khktmd 2015
Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014
K Khúc của Lê-- nhạc Đăng Khánh, phổ thơ Du Tử Lê, ca sĩ Đinh Ngọc
Tôi xa người như xa núi sông,
Em bên kia suối? Bên kia rừng?
Em bên kia nắng? Bên kia gió?
Tôi một giòng sương lên mênh mông
Tôi xa người như xa biển đông
Chiều dâng lênh láng chiều giăng hàng
Những cây ghi dấu ngày em đến
Đã chết từ đêm mưa không sang
Tôi xa người xa hơi thuốc cay
Ngày mai tình sẽ bỏ tim này
Chiều em không tới hàng cây đã
Nghiêng xuống tôi từng ngọn heo may
Tôi xa người như xa biển đông
Như xa núi sông
Em bên kia suối
Sương lên mênh mông
Tôi xa người xa tôi từ đây lặng yên dấu xưa
Còn chân đã cũ, còn lời oán than
Tôi xa người xa môi rất tham
Em như gió núi, như chim ngàn
Em xa xôi quá làm sao biết
Tôi âm thầm như cơn mê hoang
Tôi xa người xa không hờn oán
Vườn tôi trăng lạnh đến hoang tàn
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về như vết thương
Em bên kia suối? Bên kia rừng?
Em bên kia nắng? Bên kia gió?
Tôi một giòng sương lên mênh mông
Tôi xa người như xa biển đông
Chiều dâng lênh láng chiều giăng hàng
Những cây ghi dấu ngày em đến
Đã chết từ đêm mưa không sang
Tôi xa người xa hơi thuốc cay
Ngày mai tình sẽ bỏ tim này
Chiều em không tới hàng cây đã
Nghiêng xuống tôi từng ngọn heo may
Tôi xa người như xa biển đông
Như xa núi sông
Em bên kia suối
Sương lên mênh mông
Tôi xa người xa tôi từ đây lặng yên dấu xưa
Còn chân đã cũ, còn lời oán than
Tôi xa người xa môi rất tham
Em như gió núi, như chim ngàn
Em xa xôi quá làm sao biết
Tôi âm thầm như cơn mê hoang
Tôi xa người xa không hờn oán
Vườn tôi trăng lạnh đến hoang tàn
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về như vết thương
Tòa Kháng Án: Không trục xuất Nguyễn Tấn Vinh về Việt Nam -- Hà Giang
WESTMINSTER, Calif (NV) – Vào trung tuần tháng Tám, nhà đấu tranh Nguyễn Tấn Vinh nhận được tin ông hằng mong mỏi: Tòa Kháng Án Khu Vực 9 ở Passadena quyết định ngừng lệnh trục xuất ông về Việt Nam do tòa Di Trú Hoa Kỳ ban ra cách đây 5 năm.
Thở phào nhẹ nhõm, ông Vinh cho biết phán quyết này “kết thúc một giai đoạn cũ” của cuộc đời mình.
“Tôi nóng lòng bắt đầu một đoạn đời mới, vẫn đấu tranh, nhưng theo một cách khác, cho thích hợp với bối cảnh thời cuộc.” Ông tâm sự, rồi nói thêm: “Đây là tin vui chung, vì nếu chính phủ Hoa Kỳ quyết định trục xuất, trao tôi cho chính quyền Hà Nội, thì giống như tạt một gáo nước lạnh vào mặt những người đấu tranh đòi tự do dân chủ cho Việt Nam.”
Ông Nguyễn Tấn Vinh (phải) và em trai là ông Võ Đức Văn tại tòa soạn nhật báo Người Việt, sau khi được tin ông Vinh không bị trục xuất về Việt Nam. (Hình: Hà Giang/Người Việt) |
Ông Võ Đức Văn, em ruột, “chiến hữu” của ông Nguyễn Tấn Vinh trong đảng Dân Tộc Việt Nam, cũng từng nằm tù vì đấu tranh, và là người biết bao năm nay đôn đáo khắp nơi để lo hồ sơ kháng án cho anh trai, bày tỏ niềm hân hoan: “Quyết định của tòa cho thấy nước Mỹ luôn dành sự bênh vực về pháp lý cho người đấu tranh chống lại các chế độ độc tài.”
Ông Văn cho rằng nhờ chính sách không ủng hộ những chế độ độc tài toàn trị, mà dù ông Nguyễn Tấn Vinh có “vướng víu vào pháp lý” nước Mỹ cũng “không thể đang tâm” trục xuất ông về Việt Nam, để giao cho nhà cầm quyền nước này.
Hồ sơ kháng án của ông Nguyễn Tấn Vinh, do Luật Sư Gary Silbiger đảm trách, tập trung vào một chiến lược then chốt, là xin tòa cho thân chủ ông được bảo vệ theo Convention Against Torture (CAT) - Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn.
Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn (CAT) là công ước quốc tế đòi hỏi các nước ký kết phải có biện pháp hữu hiệu chống tra tấn tại nước mình, và nghiêm cấm các quốc gia trả di dân về đất nước họ, nếu có lý do để tin rằng khi trở về, họ sẽ bị hành hạ hay tra tấn.
Đầu đuôi câu chuyện
Câu chuyện bắt đầu cách đây hơn 13 năm.
Ông Nguyễn Tấn Vinh qua Mỹ định cư từ năm 1985, và gia nhập đảng Dân Tộc Việt Nam, ít lâu sau khi trở thành thường trú nhân.
Vào tháng Sáu, 2001, ông Vinh và nhiều thành viên khác của đảng Dân Tộc Việt Nam đồng loạt tổ chức các vụ đặt bom trước hai tòa đại sứ Việt Nam tại Manila và Bangkok để “gióng lên tiếng nói phản đối chế độ độc tài toàn trị và việc đàn áp nhân quyền của nhà cầm quyền Hà Nội,” nói theo lời của đảng này.
Việc đặt bom đổ bể, ông Vinh bị bắt giam tại Manila, Philippines.
Mãn hạn tù ở Philippines, ông Vinh bị đưa về Hoa Kỳ để tiếp tục vào tù, vì đã phạm luật Hoa Kỳ trong việc dùng giấy thông hành (passport) của người khác để đến Philippines.
Sau khi mãn hạn tù ở Mỹ, ông Vinh bị nhân viên Sở Di Trú chờ sẵn ngoài cửa, đưa về tạm giam ở Lancaster, rồi nhiều nhà tù khác, chờ ngày ra tòa, vì theo luật di trú Hoa Kỳ, thường trú nhân Hoa Kỳ phạm pháp và bị án tù lâu hơn một năm, có nguy cơ bị trục xuất.
Ngày 5 Tháng Tám, năm 2009, Tòa Án Di Trú Hoa Kỳ ra phán quyết ông Vinh “bị trục xuất, trả về Việt Nam.”
Ngày 19 Tháng Mười Một, 2009, đơn xin kháng án của ông với Hội Ðồng Tái Xét Di Trú Hoa Kỳ (Board of Immigration Appeals) tại Virgina, do Luật Sư Gary Silbiger đảm trách, bị khước từ.
Sau nhiều lần kháng án, cuối cùng hồ sơ của ông được chuyển lên Tòa Kháng Án Khu Vực 9 ở Passadena, tòa án liên bang có thẩm quyền cao nhất nước Mỹ (chỉ dưới Tối Cao Pháp Viện).
Hy vọng cao nhất của Luật Sư Silbiger trong việc làm cho lệnh trục xuất bị ngừng lại, là xin tòa cho thân chủ mình được bảo vệ theo Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn.
Muốn được như vậy, ông phải làm sao thuyết phục được các thẩm phán là nếu bị trả về Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Vinh sẽ bị nhục hình.
Ông Nguyễn Tấn Vinh (trái) cùng một số thành viên của đảng Dân Tộc Việt Nam, tuần hành trước cửa Tòa Kháng Án Khu Vực 9 (Apellate Court, Ninth Circuit) ở Passadena, trước phiên xử quyết định có trục xuất ông hay không, vào ngày 8 tháng Mười, 2013 (Hình: Hà Giang/Người Việt) |
Quyết định có nên ngăn chặn lệnh trục xuất ông về Việt Nam của tòa Di Trú Hoa Kỳ hay không, quả không đơn giản. Đó là lý do tại sao Tòa Kháng Án Khu Vực 9 đã phải dùng đến thủ tục “En Banc,” một tiến trình thảo luận giữa các thẩm phán, kéo dài gần một năm mới đi đến kết quả.
Câu hỏi được đặt ra để rút tỉa kinh nghiệm là tại sao cũng với chừng đó chứng cớ, mà cả Tòa Di Trú lẫn Hội Đồng Tái Cứu Xét Di Trú đều bác đơn xin được bảo vệ theo CAT của ông Nguyễn Tấn Vinh, trong khi đó Tòa Kháng Án Khu Vực 9 lại chấp thuận.
Ông Nguyễn Tấn Vinh nhận định: “Tôi thua ở tòa địa phương là vì nhân chứng hai bên không cân xứng. Bên công tố họ mời giáo sư luật về hưu, ông Tạ Văn Tài, ở Massachussets xuống, ông này là giáo sư luật, có tài hùng biện, lại nói tiếng Anh hay, còn phía tôi, nhân chứng, trong đó có bà Luật Sư Bùi Kim Thành, dù chính bản thân từng bị cộng sản hành hạ, nhưng mới ở Việt Nam qua, nói tiếng Anh không rành, còn người thông dịch thì không có sức thuyết phục.”
Trong khi đó, ông Võ Đức Văn cho rằng có lẽ nhờ thủ tục “En Banc” nên Tòa Kháng Án Khu Vực 9 mới có đủ thời giờ (gần một năm) để xét kỹ chứng cớ do hai bên đưa ra, trong khi đó các tòa dưới, mỗi tòa chỉ có vài giờ hay vài ngày để quyết định.
Lập luận của tòa
Tập tài liệu dài gần 30 trang do Tòa Kháng Án Khu Vực 9 công bố hôm 14 tháng Tám, 2014, đúc kết ý kiến của các vị thẩm phán, cho thấy sự cân nhắc kỹ lưỡng của họ trước khi quyết định ngừng lệnh trục xuất của tòa Di Trú.
Tài liệu này trích ý kiến của chánh án Harry Pregerson, được xem như kết luận của tòa: “Các chứng cớ đưa ra buộc chúng tôi phải kết luận rằng, xác xuất ông Nguyễn Tấn Vinh bị tra tấn nếu bị đưa về Việt Nam cao hơn là không bị tra tấn nhiều, vì thế chúng tôi đề nghị tòa dưới ngừng trục xuất, để ông được bảo vệ theo Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn.”
Trong phần nêu ra chứng cớ cụ thể, chánh án Pregerson dẫn chứng: “Ông Nguyễn Tấn Vinh đưa ra sáu nhân chứng, trong đó hai người là tù nhân chính trị và bản thân từng bị hành hạ. Người thứ nhất cho biết ông bị bỏ đói, không cho uống nước, và chứng kiến một bạn tù vì bị bỏ đói và khát đến chết. Người thứ hai (bà Bùi Kim Thành) khai rằng bà bị chích một loại thuốc gì đó khiến khi tỉnh dậy bị mất trí nhớ, đầu óc lùng bùng, ngoài ra còn bị đánh đập đến nỗi gãy chân, và sức khỏe bị vĩnh viễn tàn phá.”
Về phía nhân chứng của Tòa Di Trú, chánh án Pregerson phân tích: “Phía chính quyền đưa ra nhân chứng duy nhất là một giáo sư dạy luật tại Đại Học Luật ở Harvard đã về hưu (ông Tạ Văn Tài). Trước tòa, nhân chứng này trình bày những gì ông nghĩ về tình hình tại Việt Nam, và kết luận rằng nếu bị trả về Việt Nam, nhiều phần chắc là ông Nguyễn Tấn Vinh sẽ không bị hành hạ, tra tấn.”
Kết luận của nhân chứng Tạ Văn Tài, vẫn theo phân tích của chánh án Pregerson, dựa trên ba lập luận chính, và cả ba lập luận này đều không được Tòa Kháng Án Khu Vực 9 chấp nhận: “Thứ nhất, nhân chứng (Tạ Văn Tài) khai rằng hành hạ tù nhân trái với luật pháp Việt Nam, và thứ hai, Việt Nam sẽ không hành hạ tù nhân chính trị vì sợ làm ảnh hưởng đến uy tín của nước này trước thế giới. Cả hai điều này không đúng, vì theo các bản tường trình của Human Rights Watch và tường trình của chính Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, dù luật pháp Việt Nam cấm việc hành hạ người tù, công an của nước này thường xuyên đánh đập va tra tấn tù nhân trong lúc bị bắt hay giam cầm.”
“Cuối cùng, nhân chứng (Tạ Văn Tài) lập luận rằng dù chắc chắn là khi về đến Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Vinh sẽ bị bắt giam và bị hỏi cung, nhưng chắc là ông Vinh sẽ hợp tác với họ và khai hết, vì thế chính quyền Việt Nam sẽ không 'cần' phải tra tấn. Lập luận này rất buồn cười, thứ nhất chính vì hàm ý của người chứng, rằng chính quyền Việt Nam không cần phải tra tấn nếu ông Vinh khai hết, điều này có nghĩa là nếu ông Vinh không chịu khai thì họ sẽ tra tấn. Nhưng quan trọng hơn, các chứng cớ do tường trình của Human Rights Watch và tường trình của chính Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra cho thấy, chính quyền Việt Nam thường xuyên đánh đập tù nhân, hoặc vì ép họ nhận tội, hoặc vì muốn trừng phạt hay dằn mặt những người bất đồng chính kiến, chứ không liên quan gì đến việc họ chịu khai hay không chịu khai.”
Cũng vẫn theo công bố dài 30 trang của Tòa Kháng Án Khu Vực 9, một chứng cớ nữa cũng được Tòa Kháng Án Khu Vực 9 xét đến và đánh giá cao, đó là việc Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao Việt Nam viết một công điện cho Interpol Việt Nam ngày 8 Tháng Năm, 2002, gửi đến Tòa Ðại Sứ Việt Nam tại Manila, nhờ chuyển cho chính phủ Philippines yêu cầu dẫn độ ông Vinh về Việt Nam để trừng trị vì âm mưu tấn công sứ quán Việt Nam bằng bom.
Chánh án Pregerson nhận định: “Hội Ðồng Tái Cứu Xét Di Trú Hoa Kỳ” kết luận rằng chính phủ Việt Nam nhiều phần chắc cũng chẳng biết ông Nguyễn Tấn Vinh là ai, đừng nói gì đến chuyện bắt bớ, giam cầm hay hành hạ khi ông Vinh về đến Việt Nam. Kết luận như thế chắc phải là mù lòa (blind) vì không để ý gì đến chứng cớ rõ ràng trong công điện đòi chính phủ Philippines yêu cầu dẫn độ ông Vinh về Việt Nam để trừng trị nói trên.”
Rút tỉa kinh nghiệm
Nhìn lại con đường đã vượt qua, ông Nguyễn Tấn Vinh chia sẻ: “Thấy mọi việc khó khăn quá, tôi thoạt đầu cũng bi quan, định buông mặc cho số mệnh, nhưng càng nghĩ thì tôi càng thấy mình là người đi đấu tranh thì không thể bỏ cuộc dở chừng, mà phải còn nước còn tát, vì thế tôi đi gặp một bà làm thiện nguyện ở nhà tù, nhờ bà tìm dùm cho một luật sư chuyên bào chữa cho người bị trục xuất, nhờ đó mới gặp được Luật Sư Gary Silbiger.”
“Vui nhất là được nhìn thấy mẹ già 88 tuổi của tôi an tâm và sung sướng. Má tôi vui đến nỗi trông bà trẻ lên mấy tuổi.” Ông tâm sự.
Ông Võ Đức Văn (trái), em trai và là ngừơi đảm trách việc hỗ trợ pháp lý cho ông Nguyễn Tấn Vinh, nói chuyện với Luật Sư Gary Silbiger. (Hình: Hà Giang/Người Việt) |
Ông Võ Đức Văn, người bỏ nhiều năm trời để đi khắp nơi vận động cho anh ruột khỏi bị trục xuất, chia sẻ kinh nghiệm đi vận động. Ông kể: “Tôi mang hồ sơ đi khắp nơi để vận động cho anh Vinh. Một lần tôi đi gặp ông dân biểu liên bang Ed Royce trong cuộc kêu gọi sự dàn xếp chính trị cho vấn đề Biển Đông, ông Ed Royce nói những người Mỹ gốc Việt có trách nhiệm đối với vấn đề Việt Nam, tôi hỏi ông là không biết người Mỹ gốc Việt có được quyền can thiệp vào vấn đề chính trị Việt Nam hay không? Ông Ed Royce nói có chứ. Tôi hỏi, vậy ông có bao giờ nghe một người là thường trú nhân ở đây bị trục xuất về Việt Nam vì đi đấu tranh cho Việt Nam không, ông Royce nói chưa bao giờ nghe. Rồi bảo tôi đưa hồ sơ cho ông nghiên cứu.”
Ông Văn kể tiếp: “Không biết ông Ed Royce có giúp gì cho mình không, và giúp như thế nào, nhưng sau đó tôi được giới thiệu đi nhiều nơi. Tôi đến cả Bộ Nội An, gặp đại diện của bà Janet Napolitano, và từ đó được họ giới thiệu đến gặp một cơ quan bảo vệ nhân quyền của Quốc Hội, ngoài ra còn nhiều vị dân biểu liên bang khác cũng đã sẵn lòng giúp đỡ . Tôi nghĩ rằng không có sự giúp đỡ của họ, của báo chí, của cộng đồng thì chúng ta không có được một kết quả sẽ trở thành tiền lệ như thế này.”
Được hỏi về những điều chiêm nghiệm được, ông Văn nhận định: “Tôi thấy rằng trong việc đấu tranh pháp lý thân chủ và luật sư cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau để mang đến kết quả tốt nhất. Mình phải bỏ thì giờ trình bày sự việc cho luật sư, và đưa hết những chứng cớ cho họ để họ có thể bào chữa tốt nhất cho mình.”
Về dự tính tương lai, ông Nguyễn Tấn Vinh cho biết trong khi chuẩn bị tiếp tục một giai đoạn đấu tranh mới, ông muốn dành nhiều thì giờ bên mẹ, vì bên tai ông giờ vẫn còn vang câu nói của bà: “Con được ở lại Mỹ rồi, má hết lo rồi. Còn tương lai con thì sao con có thể cho má biết không?”
“Tôi chưa dám cho bà biết dự tính của mình!” Ông Vinh nói them.
Còn ông Võ Đức Văn thì cho biết hiện giờ đang đi học luật. Ông nói: “Những ngày tháng trong tù cho tôi nhiều thời gian để suy nghĩ, và tôi thấy rằng nếu mình muốn tiếp tục tranh đấu đòi nhân quyền cho Việt Nam thì học luật là điều cần thiết. Học luật cũng là để chuẩn bị hành trang cho mình đầy đủ hơn, vì sự đóng góp của mình cho đất nước sẽ là về lâu về dài.”
Hai chữ nước nhà – Lê Tất Điều
Khoảng 2 giờ trưa ngày 13 tháng 12 năm 2009, tôi đặt tay lên thân cây đa đầu làng Bài Trượng, bồi hồi như đặt lên vai người bạn chí thân mất tích từ lâu, tưởng đã chết, giờ thình lình sừng sững hiện ra. Sờ vào gốc cây đa lần trước là bàn tay đứa bé bảy tuổi. Lần này là bàn tay nhăn nheo của ông lão thất tuần. Khoảng cách giữa hai bàn tay già, trẻ là hơn sáu mươi năm.
Từ thị xã Hà Đông về làng Bài Trượng, nếu đi lối Cầu Lẩy, phải băng qua Nga Mi Thượng, rồi đi đò ngang sông Nhuệ Giang. Đến bến, lên một con dốc ngắn, gặp ngay cây đa đầu làng đứng đón. Lúc lên đò bên kia sông, nhìn thấy nó, là đã vui rồi, là thấy lòng rộn lên câu reo thầm“đã tới làng mình”. Đó là chuyện cũ, đã sống sót trong trí nhớ, len lỏi vào nhiều giấc mơ của tôi suốt hơn nửa thế kỷ.
Sáng ngày 13 tháng 12, tôi ngồi uống cà phê ở một chỗ cách cây đa cỡ 15 dậm, ngắn hơn đoạn đường từ nhà đến sở mỗi ngày, và đang được một ngày để tùy nghi, nên tâm trí cũng nhắng nhít lên, vang vang những tiếng reo thầm “sắp thấy lại làng mình!” “Thấy lại” sau khi đi xa, đi lâu đến thế, không reo ầm lên sao được!
Kiến trúc sư Nguyễn Tường Quý, chắc nhìn thấy những tiếng reo ồn ào trên mặt bạn, mỉm cười: “Bác phải coi chừng! Có nhiều cái bác không về thì còn, bác về là mất”. Lúc đó, tôi thấy lời ông sặc mùi triết lý, mơ hồ, không đáng quan tâm. Lại nghi ông thấy tôi vui quá, bị kích động quá, thì tặng cho một gáo nước lạnh hạ hỏa, cho đỡ ngứa mắt.
Xe vừa tới vùng ngoại ô Hà Nội, lời tiên tri của triết gia Nguyễn Tường Quý đã ứng liền, trúng phóc, thiêng như lời nguyền của mụ phù thủy trong cổ tích. Hóa ra, ông Quý không ngứa mắt. Ông chỉ thương anh bạn khờ, lạc quan ngây ngô, nên báo động trước cho bạn khỏi té đau.
Trước 1954, trên chuyến tàu điện Hà Nội- Hà Đông , tôi lần lượt nhìn thấy gò Đống Đa, đền Trung Liệt, bãi cỏ sân đá bóng, những bức tường bao quanh trại quân Hàm Long. Qua khu lăng Hoàng Cao Khải là tới những cánh đồng. Rồi đồng ruộng mênh mông trải dài đến gần đầu cầu Hà Đông. Dọc đường, tôi thường nghển cổ nhìn con đường nhỏ dẫn vào cổng làng Mễ Trì, quê của mợ Hùng, nơi đã cho tôi những hạt cốm gói lá sen, thơm ngon nhớ đời. Đi thêm chút nữa, bên trái, trong ngôi biệt thự sụp đổ vì trúng bom, có cái hồ xây, chắc để thả sen, nuôi cá, rộng mênh mông, đáy bằng, chỗ nào nước cũng chỉ ngập đến cổ đứa bé mười tuổi. Nước hồ đục ngầu, không cá không sen, lũ trẻ chúng tôi bơi lội, đùa nghịch xong là người ngợm đầy cát, hôi rình, phải ra sông tắm lại.
Con đường trở lại hôm ấy thì ôi thôi! Chỉ thấy như mình đang đi giữa lòng phố phường, từ Hà nội về Hà Đông mà hệt như từ chợ Bến Thành đi Lăng Ông Bà Chiểu. Cái trí sáng suốt bảo mình đừng ngớ ngẩn chờ đợi thấy những dấu tích năm mươi lăm năm cũ. Nhưng cái tâm thì cứ bướng bỉnh ngu ngốc phóng chiếu ra những cánh đồng, những rặng tre làng, và trời đất mênh mông.
Thế là “mất” đều đều. Xe chạy tới đâu mất tới đó.
Tưởng như chính mình biến thành mụ phù thủy, có cái nhìn ác độc, phá hoại. Tầm mắt chiếu đến đâu cảnh trí thiên đường trong ký ức về chỗ ấy tức khắc tan biến, và đập ngược vào mắt là cõi trần tục lụy, với đủ những món không thể thiếu của vùng bị nạn nhân mãn: nhà nhà chi chít, người người tất tả ngược xuôi trong nắng gắt, bụi và mùi khói xe.
Mụ phù thủy đang bối rối vì cái phép thuật phá hoại tai ác của mình thì xe đã đến cầu Hà Đông. Cầu ngắn ngủn, vừa thoáng thấy một chút gì quen thuộc, thì nó đã ở sau lưng. Lại đến khu tòa sứ, vườn hoa, khu cửa dinh, đường vào nhà thương cũ (trước 1954 đã trở thành trại lính) tan biến, không để lại dấu tích…
Chưa nản chí, tôi giương mắt tiếp tục tìm. Thoáng thấy con đường nhỏ lát gạch dẫn vào làng Cầu Đơ, rồi một chỗ giống hệt rạp hát Thiêm Xuân (Rạp của ông Tư Thiêm, Xuân là tên bà) vụt qua, tôi như kẻ đuổi theo quá khứ, đang thất vọng, thì thình lình tóm được một tí cái đuôi của nó. Mừng húm, tôi xông tới, cố chộp thêm một chút quá khứ quí giá nữa : đó là ngôi nhà thủa nhỏ của ông Công Tử Hà Đông.
Hà Đông chắc có nhiều công tử, tôi chỉ quen biết, quí mến ông Công tử nhà văn. Ông tài hoa và độc đáo. Có lẽ ông là nhà văn duy nhất có thể kể đi kể lại một chuyện vài triệu lần mà tôi vẫn thấy hấp dẫn, lôi cuốn. Khi cần, ông chế thêm từ ngữ để xài. Ông viết chính tả theo luật riêng, dựa vào cách phát âm, cách nói thực sự của nhiều người – “đói dài đói dẹt” thành “đói dzài đói dzẹt” “vui” thành “dzui”, “lại đây với anh” thành “lại đây mí anh” – khiến chữ nghĩa trở nên nghịch ngợm, sống động, câu văn thành ngộ nghĩnh, có duyên. Thỉnh thoảng tôi cũng lẻn vào kho ngữ vựng của Công Tử để chôm chĩa, thêm hoa lá cành cho văn mình khởi sắc, bớt nhạt nhẽo, nặng nề. Bây giờ năm “bó”, bẩy “bó” đã là đơn vị đo lường tuổi tác, thay thế cho những con số tầm thường, vô hồn.
Hồi nhỏ ao ước trở thành nhà văn như ông Hoàng Hải Thủy. Về già, thỉnh thoảng, nhất là những lúc ngồi viết một bài quá dài, lại vẫn ước ao có được lối viết ung dung, tự nhiên, thoải mái như Công Tử Hà Đông để những độc giả chịu khó bơi lội trong biển lớn, sông dài chữ nghĩa của mình đỡ mệt.
Công Tử là cư dân Hà Đông thời tiền chiến. Tôi từ làng đến tỉnh này sau khi nhà cửa phố phường đã tan hoang vì bom đạn, vì “tiêu thổ kháng chiến”. Đến cùng những đợt hồi cư sớm nhất. Tôi không biết ông đã ở căn nhà nào. Dựa vào lời mô tả rải rác trong những bài ông viết thì đoán nó là một trong những căn nhà đẹp, hai tầng, hồi đó gọi là “nhà Tây”, nằm rất gần ngõ vào làng Cầu Đơ và rạp hát Thiêm Xuân, ở phố Bóp Kèn.
Tò mò tìm căn nhà cũ vì quí ông, mà cũng vì tôi đã ở trong một căn thuộc khu ấy vài ngày, đã bị một hình ảnh thấy lúc nửa đêm, trên hiên nhà, dưới ánh trăng, ám ảnh suốt đời.
Hôm đó, hình như cả họ tụ lại ở đấy để giúp đỡ gia đình bác Hai Doe vừa gặp đại họa
.
Đêm trước bác đưa gia đình rời làng ra tỉnh. Việc đó phải lén lút, vì là bỏ “ta” (vùng Việt Minh kiểm soát) để theo “địch” (vùng Tây kiểm soát), hồi đó gọi là “dinh tê”. Trên đường dinh tê, tránh né các trạm gác không khéo, bác bị du kích phát giác, bắn theo. Bác cõng anh con lớn chạy, đạn nhắm vào bố lại trúng lưng con.
Đêm ấy, tôi và mấy người anh họ ngủ trên sàn gạch hoa tầng hai, gần cái hiên trước nhà. Nửa đêm thức giấc, có lẽ vì ánh trăng chiếu vào mặt, hay tiếng con Chim Lợn thình lình eng éc lưng trời, tôi thấy bác ngồi gần một cây cột trên hiên, ngồi bó gối, gục đầu. Có thể bác đang ngủ ngồi. Nhưng bác không dựa vào cột, nên lúc ấy tôi nghĩ là bác đang tiếp tục khóc không thành tiếng.
Buổi chiều, bác xuất hiện ở cửa nhà, cũng đang khóc lặng lẽ như thế. Giữa đường từ cửa vào chân cầu thang, bác khuỵu chân, ngã chúi xuống, rồi bò trên nền nhà cho đến lúc bác Ba Thùy chạy tới nâng dậy. Đi hay bò thì toàn thể con người bác, từ khuôn mặt nhếch nhác thất thần đến hai cánh tay run rẩy, đều khóc. Nhưng sự đau đớn kiệt sức không tạo nổi chút âm thanh nào.
Nửa đêm, trăng sáng trên hiên, nhưng trong nhà đầy bóng tối, những chuyện về cái chết của anh Nga hôm trước, hình ảnh bác Hai ngồi lù lù cạnh cây cột bây giờ khiến tôi hoang mang, rờn rợn. Nhưng cảm giác sợ hãi chỉ thoáng qua. Tôi nhớ lại cảnh bác hai Doe vừa bò vừa khóc chiều qua, nhìn bác đang khóc lặng lẽ bây giờ. Chưa đủ trí khôn để tưởng tượng, thông cảm với sự đau đớn của người cha mất con, nhưng tôi bị cách thể hiện niềm đau của bác hai ám ảnh, truyền cho một cơn sầu muộn, tuyệt vọng, ai oán, bi thương đến tê tái cả người.
Từ đêm đó, hình ảnh bác hai Doe ngồi bó gối gục đầu bên cây cột trên hiên nhà đầy ánh trăng dọn thẳng vào trí nhớ, cư ngụ vĩnh viễn trong một góc khiêm tốn nhưng không tối tăm, mờ nhạt. Đọc sách truyện, gặp một tòa lâu đài tráng lệ dành cho những Hoàng Tử Công chúa biểu diễn một mối tình đẹp đẽ, hạnh phúc, thần tiên thì không sao. Nếu lâu đài là hậu cảnh cho một chuyện tình buồn, tuyệt vọng, đổ vỡ, hay chuyện ma quái, phù thủy, chết chóc thì lập tức nó hiện ra trong tưởng tượng của tôi với một sự thêm thắt kỳ cục. Nó bị gắn thêm một chỗ có hai cây cột, cái hiên đầy ánh trăng và người cha ngồi bó gối gục đầu lặng lẽ khóc con.
Sự thêm thắt, “đính kèm” thật lạc lõng, vô duyên và vô… lý. Nhưng xua đi không được. Tòa lâu đài trong trí tưởng tượng của tôi chưa xây xong nó đã vụt hiện ra rồi! Rút cục, ở cùng nhau lâu quá thành quen, nó hóa thành một phần của cái quá khứ tôi vẫn ước mơ thấy lại.
Căn nhà thời thơ ấu của Công Tử Hà Đông chắc ở gần, có thể ở cạnh, và biết đâu, nhờ một tình cờ của lịch sử… văn học, chính là căn nhà có hai cây cột trên hiên tầng hai! Thấy rạp Thiêm Xuân, tôi tức khắc tìm căn nhà cũ. Biết trong trí nhớ cột to hơn thực, tôi càng giương mắt nhìn thật kỹ.
Không thấy chúng nó đâu! Đôi mắt phù thủy của tôi lướt qua phố Bóp Kèn, làm tan biến luôn khu nhà xưa. Cái hiên trăng dính chặt vào những tòa lâu đài cổ âm u, buồn thảm, ma quái, đã mất. Căn nhà tuổi thơ của Công Tử Hà Đông bị vạ lây có lẽ cũng tiêu tan luôn.
Từ lúc đó, tôi tuyệt vọng. Đoạn đường từ Ba La, Bông Đỏ, qua Thạch Bích, Ứng Hòa về làng không có dấu tích gì còn nhớ được. Cũng tan tành luôn ước mơ được đi trên con đường đất, giữa các ruộng mía, nghe tiếng cào cào, châu chấu bay xè xè, những lá mía khô cựa mình sột soạt, và không gian thơm lừng mùi ngọt ngào của những “lò kéo mật”nằm rải rác trên đồng! Chú em ở làng cho biết những vườn vải mênh mông gần làng Đại Từ cũng không còn. Tất cả biến thành ruộng rau có “giá trị kinh tế cao” từ lâu lắm rồi.
Vậy mà cây đa không mất. Nó vẫn sừng sững đứng bên dòng Nhuệ Giang, nơi đầu con dốc nhỏ dẫn xuống bến đò năm xưa.
Trẻ con miền quê thời đại tôi yêu quí cây đa, nhớ nó suốt đời. Thủa sơ sinh, trước khi ý thức được sự hiện hữu non nớt, yếu đuối của mình cùng những bất trắc, đe dọa vây quanh, đứa trẻ chỉ biết theo bản năng tìm sự an toàn trong vòng tay mẹ. Nhưng khi đã có thể phiêu lưu ra ngoài cổng nhà một mình, đã giang hồ vặt theo lũ trẻ chăn trâu trên đồng, khám phá ra cái nóng cháy da của nắng hè, cơn khát khô cổ họng sau những lần chạy nhảy reo hò quá sức, nó lập tức tìm tới bóng mát ở gốc đa, tự nhiên như tìm nấp vào một vòng tay che chở mới.
Bà mẹ đa của Phạm Duy cũng dang rộng bóng để“ôm đàn em bé” trong câu ca gây xao xuyến, gợi buồn mênh mang cho nhiều thế hệ. Những bà mẹ đứng trăm năm, nghìn năm trên đê, trên đồng, bờ sông, đầu làng ấy, như cây đa làng tôi, ngoài đàn em bé còn ôm thêm những thợ cấy, thợ cầy, khách đợi đò, những lữ khách đi qua làng, và đôi khi một quán nước nho nhỏ.
Đứa trẻ năm, sáu tuổi là tôi lúc đó thấy cây đa có cái bóng lớn quá, an lành quá, là nơi tụ tập của nhiều người sau cơn vất vả nhọc nhằn, đang mệt mỏi vì đường dài hay khốn đốn vì nắng trưa. Nó tin rằng gốc đa là chỗ trú ẩn của cả loài người!
Không theo lối Cầu Lẩy , tôi về qua ngả Ứng Hòa, dẫn thẳng đến chợ Trượng. Từ đó đi dọc bức tường thấp quanh đền, rồi bức tường cao quanh đình làng, là gặp lại nó, là chui vào cái bóng mát thân quen từ muôn kiếp. Cái nhìn phá hoại của mụ phù thủy độc ác trong mắt tôi biến mất. Và, thật kỳ diệu, khả năng thu nhỏ cảnh vật của người đi xa lâu ngày trở về (thấy phố phường hẹp lại, cổng trường cũ nhỏ đi v.v.) cũng biến mất. Cây đa đã lớn theo trí nhớ, sự mường tượng của tôi, nên giữ nguyên kích thước hùng vĩ, không bị thấp xuống, nhỏ đi tí tẹo nào.
Sừng sững trước mắt là một vùng quá khứ còn nguyên vẹn, uy nghi như một hiệp sĩ thắng trận, đang đứng chống gươm nhìn tôi mỉm cười, thầm khoe cái thành tích đã dẹp tan lũ giặc thời gian vây bủa trùng trùng, tấn công không ngừng nghỉ suốt hơn sáu mươi năm qua.
Tôi tiến đến xòe tay đặt lên gốc cây đa, cảm nhận sự cứng chắc trên áo giáp của hiệp sĩ, để chắc chắn rằng giây phút này, cuộc gặp gỡ này đang có thật. Ngửa mặt nhìn tàn cây, vẫn che kín một vùng trời như những ngày xưa thật là xưa, tôi không cảm được, không bị “tràn ngập tâm hồn” bởi một sự sung sướng, một niềm hạnh phúc đặc biệt nào. Chỉ bỗng dưng thấy đời mình đầy đủ, đầy ắp như không còn chỗ chứa thêm một ước mơ. Và cũng nhận ra là mình cực kỳ may mắn.
Rồi xảy ra một chuyện bất ngờ. Thình lình trong đầu bật ra câu thơ: “ Con ơi! Hai chữ NƯỚC NHÀ!”. Đó là câu cuối trong một bài thơ song thất lục bát của Á Nam Trần Tuấn Khải.( Nguyễn Phi Khanh bị quân xâm lăng bắt, giải về Tầu. Nguyễn Trãi theo cha đến tận Ải Nam Quan, ranh giới hai nước. Nhà thơ tưởng tượng ra lời người cha khuyên con hãy trở về lo việc kháng chiến chống xâm lăng).
Lúc đó, trong trí nhớ của tôi chỉ còn sót một đoạn ngắn 9 câu mở đầu:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái trông phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định…
Và vang vang nhất trong đầu là câu thơ chót, lời nhắn nhủ cuối cùng của người cha bị cầm tù, trên đường lưu đầy, biệt xứ, biết mình không có ngày trở về cố quốc: “Con ơi! hai chữ “nước nhà”.
Thình lình “bị” nhớ câu thơ, tôi ngạc nhiên và hơi bất mãn.
Ngạc nhiên vì không ngờ Cụ Đa nhiều quyền phép đến thế. Vừa chạm vào cụ là kẻ thất phu bỗng nhớ đến một bài thơ bi tráng. Lời thơ ngời ngời chính khí, bừng bừng khơi dậy lòng yêu nước thương nhà.
Bất mãn vì cụ Đa lạc đề. Kẻ xa quê hương trở về gặp cố tri chỉ mong hàn huyên tâm sự chuyện xưa tích cũ. Xúc cảm lớn nhất không quá mức tủi tủi mừng mừng. Mừng cụ Đa đã thoát họa bom đạn, lại đứng vững sau những cơn lũ lụt, nước sông làm đất sạt lở, khiến gốc rễ cụ suýt bị bứng lên. Mừng vì mình đi vòng vo lang bang trên mặt địa cầu hơn sáu thập kỷ, đi xuyên qua hai cuộc di cư, một thời máu lửa, vẫn còn trở lại được chốn này.
Giữa bầu không khí mênh mang những xúc cảm nhẹ nhàng như thế, thình lình cụ Đa mời cụ Á Nam nhào vô sang sảng hát một bản Anh hùng ca! Cụ phóng vào tâm trí mình một câu thơ bắt phải yêu nước đột xuất, ngang xương như thế này thì chèn ép nhau quá.
Nhưng, chỉ sau vài chục giây, tôi biết cụ Đa bị trách oan, và nhớ ra thủ phạm vụ “hai chữ nước nhà” này là một chàng nghệ sĩ lang thang.
*
Năm 1954, di cư vào Sài Gòn, trường trung học Nguyễn Trãi biến thành “Nguyễn Trãi Bắc Việt di chuyển”. Thầy trò phải lang thang đi học nhờ, hết Trần Lục lại qua trường tiểu học Trương Minh Ký, cạnh rạp Đại Nam, ngay góc đường đi vào chợ Cầu Muối.
Từ trại định cư Khuông Việt đi học, tôi qua chợ Ông Tạ, trả hai đồng ngồi xe ngựa xuống bến xe buýt ở đầu đường Tô Hiến Thành (gần con đường vào khám Chí Hòa.) Trả một đồng “vé trẻ con” xe buýt nữa là được đưa tới trạm chính ở chợ Bến Thành. Từ đấy cuốc bộ tiếp đến trường. Xế trưa về lại lên xe buýt ở trạm chính, chuyến Sài Gòn – Chí Hòa. Tôi gặp chàng nghệ sĩ hầu như mỗi ngày, trên chuyến xe này.
Gọi chàng là “nghệ sĩ lang thang” cho nó văn hoa, quí phái. Nôm na, huỵch toẹt là chàng “hát dạo”. Chữ “hát” cũng còn sai. Chàng không hát, chỉ ngâm thơ, và chỉ ngâm một bài thơ của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải: Hai chữ nước nhà (Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu)
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sóng Long Giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau…
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao (1)
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Giở lịch sử gươm kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc câu “Gia, Quốc” đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa sá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há để nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục
Thân tự do chiên chúc (2) mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đầy đọa tôi đòi
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi, con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với xương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân sẻ với san hà
Tượng đồng bia đá họa là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch máu tanh
Làm cho đất động trời kinh
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó, con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất khách gửi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Con ơi! hai chữ NƯỚC NHÀ…
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
Ngâm sĩ cao lớn, một bên mặt đen xạm, không vì cháy nắng mà như có vết chàm. Ông ăn mặc tề chỉnh, áo bỏ trong quần, đầu đội mũ phớt. Những chuyến xe đông, tôi bị dồn xuống cuối xe, vẫn có thể thấy khuôn mặt ông diễn tả những cơn bi phẫn theo từng lời thơ, nhờ ông cao hơn thiên hạ. Ông đứng gần cửa xe, cạnh chỗ ngồi của tài xế, ngâm xong, ngả cái mũ phớt xuống: “Bà con cô bác đi tầu đi xe… ăn tiêu về nhiều, bớt đồng cơm bát cháo giúp nghệ sĩ…”. Ông hiên ngang xưng mình là nghệ sĩ nên bài thơ bị ông dùng làm cần câu cơm không bị giảm phẩm cách, hào khí.Cậu học trò trung học di cư đón nhận bài thơ với tất cả tâm hồn.
Nhưng vốn sống nghèo nàn, ký ức, kiến thức về địa dư cộng lại chưa được một dúm, việc “đón nhận” của cậu rất vụng về, thiếu nghiêm chỉnh. Nghe thơ, tưởng tượng ra cảnh chia tay của hai cha con thì dễ. Những phim ảnh, tuồng tích đã coi, bài tập đọc có câu “Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy” dư sức cáng đáng vụ này. “Mây sầu ảm đạm” với “gió thảm đìu hiu” cũng không khó. Cậu đã biết những ngày mùa đông mưa dầm gió bấc miền Bắc, lại thấy bức tranh người nông dân đội nón mê, áo tơi đi dưới mưa phùn rất ảm đạm trong Quốc văn giáo khoa thư. “Bốn bề hổ thét chim kêu” thì đã có những khu rừng trong phim Tarzan tái tạo cho một cái “bốn bề” đủ cả vượn hú, chim kêu, voi cọp chạy rần rần. Cũng tạm ổn.
Nhưng linh hồn hai chữ “nước nhà” thì bị gắn cho một thể xác bé tí teo.
Thủa đó, phần đất nước tôi thấy chỉ là làng Bài Trượng, một phần nhỏ của các làng Đại Từ, Lương Xá, Ứng Hòa, Quảng Bị, rồi những ngõ ngách của thị xã Hà Đông, một góc làng Cầu Đơ, một phần nhỏ Hà Nội, một chuyến đi chơi chùa Trầm…Sài gòn còn mới quá, chưa có chỗ đứng. Thành ra trong khi chữ “nước” đòi hỏi núi non, rừng rú, biển rộng, sông dài… thì chỉ gợi ra trong trí cậu bé cái bản đồ Việt Nam hình cong như chữ S, và một phần nhỏ tí của đất nước, nằm gọn hai bên bờ khúc sông Nhuệ này.
Khúc sông kéo dài từ Cống Vọng, qua ngôi đền “Phát Tích Từ”, qua hai cây đa, đình làng, rồi Xóm Trại, đến con đê uốn quanh khúc sông ở chân trời… là hết. Tầm mắt cậu chỉ có thế. Như hình ảnh bác Hai Doe hiện ra trong những lâu đài cổ, cảnh thổ khúc sông này tức khắc đến với cậu cùng hai chữ “nước nhà”.
“Nước nhà” của cậu bé nhỏ nhoi, nghèo nàn tức cười như thế, nhưng vẫn ở với cậu đến đầu bạc răng long. Tất nhiên càng về sau nó càng bị những kiến thức mới về quê hương đất nước át giọng, chèn ép, đẩy vào một góc. Nhưng không bao giờ biến đi.
Dù vẫn nhỏ bé như thủa nào, nó càng ngày càng trở nên giầu có. Nó có “cây đa cao ngất từng xanh…” của Chung Quân, có “con đê dài ngây ngất” của Phạm Duy, có “sóng gợn trường giang buồn điệp điệp” của Huy Cận. Thủa ấy, đối diện với xóm Trại, bờ sông bên kia là một bãi cát vàng nằm sát ruộng trồng thầu dầu. Buổi chiều ngồi trên bờ tường trước đền, nhìn bãi cát thấy còn mênh mông nắng, cậu bé cảm thấy tâm trí nôn nao, xao xuyến nhẹ nhàng. Sau này, khi gặp bài thơ “Ngậm ngùi” cậu cũng xao xuyến nhẹ nhàng như thế và thấy ngay cảnh “Nắng chia nửa bãi” đã diễn ra trên bãi cát bờ sông bao quanh một vùng xanh ngắt lá thầu dầu.
Như thế cỏ cây sông nước chốn này, cái thể xác bé tí của hai chữ “nước nhà”, còn chứa trong lòng cả một thế giới đầy ắp ca nhạc văn thơ. Biến đi sao được!
Thành ra hôm xưa hai chữ “nước nhà” đẩy cậu bé về dưới gốc đa bến sông này, hôm nay, đứng giữa “nước nhà”, chạm vào thân cây đa, ông lão bị xô ngược về quá khứ, gặp lại câu thơ ngày cũ. Kẻ qui cố hương nghe vang vang đầy trời dư âm bất tận những câu thơ bi tráng, hào hung.
Linh hồn hai chữ “nước nhà”, lần đầu được nhập vào thân xác, vừa cất tiếng reo.
Lê Tất Điều
Chú thích:
*Nguyên văn bài thơ đăng trên trang mạng văn học GocNhin
(1) Sách sử chép, những nơi giáp giới nước ta với nước Tàu thì ngọn cỏ chia lả ra hai bên. Nghĩa là nửa đường bên kia thì ngọn cỏ lả về Tàu, mà bên này thì ngọn cỏ lả về bên ta, cho nên gọi là phân mao; phân mao tức là chia ngọn cỏ vậy.
(2) Chiên chúc: rau cháo.
Trích bài viết Hai Chử Nước Nhà của nhà văn Hoàng Hải Thủy
Nàng đi khỏi Sài Gòn – và đi khỏi đời tôi – Ngày 28 Tháng Tư Năm 1975. Năm Nàng đi, Nàng 30 tuổi. Năm Nàng từ Mỹ bay qua biển trở về Sài Gòn Nàng 45 tuổi. Tình Xưa – Tình Nhân Cũ không rủ cũng đến – chúng tôi tìm gặp nhau. Lúc này tôi không những chỉ không còn là chàng ký giả kiêm chuyên viên phóng tác tiểu thuyết Phơi-ơ-tông phong tình ăn khách một thời, mà tôi là người đàn ông Sài Gòn thất quốc, thất thủ, thất nghiệp, thất bại, thất mọi thứ, tuổi đời Năm Bó Lẻ Bốn Năm Que; tôi đã qua 15 năm sống ngất ngư con tầu thủng đáy không đi trong lòng thành phố Sài Gòn đầy cờ máu. Thân xác tôi đen, gầy, chỉ còn xương với da, như con trâu già, đói. Mặt tôi in hằn những vết roi đời. Nàng nhìn tôi, ánh mắt chan chưá chan hoà thương yêu và thương xót. Nàng nói:
“Em tiếc cho anh. Biết tiếng Mỹ như anh, anh mà sang Mỹ được năm 1975, anh làm được nhiều việc lắm.”
Tôi ngậm ngùi:
“Mười lăm năm nay anh không nói một câu tiếng Mỹ nào. Vốn tiếng Mỹ của anh cùn mằn mất rồi.”
Rồi tôi nói:
“Nhưng bây giờ quẳng anh vào Paris, ba tháng sau anh nói tiếng Pháp như gió; quẳng anh vào San Francisco, ba tháng sau anh nói tiếng Mỹ như gió.”
Sáng nay Virginia vào Thu, nắng vàng trên Rừng Phong, ngồi trước hai quyển sách người bạn văn mới gửi cho, tôi ngậm ngùi nhớ câu nói tôi vừa kể: “Chỉ ba tháng sống ở San Frncisco, lại nói tiếng Mỹ như gió..”
Em ơi.. Bây giờ Em ở đâu? Có bao giờ Em đọc những dòng chữ này không? Anh đã sống ở Virginia is for Lovers – Virginia Xứ Tình Nhân, Xứ Mỹ Chính Cống Bà Lang Trọc – 20 năm tròn. Vốn Tiếng Mỹ Ăn Đong English for To Night của anh nay không chỉ cùn mằn mà là nhẵn thín. Tám mưoi tuổi đến có ai ngờ! Anh không còn nói đuợc tiếng Mỹ, anh không còn nghe được người Mỹ nói tiếng Mỹ. (*)
(*) Chú thích của người cắt dán bài viết này: Sao giống tui quá trời, bà con ơi!
Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014
Chúc mừng NT Dũng và bà xã nhân dịp cháu Kim Khánh tốt nghiệp Thạc sĩ Kinh Tế tại trường đại học Kinh Tế TP HCM
Kim Khánh |
Dũng, Kim Khánh, Minh Trí. |
Còn Dạy -- Tác giả: Bùi Thanh Liêm
Tuần rồi, trong lúc đang rảo bộ đến bãi đậu xe của trường đại học Florida Tech ở Melbourne thì có một sinh viên chạy theo, gọi tên tôi và chìa tay ra bắt. Cậu sinh viên này nom nét mặt hơi quen, chắc chắn phải là một học trò cũ của tôi. Cậu tự giới thiệu tên và cho biết là đã từng học lớp Thermodynamics (Nhiệt Động Lực) của tôi năm 2006. Cậu nói:
- Tôi chỉ muốn cho giáo sư biết tôi học hỏi được rất nhiều từ lớp học đó. Hiện tại tôi đang giữ số điểm trung bình rất tốt và hè này sẽ tốt nghiệp hạng danh dự. Tôi chỉ muốn nói cho ông biết là nhờ ông mà tôi mới có được ngày hôm nay.
Câu nói làm tôi cảm động vô cùng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận được câu khích lệ như thế. Tôi cũng nghe những câu phê bình tích cực từ các học trò của mình; các em kể lại cho đồng nghiệp của tôi ở Florida Tech là tôi là một giáo sư khó chịu, cho bài thi khó nuốt, nhưng các em vẫn thích cách giảng dạy của tôi. Mỗi cuối niên khóa, đọc lại các lời phê bình nhận định của học trò của mình, tôi biết rất rõ mình làm được gì và cần phải cải tiến những gì. Ở bất cứ lớp học nào, đến cuối niên khóa là các sinh viên được cơ hội chấm điểm và phê bình giáo sư của mình. Không phải lúc nào tôi cũng nhận được điểm cao. Đôi khi tôi nhận được những số điểm thật thấp và những lời phê bình hằn học, vô căn cứ; chắc hẳn các điểm đó đến từ những sinh viên làm biếng, không chịu khó học tập, và bị tôi cho điểm D hoặc F.
Nhìn lại quãng đường dài đã mười năm từ khi bước vào nghề giáo, có rất nhiều kinh nghiệm buồn, vui lẫn lộn. Nếu kể hết cho bạn nghe chắc phải mất cả chục lá thư. Tôi bắt đầu cái nghề "gõ đầu trẻ" này bằng một cơ hội rất tình cờ. Năm 2000, trung tâm NASA nơi tôi làm việc từ năm 1989 có chương trình trao đổi với các trường đại học, qua đó các giáo sư ở đại học vào NASA làm việc và các nhân viên NASA vào các đại học để nghiên cứu hoặc giảng dạy. Tôi được chọn vào chương trình này, khóa 2000-2002. Tôi chọn đại học Alabama A&M ở gần nhà. Trường đại học này thuộc đại học thiểu số, đa số người Mỹ gốc Phi Châu theo học. Vậy mà hôm đầu tiên đứng lớp tôi vẫn run. Khóa đó tôi dạy lớp Fluid Mechanics (Cơ Lưu Chất) chung với một giáo sư khác. Đến niên khóa sau tôi dạy một lớp thuộc chương trình cao học, do chính tôi đề xướng và đưa vào giáo trình của nhà trường. Đó là lớp "Grid Generation". Vì môn học này mới quá cho nên nhà trường đề nghị xếp vào lớp học thử nghiệm (pilot course) và niên khóa đó lớp của tôi chỉ có vỏn vẹn 6 người theo học. Đó là những giáo sư trong ban kỹ thuật cơ khí của đại học Alabama A&M. Cũng nhờ dạy lớp học đó mà tôi lại học hỏi được rất nhiều. Các học trò của tôi, những giáo sư nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy, đã chỉ bảo tôi làm sao để đứng lớp tốt hơn.
Rồi đến năm 2002, tôi dọn về Florida, làm việc cho trung tâm NASA Kennedy. Năm 2004 trong một buổi thuyết trình ở đại học Florida Tech, biết tôi có kinh nghiệm giảng dạy, vị trưởng khoa đã mời tôi dạy các lớp đêm. Tôi bắt đầu trở thành "adjunct professor" của Florida Tech từ đó. Thông thường thì tôi dạy một năm 2 lớp, Cơ Lưu Chất vào mùa thu và Nhiệt Động Lực vào mùa xuân, chỉ có niên khóa 2008-2009 tôi bị gián đoạn vì phải qua Monterey, CA giảng dạy ở học viện Hải quân. Tôi đã làm việc này liên tục từ năm 2004 cho đến nay. Từ tháng 8 cho đến tháng 12 là khóa mùa thu, và tháng 1 đến tháng 5 là khóa mùa xuân là tôi lại bận rộn đi dạy. Chỉ có 3 tháng mùa hè là tôi rảnh, không có đi dạy, bị bạn bè Việt Nam chơi chữ, nói rằng cứ đến hè là tôi lại bị... mất dạy!.
Con số học trò của tôi có thể lên đến năm, bảy trăm. Có nhiều em giờ đã ra trường và nắm giữ các công việc quan trọng ở khắp nơi trên nước Mỹ. Có nhiều em được NASA mướn, bây giờ trở thành đồng nghiệp của tôi. Có nhiều em bây giờ đi họp tôi vẫn hay gặp, các em quen miệng cứ gọi tôi bằng giáo sư, hoặc "Dr. Vu".
Tôi rất hãnh diện về thành công của học trò của mình. Qua các sự thành công và trưởng thành của họ, tôi thấy điều mình làm rất có ý nghĩa, và đó cũng là chất xúc tác mạnh, khiến tôi khó có thể bỏ cái nghề giáo bạc bẽo này. Có nhiều người tưởng là lương giáo sư đại học cao lắm. Có thể là vậy, nhưng mức lương đó dành cho các giáo sư chính, còn giáo sư phụ, dạy bán thời gian như chúng tôi, đa số là yêu nghề mà dạy chứ không ai ham gì tiền lương. Nếu không có thu nhập từ việc làm chính thì chắc chắn tôi không thể làm adjunct professor mà đủ sống.
Thật ra làm nghề giáo cũng khá vất vả, phải lo soạn bài, chấm bài, phải nghiêm nghị khi đối phó với các sinh viên cứng đầu, không chịu khó học bài rồi đến khi thi bị điểm thấp lại lên kiện tụng. Làm nghề giáo cần phải có đức tính kiên nhẫn, phải biết rõ trình độ của lớp học mà giảng dạy cho thích hợp. Một khó khăn lớn nhất lúc nào tôi cũng gặp phải là cái khoảng cách trình độ trong lớp lúc nào cũng quá lớn, có nghĩa là sinh viên giỏi và sinh viên kém lúc nào cũng có mặt trong lớp của tôi. Nếu tôi cho bài thi khó thì sinh viên kém chắc chắn sẽ bị rớt, còn dễ quá thì các sinh viên giỏi đâm ra nhàm chán. Rồi tốc độ giảng bài nữa, nếu muốn cho kịp với giáo trình thì phải dạy lướt qua các bài tập, chỉ chú trọng phần lý thuyết, nhưng làm như vậy thì các em học chậm sẽ bị bỏ rơi. Còn nếu mà ôn hết các bài tập trong sách giáo khoa thì sẽ không tài nào hoàn tất được đề cương khóa học.
Tuy nhiên, bù lại tôi cảm thấy may mắn hơn các đồng nghiệp của mình ở NASA nhiều. Một điều rõ ràng là các kỹ sư đi làm họ chỉ tập trung vào công việc mình làm, ít có dịp dùng những lý thuyết cơ bản học ở trong trường. Riêng tôi, vì nhờ tiếp tục công việc giảng dạy, cần phải nắm vững lý thuyết kỹ thuật để truyền đạt cho học trò của mình, cho nên đầu óc lúc nào cũng nhạy bén, không có chuyện quên các vấn đề cơ bản.
Khi còn nhỏ, tôi không bao giờ nghĩ là lớn lên mình sẽ làm cái nghề "gõ đầu trẻ". Hồi bé thấy các thầy cô mình cực nhọc, kiên nhẫn chịu đựng với những đứa học trò ngổ ngáo như tôi, tôi thấy tôi nghiệp cho thầy cô của mình quá. Tôi nghĩ chắc lớn lên không dám đi theo cái nghề này. Thế mà cuối cùng tôi đã bám theo nó mười năm trời, và có lẽ sẽ theo đuổi cái nghề này còn lâu nữa. Mỗi khi đọc báo thấy học trò của mình nay đã thành công, nổi tiếng, trong tôi lại có một cảm giác vui sướng khó tả. Hoặc như khi nghe chính miệng một học trò cũ của mình nói là nhờ tôi mà em đã thành đạt thì thử hỏi làm sao tôi có thể bỏ cái nghề bạc bẽo nhưng cao quý này cho được.
Bàn về dich thuật -- Người viết Nam Sơn
Những người có lưng vốn đôi ba ngoại ngữ đều thấm một chân lý giản đơn: bắt đầu học ngoại ngữ, ai cũng hăm hở nghĩ rằng một khi mình làm chủ được ngoại ngữ là có thể dịch sách ngon ơ. Niềm tin ấy sẽ mòn mỏi dần theo thời gian, cho dù trình độ ngoại ngữ của người ta có nâng dần lên. Ðiều này thoạt nghe tưởng như nghịch lý, nhưng lại là một thực tế.
Có ngoại ngữ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Còn phải có tiếng mẹ đẻ nữa, mà không phải dịch giả nào cũng giỏi tiếng mẹ đẻ. Ngay cả khi có ngoại ngữ rồi, có cả tiếng mẹ đẻ rồi, thì biết bao nhiêu thứ khác cũng cần để có thể dịch sách văn học: đấy là kiến thức lịch sử, địa lý, dân tộc, phong tục... nhìn chung là kiến thức văn hóa xã hội về bản quán của tác giả cuốn sách cần dịch.
Thứ nhất là phải có ngoại ngữ. Một nhà văn Mỹ phải nói là giỏi tiếng Việt, có thể tán gẫu với người Việt, nói năng ví von có vành có vẻ, dẫn tục ngữ thành ngữ nhuần nhuyễn. Mới năm 2000, ông tung ra bản dịch thơ Hồ Xuân Hương. Một cuốn sách dịch, lại là thơ, đến nay đã bán được hai vạn bản.
Tôi giở cuốn Spring Essence - The Poetry of Hồ Xuân Hương, NXB Copper Canyon ấn hành, gặp những câu kiểu này:
Kind sir, if you love me, pierce me with your stick.
Ðó là dịch câu Quân tử có thương thì đóng cọc.
Cuối sách có giải thích: quả mít có thể chín sớm nhờ đóng cọc, theo kinh nghiệm người Việt. Một sự giải thích chu đáo và cần thiết.
Nhưng diễn giải nôm na thì câu tiếng Anh được hiểu là "Quân tử có thương thì đóng cái cọc của chàng vào". Cái đại từ sở hữu của chàng thật sự đã làm câu thơ đang thanh bỗng trở nên thô thiển, rõ ràng một cách không cần thiết và mất tính đa nghĩa. Nhiều trí thức Mỹ tỏ ý thú vị hơn khi nghe tôi trình bày về nguyên bản, nhưng họ cho rằng câu thơ dịch trên vẫn gây được hiệu quả. Biết làm sao, họ chưa biết thơ Hồ Xuân Hương trong nguyên bản. Mà tiếng Anh, tiếng Pháp đòi hỏi tính lô-gích trong mọi tình huống đã buộc người dịch phải bám chặt lấy cái đại từ sở hữu của chàng nọ.
Nhưng câu Rúc rích thây cha con chuột nhắt - Vo ve mặc mẹ cái ong bầu sao lại dịch thế này:
The little father mouse squeaking about, doesn't care, nor the mother honeybee buzzing along, fat with pollen.
Thây cha con chuột nhắt với mặc mẹ cái ong bầu mà lại dịch là "con chuột cha" và "con ong mẹ" thì đúng là người dịch, dù được tiếng là giỏi tiếng Việt, vẫn chưa thật sự thấm nhuần ngôn ngữ ấy.
Thứ hai là phải giỏi cả tiếng mẹ đẻ. Lật một cuốn tiểu thuyết dịch ra tiếng Việt xuất bản năm 2001, Sứ giả của thần chết, thấy ngay những từ như thế này:
- Ðã có khoảng nửa chục người đến họp (Người Việt không nói nửa chục, nửa tá, mà nói dăm bảy người đến họp).
- Ông ta trạc cuối tứ tuần... Bà ta khoảng đầu sáu mươi (Tiếng Việt: Ông ta trạc gần năm mươi... Bà ta khoảng ngoài (hơn, trên) sáu mươi).
- Bà vừa trải qua một kinh nghiệm kinh hoàng khi suýt bị chiếc xe chồm vào người. Chữ "kinh nghiệm" người Anh - Mỹ hay dùng không thể để nguyên xi như thế trong tiếng Việt. Ðơn giản nó là Bà vừa gặp chuyện kinh hoàng.
Rõ ràng là người dịch không thạo tiếng mẹ đẻ, không nhớ lời ăn tiếng nói của người Việt như thế nào, đành bệ nguyên từng từ của bản tiếng Anh.
Thứ ba là kiến thức. Một câu trong cuốn tiểu thuyết Việt Nam: Cậu ta xuống bếp lục nồi cơm nguội ăn với dưa.
Xin dừng lại một chút để bạn đọc đoán xem: Khi dịch ra tiếng Anh, dịch giả đã dịch chữ "dưa" ở đây như thế nào? Một câu đố dễ giải đáp, ai mà chẳng biết "dưa" là gì.
Không hẳn thế. Một dịch giả đã dịch chữ "dưa" là "watermelon": Cậu ta xuống bếp lục nồi cơm nguội ăn với dưa hấu.
Dịch giả là Việt kiều, tiếng Việt 40 năm xa nước chưa quên, nhưng kiến thức văn hóa xã hội thì quả là đã rơi rụng nhiều nhiều. Có người Việt ở vùng nào ăn cơm với dưa (hấu) không nhỉ?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)