khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021

Tướng Về Hưu - Tác giả Nguyễn Huy Thiệp

 

I
Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình.
Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh.
Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ thạo việc xây doanh trại.
Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng.
Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu tuổi), vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng.
Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông bảo: “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi! Tôi bảo: “Vâng”. Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo: “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình.
II
Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi ba mươi bẩy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: ”Cháu chẳng ăn thế bao giờ”. Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng.
III
Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình. Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: ”Không!” Vợ tôi bảo: ”Cha nuôi vẹt xem. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt”. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!” Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười: “Cha bình quân! ”Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: ”Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi: ”Có chuyện gì thế?” Ông bảo: “Ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo: “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo: “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”. Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ: Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v… Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậ u v.v…“. Cha viết như thế được không?” Tôi bảo: “Được”. Vợ tôi bảo: ”Không được!” Cha tôi gãi cằm: ”Người ta nhờ mình”.
Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ quốc phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái.
Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.
IV
Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là “hoa nhài cắm bãi cứt trâu”. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược. Ông Bổng rất ức, ông nói: “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi: “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là “môn đăng hộ đôí “. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì”. Cha tôi bằng lòng.
Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phụ rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp:
Ù ê cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta
Ù… e… cái con gà rù…
Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng nhừng ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc Beatles và Abba. Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt.
Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì Cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ.
V
Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: ”Cha muốn nói chuyện với con”. Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi: ”Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn”.
Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi di vào nói với ông Cơ: “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!” Ông Cơ bảo: ”Cháu quên, cháu xin lỗi mợ”.
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo: “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn”. Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo: ”Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây”. Tôi hỏi: “Về đâu?” Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tắc xi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một ngày. Ông này vừa đi công tác ở Ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao.
Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ chồng tôi: “Cháu xin cậu mợ một việc”. Vợ tôi hỏi: “Việc gì?” ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt. Nghĩa tử là nghĩa tận”. Ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Vợ tôi cắt lời: “Thế bao giờ đi?” ông Cơ gãi đầu: “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết”. Vợ tôi tính: “Được. Anh Thuần này (Thuần là tên tôi), anh có nghỉ phép được không? Tôi bảo: “Được”. Ông Cơ bảo: “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như đi du lịch”. Vợ tôi bảo: “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?” Ông Cơ bảo: “Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu". Vợ tôi hỏi: “Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?” Ông Cơ bảo: “Cháu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là năm”. Vợ tôi bảo: “Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi được”.
Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu: “Chị Lài xinh nhất”. Cô Lài cười thỏn thẻn: “Chả phải. Mợ mới xinh nhất”. Vợ tôi bảo: “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu xe”. Cha tôi bảo: “Hay thôi không đi?” ông Cơ giãy nảy: “Chết, cháu đã điện rồi: Mang tiếng chết”. Cha tôi thở dài: “Tôi có tiếng gì mà mang?”
VI
Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào sáng chủ nhật. Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch, vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi. Thủy bảo: “Mẹ già rồi”. Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ ra.
Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn. ăn được cơm. Tôi bảo: ”Mừng rồi”. Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc. Tôi hỏi: “Chuẩn bị à?” Vợ tôi bảo: “Không”. Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo: "Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ”. Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo: “Tùy anh". Ông Bổng sang thăm. Ông nói: "Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!" Lại hỏi: "Chị ơi, chị có nhận ra em không?". Mẹ tôi bảo: ”Có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo: “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi.
VII
Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất. Ông Cơ và cô Lài nói: “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất”. Vợ tôi bảo: “Nói nhảm”. Cô Lài khóc: “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?” ông Bổng cười: “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván". Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng: “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?” Ông Bổng bảo: "Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, 'đòm' phát là sướng”.
Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc quát: “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?” Ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân?” Tôi bảo: “Bốn phân”. Ông Bổng bảo: “Mất mẹ bộ xa lông Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn. Ông Bổng bảo: “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi: “Mấy cân gạo hả chú?” Ông Bổng bảo: “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân!” Vợ tôi bảo tôi: “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”.
Ông Bổng hỏi tôi: “Nhà này ai chủ trì kinh tê?” Tôi bảo: “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo: “Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế”. Tôi bảo: “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo: “Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé”. Tôi bảo: "Ông để con”. Ông Bổng bảo: “Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?” Tôi bảo: “Mười mâm”. Ông Bổng bảo: “Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm”. Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo: "Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm”. Tôi bảo: “Ông Bổng cầm bốn nghìn rồi”. Vợ tôi bảo: “Buồn anh lắm”. Tôi bảo: “Anh đòi lại nhé”. Vợ tôi bảo: “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo".
Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo: "Để đi đò”. Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo: “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc”.
Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: "Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó”. Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi. Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phẫi trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?” Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố”. Tôi khóc: “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín”. Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa.
VIII
Từ nhà tôi ra nghĩa địa đi tắt chỉ năm trăm mét nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói: “Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối”. Ông Bổng bảo: “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm”. Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ, cha đưa mẹ đón. Ông Bổng bảo: “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó”. Cha tôi bảo: “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?” Ông Bổng nín bặt, lại khóc: “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi… “. Tôi nghĩ:
“Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều đã đánh lửa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?”
Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi: “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt. Đến tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc: “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?… ”. Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo. Cô Lài lại khóc: “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?” Vợ tôi bảo: “Đừng khóc". Tôi cáu: “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu?" Vợ tôi bảo: “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?” Tôi bảo: ”Sát". Ông Bổng bảo: “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?” Cha tôi bảo: “Bùa con khỉ. Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này”. Ông Bổng bảo: “Thế là sướng, 'đòm' phát là xong”. Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò.
IX
Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh đại úy cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn. Ông Chưởng hỏi cha tôi: “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón”. Cha tôi bảo: "Được”. Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi: “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm”. Cha tôi bảo: “Con tôi làm đấy”. Tôi bảo: “Đấy là vợ cháu”. Vợ tôi bảo: “Cô Lài chứ!” Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này đầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh: “Chả phải”. Cha tôi đùa: “Thế thì do mô hình V.A.C“. Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi: "Thằng Tuân có thư từ gì không?” Kim Chi bảo: “Không”. Cha tôi bảo: “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa”. Vợ tôi bảo: “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết”. Kim Chi ngượng. Tôi bảo: “Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật”. Kim Chi khóc: “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm. Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan”. Vợ tôi bảo: “Tôi còn hai con gái cơ”. Tôi bảo: “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?” Cha tôi bảo: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục”. Vợ tôi bảo: ”Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”.
X
Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo: “Thơ siêu nhất”. Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo: “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?” Tôi lắc đầu. Vợ tôi bảo: “Anh già rồi”. Bất giác tôi thoáng rùng mình. Một hôm bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng, ông bảo: “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá”. Tôi bảo: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?” Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi: “Ông anh ơi, có đi chơi không?” Tôi lắc đầu. Khổng có ý tránh mặt tôi. Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi: “Cháu đánh nó nhé?” Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ: “Thôi”. Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi? Cha tôi bảo: “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình". Tôi bảo: “Không phải, cuộc đời nhiều trò dùa lắm”. Cha tôi bảo: “Anh cho là trò đùa à?” Tôi bảo: “Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng”. Cha tôi bảo: “Sao tôi cứ như lạc loài?" Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi: “Anh đi nhé?” Vợ tôi bảo: “Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi”. Vợ tôi òa khóc: “Em thật có lỗi với anh, với con”. Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng: “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?”
XI
Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư viết: “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép”. Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi không nghe, ông bảo: “Cho vào ba lô”. Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia dá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại gọi cô Lài dến bảo: “Cháu lấy chồng đi”. Cô Lài òa khóc: “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa”. Cha tôi nghẹn ngào: "Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?” Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là điềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo: “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi: “Ông đi ra trận hả ông?” Cha tôi bảo: “Ừ”. Cái Vi hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?” Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”
XII
Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao (vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi), bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng thích lắm: “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao rnột chum”. Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo: ”Chắc còn nữa”. Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát. Ông Bổng bảo: “Thôi chết, tao nhớ ra rồi. Ngày xưa tao với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao”. Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”. Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuở nào. Ông Bổng bảo: “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ”. Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ: “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình”. Khổng bảo: “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!”
XIII
Điện của ông Chưởng: “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày”. Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy. Vợ tôi bảo: “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại”. Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo: ”Chúng tôi có lỗi đối với gia đình”. Tôi bảo: "Không phải thế. Đời người có mệnh”. Ông Chưởng bảo: “Cha anh là người đáng trọng”. Tôi hỏi: “Theo nghi lễ quân đội hả chú?” Ông Chưởng bảo: "Cụ ra trận địa, đòi lên chốt”. Tôi bảo: ”Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa”. Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người.
Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm. Ông bảo: ”Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo: “Tại chú quen đấy. Ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo: ”Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù!”
XIV
Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi.
Tôi xin cảm tạ.

Cambodian American Doctor Dies of COVID During First Vaccine Rollout





Anti-Asian violence in the US: 'He slashed me from cheek-to-cheek'





‘I Shouted For Help, But Nobody Helped Me’: Asian Americans Are Under Attack





Gọi Putin là “kẻ sát nhân”, Biden bỏ "chính sách làm lại từ đầu" trong quan hệ với Nga ?





Biden có ý gì khi cùng lúc gay gắt với Nga và Trung Quốc ?





“Liên Minh Trà Sữa”: Giới trẻ Châu Á ủng hộ phong trào chống đảo chính tại Miến Điện





Enya - Nghệ sỹ bí ẩn dòng nhạc New Age





Ngoại giao “chiến lang” Trung Quốc bị phản đòn từ Mỹ tại Alaska





Đại chiến thế giới lần 3 sẽ khởi động giữa Mỹ và Trung Quốc trên Biển Đông ?





Thứ Tư, 17 tháng 3, 2021

Cha “thất sủng”, nhưng vì sao Phạm Bình Minh lại thăng tiến? - Source Thời Báo(Đức)

 

Phạm Bình Minh, sang nhiệm kỳ thứ 2 làm ủy viên Bộ Chính Trị đã nắm chức phó thủ tướng thường trực. Trong các phó thủ tướng, nếu không có gì đột biến thì chiếc ghế thủ tướng cho nhiệm kỳ 2026-2031 sẽ là của Phạm Bình Minh. Rất Thuận Lợi.

        Cho tới nay, Phạm Bình Minh là thái tử đảng có lý lịch minh bạch mà tiến thân cao nhất trong bộ máy chính quyền CS. Đến con ông Lê Duẩn, con ông Lê Đức Anh còn chưa tiến thân cao đến thế.

Từ xưa đến nay, để tiến thân cao hầu hết là những thái tử đảng có lý lịch mơ hồ thôi như ông Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Tấn Dũng, bà Nguyễn Thị Kim Ngân và mới đây là ông Võ Văn Thưởng.

Trước ông Phạm Bình Minh thì thái tử đảng có lí lịch minh bạch thường tiến không cao, ví dụ như Nguyễn Chí Vịnh, Lê Mạnh Hà, Nguyễn Xuan Anh vv… vì sao có những trường hợp trớ trêu như vậy?

Bởi đơn giản lý lịch ngầm thừng là được cha mẹ thật gởi gắm cho một ai đó. Và chỉ người đó biết và nâng đỡ. Lý lịch ngầm của những thái tử đảng không được ghi ra giấy trắng mực đen nên không bị soi xét kỹ. Ví dụ như sự tiến thân của ông Nguyễn Tấn Dũng là do bàn tay ông Võ Văn Kiệt và ông Lê Đức Anh. Trong lý lịch công khai, người ta ghi cha của ông Nguyễn Tấn Dũng là người tên Nguyễn Tấn Thủ nào đó, một nhân vật vô danh. Tuy nhiên nhận vật vô danh đó lại gởi gắm tương lai con mình cho cả ông Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh chăm sóc? Thấy vô lý không?

Khi có một lý lịch ngầm như vậy thì Nguyễn Tấn Dũng sẽ né được bàn tay đối thủ cha mình đì. Trong khi đó những nhân vật mà nhận lời gởi gắm cứ nâng đỡ và Nguyễn Tấn Dũng đã tiến thân không ai cản nổi là vậy. Nguyễn Tấn Dũng có lí lịch mơ hồ, nhưng ông lại tiến thân nhanh hơn cả con trai ông sau này. Nguyễn Thanh Nghị có lý lịch công khai, nhưng khổ nỗi, ông Dũng bị ông Trọng xem là cái gai nên ông Trọng đổ hết những sự bực tức đó lên đầu cậu con. Thế là Nguyễn Thanh Nghị tiến thân cứ trầy trật, đến giờ vẫn chưa và Bộ Chính Trị.

Nguyễn Thanh Nghị thì có tiến sĩ tại Hoa Kỳ, còn Nguyễn Tấn Dũng thì là y tá thời chiến. Nguyễn Thanh Nghị có cha làm thủ tướng nhưng Nguyễn Tấn Dũng có cha là một người vô danh.

Đấy! Yếu tố nào Nguyễn Thanh Nghị cũng hơn nhưng Nghị tiến thân trầy trật hơn Nguyễn Tấn Dũng.

Cha của Phạm Bình Minh là ai?

Cha của Phạm Bình Minh là Nguyễn Cơ Thạch. Cha họ Nguyễn nhưng con họ Phạm là tại sao? Có nhiều ý kiếny, có ý kiến thì cho rằng, ông tiên Nguyễn Cơ Thạch là bí danh hoạt động cách mạng. Ông ta lấy tên như vậy để tránh mật thám theo dõi và điều tra. Nghe có vẻ đúng nhưng có một điều phi lý là khi đã hòa bình, không còn sự đe dọa của kẻ thù, ông Nguyễn Cơ Thạch đã làm đến chức bộ trưởng, vậy mà ông vẫn không lấy tên gốc của mình là Phạm Văn Cương. Đây là dấu hỏi to tướng.

Có ý kiến cho rằng, các lãnh đạo cộng sản họ noi gương ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ Chí Minh vốn là họ Nguyễn, sau rất nhiều lần dùng bí danh thì khi ông lên đỉnh cao quyền lực, lúc mà hết hoạt động cách mạng ông lại lấy họ Hồ và không dùng đến họ Nguyễn nữa. Đặc điểm này làm nhiều nhà nghiên cứu và cả nhiều người dân muốn tìm hiểu nguyên nhân vẫn không sao lý giải nổi. Đó là chuyện của ông Hồ Chí Minh, còn chuyện đổi họ của ông Nguyễn Cơ Thạch là do ông học theo Hồ Chí Minh là lí do thuyết phục hơn hết. Tuy nhiên, khi sinh con, ông Nguyễn Cơ Thạch vẫn lấy họ gốc cho con trai ông là Phạm Bình Minh.

Ông Nguyễn Cơ Thạch tên thật là Phạm Văn Cương, sinh năm 1921. Ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương Phó Thủ tướng Chính phủ), kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Tức là chức vụ mà Phạm Bình Minh nắm nhiệm kỳ 2016-2021 là ngang bằng với chức vụ mà cha của ông đã từng nắm.

Ngành ngoại giao là một ngành đòi hỏi phải có trình độ thực sự. Ông Nguyễn Cơ Thạch đã dẫn dắt con trai của ông theo đúng ngành mà ông là sở trường. Vì vậy không thể có chuyện để Phạm Bình Minh học qua quýt rồi nối nghiệp cha là không thể mà phải có thực học mới theo ngành được, và nếu theo được ngành này thì ít bị cạnh tranh, vì hat giống đỏ càng về sau càng trở nên đông đúc.

Vậy nên, tuy ông Phạm Bình Minh là thế hệ 6X nhưng ông được ông Nguyễn Có Thạch cho học hành khá bài bản và hiện nay ông Phạm Bình Minh đã leo lên bằng với những gì mà ông Nguyễn Cơ Thạch trước kia đã từng.

Nguyễn Cơ Thạch và điểm sáng

Ông Nguyễn Cơ Thạch nắm chứ bộ trưởng bộ ngoại giao từ năm 1980 đến 1991, trong lúc đất nước có nhiều biến động. Năm 1990, dưới thời ông Nguyễn Văn Linh là Tổng Bí Thư, ông Đỗ Mười là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức là thủ tướng) thì hai ông này đã đưa đất nước trở nên phụ thuộc vào Trung Quốc bằng hội nghị Thành Đô năm 1990. Phụ thuộc Trung Quốc đó là thực tế lịch sử ghi nhận từ năm 1990 đến nay chứ nội dung của Hiệp ước Thành Đô đến nay vẫn là bí mật.

Từ hàng ngàn năm nay, người dân Việt Nam không muốn đất nước phụ thuộc vào Trung Quốc, đó là ưu điểm của người dân Việt. Người dân Việt Nam không ngại xương máu hy sinh để đuổi quân Trung Quốc về nước năm 1979. Và điều cần thiết là sau năm 1979, nhân dân cần Việt Nam độc lập với Trung Quốc. Tuy Việt Nam và Trung Quốc cùng ý thức hệ nhưng Việt Nam không được rơi vào quỹ đạo Trung Quốc. Ấy vậy mà năm 1990, ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười và ông Phạm Văn Đồng đã sang Thành Đô – Trung Quốc ký hiệp ước bí mật giữa hai đảng. Và cho đến nay, Việt Nam đã ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc về cả kinh tế lẫn chính trị. Ba con người đã ký hiệp định đó là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng sẽ được lịch sử phán xét.

Tuy những lãnh đạo thời đó làm mất lòng dân về vấn đề quan hệ với Trung Quốc, nhưng ông Nguyễn Cơ Thạch lại có được điểm sáng đáng ghi nhận. Đó là ông không ủng hộ việc ký kết hiệp ước Thành Đô.

Theo cựu đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc, thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam Nguyễn Trọng Vĩnh, thì việc ông Nguyễn Cơ Thạch mất ghế bộ trưởng bộ ngoại giao là do áp lực của Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô 1990, điều kiện để bình thường hóa quan hệ hai nước. Được biết, lúc đó ông Nguyễn Cơ Thạch với tư cách bộ trưởng bộ ngoại giao đã phản đổi một số nội dung về thỏa thuận Thành Đô 1990 mà ông cho là nhân nhượng Trung Quốc trong vấn đề Campuchia.Tuy nhiên, sau một cuộc dàn xếp khôn khéo, ngày 29/9/1990, 3 tuần sau Hội nghị Thành Đô, chính Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã được cử đi thực hiện nhiệm vụ quan trọng là gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Baker tại New York, bắt đầu việc đám phán bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ.

Sau khi thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông tham gia nghiên cứu Tổng kết công tác ngoại giao, nghiên cứu kinh tế thế giới và chiến lược đối ngoại (tháng 10 năm 1991 – 1998).

Cha làm thầy, con bán sách

Sắp tới Phạm Bình Minh sẽ nắm phó thủ tướng thường trực, vị trí cao hơn cha của ông đã từng nắm một bậc. Như vậy là Phạm Bình Minh là hạt giống đỏ đầu tiên vượt mặt cha mình trên con đường quan lộ. Tuy nhiên con đường đi lên của Phạm Bình Minh để lại tiếng không tốt trong lòng dân. Nghĩa là đối với dân thì ông Phạm Bình Minh đã thua cha của ông rất xa.

Ông Nguyễn Cơ Thạch là người can đảm, ông dám trái ý Bắc Kinh và can đảm đi ngược lại ý muốn của cấp trên, đó là Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười. Điểm này là điểm mà người ta cho rằng, ông Nguyễn Cơ Thạch đã bị thất sủng và ông phải mất chức là vì lí do như vậy. Trong bộ máy nhà nước CS thời đó, có thể nói ông Nguyễn Cơ Thạch là điểm sáng.

Còn ông Phạm Bình Minh thì từ khi làm bộ trưởng đến nay, ông không có chính kiến gì. Tất cả những lần lấn tới của phía Trung Quốc thì ông hoặc im tiếng, hoặc cho bà Lê Thị Thu Hằng lên truyền thông phát biểu một cách chiếu lệ để đối phó với dư luận trong nước thôi.

Được biết chính sách của ĐCS Việt Nam mà đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng, thì vẫn nhường nhịn là chính dù cho Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý để kiện ra tòa án quốc tế thì ĐCS Việt Nam vẫn không làm để mua lấy “tình hữu nghị” đấy là điều đáng buồn.

Năm 2019, sau nhiều tháng Trung Quốc cho gây hấn ở các giàn khoan ngoài biển nằm trong thềm lục địa Việt Nam, cả xã hội bức xúc. Thì ngày 28/9/2019, nhân dịp được phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 74, ông Phạm Bình Minh với tư cách là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao đại điện cho nhà nước Việt Nam mà ông không dám nhắc tên Trung Quốc. Thậm chí sự gây hấn, đe dọa đến chủ quyền quốc gia mà ông chỉ dùng từ “sự cố” để nói lên hành động đó. “Sự cố” là những gì thuộc về những gì xảy ra ngoài ý muốn. Ở đây Trung Quốc có chủ ý muốn lấn chiếm chủ quyền đất nước thì đấy không phải là sự cố nữa mà là “sự đe dọa”.  Đấy là một sự thất vọng đối với nhân dân và là vết nhơ ngoại giao mà ông Phạm Bình Minh đã để lại.

Hành động đó mất lòng dân, nhưng được lòng đảng, đặc biệt là được lòng ông Nguyễn Phú Trọng. Vì vậy mà ông Phạm Bình Minh đã được cất nhắc tiến xa hơn trên con đường quan lộ. Đó là lí do, dù cha của ông mất lòng đảng, mất lòng Bắc Kinh nhưng ông vẫn tiến xa hơn cha. Bởi ông đã thức thời không vì chủ quyền mà vì địa vị.

Atlanta Police hold news conference following shooting that killed 8





Author Viet Thanh Nguyen on growing anti-Asian violence and what can be done to stop it





Britain Aims to Counter ‘Strategic Threat’ From China





Drones Light Up Dublin Sky to Celebrate St. Patrick's Day





Thái Lan: Chó đánh hơi COVID chính xác 95%





Người mù mưu sinh phản hồi trước đề xuất cấm loa kéo





Mỹ trục xuất 33 người gốc Việt





Tăng già Miến Điện : Nỗ lực thoát khủng hoảng bằng bất bạo động





Chính sách mới của Anh Quốc : Cứng rắn với Nga nhưng dè dặt với Trung Quốc





Fukushima : 10 năm sau, thảm họa vẫn còn đó





Nhạc sĩ Trịnh Hưng và bài hát Lối Về Xóm Nhỏ, ca sĩ Nhật Trường và Như Thủy song ca


Trịnh Hưng (1930 - 2008) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông được biết đến nhiều qua các ca khúc Tôi yêu, Lối về xóm nhỏ, Lúa mùa duyên thắm.

Nhạc sĩ Trịnh Hưng tên thật là Trịnh Hưng (sau này đổi tên thành Nguyễn Văn Hưng) sinh năm 1930 tại Hà Nội. Cha ông là một quan huyện, còn mẹ là thứ thiếp. Ông mồ côi mẹ lúc mới ba tuổi nên sống với một người bà con ở Hà Nội.
Những bài hát ngợi ca quê hương thanh bình của nhạc sĩ Trịnh Hưng rất được yêu chuộng bởi lời ca mộc mạc, trong sáng, tiếng nhạc vui tươi, chan chứa tin yêu, gợi cho người nghe một cảm giác thanh bình, an lành nơi thôn dã nên rất được yêu thích.
Từ năm 1945 tới 1952, nhạc sĩ Trịnh Hưng theo kháng chiến chống Pháp, làm đội phó văn công Trung Đoàn Thăng Long. Trong chiến khu ông được thụ huấn một lớp âm nhạc do giáo sư Tạ Phước giảng dạy.
Nhạc sĩ Trịnh Hưng bỏ kháng chiến để về thành năm 1952. Vì biết mình chỉ còn con đường âm nhạc để tiến thân, ngoài ngón đàn Mandoline, Hawaii, ông còn học sáng tác và dành nhiều thời gian để tự tập thêm đàn Guitare trong cuốn Méthode de Guitare soạn bởi F. Carulli, được giáo sư Tạ Phước chép lại. Nhờ sự chăm chỉ tập luyện, ông có thể độc tấu Tây Ban Cầm cho bằng hữu thưởng lãm. Ðầu năm 1952 ông sáng tác bài đầu tay là: “Lối Về Xóm Nhỏ” theo điệu Fox, trở thành bài hát nổi tiếng nhất của ông.
Khi về Hà Nội, nhạc sĩ Trịnh Hưng đi đánh đàn trong các phòng trà dancing cho lính Tây khiêu vũ một thời gian ngắn và dạy thêm đàn Hawaii cho học sinh. Năm 1954, ông di cư vào Sài Gòn, tiếp tục làm công việc đàn cho các phòng trà, nhưng ông việc bấp bênh vì các phòng trà ở đây đã có đủ nhạc công.
Trong tình cảnh đó, ông may mắn được một người giới thiệu đến khu Hồ Văn Ngà, là khu vực bán đàn và dụng cụ âm nhạc nổi tiếng thời bấy giờ. Vì thấy ông chơi đàn giỏi, người chủ thuê ông ngay và còn cho ông mở lớp nhạc tại đó nhằm mục đích câu khách đến mua đàn. Cách tiệm bán đàn của ông không xa có hai lớp dạy nhạc của hai danh sư là nhạc sĩ Lâm Tuyền và nhạc sĩ Trọng Khương.
Thời thập niên 1950, nền âm nhạc Tây Phương đang thịnh trong giới thượng lưu trí thức Sài Gòn, những nhạc sĩ chơi đàn guitare giỏi như Lâm Tuyền, Trọng Khương, Trịnh Hưng không nhiều lắm. Nhờ lớp nhạc này mà ông trở nên khá giả, đời sống trở nên phong lưu, tiền bạc dư giả, quan hệ bạn hữu càng rộng rãi.
Nhạc sĩ Trịnh Hưng lập gia đình năm 1955, đến cuối năm 1956 thì ông dời lớp nhạc về số 9/1 Cao Thắng và ở đó đến năm 1990 khi qua định cư ở Pháp. Ở lớp dạy nhạc Cao Thắng ông dạy đủ thứ: đàn Mandoline, Hawai, Guitare, và luyện thanh, nhưng chỉ có môn guitare là sở trường. Có rất nhiều nghệ sĩ sau này thành danh đã từng đến học ông, hoặc nhờ ông chỉ dẫn, đỡ đầu.
Những ca sĩ đã từng học ông là Thanh Thúy, Bạch Yến, Túy Hồng… và các nhạc sĩ nổi tiếng như Trúc Phương, Phạm Thế Mỹ, Ðỗ Lễ…
Nhạc sĩ Trúc Phương đã đến gặp nhạc sĩ Trịnh Hưng khoảng năm 1957 để học thêm về kỹ thuật sáng tác, và hai người đã viết chung ca khúc “Tình Thắm Duyên Quê”. Từ trước đến nay, bài hát này chỉ được biết đến tới tên người sáng tác là Trúc Phương. Tuy nhiên nếu người nghe nhạc tinh ý thì sẽ thấy có nét nhạc rất giống với các bài hát khác của Trịnh Hưng.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông ở lại Việt Nam.
Năm 1980, con trai cả của ông bị bắt đi lính sang Campuchia chống Khmer Đỏ, chịu không nổi nên đã bỏ trốn. Hai năm sau bị công an bắt được và hành hung đến chết. Trịnh Hưng phẫn uất nên đã viết bài "Ta quyết tâm giết lũ Hồ", cũng vì bài này nên Trịnh Hưng bị đi tù 8 năm ở Hàm Tân. Năm 1990, sau khi ra tù, ông được con gái bảo lãnh sang Pháp. Tại đây, ông theo đạo Tin Lành và cộng tác với các tạp chí văn học.
Ông mất ngày 10 tháng 5 năm 2008 tại Paris, Pháp.





Sơn Mài, Quê Hương Nghèo Khó - Tác giả Mặc Lâm

 

Cách đây ba mươi năm tôi có dịp đến nhà một người bạn thân ở California. Anh ấy là một kỹ sư, nhà cửa tươm tất, vườn hoa bồn tắm sau nhà khiến tôi có chút choáng ngợp…vì mới sang Mỹ, mọi thứ đều lạ lẫm đối với tôi…từ cây mít anh trồng sau nhà tới giàn hoa giấy trước cửa, nó hài hòa và cho thấy óc thẩm mỹ của chủ nhân ngôi nhà. Tôi không nghi ngờ gì gout thẩm mỹ của bạn, và âm thầm vỗ tay cho sự chọn lựa mà bạn đã trong những hiện vật trong nhà.
Nhưng tôi khựng lại khi vào phòng khách nhà bạn.
Vào những năm 90 một bức tranh sơn mài cẩn xà cừ có kích cỡ lớn không phải là điều thường gặp. Bức tranh vẽ cảnh quê miền Nam với căn nhà tranh, đụn rơm trước nhà…vài chú mục đồng cỡi trâu trong màu trời chiều bảng lảng. Xa xa trên đường quê, một bà mẹ tất tả quang gánh trở về sau một buổi chợ họp vội…những cánh chim về tổ, vài vạt khói lam chiều…tất cả hình ảnh của bức tranh làm tôi…khó chịu, khó chịu vì lúc ấy tôi đã biết thế nào là mỹ thuật phương Tây và thế giới. Bức sơn mài nằm trong tổng thể hiện đại của ngôi nhà làm nó trở nên lẻ loi và thảm hại. Motif của các xưởng sơn mài hàng chợ lộ rõ trên bức tranh khiến tôi ngạc nhiên và tuy không hỏi nhưng hình như bạn tôi đã biết điều đó.
Trong lúc ăn cơm với bạn, nhìn con cá kho tiêu với một người mới qua Mỹ không khỏi khiến tôi xúc động. Bạn hỏi cá ngon không? Tôi chắc lưỡi dĩ nhiên là ngon rồi! bạn lại hỏi: sao con cá nhỏ bé, nghèo nàn và ốm yếu này lại ngon hơn cá Sea bass, Chilean, hay Carp?
Rồi bạn bỏ đũa đắt tôi tới trước bức sơn mài, bạn trầm ngâm một chút rồi nhẹ nhàng cho tôi biết:
“Hồi mới qua tao cố gắng học xong rồi làm. Ra trường dành dụm mãi mới được bằng này. Có lẽ mày ngạc nhiên tại sao tao chọn bức tranh “rẻ tiền” từ nghĩa đen đến nghĩa bóng này, bởi vì nó là con cá kho tiêu mày vừa khen đó. Nó xấu với người biết thưởng lãm nghệ thuật nhưng với tao nó còn mang một hàm nghĩa mà nhiều khách ngoại quốc không biết, đó là quê hương thật của tao. Thứ quê hương từ tâm khảm chứ không hào nhoáng bên ngoài.
Tao dư sức mua những bức tranh sơn mài hiện đại với những motif gắn liền với nghệ thuật thế giới, nhưng cái nó thiếu là quê hương đối với tao. Làm sao cảm nhận hơi thở mẹ về khi tranh lại vẽ theo lối lập thể hay siêu thực? Làm sao có được những nét vẽ chân phương gần như của học sinh lớp đầu của trường mỹ thuật để dựa vào đó liên tưởng tới hàng xóm láng giềng, con trâu bụi chuối hay giòng sông trước cửa. Những miêu tả nhà quê ấy làm sao tìm thấy trong tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí hay Nguyễn Khang, Trần Văn Cẩn?
Bức sơn mài này tao mua từ năm 89 khi về Việt Nam lần đầu tiên, nó nhắc cho tao vùng quê Vũng Liêm khi mẹ đã mất và cha cũng không còn…”
Tôi im lặng đứng kế bên bạn lòng trào lên cảm xúc lẫn hối hận. Tôi đã không cảm nhận được hình ảnh quê nhà như bạn và định kiến về dòng tranh sơn mài Việt Nam trong tôi quá lớn. Lớn đến nỗi tôi không nhận ra mình đang chỉ vào quá khứ với một ngón tay kiêu hãnh về sự thẩm thấu mỹ thuật của mình khi thật ra tôi chỉ là một con bò vuông, cốt tạo dáng đứng của một người am tường mỹ thuật.
Nhận chân được tầm vóc mỹ thuật không những là lịch sử cũng như trường phái, nó đòi hỏi chúng ta còn phải biết gắn liền cảm xúc của người thưởng ngoạn khi họ nhìn một bức tranh, cái nhìn không phải bằng mắt mà bằng ký ức và mật mã của từng chi tiết trên bức tranh ấy.

Texas woman arrested for refusing to wear mask





Eight dead in US spa shootings





Rare ancient scroll found in Israel Cave of Horror





Thứ Ba, 16 tháng 3, 2021

Chuyện Về Cái Giọng Saigon - Tác giả Hải Phan





Âm Nhạc Thời Niên Thiếu Của Tôi - Tác giả Hiệp Phan





Nem Thủ Đức, vốn xưa còn lại chút này





Người Treo Ngược - Tác giả Nguyễn Bá Trạc

 

T. thân mến. Thử tưởng tượng: Một căn bếp quét vôi màu trắng như tuyết, bề ba thước, bề năm thước. Có cái tủ lạnh nhỏ. Cái bếp điện. Cái bàn con. Ngồi ở chiếc bàn này nhìn ra, cửa sổ có hai lớp kính chống lạnh. Ngoài cửa sổ, bầu trời Bắc Cực, da trời xanh đen, lốm đốm sao. Đêm qua có một ngôi từ bên kia biển Ban Tích, Thụy Điển, bay sang phía rừng bạch dương, Nga Sô, rồi từ từ tắt. Khoảng thời gian ngôi sao ấy chậm rãi băng qua đủ để cho người ta khấn nguyện nhiều ước muốn: Cho hạnh phúc bản thân. Cho hạnh phúc bạn bè, gia đình, xứ sở. Vẫn còn đủ thời giờ khấn nguyện cho cả hạnh phúc nhân loại nữa.
Đêm hôm qua, ngồi ở cái bàn con này nhìn ra bầu trời Bắc Cực, tôi đã thấy một ngôi sao băng bay chậm rãi như thế.
In hình lên bầu trời, những nóc nhà thờ Phần Lan: Chúng không đồ sộ như nhà thờ kiểu gothique ở Paris, nhọn hoắt như bên Đức, màu mè như Mátxcơva. Không phức tạp như nhà thờ Sacra da Familia của Gaudi ở Barcelona, nhưng cũng không quá sơ sài như nhiều nhà thờ bên Mỹ.
Ở đây xây bằng đá. Không cao lắm, không thấp lắm. Bốn mặt chóp nhà thờ là những hình tam giác cân, tường đá vuông vức, bề thế. Nó ảm đạm, nhưng tạo ra cảm giác vững chãi, tin cậy. Nó có hình dáng của một ngôi nhà thương, nơi băng bó các linh hồn lừ đừ, ốm yếu.
Chung quanh ngôi nhà thờ, những phiến đá màu xám, màu đen, hoặc màu hồng xẫm. Những phiến đá đánh dấu chỗ chôn cất những người đã lên trời. Đã ra đi. Bỏ lại chút xương xẩu vụn vặt trong vườn nhà Chúa.
Ban đêm, dưới tàng cây bạch dương, ánh sáng mộ bia lấp lánh dưới bóng lá. Bầu trời khô lạnh lấp lánh ánh sao. Nóc nhà thờ vươn lên trời. Những bức tường đá im lìm bên lùm hoa siankärsämö màu trắng. Bức tường vững chãi che chở cho những người mỏi mệt: Họ đến đấy sáng chủ nhật. Đàn ông mặc áo dạ. Đàn bà mặc váy đen, áo đen, vớ đen, đội mũ đen. Những người ấy đến hát Thánh ca với tiếng đàn đại phong cầm.
Chuông nhà thờ ở đây không rộn ràng như chuông nhà thờ Công giáo. Nó điểm từng tiếng như cụm hoa súng nở trên những hồ nước trong trẻo bằng phẳng ở khắp xứ Phần Lan, hoặc điểm từng cặp hai tiếng một như những dấu chấm đôi trên các nguyên âm ä, ö của tiếng Phần Lan, Thụy Điển. Những bài hát, cùng tiếng chuông, lan khắp các vườn tược dưới bầu trời mùa thu lạnh lẽo, đi lơ lửng giữa cuộc sống và mộ bia của những người đã chết.
T. thân mến. Thần Chết là một lá bài trong bộ Tarot kỳ diệu. Nó là tấm gương soi của các linh hồn.
Lá bài này mang hình bộ xương người đội mũ sắt, cầm lưỡi hái, chung quanh là bò cạp, rắn, hoa súng, chim phượng và chim đại bàng.
Lưỡi hái vung cao.
Bò cạp cong đuôi sẵn sàng chích nọc độc.
Bông hoa súng gãy gục dưới đáy bùn mà trước kia, có lần từ đấy nó mọc lên, nở ra rạng rỡ.
Nhưng hãy để ý, “vì đây là luật”, cuốn sách nói. Chết, không có nghĩa sinh lý, vật lý. “Nó có hai bộ mặt”. Một hủy diệt và một giải phóng chúng ta khỏi những trói buộc cũ kỹ, những trói buộc ngăn chặn lấy giòng sống của chúng ta.
Con rắn, biểu tượng của sự chuyển hóa.
Nó sẵn sáng phân phối một số lượng tử vong đúng lúc cần thiết.
Con cá, cái quá khứ cũ kỹ trơn trượt, sẽ trở thành nạn nhân của con rắn. Chim phượng chỉ bay lên được khi ngọn lửa chuyển hóa đã cháy hết, đốt hết, khi tất cả chỉ còn là tro bụi.
“Hãy để ý đến bộ xương”: Nó đội cái mũ sắt, cái mũ tang từ thời cổ Ai Cập. Cái mũ của những quan niệm bảo thủ. Cái mũ của những ý tưởng và luận lý cổ hủ.
Những cái mũ ấy cần phải được ném vào nhà mồ, chôn sâu xuống đáy huyệt. Phải cắt mọi trói buộc. Phải giải phóng những tù túng ngăn chận trí tuệ tâm hồn.
Chim đại bàng, vào phút cuối của cuộc chuyển hóa, cuốn sách nói: “Sẽ vươn mình dang rộng cánh bay”.
T. thân mến, cũng tại cái bàn này, vào một lúc khác, nhìn ra cửa sổ, tôi thấy một bầu trời khác. Bầu trời tháng Chín ở Phần Lan. Mặt trời nằm dưới các ống khói. Những đám mây bốc lên như những sợi giây thừng.
Một lá bài khác được rút ra, để trước mặt: “Người Treo Ngược”. Một con người bị treo hai chân lên trời. Đầu chúc xuống đất. Hắn ở vị thế mà mọi ý chí cá nhân đều bị dập nát. Không cựa quậy được. Hắn không thoát thân được. Con rắn của sự chuyển hóa và của trí tuệ cuộn mình ngủ.
Người Treo Ngược bị đóng đinh vào những quan điểm của chính hắn. Mắt nhắm nghiền: Hắn không thể thấy bất cứ cái gì không phù hợp với quan điểm của hắn. Những ý tưởng mới, những cảm hứng mới đều bị làm ngơ. Khả năng tiếp nhận đã bị cắt trụi rồi.
Người Treo Ngược đã mất tất cả niềm tin vào chính trực giác hắn. Mọi cố gắng thất bại. Không còn gì hứa hẹn nữa.
Nhưng bạn ơi, cuốn sách nói, dẫu vào lúc tuyệt vọng nhất, vẫn hiện ra những phép lạ. Nó hiện ra vào lúc bạn không còn từ chối việc nhìn nhận thực tại. Bởi vì, còn có thể làm gì khác ngoài việc trực diện với thực tại ấy và buông bỏ.
Buông bỏ các thứ chủ nghĩa tù túng đã đóng băng. Đã dắt người ta xa rời sự chuyển hóa. Buông bỏ các thái độ bảo thủ, các tư tưởng chật chội, thành kiến cứng ngắc.
Tôi nhìn lá bài, đọc lời giải từ một cuốn sách. Cuốn sách ấy đã nói như thế.
T. thân mến. Ở đây về mùa Đông có lúc lạnh bốn mươi độ dưới không. Bây giờ, chưa lạnh như vậy, nhưng đột nhiên có lúc những cơn gió chướng đổ đến, đám mây đen chợt kéo bầu trời xuống thấp, úp chụp lấy ta. Nó tạo cảm giác giận dữ ngột ngạt. Nó làm ta khao khát bầu trời Châu Á và những giòng sông ấm áp.
Bây giờ, lá mới chớm vàng.
Nhưng chẳng bao lâu nữa”, tôi nói, “chỉ còn lại những cành trơ trụi phải không? Mặt trời sẽ biến mất. Tuyết sẽ đổ xuống. Tất cả sông hồ sẽ đóng băng…”
- “Nhưng chúng cháu sẽ trượt tuyết!”, lũ trẻ reo lên bằng tiếng Việt.
Lúc bấy giờ những hình ảnh tiêu cực nhất chợt hóa thành sân trượt băng. Bọn trẻ con ở Phần Lan đội những chiếc mũ len rực rỡ đủ màu, chúng đi những đôi giày đế sắt xinh xắn. Chúng rượt đuổi nhau trong tiếng cười dòn dã, chúng nắm tay lướt qua khỏi mọi bực bội – hoặc khát khao.
Đã mấy năm nay tôi đi từ nơi này sang nơi khác, nhặt nhạnh những mảnh vụn của đời mình, tìm lại niềm tin, hy vọng và những ước mơ.
Tôi ngắm dĩ vãng, duyệt lỗi lầm, tự trừng phạt mình hàng ngày hàng năm, cũng tự băng bó cho mình những vết thương đã cũ.
Tôi rong ruổi trên sa mạc nhìn mặt trời lặn vào nỗi âu sầu thầm kín.
Trèo lên núi xem mặt trời mọc rạng rỡ chiếu xuống nhân gian.
Ngụp trong giòng sông của sự sống và sự chết. Thật thế.
Tôi đã đi trên những con đường vang tiếng quạ kêu từ buổi sáng tinh mơ.
Terrenganu là một tỉnh nhỏ ven biển Đông Bắc Mã Lai. Tại đây có một khu phố Tàu, sau mỗi tháng làm việc từ Pulau Bidong vào đất liền, tôi hay tìm đến ngồi với ấm trà và cái bếp than. Những gói trà Tàu ở Mã Lai thường trộn một thứ lá giống lá me, có vị chát. Mỗi lần nghĩ về Mã Lai, tôi vẫn nhớ như thế.
Trên hòn đảo, lúc ấy có hơn mười ba ngàn người tỵ nạn Việt Nam. Họ sống đợi chờ chen chúc trong những khu nhà gỗ chắp vá bẩn thỉu, tường và mái tôn xiêu vẹo. Thật ra ngôi trại ấy chỉ đủ chỗ cho năm ngàn người. Hòn đảo có những thân dừa ngạo nghễ, rất nhiều chuột bọ, tôi vẫn nhớ như thế. Nhưng những gì tôi nhớ nhất lại là những gì đáng quên đi nhất.
Tôi nhớ cái nghĩa địa trơ trọi cuối đảo. Những nấm mồ chôn vội. Tôi nhớ Nguyễn Tường Vũ, người công tác viên xã hội ở Pulau Bidong mà tôi đến thay thế, cũng mới chết ở trại Palawan, Phi Luật Tân. Tôi nhớ làn khói bốc từ những con tàu bị đốt khi đến đảo. Những người đàn bà bị hãm hiếp, bước xiêu vẹo bám thành tàu bước xuống, máu nhễu dưới chân, máu chảy ròng trên mặt cát. Tôi nhớ nỗi giận dữ của tôi về sự tàn ác của bọn cướp biển Thái Lan.
Nhưng tôi cũng nhớ một buổi chiều chập choạng, khi một con tàu nhỏ từ Việt Nam trôi đến đảo dưới ánh sáng chập chờn của những ngọn đèn chai. Lô nhô trên sàn tàu là đàn ông, đàn bà, trẻ con. Họ ôm những chiếc bị cói. Tất cả tài sản của họ, sau khi đã bỏ hết để ra đi, nằm trong những bị cói nhỏ nhoi ấy.
Hãy tạm ngừng để mường tượng các cảm xúc của họ. Cuộc hải trình ra sao trên biển cả mênh mông với con tàu nhỏ chỉ dùng để chạy đường sông? Họ đến thẳng hòn đảo sau mấy ngày thuận buồm xuôi gió, hay đã chịu đói khát trong bão tố? Chắc họ mệt lắm. Họ phải vui mừng sau khi đã thoát nỗi đe dọa của biển cả từng vùi thây vài trăm ngàn thuyền nhân vượt biển. Còn gì vui mừng hơn khi thấy lô nhô trên bãi cát những người cùng màu da tiếng nói, những người đã vượt biển trước họ. Tôi thấy rõ nỗi vui mừng được biểu lộ khi con tàu chòng chành cập gần bờ nước. Những người trên tàu hỗn độn đứng dậy, kêu la, quơ những chiếc bị cói, vẫy mừng.
Nhiều người trên bờ bắt đầu lội xuống nước. Người đến trước và người đến sau đang tiến tới gần nhau.
Và điều gì đã xẩy ra?
T. thân. Những người Việt Nam trên đảo lội xuống. Họ bám lấy thành tàu, nhảy lên. Họ giựt bình điện, thùng dầu. Họ dùng xăng tạt vào mặt những người ngồi trên tàu. Họ cướp những chiếc bị cói đựng tài sản của người mới đến, nhảy túa ra, bơi, chạy vào bờ, biến mất trong những dãy nhà xiêu vẹo đầy chuột bọ đang chìm vào bóng đêm.
Việc vừa kể, xẩy ra đêm chủ nhật 23.10.1988 tại bãi biển khu C, đảo Pulau Bidong. Con tàu mang số hiệu MC-158, chở 55 người Việt, đến bến bờ sau bốn ngày lênh đênh trên mặt biển. Họ đã may mắn thoát được những cơn gió bão tầm tã trong suốt tuần lễ trước đấy. Bây giờ lại bị cướp bóc bởi những người đồng bào tỵ nạn đã tới bến bờ trước họ. Vụ này xảy ra trước mắt những người cảnh sát Mã Lai và hàng trăm công tác viên xã hội ngoại quốc.
Biết nói gì về những nghịch lý ấy? Cũng biết nói gì về những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã quay súng bắn loạn xạ vào chính đồng bào, chiến hữu mình để chạy lên chuyến bay World Airways Boeing 727 tại phi trường Đà Nẵng ngày 19.3.1975, khi lính Việt Nam Cộng Sản đang tiến đến gần?
Biết nói gì những vụ cướp bóc, hãm hiếp, ẩu đả, tàn sát trên các chuyến tàu trong tháng Ba 1975 chạy từ chân cầu Trịnh Minh Thế, bến cá chợ Hàn, căn cứ Hải Quân Tiên Sa chạy vào Nam?
Biết nói gì về những cuộc đấu tố ở miền Bắc? Về những trại tập trung cải tạo? Và biết nói gì về cuộc chiến tàn khốc giữa anh em máu mủ trong ba chục năm dài với súng đạn của các nước Tư Bản, Cộng Sản hai bên?
Chính chúng ta đã rời bỏ quê hương đất nước, nơi chúng ta yêu mến từng lá cây ngọn cỏ, từng con đường góc phố của khắp ba miền. Phải chăng cũng là điều nghịch lý?
Tôi có một cái va li màu xanh, đã cũ, đứt khóa. Tôi cất dưới gầm giường, trong đó là những hình ảnh cũ kỹ về những người trên hòn đảo. Cái áo trắng với khẩu hiệu “Tự Do hay là Chết” mà tôi đã viết, đã mặc với họ trong cuộc biểu tình trên đảo. Họ bị Cảnh sát Mã Lai đánh đập, hạ nhục, bắt bớ. Phần tôi chỉ bị trục xuất khỏi đảo, rồi bay bổng khắp bốn phương. Tôi cất tất cả để nhớ. Tự hẹn sẽ có ngày viết ra. Nhưng vẫn chưa viết được gì. Mấy năm nay, chỉ lang thang chỗ này sang chỗ khác với những mảnh vụn, những giấc mơ chập chờn. Tôi thở ra khi viết xong đoạn ngắn ngủi vừa rồi. Viết chút đỉnh. Nào có vui sướng gì khi ngồi một mình trong đêm vắng, tại một xứ sở lạnh lẽo xa xôi, tự lấy bút khoét vào vết thương đau nhức.
Thử nghĩ cái tang thương của Việt Nam đã xé nát cuộc sống tất cả chúng ta như thế nào. Những đổ vỡ lôi kéo những đổ vỡ. Sự tha hóa như con sóng mạnh trong tim bão úp chụp lấy mọi người Việt bất kể Hà Nội hay Sài Gòn, Cà Mau hay Pulau Bidong, ở San Jose nước Mỹ hay ở Turku, Phần Lan. Bản thân chúng ta cũng đã căng dài trong đau thương từ dĩ vãng đến nay.
T. thân mến. Khi nghĩ về Việt Nam, các hòn đảo, cuộc tạm cư hay định cư trên đất mới, có thể nào nhìn các dữ kiện mới như chưa bao giờ từng xảy ra không. Giải quyết với nhãn quan mới, và lý luận mới xem? T. thử nghĩ hộ.
Phần tôi, giờ này, chỉ thích nhớ đến cái bình trà với những gói trà có trộn một thứ lá giống như những lá me.
Tôi thích nhớ đến cái tỉnh Kuala Terrenganu, khu phố Tàu, ngôi chùa Tàu màu đỏ xẫm có những mái cong, ngôi chợ Mã Lai với những tấm vải Batik, những lồng gà chọi, dãy hàng trái cây nhiệt đới.
Ngoài ra tôi cũng muốn quên cái nhà thương gần thánh đường Hồi giáo, trước mặt trụ sở hội Hồng Nguyệt Mã Lai, nơi bạn tôi, bác sĩ Eero người Phần Lan nằm đấy hôn mê bại liệt. Một người bạn khác, cô Trần Mỹ ngồi liên tục nói chuyện bằng tiếng Anh với những câu hỏi han như hỏi trẻ. Nhưng mắt Eero nhắm nghiền, khuôn mặt, bắp thịt không rung động. Không thể biết anh có nghe được những lời nói ấy không? Anh nằm im lìm như thế, mặc dầu tim vẫn đập, hơn một tháng rồi mất.
Cái mà tôi thích nhớ đến, là những bình trà pha sữa trâu ở Varanasi Ấn Độ. Bếp đốt bằng những bánh phân trâu phơi khô dán trên tường. Người ta rót trà vào những chén đất sét nung qua loa dưới nắng. Uống xong, mọi người đập chén xuống đất. Như thế mới ngon.
Tôi thích nhớ một buổi sáng tinh mơ đầy sương mù ở Katmandu, thủ đô cổ kính xứ Népal bên giải Hy Mã Lạp Sơn. Trời lờ mờ. Sương đọng trên khóe mắt những pho tượng Phật long lanh như nước mắt. Giọt nước mắt trong lành.
Những cặp mắt không mở lớn, không khép chặt. Những cặp mắt hiền từ. Mắt Phật được vẽ trên khắp các đền đài ở xứ Népal. Những cặp mắt thấy hết.
Tôi cũng thích nhớ đến giòng Cửu Long giữa biên giới Thái, Lào. Bên này là Nongkhai. Bên kia là Thakhet, Vientian. Xa hơn nữa, sau rặng núi đá vôi, là Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở đấy, tôi đeo ba lô vào bản Mậy, đến ở với những gia đình Việt Nam trong bản. Ban chiều, con trâu trước sân thở phì phò. Ban đêm đom đóm bay lập lòe trên đồng lúa. Các cụ già chỉ cho tôi một ngôi đền thờ có viết chữ Thái. “Viết như thế để che mắt”, một cụ giảng giải, “Thật ra, đấy là đền thờ đức Trần Hưng Đạo”. Trong bản Mậy, cũng như các vùng khác đông người Việt tại miền đông Bắc Thái Lan, người Việt bị cấm không được ra khỏi nơi trú ngụ trong vòng vài chục cây số. Nhiều người đã ở đấy từ mấy thế hệ. Người Thái cấm họ dạy trẻ con chữ Việt. Những nhà có treo bảng đen, bị bắt bớ. Có một buổi trưa, tôi tụ họp đám trẻ ra ngoài đồng xem gặt lúa. Không một đứa trẻ con Việt Nam nào nói tiếng Việt được nữa.
T. thân mến. Hôm nay, giữa mùa Thu 1991. tại tỉnh Turku trên đất Phần Lan chúng tôi vừa tổ chức một buổi lễ Trung Thu cho trẻ. Tại đây có chừng ba trăm người Việt với khoảng ba chục gia đình.
Vẫn chừng ấy chuyện. U uất, lo lắng. Dĩ vãng đau thương. Dành dật áo cơm. Đưa đến bực bội cãi vã nhỏ nhen. Nhưng chúng tôi đã có nhiều cố gắng.
Vượt trên đáy đau thương, trên những mộ bia, trên những cái mũ sắt Ai Cập, những bọ cạp, những lưới hái.
Trên bế tắc của những con người treo ngược chân, chúc đầu xuống đất.
Trên các mảnh vụn chiến tranh
Trên những mảnh vụn của các con tàu vượt biển.
Phải nói nhờ Trời, buổi lễ vẫn được tổ chức xuông xẻ. Có bánh trái. Múa trống cơm. Một bọn trẻ Phần Lan đến đứng bên lũ trẻ Việt nam, chúng cùng hát những bài ca thiếu nhi thân thiện, êm đềm. Trong đó, bài Chú Cuội đã được cô giáo Phần Lan của chúng chuyển ngữ sang cái tên mới: Chú Mặt Trăng – Kuun Poika.
Cô giáo ấy, như anh đã biết, là vợ tôi ngày nay.
ĐOẠN CUỐI CỦA QUYỂN SÁCH
Thổ Tinh ở tại cung Thiên Xứng, lo âu, thiếu niềm tin, thiếu minh mẫn, nặng nề, ưu uất, căng thẳng trong các quan hệ: Đó là lá bài số 3 của những lưỡi gươm, lá bài của muộn phiền.
Cái lưỡi gươm, trung tâm của sự minh mẫn đã bị chặn lại bởi hai lưỡi gươm nhỏ hơn, hai lưỡi gươm này quằn xuống, thiếu quân bình.
Cánh hoa hồng đã bị trọng thương, nhụy hoa rụng xuống. Đám mây mù của lòng nghi kỵ, của sự sợ hãi, giận dữ, âu lo, đã giới hạn những khả năng và trí tuệ tâm hồn.
T. thân mến. Đó là bài chót dành cho đoạn cuối cùng. Một lá bài xấu, đen tối. Nhưng cũng như lá bài Thần Chết và lá bài Người Treo Ngược: Nó báo hiệu những thay đổi, vì không còn gì có thể xấu hơn được nữa.
Hôm nay, tôi ngồi đây viết cho bạn trong căn nhà bếp quét vôi màu trắng như tuyết, một bề ba thước, một bề năm thước. Tại cái bàn con, nhìn ra ngoài cửa sổ có hai lớp kính chống lạnh. Bên ngoài cửa sổ, là bầu trời Bắc Cực, da trời xanh đen, lốm đốm sao. Cách đây vài đêm, tôi đã nhìn thấy một ngôi sao băng bay chậm rãi từ phía Thụy Điển bay sang Nga Sô.