NASA’s Orion spacecraft launched successfully atop a United Launch Alliance Delta IV Heavy rocket Dec. 5 at 7:05 a.m. EST from Space Launch Complex 37 at Cape Canaveral Air Force Station in Florida. Orion’s Exploration Flight Test-1 (EFT-1), is the first flight test for NASA’s new deep space capsule and is a critical step on NASA's journey to Mars. The 4.5 hour flight is scheduled to conclude with the splashdown of Orion in the Pacific Ocean.
Opposed Comments:
"MORE WASTE OF TIME AND MONEY THAT COULD HAVE BEEN INVESTED MORE WISELY, LIKE FEEDING THE POOR, HELPING THE NEEDY, FIXING THE PLANET, FUNDING RESEARCH FOR CURES FOR DISEASES AND OTHER MORE IMPORTANT PRODUCTIVE THINGS THAN THIS NONSENSE. INSTEAD, YOU ARE UNNECESSARILY RISKING MORE HUMAN LIVES, AS WELL AS POLLUTING THE ATMOSPHERE WITH YOUR ROCKETS. WHAT ARE YOU RUNNING FROM, NASA? ARE YOU PREPARING THE WORLD FOR SOMETHING WE DON'T KNOW ABOUT?"
Indonesia xinh đẹp là tập hợp của 13.000 hòn đảo lớn nhỏ. Vì thế quốc gia này còn có tên là “Đất nước nghìn đảo”. Tại đây, từ nhiều đời nay đã lưu truyền một phong tục dân gian rất đặc biệt – phong tục “ăn bốc”...
Ở vùng nông thôn Indonesia tục dùng tay bốc ăn là một cảnh tượng cực kỳ thú vị. Trước mặt mỗi người có đặt một bát nước để rửa tay trước khi ăn, một đĩa tôm rang, một đĩa cá kho, là vừa đủ một bữa ăn thịnh soạn. Người Indonesia thường nấu cơm trước, sau đó xới ra để vào liễn nhôm hoặc sứ có nhiều lỗ thông hơi, để nơi thoáng mát cho chóng nguội.
Khi ăn, họ lấy cơm ra đĩa, rửa các ngón tay phải vào bát nước sạch rồi bốc cơm và thức ăn thành từng nắm nhỏ rồi đưa vào miệng. Nhiều người còn thích ''làm xiếc'' khi ăn. Họ đặt nắm cơm vào lòng bàn tay, đưa tay đó ra phía trước rồi lấy tay phải đập mạnh vào cổ tay trái, làm sao để nắm cơm bay thẳng vào miệng.
Người Indonesia có cách ăn rất phong phú, nhiều gia vị, màu sắc hài hòa. Tuy nhiên, lúc nào trong khẩu phần ăn cũng đều có ba món: nước dừa, ớt và đậu phộng. Bữa ăn sáng họ thường dùng cơm nấu với nghệ. Phụ nữ bản xứ nấu lại cơm này rất giỏi. Họ vo gạo thật sạch, sau đó cho gạo vào nước dừa có trộn bột nghệ rồi nấu thành cơm. Sau đó thêm vào lá cay hoặc trứng cáy được gói bằng lá chuối.
Một loại thức ăn được người dân ưa thích và rất phổ biến là món Gado-Gado. Loại thức ăn này khi ăn có thể dùng đũa, nhưng ăn bốc vẫn thú vị hơn. Đây là loại thức ăn ''rau trộn hổ lốn'' giống như món xà lách trộn ở ta, chỉ khác là các loại rau để trộn đa dạng hơn. Thường là đậu, rau muống, khoai tây, khoai lang, bí ngô trộn chung với trứng gà vịt... khi ăn cho thêm tương đậu, ăn kèm với cá rán hoặc tôm rang.
Gado-Gado có thể dành ăn 3 bữa trong ngày. Ngoài ra, còn có món cơm nắm. Người ta cho gạo vào các túi đan bằng lá dừa hoặc lá cọ, sau đó nấu chín, cắt thành từng miếng ăn chung với món Gado-gado. Ở Indonesia còn có một loại thức ăn cực ngon là ''cơm canh thịt bò''. Đó là một món màu nâu, thịt trong canh được nấu nhừ, dùng chung với cơm.
Indonesia quanh năm trời nóng, vì thế người dân xứ đảo thường ăn đồ nguội có một ít ớt cay. Cơm dẻo, canh ngon, giường tre, nhà tranh, gió mát... đã tạo nên bản sắc phương Đông độc đáo và thi vị của xứ sở đạo Hồi nổi tiếng này.
Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày Qua miền xa mà nghe rừng thiêng gọi lá Tiếng nỉ tiếng non khi chiến trường nằm im thở khói Đứa bé nhìn cha đang chờ giặc dưới giao thông hào
Tìm về xa xôi em sẽ thương những vùng đất lở sông bồi Bạn bè em giờ đây người sương người gió Chí cả trót mang nên chẳng cần về thăm trường cũ Có đứa từ lâu nay vẫn còn đi biệt chưa về
Quê hương đau nắng hạ cũng buồn Nước sông ngăn đôi sơn hà còn gì em còn gì đâu Mùa hạ qua mau đi nữa đi anh trên con đường quê hương mịt mùng Thương những chiều nắng dọi bờ sông
Mùa hè năm nay anh sẽ ru em tròn giấc ngủ trên ngàn Em nằm mê mà nghe niềm tâm sự réo Trăm họ ước mơ mơ mái nhà chiều khói lửa ấm Lứa tuổi tròn hai mươi tìm lại những đêm ân tình
Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em vòng khắp cả hý trường Nghe người ca bài ca lời thương lời nhớ Chén tiễn chén đưa cho rã rời một đêm hẹn ước Rước áo tìm vui nơi chiến trường có bạn có thù
Thương em đi gót nhẹ chân mềm Bước trên quê hương điêu tàn Lặng nhìn em bồi hồi thêm Dù hạ qua mau anh vẫn đưa em cuối con đường quê hương bùn mềm Thương những người giết giặc ngày đêm
Bảo tàng lịch sử, bảo tàng mỹ thuật, bảo tàng âm nhạc… hẳn đã không còn quá xa lạ với mỗi người trong chúng ta. Thế nhưng, có ai từng nghe qua bảo tàng mì ăn liền? Hiện nay trên thế giới, chỉ có duy nhất hai bảo tàng mang chủ đề này và cả hai đều ở Nhật Bản.
Bảo tàng độc đáo chỉ có ở Nhật Bản.
Có thể nói, Ikeda, Osaka chính là nơi khai ra sinh ra mì ăn liền. Vào năm 1958, sản phẩm đầu tiên: mì gà đã được ông Momofuku Ando, đồng thời cũng là người sáng lập công ty thực phẩm Nissin, nghiên cứu thành công.
Bức tượng ông Momofuku Ando được dựng tại bảo tàng.
Sau khi xuất hiện trên truyền hình thông qua một mẩu quảng cáo, nó lập tức thu hút sự chú ý của đại bộ phận người dân và tạo được tiếng vang.
Nhằm tôn vinh thành tựu to lớn này, bảo tàng mì ăn liền Momofuku Ando đã chính thức ra đời. Đây là nơi mà lịch sử hình thành cũng như phát triển của mì ăn liền qua các thời kỳ được giới thiệu một cách rõ ràng nhất.
Bảo tàng dành khu vực lớn để trưng bày tất cả nhãn hiệu cũng như các loại mì ăn liền từng có ở Nhật Bản.
Bên cạnh việc tìm hiểu những kiến thức cơ bản về loại thực phẩm này, đến với bảo tàng, khách cũng có cơ hội khám phá cách làm mì ăn liền, từ công đoạn đầu tiên là nhào bột cho đến cán bột rồi cắt bột ra từng sợi và cuối cùng là chiên chúng lên để tạo thành những sợi mì hoàn chỉnh.
Dây chuyền làm mì ăn liền để khách tự tay trải nghiệm.
Đối với dịch vụ mang tên “Cốc mỳ của tôi”, đầu tiên, bạn sẽ được cung cấp một cái cốc rỗng. Sau khi đã tự tay trang trí cốc của mình (bảo tàng có sẵn bút màu), bạn sang khu vực tiếp theo và sẽ được cung cấp mì khô. Kế đến, bạn sẽ chọn hương vị của nước dùng và bốn loại phụ liệu theo ý muốn. Cuối cùng, nhân viên bảo tàng sẽ giúp bạn đóng gói cẩn thận để bạn có thể mang về nhà, nấu chín và thưởng thức.
Tự tay trang trí cốc mì.
Dịch vụ thứ hai là “Làm mì gói bằng tay”, dành cho những ai muốn thử trải nghiệm cảm giác tự tay mình tạo ra những vắt mì. Khách sẽ được cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu cũng như sự hướng dẫn tận tình từ những thợ rành nghề.
Tự tay làm các vắt mì.
Và chọn nguyên liệu ưa thích.
Ngoài ra, trong bảo tàng Momofuku Ando còn có khu nhà hàng. Khu vực này không hề có bất kỳ một nhân viên phục vụ nào. Thay vào đó, bảo tàng cho đặt sẵn một máy bán hàng tự động để cung cấp mì cho khách. Ngoài những loại mì thông thường, khách còn có thể mua các loại mì đặc biệt không được bán đại trà trên thị trường, đó là loại cũ được sản xuất trước đây và loại đang thử nghiệm.
Khu vực nhà hàng.
Độc đáo nhất ở khu bảo tàng là công viên trò chơi cho trẻ em với những món đồ chơi đều liên quan đến… mì gói. Trong khu vực này, còn có cả mô hình một con phố Nhật Bản xưa với những hàng quán bán mì.
Công viên trò chơi.
Ngôi nhà Nhật Bản xưa.
Phố mì.
Với đầy hàng quán kiểu xưa.
Ở đây bán nhiều loại mì khác nhau.
Vào năm 2011, bảo tàng mì ăn liền thứ hai đã được khánh thành tại quận Minato Mirai, thành phố Yokohama – thủ phủ của tỉnh Kanagawa.
Hầu hết nội dung trong bảo tàng này đều khá giống với phiên bản đầu tiên. Ngoài khu trưng bày những sản phẩm mì ăn liền qua các thời kỳ và các tác phẩm nghệ thuật chủ đề mì ăn liền, bảo tàng cũng cung cấp hai loại dịch vụ Cốc mì của tôi và Làm mì bằng tay.
Nói tới ẩm thực Sài Gòn quả như lạc vào một mê cung với vô vàn món ăn hội tụ tại chốn phồn hoa đô thị này. Nhưng có 10 món ăn đặc trưng dưới đây bạn nên nhớ thưởng thức.
1. Bánh tráng trộn/nướng
Thành phần chính của bánh là: bánh tráng cắt sợi, trộn với tôm khô chiên mỡ, phổi bò cháy, rau răm, đu đủ, sốt tương, đậu phộng... Món ăn này được bán trong từng túi bóng nhỏ với giá khá rẻ, chỉ khoảng 5.000đ/ bịch.
Bánh tráng nướng với nguyên liệu là: trứng chim cút, mỡ hành, thịt băm, tép rang tuy xuất hiện sau đó rất lâu nhưng cũng đã kịp làm mê mẩn không ít thực khách tới đây.
2. Ốc
Từ con hẻm nhỏ đến mặt đường lớn, không khó tìm một quán ốc để dừng chân. Quán ốc là từ gọi chung, bởi ở đó còn có nhiều loại hải sản khác. Có đủ cách chế biến để món ốc luôn hấp dẫn, từ hấp, luộc, xào, chiên đến nướng, đút lò… với đủ thứ gia vị như tỏi, hành, tiêu, ớt, rau răm…
3. Cơm tấm / Cơm sườn
Cơm tấm, dường như trở thành “đặc sản” độc tôn của xứ Sài Thành bởi hương vị thơm ngon độc đáo hiếm nơi nào có được.
Cơm tấm là sự kết hợp hài hòa giữa những hạt cơm nhỏ, màu trắng, miếng sườn nướng cháy cạnh, bì thơm giòn hay trứng chưng béo mềm, trứng ốp la béo ngậy. Với cơm tấm, mọi sức sáng tạo nằm gọn trong chén nước mắm chấm kèm.
4. Phá lấu
Phá lấu là món ăn quen thuộc của người Hoa, làm từ nội tạng động vật. Có rất nhiều loại phá lấu: phá lấu heo, phá lấu gà vịt, phá lấu bò… Trong đó, món phá lấu bò được ưa thích hơn cả. Đây là món ăn dân dã, ngon miệng, có sức cuốn hút đến kỳ lạ không chỉ đối với học trò nhỏ mà cả giới sinh viên, công chức.
5. Hủ tiếu
Hủ tiếu là món ăn rất được ưa chuộng đối với người dân Sài Gòn. Bạn có thể ghé vào bất cứ một hàng ăn nào trong thành phố và gọi một tô hủ tiếu theo giá từ 8.000 - 25.000 đồng với nhiều lòng heo và mỡ béo ngậy...
Hủ tíu Sài Gòn - Chợ Lớn là một thế giới với nhiều loại hủ tíu như: hủ tíu Sa Đéc, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Nam Vang, hủ tíu bò viên, hủ tíu Tàu...
6. Lẩu dê / Nầm dê nướng
Là món ăn phổ biến của người Sài Gòn mỗi dịp họp mặt gia đình, bạn bè. Lẩu dê cuốn hút người ăn bởi nó được liệt vào hàng bổ dương, cường lực. Cái chất "bổ dưỡng" siêu hạng của dê có thể chỉ là võ đoán nhưng cái hương vị độc đáo của thịt dê so với các thịt khác thì quả là không ai có thể phủ nhận.
7. Bột chiên
Bột chiên là món ăn đơn giản làm từ bột gạo giòn bên ngoài, dẻo bên trong, là món vặt hết sức hấp dẫn. Tùy từng nơi và khẩu vị khách mà món bột chiên sẽ được chế biến khác nhau. Những miếng bột vàng giòn, điểm chút xanh của hành lá, phơn phớt đu đủ, đo đỏ của tương ớt, cà rốt đã làm mê mẩn bao người.
Bột chiên được bán ở nhiều nơi, tập trung chủ yếu quanh các khu trường học, khu đông dân cư với giá cả bình dân khoảng 10.000 - 15.000đ/đĩa.
8. Sủi cảo
Sủi cảo được chế biến gần giống với hoành thánh, nhưng lớn hơn và nhiều nhân hơn. Điều quan trọng quyết định lát sủi cảo ngon là nhân, thường được làm từ tôm, thịt lợn, các loại rau... băm nhuyễn với nhau và trộn gia vị cho vừa ăn. Ngoài sủi cảo nước còn có món cảo chiên vàng rụm cũng rất hấp dẫn.
9. Xiên chiên / nướng
Cá viên, bò viên, tôm viên, đậu bắp, đâu hũ... sau khi xâu lại thành từng xiên sẽ được đem chiên trong chảo dầu nóng cho đến khi những viên thịt phồng to, cháy vàng mới bỏ ra cho vào đĩa hoặc hộp.
Món này ăn với tương ớt và tương đen có vị cay nồng, mằn mặn, giòn dai, nhai sần sật, không quá mềm cũng không quá cứng. Ở một số nơi còn ăn kèm với củ cải, cà rốt ngâm giấm, dưa leo...
10. Chè
Không ngọt gắt như chè Huế, nhiều hương liệu như chè Bắc, chè Sài Gòn ngọt thanh bởi nước cốt dừa, đá bào. Với chè Sài Gòn, không chỉ là thưởng thức từng hương vị của nguyên liệu mà còn thưởng thức bằng mắt ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chè Sài Gòn là sự pha trộn sắc màu rất thú vị.
Với hàng trăm món ăn độc đáo, sẽ không là quá đáng khi tặng cho miền đất này cái tên “xứ sở vàng của ẩm thực Việt Nam”.
11. Cà Phê Không Tên ở ngà sáu Công Trường Dân Chủ, sát bên nhà ga xe lửa Hòa Hưng. Cà phê rang với bo bo, và trộn bột xuyên tâm liên. Bổ dưởng ! Chửa bá bệnh ! Nghe đồn Trip Advisor sẽ có bài phỏng vấn chủ quán. Ai tin chết liền !
Tôi là một người sống độc thân (và không có con), năm nay tôi 50 tuổi. Tôi sinh sống ở Virginia thuộc Hoa Thịnh Ðốn, sức khỏe đầy đủ và tôi có một việc làm vững chắc. Tôi có một người cha 85 tuổi, sống tại Houston , Texas .
Ôi bao dặm đường xa cách. Từ ngày mẹ tôi mất cha tôi sống một mình, ông không chịu rời căn nhà với những năm tháng của quá khứ và tôi không thể bỏ việc để dọn về nhà cha. Mùa Xuân năm ngoái cha tôi bị ngã bể xương hông và dập một bên sườn. Bây giờ cha tôi phải vào viện dưỡng lão dành cho người già ốm yếu và cha tôi được xếp vào danh sách phải săn sóc đủ một vòng tròn của chiếc đồng hồ treo trong phòng ông. Từ ăn uống, nằm ngồi, đi đứng, làm vệ sinh, nhất nhất điều có y tá. Cái điều đáng buồn là trong khi nhận tất cả phục dịch cho thân thể thì đầu óc của cha tôi vẫn còn cái minh mẫn của một ông giáo sư dậy toán cách đây mấy chục năm.
Tôi không thể thường xuyên bỏ công việc để đi xuống thăm cha, nhưng mỗi ngày tôi phải điện thoại, điện thư liên lạc với bác sĩ, dược sĩ, y tá và những người săn sóc cho cha tôi tại viện dưỡng lão. Tôi cố gắng thu xếp để mỗi hai tháng đến với cha tôi một cái cuối tuần, và mỗi năm về một tuần vacation vào dịp lễ Tạ Ơn hay Giáng Sinh. Tôi biết là cha tôi rất mừng mỗi lần thấy con đến thăm. Cái ánh mắt của cha tôi khi nhìn tôi chào ra về bao giờ cũng theo tôi suốt chuyến bay. Hôm nay cũng thế, khi ngửa cổ ra sau ghế để tìm một giấc ngủ ngắn trên phi cơ, tôi nhìn rất rõ lại hai con mắt của cha tôi. Bất giác tôi tự hỏi "Khi tôi vào tuổi già yếu. Ai sẽ là 'TÔI' để tới lui săn sóc hỏi han tôi thường xuyên?".
Một người độc thân không có anh chị em và những người già không có con, những người có con sống không cùng một tiểu bang, hay xa hơn nữa ở tận một quốc gia khác thì sẽ rơi vào hoàn cảnh nào khi tuổi già lặn xuống như mặt trời lặn trên biển (bạn đã ngắm mặt trời lặn trên biển bao giờ chưa? Nó mất vào nước nhanh vô cùng).
Cái thùng thư ba, bốn ngày không có người lấy, hay đống báo thành chồng trước hiên nhà, cỏ không cắt, lá không cào, các cửa sổ không mở là dấu hiệu cho hàng xóm biết nên báo cho cảnh sát vì chủ nhân trong căn nhà đó ở một mình và là một người già.
Nỗi lo âu của một người không có thân bằng quyến thuộc ở gần lúc tuổi già không phải là nỗi lo âu "quá đáng". Ðó là một điều chúng ta nên nghĩ đến khi còn có thể tìm hiểu và thu xếp cho chính mình.
Bà Barbara Gordon có mẹ già 92 tuổi sống ở Florida, trong khi bà làm việc ở New York bà đã đặt ra câu hỏi "Who will be ME for me." Bà đem câu hỏi đó hỏi những người bạn độc thân như bà, không con hay có con tản mác mười phương, họ cùng nhau bàn bạc, đặt ra những câu hỏi cho tuổi già:
- Tôi sẽ sống ở đâu?
- Tôi sẽ sống như thế nào?
- Tôi có đủ tiền không?
- Ai sẽ săn sóc tôi nếu tôi mất khả năng hoạt động?
- Nếu tôi ngã (lúc già yếu) nằm dưới đất hai, ba ngày thì sao?
- Một ngày nào đó liệu tôi có phải rời căn nhà tôi đang ở ?
Những câu hỏi trên đưa đến những câu trả lời khác nhau mà câu nào cũng rất mơ hồ. Cuối cùng họ đi đến kết luận: Cái cách mình đang sống bây giờ sẽ ảnh hưởng rất nhiều vào đời sống của mình lúc về già. Họ làm cái danh sách sau đây như một kim chỉ nam.
"Có bạn bè ở mọi lứa tuổi." Ðừng bao giờ nghĩ mình chỉ có thể thân với những người cùng lứa tuổi hay cùng hoàn cảnh như mình. Ðồng ý là họ hiểu mình hơn nhưng đồng thời cũng chỉ nghe những than thở của nhau, không có gì mới lạ. Giao thiệp với những người trẻ hơn mình cũng trẻ lại với cách suy nghĩ và ứng xử với đời sống "Mới" này. Giao thiệp với người già hơn mình để được hưởng sự khôn ngoan của họ.
"Kết thân với hàng xóm." Chắc bạn không muốn ngã xuống sàn nhà, nằm dưới đất hai ngày rồi mà không có ai đến vực lên. Một tiếng gọi cửa của hàng xóm có khi cứu được sinh mệnh của bạn đấy. Chạy qua chạy lại nhà hàng xóm lúc còn khỏe là một điều rất nên làm. Có hàng xóm tin và thân nhau còn giao cho cả chìa khóa nhà nữa. Người lớn tuổi đâu còn sợ mất mát gì về vật chất, cái quý nhất chính là bản thân mình thôi. Nếu hai gia đình cùng trẻ cùng có con nhỏ ở cạnh nhau mà thân thiện được là một điều rất quý. Tránh được rất nhiều va chạm về con cái và hữu ích cho nhau khi về già.
"Một bác sĩ thân thiện và có lương tâm" rất cần. Ông bác sĩ này phải là một người sẵn sàng cho bạn khi bạn cần tới. Một người không bao giờ từ chối cắt nghĩa một câu hỏi xem ra không được chính xác mấy của bạn. (Những câu hỏi không có kinh nghiệm gì của người trẻ tuổi và quá lẩm cẩm của người già.)
"Dược sĩ trẻ hơn mình nhiều tuổi." Mua thuốc với những người này, bạn được họ cắt nghĩa rõ ràng và thân thiện hơn. Người bệnh ở lứa tuổi nào cũng cần những dược sĩ trẻ trung.
"Tiêu ít, để dành nhiều." Người trẻ để dành cho ngày mai. Người già để dành cho hậu sự.
Cần kiệm luôn luôn là một đức tính.
"Ăn uống cẩn thận hơn." Thức ăn luôn luôn là một nguyên nhân chính cho sức khỏe. Người dân nước nào cũng tự hào về văn hóa ẩm thực của nước họ. Nhưng cái bao tử của cả bàn dân thiên hạ chỉ muốn tiêu thụ những thức ăn nhẹ nhàng, ít dầu mỡ và bổ dưỡng. Bạn cứ lắng nghe xem cơ thể bạn phản ứng thế nào sau mỗi bữa ăn khác nhau, thì bạn sẽ hiểu ngay nó muốn nói điều gì.
"Thể thao nhiều hơn" Ai cũng biết cơ thể cần vận động thì mới khỏe mạnh và đầu óc mới minh mẫn. Cứ cả ngày ngồi gõ cọc cọc (như chính tôi đây) ở máy vi tính, hay xem phim bộ như phần đông người Việt lớn tuổi, chắc chắn là không đúng rồi. Hãy đứng lên. Người trẻ có thể thao của người trẻ, người lớn tuổi có những sinh hoạt thể thao cho tuổi của mình. Nếu không đi xa được thì loanh quanh trong khu xóm, hoặc vung tay, khua chân ngay trong nhà mình. Ðừng ngồi yên một chỗ. Chim chóc ngoài vườn đang gọi bạn.
Ngay bây giờ phải là "MÌNH". Có người đặt câu hỏi: "Ai thương tôi nhất"
Câu trả lời: "Mình thương chính mình nhất" Vì chồng, (vợ) hay con mình cũng không thương mình bằng chính mình thương mình. Chồng, (vợ) hay con không thể chịu trách nhiệm về thân thể bạn được. Họ chỉ chia sẻ một phần nào. Nếu bây giờ bạn thực hiện được những điều trên thì khi về già chính bạn đã lo được cho bạn khá nhiều. Vì có ai đó, không phải bà con mình (người bạn hàng xóm) sẽ nhắc cho bạn "Tối nay lúc 9:00 giờ có mục đọc truyện của đài phát thanh (tiếng Việt) hay lắm.
Hoặc: "Ngày mai Chủ Nhật bà có đi chùa không? Sẽ có xe đón đấy."
Ngẫm nghĩ, tôi cùng gia đình đến Mỹ đến nay đã hai chục năm, thời gian vừa qua như một giấc mơ. Trong một chặng đường đời nào đó của chúng ta, nếu có quá nhiều việc phải làm, thì thời gian trôi qua rất lẹ. Nhất là, sau khi nhìn lại, chúng ta cảm nhận một điều rằng, hình như có một sự xếp đặt nào đó của định mệnh, của thiêng liêng, mà với sự hạn hẹp của con người, không sao giải thích nổi.
Tháng 12- 1993, vợ chồng tôi cùng đứa con gái lên 9 tuổi, đến nước Mỹ theo Chương trình HO số 21. Đây là chương trình của chánh phủ Mỹ bảo trợ cho những người “tù cải tạo” trên 3 năm, họ được cùng gia đình đến định cư tại Hoa Kỳ.
Máy bay của hãng United đáp xuống phi trường Los Angeles vào khoảng 11 giờ sáng. Ra khỏi cửa, chúng tôi cứ đi theo đoàn người, hối hả đi về phía trước, cứ như thế chứ nào có biết đi về đâu. Rồi cuối cùng chúng tôi gặp một tấm hình thật lớn của Tổng Thống Bill Clinton, tươi cười chào đón chúng tôi. Như vậy là coi như chúng tôi đến được nước Mỹ.
Nhớ trước đó một ngày, gia đình đưa tiễn chúng tôi tới Phi trường Tân Sơn Nhất vào lúc 3 giờ sáng, để chuẩn bị cho chuyến bay lúc 6 giờ. Chỉ có mẹ tôi và mấy đứa em đưa tiễn, cha tôi buồn lắm nên ông không đi, tôi nhớ lúc tôi cất tiếng chào lần cuối: "Thưa Ba, con đi!" tôi thấy ông đã nhỏ nước mắt. Bây giờ cha tôi không còn nữa, khiến tôi nhớ hoài những giọt nước mắt của ông.
Nhân viên của Trung tâm Dịch vụ Di trú Nguyễn Kim, đã tiếp đón và hướng dẫn chúng tôi thật chu đáo và chuyên nghiệp. Họ tập họp mọi người lại, đọc tên kiểm tra danh sách, trao cho mỗi gia đình một túi hồ sơ IOM (Cơ quan Di trú Quốc tế), dán bảng tên có những ký hiệu đặc biệt vào ngực áo của mỗi người. Họ chỉ hết nhiệm vụ khi chúng tôi bước vào khu vực Hải quan.
Nhân viên Hải quan tiếp chúng tôi bằng gương mặt lạnh lùng, họ hỏi tôi có mang tiền đô theo không? Tôi đưa tiến ra, họ chẳng đếm gì hết, cầm xấp tiền xòe ra, rồi thản nhiên rút một tờ giấy bạc cho vào túi áo, rồi cười cười khoát tay cho đi. Chúng tôi lủi thủi kéo nhau đi, không nói một lời.
Khi máy bay cất cánh rời khỏi Sài Gòn, lúc trời vừa hừng sáng, tôi cảm thấy trong lòng nổi lên một điều lạ, là tôi không cảm thấy một nỗi buồn ly biệt nào, khi phải rời bỏ quê hương đất nước... mà lại cảm thấy trong lòng nhẹ tênh, như vừa trút bỏ một cái gì nặng nề, đã đeo bám theo tôi từ bấy lâu nay.
Từ Sài Gòn, máy bay đến Hong Kong, để chuyển tiếp máy bay khác đi Mỹ. Từ phi trường Tân Sơn Nhất đến phi trường Hong Kong, khung cảnh khác xa một trời một vực. Cơ quan IOM đã chuẩn bị chu đáo, vì họ biết rõ chúng tôi thuộc loại "mán về thành", cho nên họ sắp xếp nhân viên phi trường tiếp đón chúng tôi. Khi vừa ra khỏi cửa máy bay, nhân viên của họ lập tức phân loại chúng tôi thành từng nhóm theo những ký hiệu ghi trên ngực áo, chẳng hạn, nhóm này về Nam Cali, nhóm kia về Houston, nhóm khác về Virginia... Từng nhóm ngồi bệt riêng rẽ trên sàn nhà, những du khách đi lại trong phi trường nhìn chúng tôi bằng ánh mắt kỳ lạ, chúng tôi cảm thấy mình thiệt hèn mạt khi bị đối xử như một đàn vịt đầy ngớ ngẩn với thế giới văn minh bên ngoài đất nước. Sau cùng nhóm chúng tôi được một nữ nhân viên hướng dẫn đến một cái cổng để lên phi cơ bay đến miền Nam Cali. Chuyến bay từ Hong Kong đến Los Angeles dài 12 tiếng, đây là lần đầu tiên trong đời tôi trải qua một chuyến bay dài kinh khiếp, cho đến nỗi mọi cảm giác của tôi đều mụ mẫm. Chốc chốc, tiếp viên lại dọn bữa ăn, chúng tôi "ăn thấy thương", tội nghiệp!
Sau khi bước qua tấm hình chào đón của TT Mỹ, chúng tôi bước vào khu vực Hải quan. Tại đây chúng tôi được một nhân viên IOM người Việt tiếp đón, sau khi kiểm tra danh sách, anh ta dặn dò chúng tôi đủ thứ chuyện, trong đó có một chuyện làm tôi nhớ mãi. Anh ta đã nói như thế này:" Khi nào quí vị muốn đi toa lét, thì làm ơn nhìn kỹ hình vẽ trước cửa ra vào, đàn ông thì vào cửa có hình đàn ông, đàn bà thì vào cửa có hình đàn bà, xin cẩn thận đừng đi lộn chỗ, sẽ rất phiền toái cho quí vị và cho chúng tôi."
Tôi nghe mà ngượng lắm, trời đất! chả lẽ chúng tôi quê mùa ngớ ngẩn đến như vậy sao? Sau đó anh ta hướng dẫn chúng tôi vào khai báo Hải quan, cũng gặp một nhân viên người Việt, anh ta tươi cười lịch sự, nói năng nhỏ nhẹ và lễ phép.
Chúng tôi khệ nệ đẩy xe hành lý ra khu Terminal 4, lúc đó chúng tôi chớ hề biết rằng, đống hành lý quần áo mà chúng tôi cất công mua sắm ở VN, chỉ một thời gian sau là vất bỏ hết, vì không còn thích hợp nữa. Khổ nỗi, trước đó không có ai cho chúng tôi biết về điều này.
Loay hoay một hồi tại khu tiếp đón, chúng tôi cũng gặp được người nhà, một bà chị dâu họ, mà tôi chưa hề biết mặt. Đứng trước khung cảnh bao la tráng lệ của phi trường Los, một phi trường lớn vào bậc nhất của thế giới, trong lòng tôi cảm thấy vừa hèn kém vừa sợ hãi.
Một trong những ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi, là người Mỹ sao họ đẹp đẽ quá, nét mặt của họ rất là thông minh sáng sủa, hồng hào đỏ thắm, nhìn họ một hồi là thấy họ có vẽ vừa văn minh vừa thượng đẳng, hơn hẳn các sắc dân khác qua lại trong phi trường vào lúc đó. Rồi một điều làm cho tôi kinh ngạc nhất, là khi nhìn lại những người Việt cùng đi chung chuyến bay với chúng tôi hôm đó, hầu hết đếu mang một bộ mặt sầu thảm khổ nạn. Tại sao lại như vậy? Tôi không biết được, mà lờ mờ cảm thấy rằng, vận mệnh của mỗi đất nước, hình như được thể hiện qua sắc mặt của người dân xứ đó, có phải vậy không?
Bà chị đưa chúng tôi ra bãi đậu xe, chúng tôi nhìn bãi đậu xe mà thấy khiếp vía, xe đậu tầng tầng lớp lớp, không biết cơ man nào mà kể. Chị nói mỗi Terminal có một bãi đậu xe như thế này, mà phi trường Los có đến 8 Terminal.
Nhà chị thuộc thành phố Hawthorne, nằm giữa đường từ Los đến Little Saigon. Xe nhập vào Freeway 105, lao vun vụt vào dòng xe cộ đông nhung nhúc trên đường, xe chạy với tốc độ khoảng 100 cây số/giờ, mà sao lúc đó tôi hãi lắm. Tôi thấy chị lái xe sao "nghề" quá, biết đến bao giớ tôi mới dám lao vào dòng xe cuồn cuộn kinh khủng kia chứ.
Về tới nhà, vợ chồng con cái lừ đừ lử đử, ăn uống qua loa xong chúng tôi kéo vào phòng, ngủ một giấc dài. Khi thức dậy, trời đã về chiều, chúng tôi ra phòng khách ngồi nói chuyện chơi với chị. Bỗng một lát, tôi thấy có người đi làm về, bà chị giới thiệu là ai đó. Rồi một lát sau có thêm người khác về nữa, chị lại giới thiệu. Cứ vài lần nữa cho đến tối thì nhà đầy người. Tôi chẳng hiểu sao nữa, nên ngạc nhiên lắm. Mãi sau này tôi mới hiểu, giá nhà ở Cali rất đắt đỏ, muốn mua một cái nhà rất khó khăn, cho nên người ta sống chen chúc với nhau gọi là "share phòng", để chia tiền nhà ra cho "nhẹ thở", cho nên những người ở chung nhà đóng góp hàng tháng tiền nhà tiền ăn cho bà chị. Ý trời đất ơi! cái kiểu này tôi chưa từng thấy ở VN.
Chị lại dẫn chúng tôi đi vòng quanh nhà, chỉ dẫn cách xử dụng đồ đạc, nào là lò micro wave, bếp ga, nào là máy giặt máy sấy, điện thoại, tủ lạnh, toa lét... hầu hết những thứ này ở VN lúc đó chưa phổ biến lắm, cho nên chúng tôi nhìn chúng mà lòng đầy "sợ hãi". Cái gì cũng xa lạ, thậm chí có khi tôi muốn mở cái tủ trong nhà bếp để lấy cái ly uống nước mà không biết làm sao để mở, lại xấu hổ không dám hỏi ai, thiệt khổ!
Ngày hôm sau, chị dẫn chúng tôi đến Hội Thiện Nguyện. Đây là một Cơ quan tư nhân, hoạt động từ thiện bất vụ lợi, Hội đã trợ giúp chính phủ trong việc tiếp nhận người mới nhập cư, và cũng chính hội này đã cho tất cả các gia đình chúng tôi mượn tiền mua vé máy bay đến Mỹ.
Khi chúng tôi bước vào phòng của bà Thư ký tên Kim (người Việt), lúc đó bà đang tiếp một gia đình khác, nên bà bảo chúng tôi ngồi chờ. Tôi ngồi ngó quanh quẩn trong phòng, chợt nghe bà Kim dặn dò người đàn ông chủ hộ: "Hàng tháng ông nhớ trả tiền vé máy bay cho Hội, mà ông đã ký giấy vay mượn, mỗi tháng ông trả dần một ít, bao nhiêu cũng được tùy theo sức của gia đình ông." Người đàn ông nhạt nhẽo trả lời: "Chắc chị dặn cho có lệ mà thôi, chứ tôi có thấy ai trả tiền này bao giờ đâu?" Tôi nghe sao thấy kỳ kỳ!
Khi gia đình đó xong việc, chúng tôi được mời ngồi vào bàn, bà Kim bèn rao giảng "quốc văn giáo khoa thư" cho chúng tôi ngay lập tức: "Anh chị đừng có nghe cái ông hồi nãy nói nha, thiếu tiền vé máy bay của Hội thì phải trả, có ít trả ít, có nhiều trả nhiều, trả đến chừng nào hết nợ thì thôi. Không trả thì vô ơn bạc bẽo lắm, phải trả cho chúng tôi, để chúng tôi có tiền lo cho những người đi sau nữa chứ, Anh Chị thấy có đúng như vậy không?" Tôi gật gù nói phải a! phải a!
Bà còn chỉ dẫn chúng tôi làm nhiều chuyện, trong đó có một chuyện rất quan trọng, là hướng dẫn chúng tôi đến Sở Xã Hội để xin trợ cấp cho những gia đình mới đến Mỹ, đồng thời cũng xin trợ cấp Bảo hiểm Y tế. Sau này hàng tháng chúng tôi nhận được trợ cấp là 600 đô cho gia đình 3 người và còn khám chữa bịnh miễn phí, đây là điều mà chúng tôi rất cảm kích nước Mỹ đã giúp đỡ chúng tôi lúc ban đầu, nếu không thì thiệt là "nín thở."
Bà Kim lại một lần nữa dặn dò chúng tôi đủ thứ chuyện: "Ở với người bảo trợ thì miễn đóng tiền nhà tháng đầu, đến tháng thứ hai phải đóng đầy đủ theo thỏa thuận, gọi điện thoại long distance phải trả tiền cho chủ nhà, ăn ở phải giữ gìn ý tứ nhất là khi xử dụng toa lét..." Liếc ngang, tôi thấy mặt mày vợ tôi lộ vẻ nghiêm trọng, còn tôi, càng nghe càng thấy "oải chẻ đậu".
Trên đường về, bà chị chở chúng tôi ghé vào một ngôi chợ Việt Nam có tên là Đất Mới, ngôi chợ to cỡ trung bình, nhưng rất khang trang và sạch sẽ. Lúc đó ở VN chưa có siêu thị, nên khi bước vào chợ Đất Mới chúng tôi rất ngỡ ngàng và thích thú. Chị giới thiệu chúng tôi với bà chủ chợ: "Khách hàng mới đây nha bà!" Bà chủ tươi cười chào đón và nói năng xởi lởi.
Dạo quanh chợ chúng tôi hết nhìn món này rồi đến món kia, chúng tôi xầm xì tính nhẩm từ tiền đô ra tiền đồng VN, thấy món nào cũng đắt "vàng trời". Cứ tính như thế, sợ đến mức không dám mua gì cả.
Đi chợ xong, chúng tôi kéo đến quầy tính tiền, chị vói lấy cho tôi một tờ báo có tên là Người Việt. Chị nói: "Chú mới qua chắc còn thích đọc báo, người ở đây lâu chẳng ai còn muốn đọc báo nữa!"
Chị đã nói sai, kể từ cái ngày đầu tiên tôi cầm tờ báo này trên tay, tôi đã đọc nó ròng rã suốt 20 năm trời. Trong rất nhiều báo phát hành tại Nam Cali đây là một trong những tờ báo đứng đắn và chuyên nghiệp nhất, đồng thời nó là một tờ báo sống dai nhất trong lịch sử báo chí VN, từ hải ngoại cho tới trong nước, tuổi thọ của nó đã được 35 năm rồi. Phải nói một điều, tờ báo Người Việt này là một phần đời sống của vợ chồng chúng tôi, nếu không có nó sẽ tăng thêm phần tẻ nhạt.
Rồi lần lượt ngày qua ngày, Chị đưa chúng tôi đi làm giấy tờ, khám sức khỏe, học lái xe, học Anh văn mà ở đây người ta gọi là học ESL. À nói chuyện học ESL mới thật tức cười. Ngày đầu tiên đến trường, chúng tôi gặp nhân viên phỏng vấn, họ nói liến thoắng một hồi, mặt chúng tôi cứ nghệt ra, vì có hiểu gì đâu. Thấy bộ tịch "nai tơ" quá, họ bèn xếp vào lớp thấp nhất. Vào lớp, chúng tôi thấy toàn là người Mễ. Sau đó cô giáo cho làm bài kiểm tra, chúng tôi làm rất dễ dàng vì đọc và hiểu hết, trong khi người Mễ họ nói tiếng Mỹ nghe rau ráu mà lại không biết chữ, lạ thật.
Cuối giờ, cô giáo dẫn chúng tôi lên văn phòng đề nghị cho học lớp cao hơn, thiệt là ấm ớ.
Học ESL một thời gian chúng tôi thấy "ngán" quá, bởi vì học đến chừng nào mới thành tài. Trong khi vợ chồng chúng tôi đã lớn tuổi, chữ Mỹ học vô chữ này thì lọt ra ngoài chữ kia. Cứ nói tiếng Mỹ theo cái kiểu "lùng nhùng", trong đầu cứ dịch từ tiếng Việt qua tiếng Mỹ, rồi mới phát ra lời nói. Chúng tôi học còn lâu lắm mới đạt tới trình độ suy nghĩ ngay bằng tiếng Mỹ, cho nên chuyện học còn xa vời lắm.
Sau đó chúng tôi bỏ học ESL, xin vào làm trong một Shop May ở gần nhà. Vợ chồng Chủ Shop là người Việt, không biết các shop may khác ra sao, chứ cái shop này, Chủ biết cách bóc lột người làm ra trò lắm. Tôi đứng ủi quần áo một ngày 10 tiếng, mồ hôi tuôn ra từng chập, vây mà cao lắm chỉ lãnh 20 đô một ngày, trong khi vào thời điểm đó, lương căn bản là 6-7 đô một giờ. Chủ Shop này họ đã tính toán rất kỹ, thí dụ khởi đầu họ giao ủi một cái áo là 15 xu, thấy chúng tôi ủi nhanh quá, họ hạ xuống còn 10 xu, nếu vẫn còn nhanh, họ sẽ tiếp tục hạ xuống nữa, để làm sao ủi cả ngày, họ chỉ trả lương không quá 20 đô. Họ biết chúng tôi là dân mới qua Mỹ, còn hưởng trợ cấp xã hội, cho nên chỉ có thể đi làm "chui" lãnh tiền mặt, cho nên họ tha hồ o ép. Tình "đồng hương" chỉ là chuyện nói cho vui nơi những người này.
Một hôm trong giờ giải lao, đám thợ chúng tôi ngồi tán gẫu trước cửa shop. Bỗng có một anh chàng trạc tuổi tôi, đi đâu đó chạy ngang qua, bèn tạt vào shop ghé thăm người bạn. Anh ta cũng sà vào đám chúng tôi, góp vài câu chuyện vu vơ. Chợt anh ta thốt lên một câu, mà sau này ngẫm nghĩ lại tôi cho đó là một câu định mệnh, đã biến đổi đời sống chúng tôi qua một khúc quanh khác. Anh ta đã nói như thế này: "Các anh em làm ở đây cực quá, lại kiếm không được bao nhiêu tiền. Sao anh em không đi học nghề Nail, nghề này rất dễ kiếm việc làm, công việc nhẹ nhàng mà thu nhập lại cao nữa!" Tôi nghe thế, bèn lấy làm ngạc nhiên lắm, vì đây là lần đầu tiên tôi nghe như vậy. Trong khi Chị tôi và những anh em sống chung trong nhà, chẳng ai nói với chúng tôi điều đó cả.
Vài hôm sau, chúng tôi đến một trường dạy nghề thẩm mỹ xin học. Trường nằm ở vùng South Bay cũng gần nhà, vừa dạy nghề tóc vừa dạy nghề nail, do người Việt làm chủ. Cô giáo cũng người Việt, dạy chương trình tiếng Mỹ, tuy nhiên bài vở đã dịch sang tiếng Việt cho dễ học. Học được vài hôm, có bữa cô giáo nhìn tôi ái ngại rồi nói một câu làm tôi "ngượng điếng người": " Anh xin học nail, để sau này phụ coi tiệm với người nhà của anh phải không? Chứ anh là đàn ông lại lớn tuổi, thì làm nghề này khó xin việc lắm!"
Cô đã nói sai, lúc đó tôi đã ngoài 40 tuổi, và đã làm nghề nail đến nay liên tục 18 năm, không hề thất nghiệp một ngày nào hết!
Sau khi học khoảng 3 tháng là xong chương trình. Chúng tôi xin đi thi tận trên downtown của Los Angeles. Bài thi lý thuyết bằng tiếng Anh, rồi kế đó là phần thi thực hành trên tay người mẫu, tất cả đều được giám sát gắt gao bởi các giám khảo người Mỹ. Trong cuộc đời đi học của tôi, cũng có khi đi thi lấy bằng này bằng nọ, nhưng tôi chưa khi nào sung sướng tột bực, như khi thi đậu cái bằng hành nghề Nail như thế này. Không phải chỉ riêng tôi vui mừng, trong ngày hôm đó ngoài những người Việt chúng tôi, còn có các sắc dân khác nữa. Khi họ được xướng tên lên lãnh bằng, có người kêu rú lên mừng rỡ, có người nhận bằng xong nằm lăn ra trên thảm, lăn lộn kêu gào như người điên. Bởi vì ở Cali thi cử rất nghiêm ngặt, lấy được cái bằng hành nghề không phải dể, có người đi thi mấy năm trời mới thành công, cho nên họ mừng rỡ tột bực là như thế.
Vợ chồng tôi sau đó được nhận vào làm nơi một cửa tiệm, mà cô chủ có họ hàng với anh chị tôi. Phải nói một điều thật lòng, cho mãi đến bây giờ, chúng tôi không bao giờ quên ơn nghĩa của người chủ tiệm Nail đầu tiên này. Lúc đó cô chủ còn trẻ lắm, chỉ độ ngoài 30, cô đã hết lòng hết sức kèm cặp chúng tôi. Bởi vì những điều học ở trường, chỉ đủ để đi thi lấy bằng, còn khi ra tiệm làm thật sự trên tay khách, là một điều hoàn toàn khác hẳn.
Mấy ngày đầu làm việc, tôi sợ nhũn cả người, mồ hôi tuôn ra dầm dề, nhìn thấy cái móng tay sao mà nhỏ xíu, nhìn mấy bà Mỹ đen sao mà kinh khiếp rụng rời, chỉ sợ dũa đứt tay thì thật là tai họa. Cô chủ phải bỏ khách chạy lại giúp tôi, nhất là cái màn cuối cùng thật "hãi", đó là sơn móng tay, tưởng chừng dễ lắm, mà lại là chuyện cực kỳ khó cho người mới vào nghề, cho nên đôi khi gặp màu khó sơn, cô chủ còn phải sơn hộ cho tôi. Đây lại là một người có tấm lòng nhân ái rất lớn đối với đồng hương.
Ở Cali, nghề Nail cạnh tranh khốc liệt, cửa tiệm nhan nhản khắp mọi nơi, hễ có khu plaza là có tiệm nail nằm trong đó. Người Việt chúng ta có một điều rất dở, làm cùng nghề họ chỉ giỏi lườm nguýt, mà chớ hề biết liên kết lại với nhau, cứ phá giá để kéo khách về tiệm của mình. Đó là một trong những lý do khiến cho người Mỹ và các sắc dân khác bỏ nghề nail, để mặc cho người Việt thống lĩnh thị trường, và tha hồ chém giết tranh giành nhau. Dần dần giá cả làm nail ở Cali rẻ mạt, chỉ còn bằng nửa giá ở các Tiểu bang khác.
Cho nên sau bốn năm sinh sống ở Cali, chúng tôi ngậm ngùi từ giã mọi người: Chị tôi, cô chủ tiệm, bạn bè thân quen. Để bay về một thành phố nhỏ thuộc Tiểu bang Illinois, có tên là Joliet, thuộc ngoại ô của thành phố cực lớn là Chicago.
Chúng tôi đến Joliet vào mùa Đông năm 1997, lúc đó tuyết bay trắng xóa bầu trời chào đón chúng tôi, tuyết phủ kín thành phố, và còn phủ kín cả cánh đồng bắp bạt ngàn ở bên ngoài. Bầu trời lúc nào cũng xám xịt, nhiệt độ luôn luôn dưới âm độ C. Khung cảnh vừa đẹp man dại vừa thê lương khủng khiếp. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi, đây là nơi chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền, chứ không thích hợp cho chúng tôi để sống một cuộc sống lâu dài.
Truyện Kiều có câu: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" Tôi nghĩ không nhất thiết phải như vậy đâu, mà có khi còn ngược lại như thế nữa: "Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ". Không biết có phải trời quá lạnh lẽo hay không? Không biết có phải cái màu trắng ghê rợn của tuyết hay không? Mà sao cảnh vật buồn đến "nín thở", buồn đến độ chán ngán "nẫu" cả người, không còn thiết tha đến điều gì nữa hết, rất dễ đưa người ta đến những ý tưởng tiêu cực.
Tới bây giờ sau một thời gian dài sống trên đất Mỹ, tôi cũng không hiểu tại sao cảnh vật nơi xứ này trông buồn lắm, không phải chỉ ở các tiểu bang lạnh giá, mà ngay cả các tiểu bang nắng ấm cũng buồn nhưng đở hơn mà thôi. Giống y như một câu thơ của Hoàng Anh Tuấn: "Ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc" lúc đó tôi nghĩ, mãi mãi tôi chỉ là một người đi lạc ở một nơi chốn không có hồn Việt Nam, chỗ nào đối với tôi cũng đầy xa lạ, vì nó không phải là quê nhà, ở đó tôi có biết bao kỷ niệm, từng dãy phố, từng hàng cây, từng tiếng động và ngay cả từng con người...
Ở Cali, nắng vàng rực rỡ quanh năm, muốn ăn phở là có phở, muốn xôi chè bún mắm đều có đủ, không thiếu một thứ gì ở quê nhà, nên cái buồn quạnh quẻ, nó không đến nỗi nào. Còn ở cái vùng đất Joliet này, quả là nơi cùng trời cuối đất cho người Việt chúng tôi, nơi đây chỉ toàn là người Mỹ, chỉ toàn là xe Mỹ, và nghe tiếng Mỹ rào rào điên đầu điếc óc. Chủ nhật hàng tuần, chúng tôi lái xe lên khu VN ở khu uptown Chicago. Có những hôm trời đổ tuyết dày đặc, chúng tôi cũng phải đi, không đi thì trong lòng nôn nao không sao chịu được, giống như phát ghiền cái không khí VN ở nơi đó.
Lái xe khoảng một tiếng, đường xa độ chừng 80 cây số, đến nơi chúng tôi đi chợ Việt Nam, mua rau cải, nước mắm nước tương, cá trê vàng, cá ba sa từ VN chuyển qua... rồi mua những món ăn chơi như chè đậu, chuối nướng, bánh ú, bánh cam, bánh còng... Ghé vào tiệm mướn phim bộ Hong Kong (lúc đó chưa có phim Hàn quốc), mua dĩa nhạc, sách báo VN... Rồi vợ chồng con cái kéo vào tiệm ăn tô phở, tô mì hoặc dĩa cơm tấm... và nhìn người Việt đi qua đi lại, chuyện trò râm ran bằng tiếng Việt. Chỉ có vậy thôi, mà sao đỡ nhớ nhà nhớ quê nhiều lắm. Có những chiều trời lạnh căm căm, gió Chicago lồng lộng thổi, chúng tôi co ro đi trên phố vắng người, mà trong lòng thấm thía thế nào là ly hương, thế nào là viễn xứ, "tình ngỡ đã quên đi, nhưng tình bỗng lại về..."
Sau 5 năm chịu đựng những mùa đông xứ tuyết, cái lạnh giá thì có thể chịu được, nhưng cái buồn "nát cả lòng" thì không tài nào chịu nổi, có lẽ tôi là người quá nhạy cảm chăng? Sau khi con gái tốt nghiệp Trung học, chúng tôi quyết định rời bỏ Joliet, để đi về miền nắng ấm Florida. Vất hết đồ đạc, chúng tôi chỉ mang theo quần áo và đồ dùng hàng ngày, chất lên chiếc xe van Honda Odysse. Tôi bấm 3 hồi còi dài để chào gĩa biệt Joliet.
Đến Jacksonville - Florida, được gia đình bạn tôi Lê Tấn Đức K2 giúp đỡ lúc ban đầu. Sau đó, chúng tôi mua một căn nhà nhỏ, rồi sang lại một tiệm nail cũng nhỏ chỉ có hai vợ chồng lủi thủi làm với nhau, tiền bạc không kiếm được nhiều như hồi còn ở Joliet, nhưng mà tôi thấy vậy cũng đủ rồi, "tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc." Con gái cũng tốt nghiệp Đại học, cũng sống đời bình thường với chúng tôi. Và từ đó, tôi nghĩ ông Trời đã đãi ngộ cho tôi quá nhiều, sau những gian truân mà tôi gặp phải, tôi chỉ cầu mong được như vậy thôi mà.
Trong khoảng 10 năm đầu sống trên đất Mỹ, tôi vẫn đau đáu trong lòng một nỗi niềm, giống như một câu kinh nhật tụng: "Tôi sẽ về lại Việt Nam... tôi sẽ về..." Như tôi đã nói "ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc", lúc đó tôi thầm nhủ, tôi sẽ mãi ngơ ngác trên vùng đất xa lạ này. Và tôi chớ hề nghĩ rằng sẽ có một ngày tôi đổi khác.
Rồi cứ hai năm, chúng tôi trở về thăm quê nhà một lần. Và cứ mỗi lần về quê, cảm giác của tôi càng ngày càng lạ lẫm, bởi vì "nó" không còn là quê "ngày xưa" của tôi trong tâm tưởng nữa rồi. Có đi xa rồi ngoái cổ nhìn lại quê mình, lúc đó mới thấy một điều đau lòng, là đất nước ta còn vô vàn những điều bất cập, mà lúc còn sống trong nước tôi chớ hề thấy điều này, và tôi cũng e rằng trong vòng vài ba thế hệ nữa chúng ta vẫn chưa khắc phục nổi.
Khi về thăm VN, tôi có gặp những người giàu có thành đạt rất lớn, họ nói với tôi rằng: "có tiền ở Việt Nam vẫn sướng hơn ở Mỹ!" Tôi thấy đây là luận điệu của những người "ếch ngồi đáy giếng" Và tôi cũng không biết nói sao cho họ hiểu, bởi vì nhiều bạc tiền đến đâu chăng nữa, họ cũng không làm sao có được một môi trường sống "lý tưởng" như ở Mỹ, cho dù đến đời con đời cháu của họ cũng không tạo dựng nổi.
Chúng tôi ở Mỹ đến nay đã được 20 năm, cái "chất Mỹ" nó ngấm từ từ vào người lúc nào cũng không hay nữa. Cũng "cày" cật lực một ngày 10 tiếng, để có tiền trả tiền nhà, tiền xe, tiền bill, tiền thuế, tiền insurance, tiền nuôi con ăn học và hàng trăm thứ tiền "bà rằn" khác...
Dần dần chúng tôi cùng vui cùng buồn với nước Mỹ, chứ không còn thờ ơ lạt lẽo như trước nữa. Từ từ rồi chúng tôi cảm nhận được sự sung sướng khi được sống trong một đời sống văn minh, một môi trường trong lành, một xã hội trật tự ngăn nắp, ở một nơi mà người ta có rất nhiều cơ hội tiến thân, và cũng chính nơi này mọi người đều nhiệt tình đóng góp bổn phận công dân cho đất nước, rất nghiêm chỉnh với vị trí của mình.
Dĩ nhiên, không nơi nào mà không có các tệ nạn xã hội, nước Mỹ cũng vậy, cũng có cướp của giết người, cũng có lưu manh lừa đảo... nhưng những tệ nạn này càng ngày càng bị đẩy lùi một cách rốt ráo, cho nên nó trở thành hiếm hoi chứ không đầy dẫy, như cách nói của những người không ưa nước Mỹ.
Xa quê lâu quá, chúng tôi không còn con đường trở về nữa rồi, chúng tôi đã đổi khác, dẫu cho rằng:" Nguồn ngọn đã chia xa mấy đỗi. Sao nghe róc rách mãi trong lòng..." (thơ Hà Nguyên Dũng). Bởi vì, dần dần chúng tôi không còn chán ngán những dãy nhà buồn hiu, những con người xa lạ, và nhất là không còn thấy một nước Mỹ lạnh lùng với mình nữa. Cho nên chúng tôi đã chọn nước Mỹ là quê hương thứ hai, đúng như ai đó đã nói:" Nước Mỹ không là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này."