biển cảnh báo về thói trộm cắp vặt của người Việt.

Ngoài ra, một thói quen xấu khác của người Việt Nam trước đây đã từng được cảnh báo qua một bức ảnh chụp tại một nhà hàng buffet (ăn uống tự chọn) ở Thái Lan. Bức ảnh dưới đây ghi lại hình ảnh một tấm biển có dòng chữ Việt nội dung cho thấy người Việt Nam bị đánh giá là tham ăn và phung phí: “Xin vui lòng ăn bấy nhiêu lấy bấy nhiêu, nếu ăn không hết sẽ phạt từ 200 bath đến 500 bath. Xin cám ơn”.
 


Biển tiếng Việt cảnh báo việc lấy thức ăn thừa ở một nhà hàng buffet Thái Lan.
 
 


Một tấm bảng khác cảnh báo người Việt
 
 


Bức ảnh tại một nhà hàng ở Singapore là minh chứng đáng buồn cho thói quen ăn uống thiếu văn minh của người Việt.
 
 
Bức hình bên dưới chụp tấm biển cấm vứt rác bừa bãi bằng tiếng Việt tại Hàn Quốc. Nội dung ghi: "Khu vực này cấm vứt bỏ rác thải sinh hoạt, nếu như không đúng luật sẽ bị phạt 1 triệu won (khoảng 19 triệu đồng)". Bên dưới tấm biển ghi danh tính người đứng đầu quận Chilgok (tỉnh Gyeongsang, Hàn Quốc) cùng số điện thoại liên lạc.
 

 
 
Những tấm biển cảnh cáo được viết bằng tiếng Việt như trên đang ngày càng "phát triển" tại nhiều quốc gia cho thấy một cách rõ ràng là hình ảnh, đất nước và con người Việt Nam đã trở nên xấu xí trong mắt người nước ngoài.

Còn nhớ cách nay khoảng vài năm, khi có một vị linh mục ở Hà Nội nói đại ý rằng khi ông ra nước ngoài, ông cảm thấy xấu hổ vì thấy người Việt Nam luôn có những hành vi trộm cắp, gian dối và bị người nước ngoài xem thường - thì liền bị dư luận cả nước bức xúc, phản đối. Báo chí đăng nhiều bài chê bai vị linh mục này và nói ông không có lòng tự tôn, tự hào dân tộc, đáng xấu hổ.

Tuy nhiên, tới nay và qua những tấm bảng ở trên, thực tế cho thấy vị linh mục nọ nói không sai. Thiết nghĩ nếu chúng ta nói tới lòng tự hào, tự tôn dân tộc, thì trước hết chúng ta phải biết tự xấu hổ về những hành vi của người Việt mà người nước ngoài đã viết trên những tấm biển cảnh báo.