khktmd 2015
Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021
Kelly Marie Trần, công chúa gốc Việt - Tác giả Đinh Yên Thảo
Disney vừa công chiếu bộ phim hoạt hình "Raya and the Last Dragon" với sự xuất hiện một công chúa gốc Đông Nam Á đầu tiên trong lịch sử phim Disney: nữ tài tử Kelly Marie Trần, có tên Việt là Loan Trần, thủ diễn vai chính, là người lồng giọng cho công chúa Raya. Không những vậy, nhà biên kịch phim cũng là một người gốc Việt là Quí Nguyễn, hứa hẹn những tín hiệu lạc quan cho thế hệ trẻ gốc Việt tiến vào Hollywood trong tương lai.
Khi bộ phim Disney "Raya and the Last Dragon" ra mắt, Kelly Marie Trần xuất hiện trước công chúng và trên các hệ thống truyền thông có vẻ đầy tự tin, quả quyết và tin vào một thế hệ tài tử gốc Á hơn ba năm trước, điều cô đã hầu như bị đánh mất sau khi xuất hiện trong một bộ phim rềnh rang và kinh điển của điện ảnh Hoa Kỳ là Star Wars.
Sinh ra trong một gia đình tị nạn gốc Việt tại California, Kelly Trần là một trong vô số con cái những người di dân tại Hoa Kỳ đã đạt đến giấc mơ mà ngay cả những người Mỹ chính gốc cũng khó đạt đến khi trở thành người phụ nữ Châu Á đầu tiên thủ diễn một trong những vai chính của bộ phim The Last Jedi trong loạt phim Star Wars nổi tiếng hồi 2015.
Có cha mẹ là những người tị nạn đến Mỹ vào thập niên 80s, Kelly sinh ra tại San Diego, California vào năm 1989. Như nhiều người tị nạn khác, cha mẹ cô đã làm những công việc tay chân vất vả để nuôi chị em cô ăn học, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Tốt nghiệp ngành truyền thông tại đại học UCLA, Kelly bắt đầu bước vào lãnh vực phim ảnh với những vai nhỏ trong các video và truyền hình. Năm 2015, ở tuổi 26, Kelly may mắn được chọn vào bộ phim đầu tiên và nổi tiếng Star Wars mà cô chưa từng xem trước kia. Cạnh tranh cùng hàng trăm ứng viên khác, Kelly đã được đạo diễn Rian Johnson chọn sau quá trình tuyển chọn và thử vai kéo dài trong năm tháng trời để trở thành một phụ nữ gốc Á đầu tiên lọt vào vai diễn chính trong loạt phim này, bên cạnh sự xuất hiện ngắn ngủi của tài tử Ngô Thanh Vân trong phim.
Nhập vai thợ máy Rose Tico của lực lượng kháng chiến quân trong phim The Last Jedi, Kelly được giới phê bình cùng người hâm mộ khen ngợi và có những phản hồi tích cực cho vai diễn đầu tiên và quan trọng của cô. Nhưng đồng thời, cô lại bị tấn công trên mạng xã hội với các lời lẽ kỳ thị, gièm pha khi cho rằng vai diễn không thích hợp với người Á Đông cho đến các nhận xét không mấy thiện cảm về ngoại hình, vóc dáng của Kelly.
Trong khi đạo diễn cùng các tài tử đồng diễn cho đến người hâm mộ binh vực cho Kelly thì cô đã không chịu nổi áp lực tâm lý trước sự tấn công, buộc cô phải đóng luôn tài khoản Instagram, twitter và các trang mạng xã hội của mình. Viết trên tờ New York Times, Kelly thú nhận rằng, "Không phải vì những lời nói của họ mà vì tôi đã bắt đầu tin là vậy. Những điều họ nói chỉ tái xác nhận những gì đã dạy tôi khi lớn lên là một phu nữ và người da màu: tôi thuộc về bên lề và chỉ có giá trị như một nhân vật phụ trong đời sống và những câu chuyện của họ".
Nhưng trong bài báo của mình, Kelly cũng đã tiếp tục rằng cô mong muốn được sống trong một xã hội mà những đứa trẻ lớn lên không ước mình là người da trắng, là phụ nữ mắt xanh tóc vàng để được chấp nhận. Mà họ được chấp nhận bất kể màu da, sắc dáng, tôn giáo, sắc tộc nào trong tư cách chỉ là con người với nhau. Và cô sẽ không bỏ cuộc với những gì thuộc về chính con người cô.
Kelly đã không bỏ cuộc và cô đã quay lại thành công, tự tin hơn trong vai diễn công chúa Raya trong bộ phim Disney nói trên. "Raya and the Last Dragon" kể về vùng đất Kumandra mà con người và rồng từng chung sống thanh bình, những con rồng chiến đấu để bảo vệ họ trước sự xuất hiện của những quái vật ác độc Druun. Năm trăm năm sau, những con quái vật này lại xuất hiện và nàng công chúa Raya, người chịu trách nhiệm cứu Kumandra là đi tìm con rồng cuối cùng để chống lại Druun. Nhưng thử thách cho Raya không chỉ tìm được rồng mà là những chia rẽ, nghi kỵ giữa những bộ lạc, giữa con người với nhau. Điều Raya đi tìm là niềm tin và sự hàn gắn, hợp đoàn giữa con người để chống lại quái vật, sự dữ.
Bộ phim đã quy tụ đông đảo nam nữ tài tử gốc Châu Á thủ diễn, tức lồng giọng cho các nhân vật trong phim. Việc lồng giọng không đơn giản như chỉ đọc theo kịch bản phim mà đòi hỏi các tài tử phải bộc tả vai trò, chân dung nhân vật, cũng như thể hiện ý định và thông điệp của đạo diễn lẫn những nhà làm phim. Kelly Trần cho biết cô đã tìm đọc lại lịch sử cùng hoàn cảnh gia đình mình khi làm phim. Kelly thú nhận cô đã mất ngủ, đã cảm thấy trách nhiệm đè nặng khi nhập vai chính cho bộ phim này.
Bộ phim đã được Adele Lim, một nhà biên kịch gốc Malaysia từng tham gia viết phim Crazy Rich Asians rất thành công viết chung với nhà viết kịch bản phim gốc Việt là Quí Nguyễn. Sinh năm 1976 tại Arkansas, Quí Nguyễn là một nhà biên kịch đã có nhiều kịch bản trên sân khấu kịch nghệ, truyền hình và trong điện ảnh, hiện viết kịch bản phim cho Disney. Trong một cuộc phỏng vấn, Quí Nguyễn bảo rằng anh không muốn đưa những câu sáo ngữ vào trong phim bởi sự hàn gắn với đối thủ là điều khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng.
Các nhà biên kịch cho biết rằng, là những nhà viết phim và dàn tài tử gốc Á, những tiểu tiết trong văn hóa, ứng xử Á Đông đã được lồng vào trong phim. Nó không dễ nhận biết cho các sắc dân khác nhưng khá quen thuộc với người Á Đông, nhằm tạo sự thông hiểu và cầu nối giữa những nền văn hóa.
Bộ phim ra đời trùng hợp vào thời điểm mà nước Mỹ dường như cũng đang đối diện với vấn đề này. Hoặc đó cũng có thể là thông điệp mà Disney muốn gởi qua bộ phim: nước Mỹ hay thế giới nói chung cần sự tin cậy và đoàn kết với nhau để chống lại đại dịch đang sát hại hàng triệu người trên khắp địa cầu.
Bộ phim cũng tái khẳng định và cổ vũ cho vai trò nữ giới trong xã hội tân thời khi sự lãnh đạo của phụ nữ được ghi nhận đang gia tăng tại Mỹ và nhiều quốc gia trên thế giới. Mặt khác, khi làn sóng tấn công vào người gốc Á đang tăng cao, bộ phim cũng cổ vũ cho sự thông hiểu và chấp nhận những khác biệt, nhìn nhận người khác bằng chính con người họ thay vì bất cứ điều gì khác.
Con đường để Kelly Marie Trần trở thành một "công chúa" Disney không phải là con đường bằng phẳng. Nó tựa như những câu chuyện khác nhau của thế hệ gốc Á tiếp nối mà một số người chỉ nhìn thấy những thành công bề ngoài nhưng không trải qua hay thấu cảm những thử thách nội tại, sự tranh đấu để đi tìm bản thể trong hành trình của các thế hệ sau mình phải đối diện thế nào.
Nhưng bất kể những sự loại trừ hay chối bỏ vẫn hiện diện đó đây, một lớp tài tử gốc Á hay Việt Nam nói riêng đang từng bước tự tin đi vào Hollywood. Tựa như những thế hệ trẻ gốc Á hay gốc Việt nói riêng vẫn tiến bước, gióng lên tiếng nói tự tin và mạnh mẽ của mình.
Giáo sư Nguyễn Quốc Trị và hành trình 'minh oan' cho Phụ chánh Nguyễn Văn Tường
Bầu cử Việt Nam những năm 2000: Vài lời với sự “ngây thơ” của một học giả người Anh- Tác giả Võ văn Quan
Phân tích và bình luận về quá trình bầu cử Việt Nam 2021 là việc làm rất cần thiết, nhưng đôi khi nhìn về quá khứ và hiểu thêm về những kỳ vọng của “người xưa” cũng thú vị không kém.
Các sử gia thường lục lại tư liệu cũ để xem cách mà những người sống trong những năm 1900 tưởng tượng về thế giới những năm 2000. Tương tự như vậy, bài viết này mời bạn cùng nhìn lại cách mà các nhà quan sát tưởng tượng, kỳ vọng, mơ mộng hay dự đoán về tương lai của bầu cử ở Việt Nam. Bằng cách đó, ta có thể đánh giá xem điều gì đúng, điều gì sai, điều gì trở thành vọng tưởng và điều gì trở thành hiện thực.
Nghiên cứu “Party Control: Electoral Campaigning in Vietnam in the Run-up to the May 2002 National Assembly Elections” của Martin Gainsborough (Đại học Bristol, Anh) có thể giúp ta làm việc đó. Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Pacific Affairs năm 2005.
Trước tiên, người viết muốn phân minh rằng chữ “ngây thơ” ở tiêu đề không nhằm tấn công cá nhân Tiến sĩ Martin Gainsborough.
Gainsborough là một trong những chuyên gia người Anh hiếm hoi chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam và Đông Nam Á. Ông hiện làm việc cho Đại học Bristol, một trong những đại học hàng đầu Vương quốc Anh, và là giám đốc dự án Bristol – Mekong. Bạn có thể dùng nhiều tính từ để mô tả kiến thức của Gainsborough về Việt Nam, nhưng trong đó chắc chắn không có “ngây thơ”.
Tuy nhiên, hầu hết các chuyên gia nước ngoài đều có một sự tự tin khó hiểu về chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong trường hợp của Gainsborough khi viết nghiên cứu này cách đây hơn 15 năm, có lẽ sự tự tin đó đã dẫn ông đến sai lầm. Những sai lầm đó, theo người viết, quả là ngây thơ.
***
Năm 2002: Bầu cử “rất bản chất”?
Theo mô tả của Gainsborough trong phần mở đầu, Việt Nam những năm 2002 được xem là một quốc gia “thị trường ngách” (niche market), quá khó để phân loại vào đâu. Cùng với Campuchia, Lào và Myanmar, Việt Nam thường bị bỏ qua trong các nghiên cứu kinh tế – chính trị.
Bầu cử lại càng không phải là một chủ đề thiết yếu. Tác giả cho rằng các nhà quan sát quốc tế tập trung quá nhiều vào đại hội đảng (national congress – để biết thêm từ vựng về đảng cộng sản, mời bạn đọc tham khảo tại đây), nhưng lại bỏ qua bầu cử Quốc hội. Giả thuyết nghiên cứu (hypothesis) của Gainsborough là khá rõ: Bầu cử Quốc hội không nhất thiết phải cố định theo ý muốn của Đảng Cộng sản.
Không chỉ vậy, nền tảng lý luận của ông còn rõ ràng hơn. Ông cho rằng “dân chủ độc đảng” (one-party democracy) là hàng thật, hàng xịn, và cần được đối xử một cách công bằng hơn. Tác giả từ đó chứng minh nhận định này bằng cách phân tích bản chất giao tiếp giữa nhà nước – cử tri và ứng cử viên – cử tri (voters communication).
Luận điểm đầu tiên là không thể lấy giao tiếp giữa cử tri và các ứng cử viên trong nền chính trị châu Âu để làm tiêu chuẩn cho các giao tiếp tương tự ở Việt Nam. Hiển nhiên là phương thức giao tiếp của các nền chính trị châu Âu thì phù hợp với các lý thuyết dân chủ cấp tiến đấy, song các lý thuyết này không hẳn là luôn luôn tốt hơn những gì Đảng Cộng sản Việt Nam theo đuổi.
Đó là một bình luận có phần dũng cảm. Vậy Gainsborough có những luận cứ gì?
Tác giả tập trung vào báo chí địa phương của bốn tỉnh, thành – hai đại diện ở phía Bắc là Hải Phòng và Lào Cai, hai đại diện ở phía Nam là Cần Thơ và Tây Ninh.
Ông lý giải, Hải Phòng và Cần Thơ là hai thành phố chính yếu trong khu vực, có mức sống cao và cư dân thị thành ít nhiều đã tiếp xúc với tư tưởng chính trị phương Tây. Còn Lào Cai và Tây Ninh thì đều là những tỉnh nghèo còn nhiều khó khăn. Không chỉ vậy, Lào Cai và Tây Ninh là hai tỉnh biên giới lần lượt giáp Trung Quốc và Campuchia, hiếm khi va chạm với các luồng tư tưởng phương Tây. Nhờ vậy, mẫu nghiên cứu sẽ bao quát hết được Việt Nam với kinh nghiệm phát triển rất khác nhau.
Gainsborough chia bầu cử Việt Nam thành ba thành tố chính để tìm hiểu:
Thứ nhất là quá trình lựa chọn ứng cử viên. Các ứng viên được chia làm hai nhóm chính là những người được trung ương giới thiệu và những người phải thông qua hội nghị hiệp thương.
Thứ hai là công tác tuyên truyền. Tác giả cho rằng không chỉ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy mới tham gia vào công tác tuyên truyền này, mà còn có nhiều cơ quan tổ chức khác như Sở Văn hóa Thông tin, hội đồng bầu cử địa phương và các hội đoàn khác.
Thứ ba là các buổi gặp mặt giữa ứng cử viên và cử tri. Những buổi gặp mặt này sẽ diễn ra sau khi danh sách ứng cử viên đã được chốt.
Đến đây, chúng ta bắt đầu nghe những lời có cánh của Gainsborough dành cho quá trình bầu cử Việt Nam.
Trước tiên, ông nói về công tác tuyên truyền. Gainsborough nhấn mạnh rằng chính quyền Việt Nam dành rất nhiều thời gian và rất nhiều phương tiện để đưa thông tin đến người dân, và theo ông, đó toàn là thông tin thật và có giá trị cả (factual information – ý nói việc đưa thông tin không nhằm quảng bá cho đảng viên hay Đảng Cộng sản Việt Nam).
Một tỉnh nghèo như Tây Ninh cũng dành đến 30 – 60 phút mỗi ngày để phát loa phóng thanh hay phát sóng truyền hình về việc chuẩn bị bầu cử, quy trình, phương pháp hay thời gian bầu cử.
Theo ông, những thông tin này chỉ mang tính hướng dẫn cử tri, như phải làm gì nếu không thấy tên mình trên danh sách, hoặc số lượng người tham gia cần thiết để một buổi gặp mặt cử tri được pháp luật công nhận. Tác giả cũng khen ngợi trang mạng baucuquochoi.gov.vn vừa được ra mắt lúc đó (trang này không còn tồn tại).
Gainsborough xem xét các bài báo được phát hành cùng thời điểm và rất ấn tượng. Ông cho rằng nhà nước Việt Nam đã nhấn mạnh được vai trò của Quốc hội là một cơ quan đại diện nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Từ đó, thay vì tập trung vào sự đối lập giữa các ứng viên (candidacy rivalry), nhà nước Việt Nam tập trung vào việc phổ biến mối quan hệ thắm thiết giữa nhà nước và nhân dân thông qua Quốc hội.
Tình trạng giao tiếp cử tri – ứng cử viên cũng được Gainsborough bảo vệ.
Các buổi gặp mặt cử tri do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, thường kéo dài khoảng từ hai đến ba tiếng. Trong đó, các ứng cử viên lần lượt được giới thiệu và có 15 phút trình bày chương trình hành động của mình. Sau đó, họ sẽ trực tiếp trao đổi với cử tri.
Tác giả ghi nhận, dù không có nhiều trao đổi kiểu chất vấn, những cuộc gặp này đều có động chạm đến các vấn đề “cốt lõi” như giáo dục, học phí, tình trạng nghiện ngập và vấn đề mại dâm…
Chẳng hạn, một ứng cử viên ở Hải Phòng kêu gọi bầu chọn cho mình vì ông này là một nhà khoa học, và ông sẽ đóng vai trò cầu nối phát triển giữa cộng đồng và các chính sách khoa học công nghệ.
Một ứng cử viên ở Tây Ninh thì nói rằng nếu được bầu, ông sẽ giúp giải quyết tình trạng nhiều nông dân của tỉnh này không thể vay vốn từ các ngân hàng chính sách hoặc Ngân hàng Phát triển Nông thôn vì các lo ngại về giấy tờ đất.
Hay bà Nguyễn Thị Hằng, tại thời điểm đó là Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và thuộc khu vực bầu cử Hải Phòng, dùng kinh nghiệm quản lý của mình để lập chương trình hành động liên quan đến các vấn đề cải cách tiền lương, lao động và giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp.
Không chỉ ghi nhận các lời hứa khi vận động tranh cử của các ứng viên, Gainsborough còn cho rằng không thể đánh giá hệ thống bầu cử Việt Nam thông qua khả năng thực thi các lời hứa này, vì chính trị gia thất hứa với cử tri thì xứ nào cũng có.
Khi cân nhắc số liệu kết quả bầu cử, bản thân tác giả thừa nhận rằng tất cả các vị trí do trung ương giới thiệu đều trúng cử, tất cả các ứng cử viên thuộc nhóm quân đội hay công an cũng đều trúng cử.
Trong khi đó, hầu hết những ứng cử viên tự ứng cử thuộc nhóm giáo viên, chức sắc tôn giáo của Hội thánh Cao Đài Tây Ninh, hay một vài thương nhân… đều không được chọn vào Quốc hội, dù họ đã qua được vòng hiệp thương.
Với những thông tin như vậy, bằng cách thần kỳ nào đó, Tiến sĩ Gainsborough cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam có rất ít ảnh hưởng đến quá trình bầu cử. Phương tiện truyền thông khi đưa thông tin về ứng cử viên đều rất… công bằng, không thiên vị.
Trải lòng với Gainsborough
Sau khi đọc xong nghiên cứu, người viết không biết vị Reader (từ chỉ một nhà nghiên cứu danh tiếng với học hàm tương đương phó giáo sư) đến từ Bristol có còn theo dõi các cuộc bầu cử Quốc hội gần đây, và những hiện thực hài hước xảy ra sau các cuộc bầu cử đó hay không. Từ năm 2005 đến nay, Gainsborough không có nghiên cứu nào cụ thể hơn về bầu cử Quốc hội Việt Nam. Liệu ông có thay đổi tâm ý vì đã nhận thấy cái sai của mình? Hay ông vẫn giữ các quan điểm mình đưa ra trong bài viết hơn 15 năm tuổi này.
Người viết đặt ra những câu hỏi trên vì hệ thống pháp luật và nguyên tắc vận hành của hệ thống bầu cử Việt Nam gần như không có thay đổi gì lớn suốt 20 năm qua. Vẫn ứng cử viên từ trung ương, vẫn hiệp thương, vẫn mặt trận…
Nếu ông cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam tôn trọng và không có ảnh hưởng gì nhiều đến kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử Quốc hội, ông nên đọc bài viết về trường hợp của Đỗ Văn Đương. Một cựu quan chức tư pháp vì phát ngôn hàm hồ mà trượt Quốc hội, song vẫn nghiễm nhiên chiếm ghế phó ban Dân nguyện của chính Quốc hội, theo nguyện vọng của Đảng Cộng sản.
Nếu ông cho rằng sự đa dạng của các cơ quan, tổ chức chính trị – xã hội làm nên sự “công bằng” của cuộc bầu cử, ông nên xem ngân sách nhà nước chi ra cho các cơ quan, tổ chức, vốn đều nằm dưới “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, khi tham gia vào quá trình bầu cử là bao nhiêu.
Nếu ông cho rằng việc truyền thông trong bầu cử là vô cùng “chí công vô tư”, ông nên xem tỉ lệ danh sách bầu cử có bao nhiêu phần trăm là từ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt xuống, bao nhiêu phần trăm là người địa phương, và bao nhiêu người địa phương là hoàn toàn độc lập.
Nếu ông cho rằng các buổi gặp mặt cử tri là “thiết thực” và “thẳng thắn”, ông nên tìm cách gặp mặt vài cử tri độc lập thật sự để nghe về việc họ đã bị đấu tố và trù dập trong các buổi hiệp thương ra sao.
Sau bấy nhiêu chữ nếu đó, nếu tác giả vẫn còn giữ những quan điểm của mình trong nghiên cứu này, thì chữ “ngây thơ” đầu bài thật không sai vào đâu được.
Gia Định Xưa
Khi dì Út tôi về làm dâu ở làng Bình Hòa, bà ngoại tôi dặn: “Bình Hòa là tỉnh lỵ của tỉnh Gia Định, con người đàng hoàng lịch sự, con phải nhớ luôn giữ lễ nghĩa”.
Hơn sáu mươi năm qua, dì tôi vẫn còn sống ở đó nhưng cái tên Gia Định không còn là địa danh chính thức và cái tên Bình Hòa chỉ còn trong trí nhớ của người cố cựu ở đây.
Dì tôi bảo bây giờ lên taxi nói: “Về ngã tư Bình Hòa”, không phải tài xế nào cũng biết. Đó là nơi giao nhau giữa hai đường Nơ Trang Long (trước 1975 là Nguyễn Văn Học) - Lê Quang Định ở quận Bình Thạnh, TP.HCM. Thời xưa, người ta còn gọi ngã tư Bình Hòa là ngã tư thầy Sóc (gọi trại tên ông Nguyễn Văn Sách, làm chức thị lang thời Tự Đức, khi Pháp chiếm Nam kỳ ông không ra làm việc cho Tây, ở nhà mở phòng khám Đông y lấy tên Thảo Xuân Đường). Thầy Sóc là người nhà của ông bang biện Chỏi, một người có uy tín ở làng Bình Hòa xưa.
Quanh ngã tư Bình Hòa vẫn còn ba quán ăn lâu năm là quán cơm tấm bao tử Đông Hoa Xuân, quán mì Minh Sanh trên đường Nơ Trang Long và quán hủ tíu Đạt Phong trên đường Phan Văn Trị. Cả ba quán còn giữ được vị ngon không khác lắm so với năm, sáu chục năm trước. Mấy ông Việt kiều gốc Gia Định mỗi lần về chơi đều rủ nhau ra ăn đủ ba quán để nhớ lại thời tuổi trẻ của mình. Họ nhắc đến trường Vẽ Gia Định, trường Nữ công Gia Định. Họ tự hào vì Bình Hòa là quê của bà Lê Thị Ngọc, chủ chuỗi nhà hàng Đức Thành Hưng tới 9 cái cạnh tranh ngon lành với hệ thống tiệm nước của người Hoa từ thập niên 1930. Bình Hòa cũng là quê họa sĩ Nguyễn Văn Minh, người thực hiện bức sơn mài cực lớn Bình Ngô đại cáo trong Dinh Độc Lập. Còn là quê của hai họa sĩ tranh lụa nổi tiếng Tố Oanh, Tố Phượng. Cụ Vương Hồng Sển cũng chọn vùng đất này làm quê hương.
Thập niên 1940, ngã tư Bình Hòa tuy nhỏ nhưng rất nhộn nhịp nhờ có ga xe điện. Chung quanh ga có nhiều tiệm nước bán bánh bao, bán cà phê, xíu mại. Ngoài ra còn có tiệm hớt tóc, tiệm may, tiệm sửa xe đạp... và nhiều hàng rong. Buổi sáng có xe ngựa chở hàng bông, chở cá từ miệt Bà Điểm - Hóc Môn, Gò Vấp xuống chợ Bà Chiểu bỏ mối.
Dì Út đang sống ở hẻm Ba Cây Sao số 104 Nơ Trang Long (lúc đó đường có tên route Federale numero 1- đường Liên bang số 1) kể cho đến năm 1961, khi dì về làm dâu nhà ông Tư Trường (là con ông bang biện Chỏi), còn thấy dấu vết đường xe điện chôn dưới đất ngay ngã tư này. Chung quanh còn nhiều cây me, cây thị xanh um. Ngay góc ngã tư có cái bót cảnh sát (nhà ga xe điện cũ).
Ba chồng dì Út, ông Tư Trường, sinh tiền được người dân quanh ngã tư Bình Hòa quý mến, thỉnh thoảng vẫn được nhắc trong những ngày giỗ chạp. Nhà khá giả, mỗi ngày ông tự lái chiếc xe hơi hiệu Traction đen to đùng đi làm ở Tòa Hành chánh tỉnh Gia Định - dân quanh vùng quen gọi là Tòa Bố. Ông là thư ký Ty Hành chánh, là thành viên của Ủy ban Vệ sinh tỉnh lo việc cấp giấy phép kinh doanh trong tỉnh Gia Định. Dân làm ăn buôn bán đều cậy nhờ ông khi cần mở tiệm, mở cơ sở buôn bán.
Tuy có quyền thế nhưng tính ông hào sảng, chỉ ham săn bắn. Năm nào cũng vậy, đến Tết là có người từng được ông giúp đỡ tìm đến để biếu quà. Hôm nào có ở nhà, ông ra đứng trước cửa, mắng sa sả: “Tui đã nói là tui không lấy!” rồi bắt mang về. Có người đợi ông ra sau nhà thì đem bỏ đại vô con hẻm sát vách. Nói cho cùng, đây là những món quà Tết thông thường như lạp xưởng, vịt lạp, gà vịt sống, bánh pía, trà… chứ không phải cao lương mỹ vị gì, nhưng tính ông Trường là vậy.
Cũng có người mang đến khi ông đi vắng, một trong hai bà vợ của ông thương tình nhận giúp là thế nào cũng bị ông la tắt bếp. Đến tuổi gần sáu mươi, ông Tư Trường đổi chiếc Traction lấy chiếc xe Jeep để đi săn cùng bạn. Nhóm săn của ông, đa số làm nhà nước, có người sống trong ngôi biệt thự cổ họ Lê số 237 Nơ Trang Long (đã bị đập hoàn toàn năm 2018), vác súng đi săn miệt An Lộc, Bình Long, Sông Bé… Thỉnh thoảng hàng xóm lại thấy chiếc Jeep phủ đầy bụi đỏ của ông trở về, lấp ló đôi chân thú săn được. Về nhà, vợ con ông đem xả thịt, cho hàng xóm một mớ, mớ còn lại xào lăn, cuốn lá lốt, nấu súp cho cả nhà ăn hay xẻ khô để ông nhậu với bạn. Tuy vậy, phụ nữ trong nhà có mấy lần khuyên ông đừng đi săn nữa vì “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, nhưng ông mê quá không bỏ được.
Bình Hòa là chốn êm đềm nhưng nằm trên con đường lưu thông quan trọng từ Bắc xuống Nam tỉnh Gia Định nên có khi đứng giữa các cuộc giao tranh trước 1975. Tết Mậu Thân năm 1968, dì Út từ Phú Nhuận ẵm con gái về chơi nhà ba má chồng thì xảy ra chiến sự, có lệnh giới nghiêm. Mấy người dân chạy từ cầu Băng Ky xuống tới đó sợ quá ùa vô nhà, xin chui xuống gầm hai bộ ván gõ để tránh đạn lạc. Mấy đứa nhỏ trong nhà cũng chui xuống ván, chỉ có ba chồng dì tỉnh bơ đi lại trong nhà. Ông quát mấy đứa nhỏ, chui vô gầm ván mà còn để… mông ló ra ngoài.
Khi tiếng súng im, dì Út ra ngoài ngồi bên cái bàn chỗ cửa thông ra sân sau, dỗ cho con ăn, vừa lo cho mấy đứa con đang ở nhà, thì một viên đạn từ trên trời rớt xuống ngay trước mặt dì, chỉ cách một tấc. Dì quyết định về nhà. Cô em chồng dùng xe Honda chở hai mẹ con chạy luồn trong các con hẻm, từ Bình Hòa qua xóm Gà, về ngã tư Phú Nhuận rồi liều băng qua đường Võ Di Nguy vắng ngắt để vô hẻm nhà dì trên đường Nguyễn Minh Chiếu. Xong cô em vội vã quay xe, lại luồn mấy hẻm về nhà. May mà không ai bị gì.
Năm 1972, khi thằng Tý, cháu nội mới sinh vài tuần, ông Tư Trường bảo: “Tui đi săn kiếm con nai ăn đầy tháng thằng Tý!”. Rủ hai người con không ai chịu đi, ông và mấy người bạn leo lên xe Jeep lên đường và cả xe mất tích luôn đến giờ.
Khu ngã tư Bình Hòa đến nay vẫn còn mấy căn nhà cổ. Nhà ông Sang, chuẩn tướng không quân thời trước nằm ngay mặt tiền đường Nơ Trang Long, ló ra trên hàng rào xi măng là mái ngói rêu phong, nghe nói bên trong cũng đã hư hao nhiều. Nhà ông Tư Trường nhờ xây lại tường, tu sửa thường xuyên nên còn vững chắc, vẫn còn dãy nhà ngang phía sau nhưng sân đã thu hẹp vì cất thêm nhà ở cho con cháu trong họ.
Nhà ông Mười Hai sâu trong hẻm Ba Cây Sao, có một cổng ngó ra nghĩa trang gia đình họ Nguyễn còn nguyên trong khu vườn đầy tiếng chim và tiếng gà rúc (ông Vương Hồng Sển viết trong sách là có lần đi ngang nghĩa trang này, có thấy trồng một loại bông vàng mà ông tưởng là bông điên điển). Còn nhà bà Năm Hồ vẫn giữ được cái sân rộng, ngôi nhà gỗ ba gian bên trái vẫn còn và phía bên phải là ngôi nhà mới xây khang trang. Cái sân nhà này khá đẹp, không có gì thay đổi sau hơn nửa thế kỷ tồn tại.
Ngã tư Bình Hòa đi về hướng Thủ Đức khoảng hơn trăm mét sẽ tới ngã năm Bình Hòa. Trong cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, nhà văn Nguyễn Vỹ kể sau khi di cư vào Nam năm 1954, nhà viết kịch Vi Huyền Đắc cùng gia đình sống trong căn nhà tĩnh mịch, giữa một cảnh trí nên thơ ở ngã năm Bình Hòa mà ông đặt tên là Hoàng Mai Hiên. Nhà chỉ hai vợ chồng và một u già. Ông Vi Huyền Đắc dịch truyện Tàu cho vài tờ báo, vợ làm cô giáo đi dạy ở trường tiểu học Đa Kao. Họ bỏ lại ngôi biệt thự ở bến Hạ Lý ngoài Hải Phòng để sống đơn sơ như vậy. Ngã năm Bình Hòa là nơi có năm trục lộ đi ra nhiều ngã, trong đó có quốc lộ số 1 đi đến các tỉnh miền Đông và miền Trung. Ngôi nhà họa sĩ Nguyễn Hoàng Hoanh nằm trong hẻm nhỏ gần đó, khiêm tốn như gia chủ, người từng được giải thưởng hội họa quốc gia năm 1972 với bức tranh Khởi nghĩa.
Vài người quanh khu Bình Hòa còn nhắc lại chuyện đánh Pháp trong khu Đồng Ông Cộ gần đó; câu chuyện huyền hoặc về hồn ma cô Ba Trâm, một thiếu nữ chết oan ức sau trường Vẽ Gia Định thập niên 1920, thỉnh thoảng xõa tóc đứng xin quá giang xe ngựa rồi trả tiền giấy sau biến thành lá tre; chuyện học trò trường Vẽ bãi khóa thập niên 1930 vì bất đồng với cô giáo Lê Thị Lựu....
Đất xưa, dù không quá cổ kính nhưng cũng đủ thấm đậm những chuyện huyền hoặc của thời Tả quân cai trị, thời xe ngựa lóc cóc đưa người sành điệu lên Bà Chiểu ăn cơm và nghe hát đờn ca tài tử ở quán Đức Thành Hưng hồi thập niên 1940.
Với tôi, ngã tư Bình Hòa là một vùng đất sang trọng, với khá nhiều nhà xưa từ thập niên 1930 nằm giữa vườn cây xanh um, vẫn giữ được chất Gia Định xưa mà người ở lâu nơi này mới đủ tinh tế nhận ra trong giọng nói, hương vị tô mì hoành thánh và mấy món ăn quen thuộc Nam bộ trong mâm cơm cúng ngày giỗ Tết.
How do Vietnam and the broader Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) navigate the pressure to choose sides in the U.S.-China rivalry? What are the main challenges for Vietnam’s national security and economy as it seeks rapid growth and development? For a perspective on these matters, Jongsoo Lee interviewed Le Hong Hiep, fellow in the Vietnam Studies Program and the Regional Strategic and Political Studies Program at the ISEAS-Yusof Ishak Institute, Singapore. How would you assess the prospects for ASEAN becoming more like the European Union in developing a common foreign policy? In what areas do ASEAN member states want to achieve deeper integration? ASEAN member states have little appetite for turning ASEAN into a supra-national body like the EU due to their obsession with national sovereignty. Brexit further reinforces their conviction. Therefore, even as ASEAN integration accelerates with the establishment of the ASEAN Community in 2015, there are limits to how far ASEAN can go in this regard. So far, economic integration remains its priority, while political and security integration, including the development of a common foreign policy, remains an elusive process. The common goal is to utilize ASEAN-led mechanisms to maintain regional peace and stability, as well as ASEAN Centrality. We should be realistic here because even efforts to forge an intra-ASEAN consensus on certain regional political and security issues have proven futile. However, it’s true that if ASEAN really wants to play a bigger and more substantive role in regional security affairs, having a common foreign policy will be essential for the grouping. Many nations face a dilemma as they are caught in the rivalry between the United States and China and come under pressure to choose sides. Is there a consensus within ASEAN on how ASEAN as a whole should relate to the United States and China? Or do individual ASEAN member states pursue their own interests and policies? ASEAN and individual member states would not want to choose sides. There is generally a consensus that ASEAN and its members should maintain a neutral stance so that they can benefit from their relationships with both great powers. However, if the U.S.-China rivalry intensifies to the point that they will force regional countries to choose sides, individual countries will have to do whatever is relevant to protect their national interests. However, my view is that, as U.S.- China competition is more about strategic rather than ideological interests, they will not try — at least in the next 10 to 20 years — to force regional countries to align themselves with rigid blocs like in the Cold War. 2 How does Vietnam pursue its interests as it finds itself caught in the China-U.S. rivalry? As Hanoi pursues a strategic partnership with the U.S., what can it do to reassure Beijing that it is not leaning unacceptably close to Washington? Like its ASEAN peers, Vietnam also wants to maintain a balance between the two powers. However, due to China’s aggression in the South China Sea, Vietnam has been trying to strengthen strategic ties with the U.S. and other major powers to balance against China’s pressures. But Vietnam has been prudent, only doing so slowly and quietly. China may not feel comfortable if Vietnam pursues stronger security ties with the U.S. and its allies, but it is China’s aggressive behaviors in the South China Sea that have pushed Vietnam into this course of action. China should adjust its approach or risk pushing Vietnam and other regional countries further toward the United States. To counter China in the South China Sea, which nations other than the U.S. can be helpful to Vietnam? Vietnam is diversifying its strategic relations and trying not to rely on any single partner to counter China in the South China Sea. By 2020, Vietnam had established three comprehensive strategic partnerships, 14 strategic partnerships, and 13 comprehensive partnerships with different countries, many of whom have strong interests in the South China Sea. All of them are important to Vietnam’s South China Sea policy in different ways. However, in terms of maritime capacity building and pushing back against China’s aggression in the South China Sea, Japan, India, Australia, the U.K., France and Germany, among others, appear to be more important to Vietnam than other partners. Other than the South China Sea, what are the main challenges for Vietnam’s national security? What are the chief sources of tension with its neighbors? How can these tensions be resolved? The South China Sea dispute is currently the most serious national security challenge for Vietnam due to China’s increasing assertiveness there over the past 10 years. Managing the land border with China, Laos, and Cambodia used to be a significant challenge for Vietnam as well, but as these borders have been demarcated, they no longer present major problems. However, border issues with Cambodia may flare up again if there are significant political changes in Cambodia and anti-Vietnam sentiments are stoked up by certain Cambodian politicians to serve their domestic agenda. In recent years, the Mekong River is also gaining increasing prominence as a security challenge for Vietnam, especially from a non-traditional security perspective. Domestically, maintaining political stability, especially in the Northwest and the Central Highlands, is another security challenge. However, so far, the Vietnamese government has been rather successful in handling it. As Vietnam seeks rapid economic growth and development, is China’s continuing economic ascendancy a boon or a detriment to Vietnam? China’s economic rise is both a boon and a bane to Vietnam. As both countries have similar political systems, China’s economic reforms offer useful lessons for Vietnamese policymakers. Vietnam’s decision to open up the economy in 1986 was partly influenced by China’s similar decision eight years earlier. More importantly, like many other countries, Vietnam benefits from trade and investment ties with China. China is currently Vietnam’s largest trading partner, with two-way trade turnover reaching $133 billion in 2020. China is also the seventh largest foreign 3 investor in Vietnam. With China projected to maintain robust economic growth in the coming years, bilateral trade and investment ties will continue to strengthen. Such mutually beneficial economic ties tend to discourage the two sides from taking actions that may disrupt their economic exchanges. However, as China translates its growing economic power into military might, the northern giant presents an increasingly formidable security challenge for Vietnam. China’s expanding military power in the South China Sea is a primary example. Vietnam has no choice but to live with this fact, trying to maintain bilateral economic ties while standing up to China in the South China Sea when it must. Has the China-U.S. rivalry led foreign firms to relocate their operations from China to Vietnam for supply chain diversification? In what ways has this rivalry been a gain to Vietnam’s economy? Many investors have been diversifying their manufacturing base away from China for some time, and the intensified U.S.-China rivalry only accelerated this trend. Vietnam stands to benefit from this trend as many investors have decided to relocate part of the operations to Vietnam due to certain factors, such as Vietnam’s geographical proximity to China, political stability, relatively young and inexpensive work force, improving infrastructure, as well as Vietnam’s rather strong economic fundamentals and investment incentives offered by the Vietnamese government. However, Vietnam also has to compete with other countries for such investors, especially in the high-tech sector. The challenge is for Vietnam to quickly upgrade the infrastructure and the workforce to meet the increasing demands, and to deal with certain unintended consequences, such as Vietnam’s increasing dependence on foreign investment and export, and its widening trade surplus with the U.S. due to its expanded manufacturing base and export capacity. How can the U.S., EU, and others such as Japan and South Korea increase their economic ties with Vietnam in ways that can promote Vietnam’s growth and diversify its sources of capital, technology and know-how? Vietnam is one of the most open economies in Asia in terms of the trade-to-GDP ratio (around 200 percent), only behind Hong Kong and Singapore. This is partly because Vietnam has long emphasized the strategy of diversifying its economic partners. So far, it has concluded 17 free trade agreements (FTAs) and various investment pacts, including with Japan, South Korea, and the EU. The most recent one is the Vietnam-U.K. FTA signed on December 29, 2020. These important trade and investment ties have enabled Vietnam to sustain a rather strong economic performance and reduce its economic reliance on China. Although the openness may expose Vietnam to certain vulnerabilities, so far this strategy has worked well for the country. For example, Vietnam’s economy grew 2.9 percent in 2020 despite the COVID-19 pandemic partly thanks to the improved export performance and sustained investment inflows facilitated by such agreements. Vietnam recently went through a leadership transition. How would you assess the prospects for Vietnam to implement the political and socioeconomic reforms necessary for achieving its development goals? Vietnam aims to become an upper-middle-income economy by 2030 and a high-income economy by 2045. This means that the next 10 years are crucial for Vietnam. It remains to be seen how well the new leadership will implement the country’s socioeconomic development plans, but at least setting such ambitious goals means that they have no choice but to continue pursuing further economic reforms to bring their plans to fruition. Politically, certain reforms 4 may also be explored, but mainly to streamline and increase the efficiency of the political system, not to democratize it. Vietnamese leaders believe that political stability is a precondition for economic development, and they will not tolerate any developments that may destabilize the political system. Their conviction is further strengthened by recent developments in the region, such as the coup in Myanmar last month. As such, Vietnam will likely become a further liberalized economy in the coming decades, but, politically, it will remain more or less the same
CẢI TẠO NGƯỢC
Mặc Lâm: Trong lúc tiếp xúc với Hồng Y, ông có cảm nhận ra sao về Ngài dưới cái nhìn của một sĩ quan công an và nhất là công an chống phản động như ông vừa cho biết ạ?
* Có lúc Chúa dùng giáo dân để dạy tôi cầu nguyện.*
* Ðức Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện.*
Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”. Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v…
Bài Thơ Xưa Và Người Học Trò Củ- Tác giả Trịnh Thị Minh