khktmd 2015
Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2017
Bằng Cấp, Học Vị và Tước Vị Đại Học - Bác sĩ Hồ văn Hiền
Giấc Nam Kha khéo bất bình...
Vừa rồi các bạn cùng lớp tôi ở trường Y khoa thuộc Viện Đại học Sài Gòn họp lớp tại California kỷ niệm 50 mươi năm (1965-2015) ngày chúng tôi rời trường trung học để thi vào y khoa. Nhiều người đã từ giả cỏi đời, một số trong chiến tranh, hay vì những lý do khác, nhất là bịnh tim và ung thư, những người khác đang hành nghề khám bịnh phòng mạch tư hay nhà thương Mỹ, vài người làm giáo sư y khoa, hay đã vể hưu, làm từ thiện hay phấn đấu để... sống tiếp. Trong nửa thế kỷ, ngành y khoa đã thay đổi nhiều, nhất là người Việt chúng ta có đến mấy nền y khoa: y khoa trước 1954, YK trước 30/4/1975, sau 1975; ở hải ngoại có y khoa Mỹ, Canada, Pháp, Úc, vân vân.Tôi thường đọc tin trong nước về tiến triển của ngành y khoa cũng như những ngành khoa học khác để xem học thuật trong nước đang thay đổi như thế nào. Nhân dịp này xin nói về một số chuyện đáng để ý thời đó, cũng như một số chuyện mới đây, phần lớn là ở Mỹ để chúng ta thấy danh xưng, bằng cấp cũng thay hình đổi dạng không kém gì phù vân..
Từ "Tiến sĩ" đến "Doctor", “Ph. D.”, Giáo sư
Từ “tiến sĩ“ (進士) gốc từ chữ Hán "tiến" (進) có nghĩa là đề cử người tài để giúp cho vua, do đó chỉ một tước vị dành cho những chức vụ hành chánh. Trong lúc đó từ "doctor" hay "docteur" của tây phương, gốc từ chữ la tinh "docere" là dạy học, doctor" là người dạy học (teacher), chỉ những người trong một ngành nào đó mà trình độ chuyên môn đã đạt tới mức dạy cho người khác, huấn luyện cho người khác trong nghề mình, hay trong giáo hội công giáo, người thầy về tôn giáo, thần học. Ph. D. hay Philosophy Doctor cũng vậy, hiểu theo nghĩa ngày xưa "philosophy" không chỉ là triết học không thôi, mà bao gồm cả các ngành khoa học của chúng ta hiện nay. "Philosophy" nghĩa gốc là "yêu kiến thức, học hỏi": gốc Hy lạp philo là yêu, thích; sophy (sophia) là khôn ngoan, hiểu biết, kiến thức, wisdom, knowledge. Trong tiếng Pháp, tiếng Anh xưa (tk 12-13) philosophie có nghĩa là kiến thức (knowledge, a body of knowledge, bao gồm luôn kiến thức "khoa học" về vật thể hiện nay). Ví dụ, thời các nhà bách khoa "encyclopediste" thế kỷ thứ 18 tại Pháp, các nhà khoa học viết cuốn Tự điển Bách Khoa (Encyclopédie) đầu tiên được gọi là "philosophes". "Philosophe" Jean le Rond (1717-1783) d'Alembert, cùng biên tập Tự điển Bách khoa với Diderot là một nhà vật lý, toán học, cơ học nổi tiếng. Sau này, vì các đại học càng ngày càng hướng về ngả khoa học và khảo cứu, "doctor" như trong Ph.D. (Philosophy Doctor) càng ngày càng mang màu sắc của hoạt động khảo cứu (research doctor) và dạy đại học. Do một cơ duyên vể ngôn ngữ, từ "tiến sĩ" nặng vể chính trị tân Khổng học của Tống Nho, quan trường và hành chánh của xã hội Khổng giáo của chúng ta đã bị "đem râu ông nọ cắm cằm bà kia", làm cho ở Việt Nam chúng ta quan chức lớn bé nào cũng muốn mang bằng "Ph.D." hay "doctor" đại học cho xứng đáng với chức vụ hành chánh của mình, hiểu theo nghĩa "tiến" sĩ hồi thời còn vua chúa.
"Professor", hay "professeur" tiếng Pháp, do gốc chữ la tinh profiteri nghĩa là "tuyên bố, công bố" (to profess, to declare publicly) là mình đủ khả năng để dạy một môn nào đó, là một loại thầy giáo hạng nhất. Trong tiếng Pháp, thầy tiểu học gọi là instituteur, do từ institution. Họ là những người Napoleon giao cho trách nhiệm phổ biến cho giới trẻ tiếng Pháp theo chuẩn mới, văn hoá mới của "institution" (tổ chức, "thể chế") mới. Giáo sư trung học Pháp gọi là professeur, tuy nhiên họ không mang tước hiệu Professeur X, Professeur Y, như giáo sư đại học. Trên danh thiếp, ví dụ sẽ ghi Jean Martin, theo sau xuống hàng là Professeur de francais. Ở miền Nam trước 1975, giống như Pháp, phân biệt người dạy tiểu học là giáo viên (như instituteur) và giáo sư trung học là giáo sư, thường là người tốt nghiệp cao đẳng hay đại học sư phạm, hay có bằng cấp cử nhân (dạy lớp đệ thất trở lên). Mỹ thì khác, chỉ gọi “giáo sư” trung học là teacher, vd French teacher, cũng như ở Việt nam hiện nay gọi là giáo viên. Đại học ngày xưa có giáo sư thạc sĩ, giáo sư thục thụ (mang tước vị suốt đời). Ở Mỹ thì có assistant professor (phụ tá), associate professor (phó giáo sư, giáo sư cọng tác) và (full) professor.
Ở Việt Nam "bác sĩ" chỉ dùng để gọi bác sĩ y khoa và chúng ta có "tiến sĩ" để gọi trước tên các doctor/docteur khác. Ở Mỹ, ai có bằng "docteur" dù là PhD, MD, hay những ngành khác của ngành y tế đều dùng tên gọi "doctor" trước tên mình. Hiệu trưởng trường trung học có bằng PhD in Education muốn học sinh gọi mình là Dr Smith, Dr Nguyen...Người Mỹ gọi Dr Martin Luther King vì ông có bằng PhD về systematic theology do Đại học Boston cấp năm 1955.(Xin mở ngoặc để nhắc đến một chi tiết thú vị, đến tận năm 1991, người ta điều tra và thấy luận án ông có đạo văn nhiều đoạn, và một bức thư kèm theo luận án của ông tại đại học Boston ghi rõ là có nhiều đoạn không được ghi rõ xuất xứ).
Bằng cấp và tước vị đại học ở Việt nam
Một điểm thú vị là người có bằng cấp và tước vị đại học ở Việt nam hiện nay rất đông, không những so với thời chúng tôi đi học. Có chừng 24.000 tiến sĩ (PhD) tại Việt nam, có lẽ đông bằng số sinh viên đại học Sài Gòn 50 năm trước đây. Hiện nay có chừng 480 trường đại học y cao đẳng; trong 60.000 giảng viên đại học, chừng 15% là có bằng tiến sĩ, nghĩa là chừng một vạn (10.000) tiến sĩ, có lẽ được đào tạo từ cả chục nước khác nhau, kể cả trong nước, với bằng cấp “tư bản” cũng như “xã hội chủ nghĩa”. Giáo sư cũng rất đông, nhưng giáo sư là một chức danh của một Hội Đồng Chức Danh Giáo sư Nhà Nước (HDCDNN) cấp, tựa như một cái bằng danh dự, cho một số người rất nhỏ, quá tuổi trung niên, thường là "cây đa cây đề". Nay HDCDNN đã chuyển sang cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện, còn việc công nhận chức danh chuyển cho nhà trường đại học. Trên thực tế trên 60% các vị giáo sư này không làm nghiên cứu hay giảng dạy mà đa số không làm việc gì liên quan đến đại học.
Một tranh luận khá thú vị đang diễn ra tại Việt Nam là trường Đại Học Tôn Đức Thắng, khá mới, đang muốn “nhảy rào”, và tự "bổ nhiệm" giáo sư cho mình mà không cần qua cơ chế nhà nước, nghĩa là làm theo lối các trường đại học Anh, Mỹ, Úc, trường đại học được tự chủ, tự quản trị , và bổ nhiệm giáo sư của mình; và cái "tít" giáo sư đó chỉ tồn tại ngày nào mà người đó còn phụ trách giảng huấn trong đại học đó, chứ không phải để kèm theo tên mình suốt đời. Chuyện này làm tôi nhớ lại các trường phái khác nhau trong các trường đại học của VNCH thời 1965-1975, lúc mà các trường phái theo Tây, theo Mỹ, hay không theo bên nào (ví dụ Đại Học Minh Đức của Công giáo, ĐH Hoà hảo) cũng rất lộn xộn. Thời tôi còn đi học tại Đại học Y khoa Sài Gòn (1965-1972), tiến sĩ quốc gia (Docteur d’Etat), tiến sĩ đại học (Docteur d’Université), tiến sĩ đệ tam cấp (Docteur du troisieme cycle), thạc sĩ (agrégé), docteur của Sorbonne (Pháp), PhD của Mỹ tranh dành ảnh hưởng, thay đổi chức danh, địa vị, có khi đưa đến thảm kịch, chết người trong buổi giao thời giữa hai nên giáo dục mới (Mỹ) và cũ (hậu thuộc địa kiểu Pháp).
"Vùng Giáo Dục Châu Âu": Bologna Agreement
Đó là chưa kể bằng cấp của Germany (Đức), Belgique, Anh, Ý còn phức tạp hơn nữa. Cũng may, hiện nay có sự đồng nhất lớn hơn trong hệ thống đại học châu Âu. Năm 1999, 27 nước châu Âu thiết lập "The Bologna Process" lúc các bộ trưởng giáo dục đồng ký thoả hiệp Bologna (Bologna Agreement), tạo nên một "Vùng Giáo Dục Châu Âu", hiện nay gồm có 45 nước tham dự, với mục tiêu là thống nhất cách tổ chức đại học và cao đẳng rất rời rạc của các nước trong nhóm, đều là những nước có truyền thống đại học rất lâu dài, thống nhất hệ thống bằng cấp gọi là "Bologna Diplomas". Học trình chia ra thành 3 cycle:[1] Bachelor's, học 3-4 năm [2] Master's 2-3 năm và [3] Ph.D., rất gần với hệ thống bằng cấp Mỹ, do đó giúp cho các trường Mỹ dễ so sánh và đánh giá bằng cấp, thành tích các sinh viên chuyễn trường từ châu Âu qua Mỹ hay ngược lại. Đồng thời chia giai đoạn kiểu này cũng giúp những người đi học từng khúc ngắn (3-4 năm) mà vẫn được giá trị các tín chỉ của mình, không như trước đây, nếu học dang dở , ví dụ 3-4 năm trường y khoa ở Pháp (học trình 7 năm) hay Việt Nam trước 1975, thì không được chứng chỉ, bằng cấp gì cả..
Hệ thống giáo dục theo Pháp
Ngày xưa, ở Sài Gòn, chúng ta theo hệ thống giáo dục Pháp, học y khoa 7 năm sau trung học, gồm một năm dự bị về khoa học căn bản (basic sciences) học ở trường Đại học Khoa học (Lý Hoá Sinh, hay PCB, viết tắt của Physique, Chimie, Biologie) hay APM sau này (Année Pre Medicale) và 6 năm học ở trường Y khoa. Sau khi học xong ở trường Y khoa một vài năm, ứng viên thi bịnh lý, trình luận án và được tước vị hay học vị Bác sĩ Y khoa Quốc Gia (Diplôme d’Etat de docteur en médecine). Những bác sĩ tốt nghiệp khoảng giữa thế kỷ thứ 20 lúc qua Pháp định cư sau 1975 bằng cấp cũng được công nhận như bằng của đại học Pháp cấp, hoặc chỉ cần điều chỉnh đôi chút, như lấy luận án cũ ở Việt nam trình lại với một uỷ ban giáo sư Pháp, và tước vị Bác sĩ Y khoa Quốc gia (Docteur d'Etat en Medecine) họ vẫn được công nhận tại Pháp.
Theo Bác sĩ Trần Văn Tích trong một bài báo nói vể kinh nghiệm của ông được rời Việt nam để định cư chính thức ở Đức, đăng trong đặc san của Hội Y Tế Việt Nam tại Hoa Kỳ (tháng 8 năm 2015), "người Đức phán rằng tôi được phép mang học vị chính thức là Dr. med. staadl.(Vietnam) tức tiến sĩ y khoa quốc gia Việt nam. Nếu là văn bằng do các đại học tư cấp phát, không phải do quốc gia cấp phát, thì người Đức gọi là Dr. med.univ. (Budapest) chẳng hạn."
Bác sĩ Phạm Tu Chính, ra trường Y Saigon khoảng giữa thế kỷ 20 và định cư ở Pháp. Theo ông, y sĩ tốt nghiệp trường y Sài Gòn trước năm 1955, văn bằng do khoa trưởng, viện trưởng người Pháp ký được công nhận, khỏi phải thi lại. Những y sĩ tốt nghiệp trước năm 1965 thì được công nhận học trình 6 năm, chỉ phải thi lại 3-4 môn bịnh lý năm thứ 6 rồi trình luận án, được bằng Tiến sĩ Quốc gia.
Những người tốt nghiệp sau 1965 cũng được nâng đỡ, được học lại một số năm hay thi tương đương lấy lại văn bằng. Sau năm 1985, chương trình học ở Pháp thay đổi, nên các bác sĩ mới ra trường phải đi thực tập bịnh viện 2 năm nội trú (residency) mới được hành nghề y khoa tổng quát.Theo trang web của trường Y Pierre và Marie Curie (UPMC) thuộc Đại học Sorbonne, Paris, hiện nay học trình để lấy bằng Diplome d'État de docteur en medecine mất 9 năm sau tú tài (bachelier, tốt nghiệp trung học) gồm 6 năm học y khoa và 3-5 năm nội trú (3 năm nội trú cho y khoa tổng quát). Như vậy theo số năm (9) tương đương với một người học y khoa ở Mỹ sau khi hoàn tất 4 năm premed (college, undergraduate) để lấy BS hay BA, 4 năm trường Medical School, và một năm nội trú (internship), là điều kiện tối thiểu để được cấp bằng hành nghề y (licence to practice medicine and surgery) ở đa số tiểu bang đối với sinh viên tốt nghiệp tại trường y khoa Mỹ (US Medical Graduates). Đối với sinh viên tốt nghiệp ở ngoại quốc (Foreign Medical Graduates hay FMG), dù trước khi đến Mỹ họ là giáo sư y khoa hay chuyên gia gì đi nữa, có thể cần đến 2 năm nội trú hay thường trú (internship or residency) mới được cấp bằng hành nghề (1). Nói một cách khác, Tây Âu cũng như Mỹ, Canada công nhận tước vị Doctor (tạm gọi là "tiến sĩ y khoa quốc gia”) của trường y khoa Sài Gòn thời chế độ Việt Nam Cọng Hoà. Một số bác sĩ miền nam Việt Nam, với tấm bằng của trường Y khoa Sài Gòn, đi vào con đường khoa bảng và trở thành giáo sư tại các đại học Mỹ và Canada. Trong lúc đó, chính tại Việt Nam, chính phủ Việt nam, căn cứ trên hệ thống miền Bắc (VNDCCH) bị ảnh hưởng của thời Soviet, hình như không công nhận học vị cấp tiến sĩ y khoa của Miền Nam. Những người mà tôi biết còn ở lại Việt Nam trước khi tiến thân trên con đường giảng dạy trường y ở Việt Nam đều phải lấy cho được bằng "tiến sĩ y khoa" của Cọng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trước khi được gọi là "giáo sư tiến sĩ".
Chế độ "tiến sĩ y khoa” này hình như tương tự như bằng habilitation universitaire của Pháp, đòi hỏi người đã có bằng tiến sĩ phải trình một luận án thứ nhì trước một hội đồng giám khảo để chứng tỏ khả năng dạy đại học hay khả năng điều khiển khảo cứu (Habilitation à diriger des recherches, HDR). Ở Đức gọi là Privat-docent. HDR được thiết lập sau khi Pháp bãi bỏ bằng tiến sĩ quốc gia (1984) và tương đương với bằng agrégé trong y khoa và luật khoa.
Ngộ nhận ngôn ngữ
Nhân chuyện này tôi còn nhớ một chi tiết khá thú vị. Lúc khai lý lịch trong trại cải tạo, về bằng cấp, tước vị đại học, một số bác sĩ trẻ mới ra trường ghi là "tiến sĩ y khoa", nhưng các quản giáo không chịu công nhận như vậy cho nên các anh bác sĩ này cũng phải sửa lại thôi, vì lúc đó những chuyện như vậy cũng không còn ý nghĩa gì. Các quản giáo quen với chương trình học y khoa ở ngoài bắc, ở đó bác sĩ có nghĩa là người tốt nghiệp trường thuốc, học trình ngắn hơn và lúc tốt nghiệp không có tước vị "Docteur d'Etat". Sau năm 1958, học trình Trường Đại học Y Hà Nội kéo dài 4 năm với 1/6 thời giờ học chính trị, năm 1968 tăng lên 6 năm, nhưng hết 12% thời gian là học chính trị (theo Wikipedia). Mới đây, đọc tin trên báo Người Việt ở Cali, giới thiệu một "nàng tiên nhỏ, từng ăn xin nay thành bác sĩ" nhờ sự giúp đở của một cụ Việt Kiều. Bài báo có kèm theo hình ảnh bằng tốt nghiệp từ Đại Học Y Dược Thái Nguyên, trong khoá 300 người tân khoa, ghi: Bằng tốt nghiệp Đại học: danh hiệu Bằng Bác sĩ, có dịch tiếng Anh: “The degree of Bachelor”(Cử nhân).(Hình 3)
Ngoài ra, cũng có những ngộ nhận ngôn ngữ kéo dài đến sau này, ngay cả lúc đã ra đến ngoại quốc. Ở miền bắc trước 1975, ở miền bắc gọi "y sĩ" là những người được huấn luyện trung cấp về y khoa , thấp hơn "bác sĩ" là những người được đào tạo qua trường đại học y khoa, hay đã được học bổ túc thêm để thành bác sĩ.
Trong Nam thì khác, danh từ "y sĩ" chỉ dùng cho những người tốt nghiệp chính quy trường y khoa , lúc đó chỉ có Y khoa Sài Gòn và Y khoa Huế. Trường Y khoa Minh Đức thuộc Viện Đại học Minh Đức (của Giáo hội Công giáo) chỉ được chính thức hoạt động từ tháng 12 năm 1972 và giải thể năm 1975. Ví dụ, sau khi ra trường, chúng tôi được "trưng tập" vào quân đội với cấp bực "y sĩ trung uý". Lúc đi cải tạo, những ông quản giáo lại hỏi ngược chúng tôi: anh là “y sĩ” mà sao lại khai anh có bằng bác sĩ ?. Khoảng năm 1990, ngay tại Washington DC, USA cũng có một nhà báo tiếng Việt, hình như chuyên gia về ngôn ngữ, cũng viết báo tiếng Việt thách thức chúng tôi như vậy về danh xưng "y sĩ" và "bác sĩ". Ông hỏi: Các anh khoe là hội viên của "Hội Y sĩ Hoa kỳ" (AMA/ American Medical Association) mà sao các anh lại quảng cáo mình là bác sĩ?
Một từ khác cũng gây nhiều rắc rối: "agrégé" mà chúng ta gọi là thạc sĩ. Trong chế độ giáo dục Pháp ngày xưa "agrégé" có hai loại: cho trường luật và trường y thì "agrégé" là một tước vị của người dạy đại học. Ví dụ trường y khoa Sài gòn hồi đó chỉ có một số giáo sư y khoa từng kinh nghiệm dạy sinh viên lâu năm ở Việt Nam , sau khi thi một kỳ thi đặt biệt ở Pháp, được Pháp phong là "agrégé" như GS Phạm Biểu Tâm, GS Trần Ngọc Ninh, GS Nguyễn Hữu.
Ngoài ra, một người tốt nghiệp trường École normale superieure (cao đẳng sư phạm), hay có 5 năm đại học (cấp master) có thể thi để được công nhận là "professeur agrégé", nhưng những agrégé này dạy trung học (lycée), tuy cao cấp hơn giáo sư trung học thường (nay gọi là giáo viên, professeur certifié).
Người Việt chiếm được bằng agrégé rất hiếm, thành công trong nhiều lãnh vực, và cũng là những người có cá tính đặc biệt. Nổi tiếng có Phạm Duy Khiêm (1908-1974) là người Việt duy nhất lấy được bằng thạc sĩ về văn phạm của Pháp. Ông là con nhà văn Phạm Duy Tốn và là anh của nhạc sĩ Phạm Duy, tốt nghiệp École normale supérieure de Paris, học cùng lớp và bạn thân của với Tổng thống George Pompidou và Leopold S. Senghor, thi sĩ nổi tiếng về thân phận người da đen [negritude] và sau này là tổng thống của Senegal. Phạm Duy Khiêm là tác giả cuốn tiểu thuyết Nam et Sylvie được giải Louis Barthou (Académie francaise) và cuốn sách Legendes des terres sereines (Huyền thoại miền đất bình yên) được giải thưởng văn chương Đông Dương. Sau này ông là đại sứ của Việt nam Cọng hoà tại Pháp (1954-1957) và được Đại học Toulouse cấp bằng tiến sĩ danh dự. Lúc còn trẻ ông từng nói: "Con người ta phải có lý do chính đáng để có mặt trên trái đất này" (“il faut justifier sa présence sur cette terre”). Ông tự sát năm 1974.
Học giả Hoàng Xuân Hãn (1909-1996), người được trường kỹ sư cầu đường Pháp (École Nationale des Ponts et Chaussées) ở Paris đặt tên một giảng đường, là thạc sĩ về môn toán (DH Sorbonne) và dạy toán ở trường Bưởi (trung học), trước khi dạy trường Đại học Khoa học. Ông viết sách “Danh từ Khoa học”, nghiên cứu sử. Ông tham gia chính phủ Trần Trọng Kim của Vua Bảo Đại (1945), sau đó ở luôn bên Pháp.(2)
Khoảng thập niên 1980, một số bác sĩ Việt Nam ở Mỹ, sau khi học chuyên khoa qua 3-5 năm là thường trú và thi đậu "specialty board certification" của Mỹ (diplomate chỉ người được specialty board công nhận), muốn quảng cáo khả năng chuyên khoa của mình và, ví dụ, dịch "Diplomate of the American Board of Pediatrics" là "Thạc sĩ Nhi khoa", tuy chuyện này không liên quan đến bằng "agrégé" thời Pháp thuộc. Gần đây hơn ở Việt Nam, người ta lại dùng "thạc sĩ' để dịch học vị "Master' (sau BS hay BA).Bằng Y, Nha, Dược, Optometry, Chiropractic, Osteopathy, Homeopathy tại MỹTừ ngày người Việt chúng ta hành nghề tại Mỹ, lại có nhiều vấn đề khác. Trước 1975, ở Việt Nam, Nha và Dược học 5 năm trong lúc Y khoa học 7 năm. Dược sĩ và nha sĩ không có tước hiệu 'doctor". Mỹ thì khác, ngành Tây Y theo truyền thống của Esculape, Hippocrates (sinh 460 BC), Louis Pasteur (1822-1895), Robert Koch (1843-1910), Alexandre Yersin (1863-1943 mất ở Nha Trang), trường Y khoa Hà nội và Sài Gòn, mà chúng ta quen thuộc, được gọi là dòng chính của nền y học, hiện nay (đầu thế kỷ 21), cố gắng trở nên y học khoa học (scientific medicine), "y khoa sinh học" (biomedicine), một nền "y học căn cứ trên chứng cớ khoa học" (evidence based medicine, có người dịch gọn là "y khoa thực chứng").Học trình Tây Y thường gồm 4 năm tiền y khoa, với bằng BS (cử nhân khoa học) hay BA (Bachelor of Arts), 4-5 năm học ở một trong trên 100 trường Y khoa, và tốt nghiệp (không bắt buộc khảo cứu và trình luận án) với bằng Medical Doctor (M.D.).Theo Wikipedia, bằng M.D. Mỹ là một loại "professional doctorate" có từ năm 1771 (College of Philadelphia), được cấp 90 năm trước khi bằng Ph.D.(research doctorate) được cấp lần đầu tiên tại Mỹ năm 1861. Một số sinh viên y khoa muốn đi về khảo cứu và dạy học, chọn con đường M.D. PhD, mất thêm nhiều năm học, dài hơn là con đường M.D. Ngược lại cũng có nhiều người đã có bằng PhD xin vào học Medical School để có thể thực hiện một sự nghiệp trong y khoa (như trực tiếp chữa bịnh, giải phẫu, nghiên cứu trên người bịnh, điều hành bịnh viện).Sau khi ra trường y với bằng M.D: 3-6 năm huấn luyện (post graduate training), gồm một năm nội trú bịnh viện [internship] và sau đó 2-5 năm thường trú [residency]. Ví dụ bác sĩ nội thương hay nhi khoa cần 3 năm postgraduate; bác sĩ chuyên về mắt (ophthalmology) 4 năm, bác sĩ quang tuyến (radiologist) cần 5 năm, bác sĩ giải phẩu 5 năm. Có thể cọng thêm một vài năm chuyên khoa sâu (sub specialties) gọi là fellowship. Ví dụ bác sĩ nhi khoa phải huấn luyện thêm 2 năm về y khoa trẻ sơ sinh, sinh non để trở thành neonatologist. Người bác sĩ trước khi được cấp bằng hành nghề phải đậu 3 phần của kỳ thi USMLE: phần 1 (khoa học căn bản) thi sau năm thứ 2 trường y, phần 2 (lâm sàn) thi vào năm thứ 4 YK, và phần 3 sau khi đi đã hoàn tất năm nội trú (internship). Thi USMLE chung cho các tiểu bang Hoa Kỳ và kết quả phần 1-2 là thước đo chung về trình độ kiến thức của sinh viên mới ra trường, một yếu tố quyết định quan trọng lúc ứng viên xin đi làm nội trú hay thường trú.Ngoài ngành y, ở Mỹ còn có những "professional doctorate" khác. Học nghề Nha (răng) mất 4 năm college rồi 4 năm trường nha khoa, cũng dài như quá trình học y, tốt nghiệp với bằng Doctor of Dental Surgery (DDS) hay DMD ("Dentariae Medicinae Doctor") và vd gọi là Dr. X. Gần đây, các trường Dược cũng bắt đa số ứng viên phải có bằng cử nhân (4 năm) mới nhận vào học 4 năm, tốt nghiệp với tước vị Doctor of Pharmacy (PharmD) cũng gọi là Dr. Y. Một số dược sĩ Việt bắt đầu để tước vị "Bác sĩ Dược khoa" để dịch PharmD.Ngoài ra còn có những ngành như "optometry" (opto= thị giác, sight, metry= đo) chuyên về đo mắt và khám mắt thông thường nhưng không làm phẫu thuật, tước vị của họ là OD (Optometry Doctor), được dịch sang tiếng Việt là Bác sĩ Nhãn khoa.Vào thế kỷ thứ 19, trong lúc y khoa Mỹ còn sơ khai và rất ít căn bản khoa học, lúc mà các phương pháp trị liệu chính vẫn còn là trích huyết (bloodletting) và cắt bỏ các bộ phận bị hư hại (amputation), một số người cho rằng cách tiếp cận của y khoa dòng chính là phiến diện, không chú trọng đến sự quân bình của con người toàn diện mà chỉ theo kiểu "bịnh đâu đánh đó", lắm khi còn gây nguy hại cho người bịnh cho nên họ còn gọi tây y dòng chính là "allopathic medicine", (trong từ này allo có nghĩa là khác, pathic là bịnh, đau đớn). Lúc đầu từ "allopathic medicine" được dùng với tính cách miệt thị bởi trường phái "homeopathy" (homeo= giống nhau) là những người chủ trương "dùng độc trị độc", nghĩa là họ dùng chính một chất mà họ nghĩ có khả năng gây ra triệu chứng người bịnh (ví dụ gây sốt), pha thật loãng chất đó “đến mức mà ngay cả các phân tử chất đó không còn phát hiện được”, rồi dùng dùng dung dịch đó như là thuốc chữa bịnh. Nên nhớ là những bàn cãi, đối kháng này hiện hữu trước hơn một trăm năm nay, trước các tiến bộ vuơt bực của y khoa hiện đại và của nền kỹ nghệ sinh học và dược học hiện nay. Tuy nhiên do thói quen, một số nơi còn gọi y khoa chính thống là "allopathic medicine", để đối nghịch với homeopathic medicine , osteopathic medicine, oriental medicine (đông y), vv .Homeopathy hay homeopathic medicine được thành hình vào cuối thế kỷ thứ 18 ở Đức và căn cứ trên triết lý cho rằng cơ thể có thể tự làm lành lấy mình, và những triệu chứng mà chúng ta ghi nhận chỉ là những cố gắng của cơ thể đang tìm cách khắc phục bịnh.Các trường osteopathy huấn luyện các Doctor of Osteopathy (DO) cũng qua quá trình 8 năm sau khi tốt nghiệp trung học. Theo Hội Osteopathy (American Osteopathic Association), các nguyên lý về osteopathy chú trọng đến cách tiếp cận bịnh nhân như là một con người toàn diện, chứ không chỉ xét và giải quyết những triệu chứng, những “bịnh” (như viêm phổi, tiểu đường, đau ruột dư) của người đó. Ngoài ra, ở trường họ cũng được huấn luyện nhiều hơn về hệ xương -cơ bắp và tác dụng của nó trên các khía cạnh khác của cơ thể và sức khoẻ. Ngoài ra còn có các trường chiropractors, học trình 5 năm sau college (post graduate), đào tạo ra Doctor of Chiropractic (DC), chuyên về chữa bịnh bằng nắn xương cho ngay ngắn theo nguyên lý của ngành này về chữa bịnh (alignment restoration of the skeletal system). Nói cách khác, chiropractics và osteopathy nhấn mạnh về tầm quan trọng của hệ xương-cơ bắp. Trên thực tế, các DO hành nghề trong các lãnh vực không khác các bác sĩ y khoa MD bao nhiêu.Ngoài ra các đại học ở Mỹ còn có trường (post graduate/sau cử nhân) dạy về châm cứu và đông y, cấp bằng D.O.M. (Doctor of Oriental Medicine, e.g. University of Maryland), Master of Science in Acupuncture (MSAc), Master of Science in Traditional Oriental Medicine (MSTOM)Cho nên, tiếng Việt chúng ta cũng như y khoa chúng ta cũng hơi rắc rối vì nó có rất nhiều lớp quá khứ, ảnh hưởng chồng chất lên nhau. Dù sao thì mục đích chính của y khoa là chữa bịnh, hay theo nghĩa rộng hơn hiện nay là bảo vệ, thăng tiến tình trạng sức khoẻ của cá nhân và cộng đồng. Bằng M.D. chỉ là bước đầu, cái vé cho một người tương đối trẻ trên dưới 30 đi vào ngưỡng cửa của thế giới thầy thuốc, còn nhiều học hỏi, rút kinh nghiệm và gian truân trước mắt.Hiện nay, ở Mỹ, những cố gắng của giới khoa bảng (academia), dựa theo phong trào bảo vệ quyền lợi cho bịnh nhân ("người tiêu thụ") đang "hành" các bác sĩ y khoa và bắt họ phải học đi học lại liên tục (continuous medical education, CME), thi lại mỗi chu kỳ vài năm. Ví dụ thi chuyên khoa lại 7-10 năm một lần (board recertification, hay Maintenance of Certification/MOC) rất tốn kém và nặng về từ chương không thích hợp với thời đại thông tin của chúng ta ngày nay. Giới bác sĩ Mỹ hiện nay có vẻ như không còn nhịn được nữa và đang tranh đấu dành lại quyển hành nghề độc lập của họ.Tôi khám bịnh cho các trẻ em từ lúc chúng chào đời, cho đến lúc chúng trưởng thành, thời gian mà ở đây người ta gọi là late adolescence, tuổi thanh niên “già". Trong quá trình nhìn các cháu lớn lên qua mấy chục năm như vậy, rất nhiều phụ huynh bịnh nhân cho biết mình mơ ước con lớn lên sẽ làm nghề gì. Có những mơ ước làm ngạc nhiên, như có một vài người muốn con mình lớn lên đi tu thành linh mục, thành "Cha", một cách dâng hiến con mình cho đấng tối cao của mình; một số khá đông muốn con mình trở thành bác sĩ. Có người cho rằng làm bác sĩ hay “tu cha” cũng giống nhau ở chỗ người thì lo sức khoẻ phần xác, người thì lo sức khoẻ phần hồn. Là thầy thuốc, tôi cũng tự an ủi như vậy, mặc dù, ai cũng biết, trên thực tế, y nghiệp cũng như tôn giáo không phải lúc nào cũng vui, hay làm con người cao cả, thăng hoa. Chuyện ai ngồi chiếu nào, chiếu cạp điều hay chiếu gon, làm bận tâm giới khoa bảng có lẽ không quan trọng lắm trong cuộc đời người thầy thuốc. Các khảo cứu cho biết đa số bịnh nhân thích bác sĩ nào đó cũng phần lớn do các cư xử, tận tâm của bác sĩ; bịnh nhân ít câu nệ bác sĩ học trường nào ra và thành tích học thuật có danh giá hay không. Những điểm nếu trong môi trường đại học thì xem như quan trọng hàng đầu quyết định "career" của người giáo sư hay bác học tương lai. Khác với các học giả hay nhà khảo cứu sống trong phòng thí nghiệm hay thư viện, "tầm câu trích cú" (“references, quotations”), đặt nặng vấn đề resumé dài hay ngắn, công bố bao nhiêu lần, ở đâu (careerism). Dù theo sau tên mình có bao nhiêu chữ viết tắt MD, DO, DOM, DDS, riêng đối với người thầy thuốc lăn lộn với nghề không khác gì người lính nơi tiền tuyến, được gọi "bác sĩ" chắc cũng quá đủ để định nghĩa cho một đời học hỏi, phục vụ và tìm kiếm.
Nam Việt Nam: Cái giá của sự trong sạch - Source: Time Magazine
THẮC MẮC BIẾT HỎI AI? - Tác giả Trần thị Lam
Sinh ra trong thời bình, đã từng tự hào vể màu cờ sắc áo, đã từng yêu đảng, yêu bác. Nhưng càng trưởng thành, tôi càng đặt ra cho mình nhiều câu hỏi:
1- Việt Nam có 9.000 giáo sư, 24.000 tiến sĩ nhưng không có bất kì bằng sáng chế nào. Vậy những giáo sư, tiến sĩ đó, họ làm gì?
2- Giáo dục Việt Nam cải cách không ngừng, vậy tại sao 63% sinh viên thất nghiệp khi ra trường?
3- Báo chí ca ngợi người Việt Nam thân thiện hiếu khách, vậy tại sao đa số du khách nước ngoài tuyên bố sẽ không quay trở lại Việt Nam lần thứ 2?
4- Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", vậy rốt cuộc ai nghĩ ra mô hình này?
5- Nhiệm vụ của báo chí truyền thông là nói lên sự thật hay là nói lên những điều có lợi cho đảng?
6- Nhà nước nhận lương từ tiền thuế của dân để làm việc phục vụ nhân dân hay để cai trị nhân dân?
7- Công an là lực lượng được thành lập để bảo vệ dân hay bảo vệ chế độ?
8- Khẩu hiệu của quân đội là "trung với đảng", vậy sao khi hi sinh lại ghi trên bia mộ là "tổ quốc ghi công" chứ không phải "đảng ghi công"?
9- Tại sao có "huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ" mà lại không có "huân chương kháng chiến chống Tầu"?
10- Đảng cử thì đảng bầu, tại sao đảng cử lại bắt dân bầu?
11- Chủ nghĩa xã hội là chế độ ưu việt, vậy tại sao nó sụp đổ tại Nga, nơi nó được sinh ra và tại sao chỉ còn vài quốc gia theo mô hình này?
12- Tư tưởng Mác-Lenin là tư tưởng khai sáng nhân loại, vậy tại sao tượng Lenin bị phá sập tại Nga và các nước đông Âu trong tiếng hò reo của nhân dân?
13- Hồ Chí Minh từng nói: "Không, tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê". Vậy giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh ở đâu ra?
Xin người dân Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại hãy cảnh giác trước thủ đoạn xâm nhập của Việt Cộng - Tác giả Nguyễn Trọng Dân
Tác giả Nguyễn Lương Tuyền đã viết một bài rất xuất sắc, có viễn kiến rất cao với tựa đề: "Người Việt hải ngoại và viễn ảnh một nước Việt thứ hai tại hải ngoại, ở ngoài dải đất hình chữ S" đăng trên Dân Làm Báo. Tại sao xuất sắc và viễn kiến sâu sắc, xin tạm khoan bàn ở đây. Bài viết này chỉ xin viết tiếp ý của tác giả. Đó là tác giả nhìn thấy được điều này thì bọn Việt Cộng cũng nhìn thấy được điều này. Do đó, Việt Cộng cũng ra sức nỗ lực xâm nhập, chia rẽ và chống phá cộng đồng quốc dân Việt Nam Cộng Hòa tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại bằng mọi cách. Các phương thức xâm nhập của Việt Cộng rất tinh vi, kín đáo khó mà có thể ngờ được, tạm thời xin tóm tắt như sau:
1. Xâm nhập bằng đường hôn nhân: Việt Cộng và nhất là bên Công an có cả một chính sách "cơ cấu" dâu rễ với mọi thành phần người dân Việt Nam Cộng Hòa; người dân Việt Nam Cộng Hòa hiền lành trọng tình nghĩa nên thường bị lợi dụng làm bình phong cho Việt Cộng khi đã là thông gia với bọn chúng. Gia đình Ba Dũng chỉ là một thí dụ nhỏ nhoi trong muôn ngàn trường hợp. Các cháu nhỏ học hành đàng hoàng nết na của các gia đình công dân Việt Nam Cộng Hòa về Việt Nam là lập tức có người của Việt Cộng ngọt ngào và khôn khéo cáp ngay để cưới hỏi. Về lâu về dài sống chung, mới biết bọn này bạc tình bạc nghĩa và chỉ lợi dụng để chống phá sự hồi sinh của Việt Nam Cộng Hòa, cũng như tìm cách định cư ở nước ngoài để gầy dựng cơ sở cho đảng, lòi chành ra là Việt Cộng mà thôi.
2. Xâm nhập bằng khổ nhục kế: các VIP dân chủ dễ dàng lôi cuốn được cảm tình của người dân Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại nên Việt Cộng cũng cài một loạt những người đấu tranh bỏ tù rồi sau đó trục xuất sang Hoa Kỳ để nhập vào giới đấu tranh của Cộng Đồng, vừa thu thập tin tức vừa tìm cách chia rẽ chống phá bôi nhọ những quan điểm thật lòng, những người thật lòng vì Việt Nam Cộng Hòa. Thật giả trắng đen không biết rõ nên lâu dần, nghi kỵ bổng lây lan khiến sức mạnh đấu tranh chống Cộng bị yếu đi, sức đoàn kết trong ngoài nước cũng vì thế cũng yếu đi. Có may mắn khá nhỏ nhoi là bọn Việt Cộng giả danh dân chủ nằm vùng này cứ hể thấy cờ Vàng hay bốn chữ Việt Nam Cộng Hòa thì hơi bị nhột nên có đôi khi bị lộ mặt yêu tinh của mình. Tuy nhiên, bọn Việt Cộng giả danh dân chủ sau này thì khôn hơn, cứ bơ mặt tung hô nên ngày càng khó đoán.
3. Xâm nhập thông qua giới nghệ sĩ: Giới nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị lợi dụng tối đa để làm cầu nối cho Việt Cộng xâm nhập và đánh bóng sự tốt đẹp giả tạo của chúng. Cụ thể hơn hết là văn công Việt Cộng đưa ra các chương trình văn nghệ chỉ là đơn thuần giải trí chỉ "phục vụ cho thưởng thức - chứ không phục vụ cho chính trị,” ca sĩ văn công của đảng hát chung với ca sĩ Việt Nam Cộng Hòa khiến mọi người dần dần có thiện cảm để rồi từ từ chúng lộ diện là “bạch cốt ma,” xâm nhập và lấy tin tức cho đảng cũng như phá hoại mọi nỗ lực vận động chống cộng của người dân Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại.
4. Xâm nhập bằng đường tôn giáo: Hàng loạt các chùa chiền ở hải ngoại bưng bê ồ ạt công an giả làm thầy chùa sang hải ngoại để rồi, chống phá các sư thầy hay các chùa có tinh thần yêu nước (tức là chống Cộng phục hưng Việt Nam Cộng Hòa và dân chủ) với chủ trương cái gọi là: "chí tâm tu hành, không dính đến chính trị." Chùa chiền của Việt Cộng giấu súng chứa mìn thì được, còn chùa chiền của người dân Việt Nam Cộng Hòa cắm cờ Vàng trước ngõ hay lên án cái ác của Việt Cộng thì bị coi là tu mà còn dính dáng đến chính trị?!! Việt Cộng thật là tráo trở!
Đó là chưa kể hàng loạt các thầy chùa dẫn Việt Kiều về nước làm từ thiện để đem đô la nuôi đảng! Người nghèo thì được dăm ba đồng rồi bị cướp lại hết, còn cán bộ nắm hết tiền cứu trợ thì không ai biết cả. Có lần, một sinh viên bách khoa ở Sài Gòn, theo người nhà mình từ Mỹ về cùng một vị thầy đi làm từ thiện ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bổng hỏi, "thưa thầy, chùa Thầy ở bên Mỹ có làm từ thiện gì giúp cho người dân Mỹ không?" Ông thầy này đang hăng hái chia tiền nên quên bẵng, bèn trả lời là "Không!" Anh sinh viên này mới ngớ ngẩn hỏi, "Thưa thầy, thầy sống ở nước Mỹ, kiếm cơm có tiền là nhờ xã hội Mỹ mà không làm từ thiện giúp lại xã hội Mỹ, thầy lại về tận đất nước mình mà làm từ thiện, Mỹ nó cho hay sao?" Ông thầy hơi bị chột, lật đật lãng qua chuyện khác. Nhờ vậy, nhiều người Việt Kiều đi trong đoàn bỗng nghi ông thầy này là cán Cộng. Ông thầy tu này là ai, tên gì thì thôi để những Phật tử Việt Kiều nào trong cuộc suy nghiệm lấy vậy, tạm không muốn nêu tên tuổi để được thuận hòa sau trước.
Các chùa chiền có thầy chùa quốc doanh thường sẽ rêu rao là chỉ tu hành không dính đến chính trị để ru ngủ Phật tử quên lãng nỗi đau cả dân tộc đang bị thảm họa Cộng Sản. Chùa chiền cũng là nơi khiến lý lịch và nhiều thông tin cá nhân được thu thập để bộ Công An tìm kiếm thăm dò ở hải ngoại.
5. Xâm nhập bằng đường mở chợ búa, quán ăn: Việt Cộng sang bên Mỹ chẳng hạn sẽ lập tức kiếm cách mở chợ, quán ăn để vừa kiếm tiền kinh tài cho đảng, vừa dễ quan sát dòm ngó những khách hàng vào ra để kết nối quen biết cũng như vừa là nơi giặt ủi tiền cho cán đảng. Người dân Việt ở hải ngoại cứ thế mà lao đầu vào mua bán hay ăn uống giúp đảng mỗi ngày.
6. Sử dụng các phần tử nằm vùng: Nhiều phần tử tuy là lính ngày trước nhưng thực tế lại là nằm vùng cho Việt Cộng nên sang hải ngoại thường xuyên dùng áo lính của mình để che đậy, chống phá cũng như thu thập tin tức cho Việt Cộng. thậm chí còn tìm cách đưa thêm người của Việt Cộng sang hải ngoại để kết nối kéo bè. Trong cao trào Vượt Biển, có nhiều thành phần Việt Cộng xin được cài vào đi vượt biên chung, họ đảm bảo bải bến ra đi an toàn miễn sang trại tỵ nạn thì nhận bà con để được bảo lãnh định cư. Bọn Việt Cộng giả danh thuyền nhân này đông đáo để và chắc chắc cộng đồng người dân Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại sẽ còn mệt mỏi với bọn này dài dài vì cái mác tỵ nạn che chắn quá kỹ, khó nhận ra.
Người dân Việt Nam Cộng Hòa mình thì thật thà hiền lành nên chạy kiểu nào, suy nghĩ kiểu nào cũng bị bọn Việt Cộng ranh ma lừa gạt.
Sau năm 1945, dân mình bị Việt Cộng lừa đi kháng chiến chết thế cho chúng chưa tởn, sau năm 1968, thảm sát ở Huế cũng còn chưa tởn, ngay năm 1975, biết bao người còn ngây ngô theo tàu Việt Nam Thương Tín bỏ về thay vì xin tỵ nạn vì vốn có tấm lòng hiền lành nhân từ, nghĩ đến gia đình non nước. Về rồi, bị Việt Cộng nhốt cho tối tăm mặt mũi mới vỡ lẽ sao khờ quá.
Ấy thế mà, vào năm 1986, bà con người dân Việt Nam Cộng Hòa mình lại bị lừa nữa, ai ai cũng hồ hởi, nghĩ rằng Việt Cộng mà bỏ kinh tế Mác Lê thì làm gì còn là Việt Cộng nữa, sẽ sụp ngay?! Thế là không ai còn quyết chí đấu tranh lật đổ Cộng Sản nữa. Việt Kiều về nước bung đô la cứu đảng đang kiệt quệ tê liệt một cách ồ ạt, ầm ĩ!
Trong khi toàn dân đều đói vào thời điểm 1986, căm phẫn tột cùng sắp sửa vùng lên khắp nơi từ Thanh Hóa đến Kiên Giang thì căm phẫn bỗng giảm đi vì ai ai cũng trơ trẽn nghĩ cách ngửa tay xin tiền Việt Kiều thân nhân của mình để sống cho khá hơn. Việt Cộng đẩy cả dân tộc không còn liêm sỉ, chỉ biết xin xỏ lừa tiền của Việt Kiều thân nhân mà sống và coi Việt Kiều như cái máy in tiền.
Ở hải ngoại, Việt Kiều mang thân tỵ nạn hay vượt biển định cư, có kiếm ra tiền thì cũng đổ mồ hôi học hành làm lụng mới có, ấy thế mà nay, người dân Việt của mình, cứ lấy tình máu mủ buộc người thân của mình ở hải ngoại gởi đô la về để sống cho phè phỡn, sung túc hơn, chẳng ai chịu nghĩ, chỉ vì Việt Cộng mà con cái anh em mình phải mang thân xa xứ kiếm ăn nữa cả. Một dân tộc cứ thế mà ngày càng bị Việt Cộng biến đổi thành càng lúc càng trơ trẽn, hèn hạ, thiếu ý chí tự chủ, thiếu ý chí tự lập, thiếu tính cương quyết chống Cộng để con cháu may này không cần phải sang Mỹ để mà sống, để mà làm lụng gởi tiền về cứu đói nữa. Dân mình có trơ trẽn ươn hèn thì Việt Cộng mới tồn tại lâu dài được. Đây là một chân lý!
Nhiều người Việt ở hải ngoại thậm chí còn bị Việt Cộng lợi dụng tình máu mủ biến cho trơ trẽn đến mức lãnh tiền trợ cấp của nước Mỹ, không giúp gì lại cho xã hội bên đó mà chỉ khư khư lấy tiền trợ cấp từ tiền thuế người dân Mỹ ban phát để rồi gởi về ồ ạt đều đặn để người nhà tậu vườn tậu đất khoe khoang với xóm làng khiến cả quốc thể, khí phách quốc gia của dân mình bị nhục lây trước con mắt của người Mỹ mà không ai hay biết. Ở đời, ai lại trọng cái thứ ăn cháo đá bát vô ơn như thế!
Khí tiết của con em Đại Việt mình cứ ngày một bị Việt Cộng làm cho mai một. Nay cả dân tộc cứ sống cho thiệt điếm, cho thiệt trơ trẽn, cho thiệt hèn miễn có tiền đô ăn sài là được.
Do đó, người Việt ở hải ngoại cần phải cương quyết đoạn tuyệt với những dây dưa lừa phỉnh của Cộng sản liên tục hô hào gởi tiền cứu đói người nhà thân nhân trong nước, mà thực tế để khiến đảng tiếp tục cơ hội cướp bóc tham nhũng hối lộ làm tiền người dân để mà có kinh phí tồn tại. Việt Cộng đang cố tình biến cả dân tộc trở nên trơ trẽn hèn hạ và sống điếm, chỉ biết xin xỏ người thân ở hải ngoại mà tồn tại cho sung túc. Người dân Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại cần phải nhận ra âm mưu này để chống lại tới tắp tối đa. "Phương châm" của người dân Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại cần phải thay đổi như sau: "Cứu quốc gia trước - cứu người nhà sau!"
Đầu năm, xin chúc những người dân Việt Nam Cộng Hòa lương thiện hiền lành ở khắp mọi nơi vạn sự như ý cũng như xin chào tái ngộ anh chị Dân Làm Báo với một nụ cười tươi như vừa mới có tình yêu.
Người Việt hải ngoại và viễn ảnh một nước Việt thứ hai tại hải ngoại, ở ngoài dải đất hình chữ S - Tác giả Nguyễn lương Tuyền
Biến cố tháng 4 năm 1975 đã khiến hàng triệu, triệu người dân Việt phải rời quê hương để trốn chạy chế độ Cộng Sản, sống ở hầu như khắp mọi nơi trên thế giới tự do. Cuộc chiến do người CSVN gây ra đã khiến hơn 3 triệu người Việt bị chết. Sau ngày 30/4/1975, người Việt vẫn tiếp tục ra đi, từ chối sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản. Đó cũng là một hình thức phủ nhận sự hiện hữu của chế độ phi nhân, man rợ này ở quê hương. Cho tới những năm đầu thập niên 80, số người vượt biên, vượt biển giảm dần dần. Hàng trăm, trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường vượt biên. Thảm cảnh vượt biên - Boat People - đã làm rúng động lương tâm nhân loại.
Một trong những thống kê đầu tiên nói về Người Việt Tỵ nạn CS là thống kê năm 2001. Theo thống kê này, vào thời điểm đó có từ 2 tới 3 triệu người Việt tỵ nạn CS định cư tại các nước tự do. Họ định cư rải rác tại nhiều quốc gia tự do. Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Anh Pháp... là những quốc gia nhận nhiều người tỵ nạn CS định cư.
Một vài cuốn sách viết về người Việt tỵ nạn CS - rất hiếm hoi - là cuốn Giá Tự Do với ấn bản tiếng Anh được xuất bản năm 2014 bởi Nhà Xuất Bản Truyền Thông. Tác giả là Ông Lâm Vĩnh Bình tức ông Lâm Văn Bé. Ông Lâm là một giới chức cao cấp trong ngành Giáo Dục của VN Cộng Hòa trước ngày 30/4/1975. Sách đã được tái bản năm 2015. Theo ông Lâm vĩnh Bình, US Bureau of Census làm Thống Kê về Người tỵ nạn Việt Nam mỗi 10 năm. Nhưng giữa 2 lần thống kê chính thức, US Census cũng làm thống kê mỗi 1 năm, mỗi 3 năm và mỗi 5 năm để cập nhật hóa một số dữ kiện.
Theo US Census, năm 2015 tại Hoa Kỳ, có 1.710.547 Người Việt Tỵ nạn CSVN định cư ở Hoa Kỳ. Nếu kể cả các con lai đa chủng, con số này sẽ lên đến 1.928.363 người.
Khi chế độ CS sụp đổ ở Nga, ở Đông Âu, một số lớn các lao động VN được CSVN gửi sang các nước đó làm '"lao nô" đã vượt biên giới sang sinh sống tại các nước tự do. Con số này lên đến 1,4 triệu người kể cả các du học sinh. Theo ông Lâm Vĩnh Bình, chúng ta phải phân biệt sự khác nhau giữa Người Việt Tỵ nạn Công Sản và những người này.
Người Việt Hải Ngoại đã rất thành công trong cuộc sống hội nhập mới. Hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật rất có khả năng đã và đang đóng góp tích cực vào quê hương thứ hai. Chính Người Việt tỵ nạn CS - (bọn đĩ điếm trốn nợ quê hương theo giọng điệu của Cộng Sản Việt Nam) - đã cứu nền kinh tế của CSVN khỏi bị sụp đổ vào những năm 80. Cũng chính các "khúc ruột ngàn dậm" (CSVN gọi người tỵ nạn CS bằng ngôn từ mới) đã gửi về VN hơn 12 tỷ Mỹ Kim mỗi năm.
Trước Thế Chiến thứ hai, rất nhiều nước trong đó có VN, bị các đế quốc đô hộ, nên hoàn toàn mất chủ quyền. Hiện nay vẫn còn vài nước bị đô hộ, dân tộc bị đồng hóa, bị diệt chủng.
Các nước hiện còn bị đô hộ, đồng hóa; dân tộc bị tiêu diệt bởi các hình thức đế quốc, thực dân:
Đế quốc Nga đã tan vỡ, các nước trong Liên Bang Sô Viết cũ đã được hoàn toàn độc lập. Các đế quốc khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... đã trao trả độc lập cho các thuộc địa cũ. Chỉ còn một đế quốc duy nhất là Trung Cộng. TC đang đô hộ, đồng hóa và diệt chủng từ từ các sắc dân sau đây:
- Tây Tạng: TC chiếm Tây Tạng năm 1952. Văn minh Tây Tạng cũng như các di tích văn hóa của Tây Tạng đều bị TC phá hủy. Ngày 20 tháng 7 năm 2016, TC đã phá hủy Học Viện Larung Gar - một chứng tích của văn minh Tây Tạng -, mặc dù có nhiều sự phản đối cũng như cầu xin đến từ mọi nơi trên thế giới. Trước khi bị TC chiếm, dân số Tây Tạng khoảng 3 triệu người. Hiện nay số người định cư ở Tây Tạng là hơn 7 triệu người, nhưng gồm đa số là người Hán sang định cư. Dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên quê hương của họ.
- Dân tộc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương: đa số là người Hồi Giáo. Tân Cương trở thành 1 Đặc Khu Tàu từ năm 1826. Hiện nay người Duy Ngô Nhĩ chi còn độ 8,3 triệu. Số còn lại của 21 triệu 8 là người Hán đến định cư ở Tân Cương và một số nhỏ các sắc dân khác.
- Nội Mông Cổ: là Khu Tự Tri thuộc Trung Hoa từ năm 1947.. Dân Nội Mông Cổ bây giờ là dân thiểu số trên chính quê hương của họ: 3 triệu 7 versus 21 triệu 7 sau hơn 70 năm bị người Hán đô hộ.
Tham vọng kế tiếp của TC là biến VN thành một Đặc Khu nằm trong nước Đại Hán. Dân Việt chắc chắn sẽ bị Đại Hán diệt chủng từ từ.
Những dân tộc đang đi tìm một tổ quốc:
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ thứ 21, nhưng trên thế giới vẫn còn có những dân tộc vẫn đang tìm, trong tuyệt vọng, một giải đất dung thân, để họ gọi là Tổ Quốc như:
* Người Arméniens: khoảng hơn 11 triệu. Họ sống rải rác tại nhiều nước trên thế giới như tại nước Pháp có độ 1/2 triệu người Améniens nhưng đông nhất là tại vùng Russia Armeny (khoảng hơn 3 triệu người).
* Người Kurdes: khoảng 23 triệu. Họ hiện sống ở vùng biên giới phía Bắc của Irak, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ.
* Người Palestine: Hiện nay Do Thái đã trao trả cho người Palestine, giải đất Gaza và vùng West Bank. Tại Gaza có hơn 1 triệu người Palestine định cư trong khi tại vùng West Bank có độ từ 1 đến 2 triệu. Ngoài ra,người Palestine sống rải rác tại nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại... Sau khi có 1 giải đất để làm tổ quốc,các cuộc tấn công của người Palestine nhắm vào người Do Thái đã giảm thiểu rất nhiều.
* Trường hợp dân tộc Do Thái: Lịch sử lập quốc của người Do Thái là một lịch sử đầy máu và nước mắt cũng như những vinh quang. Dân tộc Do Thái bị phát vãng khắp nơi. Hơn 6 triệu người Do Thái định cư ở Âu Châu, đã bị Đức Quốc Xã tàn sát trong thế chiến thứ 2. Quốc gia Do Thái hiện nay được Liên Hiệp Quốc cho thành lập tại Trung Đông vào năm 1948, ngay tại một vùng Đất Thánh của nhiều sắc tộc Ả Rập. Cả nước Israel chỉ rộng độ hơn 20 000km2. (Trước khi mất Ải Nam Quan và mất một giải đất vùng biên giới vào tay Trung Hoa, VN có diện tích 330 000 km2, gấp 17 lần nước Do Thái hiện nay).
Lịch sử tái hồi nước Do Thái được khởi đầu vào năm 1948 khi Liên Hiệp Quốc dành giải đất ngay tại vùng Địa Trung Hải để Dân Do Thái có một tổ quốc. Khối Ả Rập không chấp nhận sự kiện nước Do Thái hiện hữu ở vùng Trung Đông, một vùng đầy dân Ả Rập rất bài Do Thái. Nhiều cuộc đại chiến đã xảy ra giữa Do Thái và khối Ả Rập. Do Thái đã toàn thắng tất cả các trận chiến, đã mở rộng đất đai của nước Israel. Hiện nay dân số của Israel có khoảng dưới 6 triệu nhưng đại đa số người Do Thái sống ở Hoa Kỳ (hơn 6 triệu) Anh, Pháp và Canada và một số nước ở Âu Châu. Người Do Thái rất thông minh, tài giỏi. Họ luôn luôn hỗ trợ rất tích cực quê hương Israel. Người ta có thể nói không ngoa là lực lượng bảo vệ nước Israel hữu hiệu nhất chính là khối người Do Thái sống ở bên ngoài chính quốc. Họ rất thành công: tại Mỹ, Gia Nã Đại... Ban Giảng Huấn tại các Đại Học nổi tiếng có nhiều người Do Thái. Người Do Thái cũng chi phối đời sống chính trị, kinh tế và văn học tại các nước mà họ định cư: Cựu Tổng Thống Pháp Nicolas Sarcozy, Thủ Tướng Pháp (nay là Ngoại Trưởng) Laurent Fabius là người gốc Do Thái. Nhiều người Do Thái được giải thưởng Nobel về mọi lãnh vực nhất là khoa học hơn bất kỳ một sắc dân nào trên thế giới. Độ 160 người Do Thái được giải Nobel kể từ ngày giải thưởng cao quí này được thiết lập (1/5 tổng số giải Nobel được trao tặng), trong khi cả khối người Ả Rập chỉ được trao tặng giải thưởng này có 11 lần.
Dù sống ở bất kỳ ở đâu, họ luôn luôn giữ sắc thái "Do Thái" của họ. Có lẽ tôn giáo, ngôn ngữ, văn tự... là keo sơn thắt chặt người Do Thái ở khắp mọi nơi trên thế giới với nhau.
Trường hợp Việt Nam:
Cũng như dân tộc Do Thái, lịch sử của dân Việt là lịch sử các cuộc chiến để bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lấn, rồi đồng hóa của người Tàu ở phương Bắc. Bị Tàu đô hộ, có khi kéo dài hơn 1000 năm, nhưng dân Việt không bị đồng hóa hay nói đúng hơn không đồng hóa được.
Khởi thủy, Tổ Tiên của người Việt - nhóm Bách Việt - cư ngụ ở bên trong nước Tàu, ở vùng Thiểm Tây, Tứ Xuyên, phía Nam sông Dương Tử. Các nhóm Bách Việt bị người Hán đồng hóa. Chỉ còn một nhóm chạy xuống lập nghiệp ở phía Nam, ngay tại châu thổ sông Hồng Ha, là còn tồn tại, không bị đồng hóa. Họ lập ra nước Văn Lang vào khoảng năm 700 trước Công Nguyên. Đó là khởi thủy lập quốc của Việt Nam. Trong quá khứ, Tàu đã đô hộ VN nhiều lần. Lần đô hộ lâu nhất kéo dài hơn 1000 năm nhưng người Tàu không đồng hóa được dân Việt. Tuy vậy văn hóa của Đại Hán đã ảnh hưởng sâu rộng lên dân Việt.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân Việt và ngay cả cho đến ngày nay, ý định xâm lăng, chiếm đóng, để rồi đồng hóa VN, lúc nào cũng ám ảnh người Tàu. Cơ may cho họ đã đến khi Hồ Chí Minh và đảng CSVN cầu cứu Tàu viện trợ về mọi phương diện trong 2 cuộc chiến tranh Đông Dương để áp đặt chế độ Cộng Sản lên dân tộc.
Thực ra "cam kết dâng nước Việt cho TC" đã được Hồ Chí Minh ký bằng "lời hứa danh dự" vào năm 1926 với 2 đại tướng Tàu cộng là Trần Canh, Vi Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông. Khi thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh lại xác định một lần nữa với Thủ Tướng TC Châu Ân Lai: ''Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một nền văn hóa Một phong tục...''
Hồ Chí Minh đâu có ngờ - hay cố tình giả mù, giả điếc - hay không biết đến dã tâm của Tàu, trong lịch sử, từ cổ chí kim: đó là sát nhập VN vào nước Tàu.
Bản đồ Tàu vẽ lại năm 1954 tại Bắc Kinh sau khi Mao Trạch Đông
hoàn toàn chiếm cứ nước Tàu, cho thấy TC vẫn coi VN là 1 phần lãnh thổ của Tàu.
Bản đồ "Đại Hán" do Trung cộng vẽ năm 1954 tại Bắc Kinh. Theo TC, nước Tàu bao gồm cả các nước ở Đông Nam Á, Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, tất cả Biển Đông.
Sau khi CS sụp đổ ở Nga và tại các nước ở Đông Âu, để sống còn, CSVN bèn quay sang "lạy lục" TC để giao hảo lại. Mối giao tình đã trở nên lạnh nhạt sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Nguyễn Văn Linh, người kế vị Lê Duẩn (chết năm 1987) trong chức vụ Tổng Bí thư của đảng CSVN, đã sang TC nhiều lần để bàn bạc với các thủ lãnh của TC như Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang để: "cắt đất, cắt biển để sau cùng sát nhập VN vào Trung Quốc một cách êm ả qua chiến thuật: hòa bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo".
Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng va Đỗ Mười, đã giấu nhân dân VN để ký với các lãnh tụ TC một Hiệp Ước bán nước tại Thành Đô nên được họ gọi là Hiệp Ước Thành Đô. Nguyễn Văn Linh nổi tiếng với câu nói để đời trong lịch sử của dân tộc Việt: "Tôi biết rằng đi với TQ là mất nước nhưng thà mất nước còn hơn mất Đảng."
Nội dung của Mật Ước Thành Đô được giữ kín, nhưng các rò rỉ cho thấy việc sát nhập VN vào nước Đại Hán sẽ qua 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm kể từ năm 2020.
Trên thực tế, tới giờ phút này (cuối tháng 12/2016), VN đã bị TC hoàn toàn xâm chiếm mà TC không cần nổ một tiếng súng nào:
* Ở vùng biên giới, TC đã chiếm cứ hàng ngàn km2 vùng biên giới. Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc... nay thuộc TC.
* Các biển, đảo của VN (quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như toàn Biển Đông đều bị TC chiếm cứ.
* Người Tàu đã có mặt trên toàn cõi VN. Các đặc khu Tàu mọc lên như nấm trên quê hương Việt Nam.
* Bên cạnh sự có mặt đông đảo của người Tàu tại VN, TC còn "bao vây" VN bằng những gọng kìm hiểm độc khiến VN bị bốn bề thọ địch:
- Phía Tây: giòng sông Mekong, huyết mạch của sự sống của cả Miền Nam nước Việt. Họ kiểm soát lưu lượng nước chảy xuống hạ nguồn của giòng sông khiến miền châu thổ của sông Cửu Long ở Miền Nam bị muôn vàn khốn đốn, ảnh hưởng đến sự sống còn của vài chục triệu người dân Việt.
- Biển Đông: bị TC chiếm đóng. Nghề đánh cá cũng như các hoạt động ngư nghiệp khác của ngư dân ở Miền Trung đang bị Hải Quân của TC cản trở. Về phương diện quân sự, Hải Quân TC coi Biển Đông thuộc về TC. Lãnh Hải của VN bị thu hẹp lại, chỉ còn là một giải nước chật hẹp dọc bờ biển Miền Trung.
Trong nội địa của nước Việt: TC đã gần như chiếm toàn cõi nước Việt bằng kinh tế, bằng di dân cũng như tàn phá môi trường quê hương cũng để giết hại người Việt trong ý đồ diệt chủng của họ bằng các chất độc. Điển hình là vụ Formosa ở Hà Tĩnh đã khiến biển Miền TRung bị triền miên nhiễm độc. 90% các dịch vụ đấu thầu đều rơi vào tay các nhà thầu TC. Người ta thấy đầy chất độc trong các thực phẩm, các dụng cụ, đồ dùng hàng ngày nhập cảng từ TC. Vụ Formosa là một trong muôn vàn thí dụ TC đang tàn phá môi trường của sự sống ở VN.
Tóm lại cả dân tộc Việt đang bị đầu độc để rồi bị tiêu diệt từ từ bởi Trung cộng. Người ta tin rằng TC có cả một chiến dịch để tiêu diệt dòng giống Lạc Hồng như họ đã và đang thi hành ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông... Dân số 90 triệu của VN sẽ còn lại độ bao nhiêu sau vài chục năm Hán thuộc?
Việt Nam ngày nay: sau gần 1 thế kỷ Xã Hội Chủ Nghĩa
Hai cuộc chiến tranh tàn hại trên nước VN do Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra chỉ để nhuộm đỏ toàn nước Việt theo lệnh của CS Quốc Tế. Đó không phải là cuộc chiến tranh giải phóng như CSVN thường tuyên truyền. Hậu quả của 2 cuộc chiến đó là:
* Khoảng trên dưới 3 triệu người bị thiệt mạng;
* Quê hương bị tàn phá, tan nát không bút nào tả xiết vì "chiến tranh giải phóng" của CSVN;
* Người Việt bỏ xứ ra đi. Các hiểm nguy trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do không làm họ sờn lòng. Hàng triệu người đã bỏ mạng trên đường vượt thoát chế độ CS bất nhân, bạo tàn. Bi hùng ca "vượt biên, vượt biển" đã kéo dài hàng chục năm nhất là 5-6 năm đầu sau ngày định mạng 30/4/1975. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ người dân lại phải bỏ quê hương, đi tha phương cầu thực đông như vậy, mặc dù quê hương đã im tiếng súng. Hàng triệu, triệu người đã chết tức tưởi trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do, rời bỏ "thiên đường" Cộng Sản. Hàng triệu, triệu gia đình tan nát, chia lìa... vì cuộc chiến - một cuộc chiến vô ích, không cần thiết chỉ nhằm thiết lập một chế độ man rợ, đi ngược lại lương tâm con người bình thường.
* Năm 1975, ngay sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã hành xử như những quân ăn cướp, thổ phỉ đến từ một nước ngoại quốc. Họ đã ăn cướp bằng đủ loại chiến dịch như đổi tiền, đánh tư sản, tịch thu các cơ sở thương mại kỹ nghệ của Miền Nam... Quân CS đến từ Miền Bắc quả là những tên ăn cướp, như những tên thổ phỉ đang bị đói, thiếu ăn, đến từ một nước khác. Quả thực "cuộc giải phóng" miền Nam của quân Bắc Việt Cộng Sản quả là một cuộc xâm lăng theo đúng nghĩa của 2 chữ này. CSVN đã lập ra những nhà tù trên khắp nước để cầm tù khổ sai trên 1 triệu Quân, Cán, Chính của Miền Nam.
* Văn hóa CS đã được Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông ta xâm nhập bằng võ lực sắt máu để bắt người dân phải theo. Đó là một nền văn hóa của nói dối, của lường gạt, chỉ tạo ra những kẻ ăn cắp ăn cướp giết người không gớm tay. Tất cả chỉ để tận diệt một nền văn hóa tiến bộ dung hòa giữa văn hóa Tây Phương và văn hóa cổ truyền của dân Việt.
* Hậu quả của gần 100 năm dưới chế độ CS,, xã hội VN là xã hội của ăn cắp, ăn cướp: ăn cắp từ trên xuống dưới. Quan lớn CS ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp nhỏ. Người Việt "nổi tiếng" ăn cắp trên thế giới vì khi ra ngoại quốc hay đi ăn cắp. Ngày nào các cơ quan truyền thông cũng loan tin các vụ ăn cắp, ăn cướp, các hành động cướp của giết người không gớm tay cũng như các vụ đâm chém nhau hàng loạt hầu như xảy ra mỗi ngày. Con người trở nên hoàn toàn vô cảm trước các tệ đoan xã hội, vô cảm hơn bao giờ hết. Vô cảm ngay đối với đại họa mất nước đang từ từ xảy ra cho quê hương. CSVN đang hủy hoại hoàn toàn không thương tiếc đất nước yêu quí này.
* CSVN, với lực lượng Công An, Cảnh Sát khổng lồ đang bắt cả dân tộc làm con tin cho chủ nghĩa Cộng Sản. Người dân bị cấm đoán, không được nói lên tiếng nói yêu quê hương của mình. Nền giáo dục, Y Tế đang bị hoàn toàn phá sản. Trong khi đó CSVN cố ru ngủ dân chúng bằng các chương trình văn nghệ giải trí, ăn chơi. Một số văn nghệ sĩ ở hải ngoại, đã tạm quên hay cố quên hẳn những ngày vượt biên, vượt biển đầy gian lao, quên cái quá khứ tỵ nạn, để về VN tiếp tay cho CS để tiếp tục hành hạ dân tộc.
Người Việt tại Hải Ngoại: nguồn hy vọng độc nhất cho dân tộc Việt
Khối người Việt tại Hải ngoại đã rất thành công trong non một nửa thế kỷ. Khả năng kinh tế, tài chánh của 3 triệu Việt Kiều (theo Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc kiêm Ủy Viên Bộ Chính Trị Nguyễn Thiện Nhân thì con số người Việt sống ở nước ngoài lên đến 4 triệu rưỡi) hơn hẳn khả năng kinh tế của hơn 90 triệu người tại quê hương VN. Số lượng các chuyên viên kỹ thuật, tài chánh v.v... có thừa khả năng thay thế đảng CSVN để điều khiển cả quốc gia với hơn 90 triệu người như VN hiện nay. Người Việt Tỵ nạn CS đã thành công trong mọi lãnh vực, hòa nhịp vào đời sống của xã hội mà họ được nhận vào định cư. Hoa mắt trước những thành công của Người Việt Hải Ngoại, chóa mắt vì những "đồng dollars" của "bọn đĩ điếm, bọn trốn nợ quê hương của ngày nào", CSVN bèn đổi ngay thái độ, chuyển sang ve vãn những người đã từng là nạn nhân của cộng sản, bằng tất cả các "mỹ từ" để gọi các người đã bị "các đồng chí" làm cho khốn khổ khi còn ở quê nhà.
Khối người Việt hải ngoại là nguồn hy vọng:
- Cho sự sống còn của dòng giống Lạc Hồng.
- Cho việc duy trì và phát triển văn hóa của giống nòi Việt. Trong khi đó tại quê nhà, văn hóa cổ truyền của dân Việt từ ngàn xưa bị Cộng Sản Việt Nam thay thế dần dần bằng văn hóa Mác Xít - Lênin, văn hóa của nói dối, lường gạt, văn hóa của ăn cắp.
- Cho sự sống còn của quê hương trước sự xâm lăng của người Tàu từ phương Bắc. Các người cầm đầu của đảng CSVN đang hiến dâng quê hương cho kẻ thù truyền kiếp. Mọi biểu lộ công khai lòng yêu nước đều bị CSVN cấm đoán, đàn áp dã man. Ngay từ những ngày bắt đầu cuộc sống ly hương chạy trốn chế độ Cộng Sản, người Việt, được định cư tai các nước tự do trên quả địa cầu, đã tìm về sống gần bên nhau, những mong tìm được hơi ấm của tình đồng hương. Hô lập ra các Cộng Đồng Người Việt. Tại rất nhiều nơi, với sự giúp đỡ của các chính quyền sở tại, các Cộng Đồng Người Việt với lá cờ vàng ba sọc đỏ được chính thức nhìn nhận là các đại diện cho tập thể người Việt Quốc Gia, không Cộng Sản. Tại bất kỳ ở đâu, một ban đại diện của cộng đồng được thành lập một cách dân chủ tự do. Nhiệm vụ của các người lãnh đạo cộng đồng là giúp các đồng bào ổn định cuộc sống đồng thời duy trì và phát triển cộng đồng, gìn giữ và phát triển nền văn hóa dân tộc. CSVN tìm mọi cách xâm nhập các cộng đồng người Việt ở Hải Ngoại để phá hoại nhưng cho tới bây giờ họ vẫn không thành công. Trong số hàng trăm tổ chức cộng đồng Việt ở hải ngoại, không có một tổ chức cộng đồng nào trở thành một cộng đồng thân Cộng hay có những hành động cổ động cho chế độ phi nhân cộng sản. Các nhân vật CS đặt chân tới các cộng đồng hải ngoại đều bị đồng bào tẩy chay. Thậm chí tại nhiều nơi có đông đảo người gốc Việt định cư, các thành phần CS còn bị cấm cửa, không cho đặt chân tới.
Các cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản đã thành lập ra một nước Việt thứ hai ở ngoài giải đất hình chữ S. Giải đất này đang dần dần mất vào tay ngoại bang với sự tiếp tay đắc lực của CSVN.
Để tạo thành một quốc gia, ta cần nhiều yếu tố như: lãnh thổ, dân tộc, một chính quyền... Ngoài ra yếu tố văn hóa cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng. Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở Hải Ngoại có đầy đủ những yếu tố này để tạo thành một nước Việt Nam khác, hoàn toàn ở Hải Ngoại.
Lãnh thổ: Hiện nay với các phương tiện giao thông hiện đại, các phương tiện thông tin cực kỳ tối tân, con người đã có mạt tại khắp mọi nơi. Biên giới quốc gia bị thu nhỏ lại. Ta có quyền gọi một nơi nào đó trên thế giới là lãnh thổ của dân Việt bất cứ nơi nào có Cộng Đồng Việt sinh sống.
Dân tộc: Bất cứ một cộng đồng Việt tỵ nạn CS trên thế giới cũng là một phần của dân tộc. Thật đúng như người CSVN đang rêu rao: người tỵ nạn là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt. Không ngờ người CSVN lại đồng thuận với "một" quan niệm, một cái nhìn về nước Việt của Người Việt Quốc Gia về quê hương.
Chính quyền: Tại các cộng đồng Việt tỵ nạn cộng sản trên khắp thế giới, những người lãnh đạo của cộng đồng chính là một hình thức chính quyền. Chính quyền này được bầu ra một cách hết sức dân chủ. Chính quyền này được dân chúng bầu ra để thực sự phục vụ cộng đồng. Không phải một loại "chính quyền" của đảng CS, được đảng CS đặt ra, theo kiểu đảng cử dân bầu - không qua một cuộc bầu cử dân chủ và công bằng tối thiểu nào.
Các cộng đồng người Việt di tản tại hải ngoại càng ngày càng vững vàng và hùng mạnh đầy khả năng, an cư lạc nghiệp trong một xã hội mới. Giai đoạn an cư lạc nghiệp của người Việt hải ngoại chỉ trong vài chục năm, đã thành công rực rỡ trên mọi lãnh vực của đời sống, ngay cả trong lãnh vực chính trị, khiến người CSVN vô cùng thèm muốn, pha lẫn ganh tị.
Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn của phát triển và hội nhập hoàn toàn. Hơn lúc nào hết, vì tương lai của sự sống còn của dòng giống Việt, tương lai của văn hóa của dòng giống Lạc Hồng, các cộng đồng Việt tại khắp nơi trên thế giới sẽ phải hướng các hoạt động của tập thể Việt vào các lãnh vực này. Nước Việt ở ngoài quê hương ở bán đảo Đông Dương sẽ là một nước hùng mạnh, có khả năng lấy lại quê hương đang bị CSVN và CS Trung Quốc giày xéo.
Khối người Việt tỵ nạn cộng sản ở ngoài nước Việt đã hình thành một Tổ Quốc Việt Nam hùng mạnh, đầy khả năng trong khi quê cũ đang bị mất dần về tay Trung Cộng với sự đồng lõa của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Người Việt Hải Ngoại đã thành công, bảo vệ lý tưởng quốc gia tại bất cứ nơi nào họ lập nghiệp. CSVN không thể xâm nhập vào các cộng đồng Việt để phá hoại. Một vài hoạt động chống CS đã gây được tiếng vang không những trong tập thể Người Việt tại khắp mọi nơi trên thế giới mà còn đạt được sự ngưỡng mộ và thán phục tại nhiều quốc gia có người Việt tỵ nạn CS lập nghiệp như:
- Phá vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh khiến y không được Liên Hiệp Quốc vinh danh là vĩ nhân của thế giới;
- Ngày 11/5 mỗi năm được Quốc Hội Hoa Kỳ xác định là Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam;
- Cờ vàng ba sọc đỏ đã được nhiều Tiểu Bang của Hoa Kỳ, Gia Nã Đại... công nhận là cờ của tập thể người Việt tỵ nạn Cộng Sản;
- Nhiều nơi ở Hoa Kỳ đã cấm nhân viên CSVN đặt chân tới cũng như mọi hình thức tuyên truyền như cờ đỏ đều bị cấm bằng các đạo luật do Quốc Hội sở tại ban hành;
- Nhiều người Việt trở thành Quan Toàn Quyền, Bộ Trưởng, Nghị Sĩ, các khoa học gia tại các đại học nổi tiếng. Nhiều tướng, tá gốc Việt đã và đang chiến đấu trong Quân Đội Hoa Kỳ, Quân Đội Úc, Quân Đội Gia Nã Đại...
Nhiệm vụ của mỗi Người Việt tỵ nạn CS là phải tiếp nối những người đi trước trong công cuộc bảo vệ, duy trì dòng giống Việt. Chỉ có nước Việt tại Hải Ngoại mới có khả năng, ý chí cũng như khát vọng bảo tồn và phát huy văn hóa Việt, một nền văn hóa đang bị CS tiêu diệt để giúp ngoại bang mau chóng đô hộ quê hương, diệt chủng giống Lạc Hồng.
Phát triển bền vững cộng đồng để tạo nên sức mạnh cần thiết cho việc quang phục quê hương để giải cứu giống nòi.
CSVN đã tàn phá quê hương, giết người hàng loạt trong vòng gần 100 năm để rồi họ dâng đất nước cho ngoại bang ở phương Bắc. Cuộc diệt chủng nhắm vào người Việt của TC đã và đang được tiến hành (như họ đã và đang làm tại Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông Cổ). CSVN đã làm tê liệt sức đối kháng, làm thui chột lòng yêu nước của toàn dân ở trong nước. Chỉ còn Người Việt ở Hải Ngoại là nguồn hy vọng độc nhứt của giống nòi. Cuộc quang phục cứu quê hương, cứu dòng giống Lạc Hồng mới chỉ được bắt đầu. Xin mời bạn.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)