khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Tiền nào của nấy







Tàu Cộng với những hệ lụy cướp biển







Ông Đạo Nhỏ, theo lời kể của Chuẩn Tướng Công Binh VNCH Nguyễn văn Chức (18/02/2010)



Lời bàn:  Có hai nghi vấn trong bài văn bên dưới

1. Sau năm 1968, ông Kỳ chỉ ngồi chơi xơi nước. Ông Bác sĩ Nguyễn bá Khả làm Tổng trưởng Y tế thời khủng hỏang nội các 1965 (sáu ông Tổng Trưởng người Nam phản đối sự kỳ thị Nàm Bắc) và ông Khả đã từ chức vào lúc ấy. Ông Chức gặp ông Đạo Nhỏ sau 1968 và ông đưa ông Khả xem tập sách 200 trang sau khi ông Khả phản đối ông Ky`. Ráp hai sự kiện trên lại ta thấy diễn tiến không hợp lý theo thời gian.

2. Nước Mỹ không nằm trên đường xích đạo, xem bản đồ thế giới thì thấy ngay.




Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, tiền thân của Ông Đạo Nhỏ


Năm 1968 sau trận Tết Mậu Thân, vị Tư lịnh Quân đoàn IV bấy giờ là Thiếu Tướng Nguyễn viết Thanh có rước một ông Đạo từ trên Hồng Ngự xuống. Ông Đạo nầy lúc đó chỉ 8 tuổi nên được gọi là Ông Đạo Nhỏ. Ông là con của ông Trần kim Qui, Hiệu trưởng một trường học ở quận Hồng Ngự, người theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo.....
 
.....Buổi chiều nọ, khi tới dự bữa cơm tối tại tư dinh Thiếu Tướng Tư lịnh Quân Đoàn IV tôi thấy ngồi ở đầu bàn là một người còn nhỏ tuổi, quanh đó có mặt các ông Đại tá và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tư lịnh phó lãnh thổ của Quân đoàn. Trong chín ông Đại tá có cả Đại tá Nguyễn văn Ánh là Tư lịnh Sư Đoàn 4 Không Quân (ông nầy sau đó lên Thiếu Tướng và bị tử nạn máy bay). 

Khi mọi nguời vào bàn ăn thì được ông Tư lịnh Quân đoàn giới thiệu :“Đây là Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự được mời tới đây để ăn cơm với chúng ta”. Tiếp theo, ông giới thiệu từng thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách hết sức trân trọng. Chỉ với người khoảng 8 tuổi mà tôi thấy Tướng Nguyễn Viết Thanh đối xử trang trọng lắm.

 
Mọi người đều dùng cơm chay vì Ông Đạo Nhỏ không ăn mặn. Sau khi cơm nước xong xuôi, mỗi người được phân phát một tờ giấy và một cây viết chì. Tướng Thanh nói rằng :“Ông Đạo Nhỏ biết rất rành quá khứ vị lai (tức chuyện về trước, chuyện về sau) nhưng vì không nói chuyện được nên chỉ trao đổi bằng giấy viết”. Vậy là mỗi người viết câu hỏi mà mình muốn hỏi lên tờ giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông Đạo Nhỏ. Đầu tiên là ông Tư lịnh Quân Đoàn Nguyễn Viết Thanh viết một câu hỏi đưa qua, Ông Đạo Nhỏ cầm viết, viết rào rào (nghiã là viết rất nhanh) bằng chữ Quốc Ngữ, xong rồi đưa lại cho ông Thanh. Ông Thanh coi xong bèn úp tờ giấy xuống mặt bàn.
 
Sau đó là tới lượt ông Chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh vì ông và ông Thanh ngồi hai bên Ông Đạo Nhỏ …Ông Đạo Nhỏ viết câu trả lời toàn bằng thơ, tôi ngồi gần nên liếc thấy hầu hết là thơ ngụ ngôn (mỗi câu năm chữ) sau ông Đại tá Ánh, Tư lịnh Sư đoàn 4 KQ là các ông Đại tá khác trong đó có Đại tá Huỳnh văn Lạc Tham mưu trưởng (sau nầy cũng lên Tướng và đang sống ở Sacramento, CA.). Tôi nhường hết cho mọi người chờ đến lượt cuối cùng, tôi viết trong giấy là :“Xin Ông Đạo Nhỏ cho biết tương lai vận mệnh của tôi trong cuộc chiến tranh nầy ?” Tôi đưa cho ông Thanh, ông Thanh coi qua một chút rồi chuyển cho Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền tới lui thì ra ông viết rằng “đưa về nhà rồi sẽ cho sau”; ông không cho liền trong khi mấy ông kia thì trả lời ngay.
 Sau đó, Ông Đạo Nhỏ tỏ ý muốn đi ra đằng sau chơi, ông Tướng đích thân dẫn Ông Đạo Nhỏ ra phía sau hàng ba để Ông đi lại nơi cái bàn có cái ghế và ngồi chơi một mình. Số người còn lại trong nầy chuyền tay nhau những tờ giấy có câu trả lời của Ông Đạo Nhỏ, không ai dấu diếm. Tôi đọc bài thơ của ông Thanh thì câu cuối cùng mà Ông Đạo Nhỏ viết là “Tu mau đi kẻo muộn !”.
 
Còn bài thơ của ông Đại tá Ánh, của ông Đại tá Trưởng phòng Nhì cũng viết là “Tu mau đi kẻ muộn !” (cả ba ông đều có một câu kết như nhau). Riêng của ông Hạnh thì Ông Đạo Nhỏ cho một bài thơ Đường luật gồm 8 câu 7 chữ, câu cuối cùng là “Thân bại danh liệt tướng miền Tây” tôi chỉ nhớ câu chót thôi không thể nhớ hết nguyên bài. Mấy người còn lại trong đó có một ông Đại tá người Huế làm bên Tiếp vận Vùng 4 cũng được một bài thơ nhưng bình thường thôi, không có gì đặc biệt. Sau khi bàn luận qua lại một hồi rồi giải tán. Thiếu tướng Thanh nói với tôi là Ông Đạo Nhỏ muốn về nhà của tôi và sau đó nhờ tôi đưa Ông Đạo Nhỏ về Hồng Ngự. (vì tôi có một chiếc trực thăng riêng muốn sử dụng lúc nào cũng được). Tôi chở Ông Đạo Nhỏ về nhà rồi kêu chú lính trực đem một cái ghế bố với đầy đủ mùng mền cho ông nghỉ ngơi ngay tại phòng khách (ban tối, chú lính mở ghế bố ra rồi đến sáng thì thu dọn lại sạch sẽ).

Khi tôi xuống Cần Thơ làm việc, vợ tôi giao cho tôi đứa con gái lớn đang học lớp Bảy nên phải xin chuyển trường cùng với ba đứa con trai nhỏ nhứt (còn mấy đứa lớn đang học ở Saigon) gồm đứa 7 tuổi, 6 tuổi và 5 tuổi. Mỗi ngày, đứa con 7 và 6 tuổi thì đi học còn đứa 5 tuổi vẫn còn ở nhà chơi với Ông Đạo Nhỏ nhưng Ông nầy lại không thích chơi giỡn. Sáng dậy, tôi và Ông Đạo điểm tâm bằng cháo trắng, trong khi tôi ăn với đường hay thịt cá thì Ông ăn ba chén đàng hoàng nhưng với muối. Đặc biệt là dù trời lạnh hay nóng Ông cũng đều thích ra ngồi phiá sau nhà, nơi nầy tôi có che một cây dù nhà binh, ông huớng mắt về phía Nghiã trang Quân Đội ngồi yên, không nói gì cả cho tới trưa khi tôi đi làm về thì vào ăn cơm chay với tôi. Sau bữa ăn cơm tối, tôi viết mấy câu nhắc lại câu hỏi của tôi lúc trước thì Ông trả lời là “hãy đợi đến ngày Rằm” tức là khoảng 7, 8 bữa nữa. Trong thời gian lưu ngụ đó, nhiều khi con tôi đi học về đến nắm tay, nắm chân kéo ra ngoài chơi giỡn nhưng Ông cứ ngồi im thin thít không nói, không rằng và không thích vui đùa như mấy đứa con nít cùng trang lứa.

Đến ngày Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ sớm, đóng cửa phòng không cho ra ngoài, rồi chuẩn bị vào phòng khách để đàm đạo với Ông Đạo. Ông Đạo viết lên giấy biểu tôi đốt hai cây đèn cầy đỏ thật lớn để trên hai cái chân đồng và tắt hết đèn điện. Sau đó, Ông biểu tôi lấy ra một tập giấy học trò 200 trương và một cây viết nguyên tử. Ông bắt đầu viết lên tờ giấy :“Ông cứ đặt câu hỏi và viết lên đây mỗi trang giấy là một câu hỏi !” Còn nhớ, khi Ông cho mấy ông Tướng Tá kia thì mỗi người chỉ được một bài thơ còn riêng tôi thì cả một cuốn tập 200 trương. Đại ý những điều Ông viết về vận mệnh cho tôi như thế nầy là :“Khi tôi về già, cái mệnh của tôi cũng như Ông Khương Thượng (tức KhươngTử Nha) đời nhà Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương (hoàn toàn được viết bằng những bài thơ).Về già, tôi sẽ đảm nhận vai trò giống như ông Khương Tử Nha ngồi câu trên sông Vị thủy chờ Châu văn Vương tới rước làm Đại tướng quân cầm quân đánh vua Trụ chớ không phải như lúc còn trẻ”. Ông còn viết thêm là “ông có quyền hỏi tất cả những gì mà ông muốn biết”. Thế là, tôi lật trang kế tiếp, tôi hỏi về chuyện quốc gia, đến khi hết chuyện quốc gia là đã lên tới 100 trương rồi nhưng ông cứ cho hỏi hoài từ 7 giờ tối tới 12 giờ khuya. Tôi hỏi đâu, ông cho đó …đặc biệt, tất cả đều trả lời bằng một bài thơ chớ không phải văn bình thường. Tôi không hiểu tại sao một người chỉ mới 8 tuổi mà làm thơ đủ vần, đủ điệu như vậy. Tôi thử ông tới những bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú luôn cả bài toàn chữ B. Ông cũng cho tôi bài thơ Quốc Ngữ khởi đầu toàn là chữ B mà lại viết liền không cần suy nghĩ, thật là một người có bộ óc thông minh kinh hồn không thể tưởng tượng được. Về chuyện trong nước thì cuối cùng ông phán trong một bài thơ, đại ý là :“Miền Nam không đứng vững, không đủ khả năng đánh bại miền Bắc”.

Kế đó tôi hỏi về chuyện Thế giới thì được trả lời đến gần 100 bài nữa, trong đó có hai bài hỏi về Hội Long Hoa. Tôi hỏi “Hội Long Hoa thành lập ở đâu, do ai chủ trì và giải quyết chuyện gì ?” Vấn đề nầy ông không trả lời nhưng ông vẽ một cái hình lên trên tờ giấy. Ông vẽ một khán đài rồi vẽ một cái vòng tròn, ông vẽ một mũi tên chỉ vô để “người” tức là nhiều người ngồi trên đó, rồi phía dưới ông vẽ hình người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người ngồi ghế bên dưới. Còn vùng đó là vùng có núi mà là núi thấp; ông không nói địa điểm chỗ nào nhưng nhìn xa xa thấy toàn là núi, còn chỗ hội họp là giữa hai cái núi, ông vẽ sơ sơ vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái dấu tròn phiá trước, kế đó là cái dấu tròn thứ hai; cái dấu đầu tức là có người ngồi trước, rồi ông vẽ một mũi tên chỉ vào dấu thứ hai đó, ông viết chữ “ông” tức là tôi sẽ là người thứ nhì ngồi ở Hội Long Hoa. Đến nay, khi tôi kể lại tôi còn cảm thấy run cả người bởi vì Hội Long Hoa là một chuyện trọng đại và phi thường giải quyết cả một vận hội thế giới chớ không phải cho riêng nước mình thôi đâu.

Rồi khi tôi hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh thứ III thì ông cho bài thơ trả lời, đại ý là chuyện đó sẽ phải xảy ra và thế giới cũng bị tận diệt rồi sau đó mới lập Hội Long Hoa (nghiã là khi chiến tranh Thế Giới thứ III chấm dứt mới có Hội Long Hoa). Sau đó tôi kêu chú lính chạy đi lấy cho tôi một bản đồ Thế Giới rất lớn mang đến và cả bản đồ Việt Nam, tôi phải trải từng khúc lên bàn, theo ý muốn của ông. Ông cầm cây viết mỡ lên sẵn sàng giải đáp.
 
Đầu tiên, tôi hỏi :“xin ông cho biết ảnh hưởng về Việt Nam và Trung Quốc sẽ đi tới đâu ?” Ông cầm cây viết mỡ vẽ một lằn từ bên Tàu phía trên Hồng Kông từ ngoài biển kéo vô một lằn tới dãy Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn) rồi ông kéo trở lại cắt ngang phía Bắc Việt Nam từ miền Thượng du Bắc Việt tức vùng Cao bằng- Lạng sơn ra tới phía Bắc của Hải phòng. Rồi ông lấy viết xanh ông gạch gạch rồi cho biết “tất cả chỗ đó sẽ trở thành biển”, ông viết một chữ “biển” lên đó. Nguyên phần đất nầy sẽ tan biến, tức là ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ thành một cái biển lớn. Hồng Kông không còn rồi qua đến phiá Bắc của Lào, một phần của Thái lan, một phần của Miến Điện rồi vô tới dãy Himalaya sẽ bị sụp mất hết, Việt nam chỉ mất có bấy nhiêu đó thôi. Cái vạt Bắc Kinh- Thượng Hải được ông gạch nát hết, Đài Loan cũng lặn mất. Xong rồi, tôi để bản đồ trước mặt Ông, chỉ vào từng vùng, từng vùng thì ông cho thấy quốc gia nào cũng bị khó khăn hết. Nước Mỹ nầy thì ông vẽ Tiểu Bang Washington, Oregon, California đi xuống biển, còn ở phía miền Đông thì bể nhiều lỗ, Nữu Ước không còn nữa tức cũng thành biển, nước Mỹ chỉ bị mất mấy vùng hai bên bờ biển phiá Đông và phiá Tây, rồi ông làm một bài thơ cho biết Địa cầu chuyển trục, nước Mỹ trở thành một vùng nằm ngay giữa đường Xích đạo. Đường Xích đạo đi ngang qua nước Mỹ biến nước Mỹ trở thành một quốc gia bị nóng như Sa mạc.

Còn bên Âu châu thì quốc gia nào cũng bị thiệt hại một phần hết. Nước nào ông cũng bôi bỏ chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại hai chỗ là Úc châu và Tân Tây lan. Tôi hỏi ông về phần đất Úc châu thì ông cho một bài thơ cho biết đó là Thánh địa không có bị động chạm gì tới và Tân Tây Lan cũng như Úc Châu đều còn nguyên vẹn. Các quốc gia con con ở gần Bắc băng dương và Nam băng duơng thì nơi nào cũng bị đánh phá, chỉ trừ có Úc Châu và Tân Tây Lan mà ông cho là Thánh điạ.

Đến đây, tôi nói với ông là cũng đã khuya rồi, chú lính đã giăng mùng sẵn, mời Ông đi nghỉ.(Về chuyện hậu vận của tôi, tôi cũng có hỏi và được giải đáp đầy đủ nhưng vì thuộc về cá nhân nên tôi không thể nói được, ngoại trừ việc về già giống trường hợp ông Khương Thượng như đã nói ở phần trên. Bởi vì tin vào vận mệnh đó mà tôi mới dám qua Cam-pu-chia ở 10 năm và chiến đấu bên đó từ năm 1984 đến năm 1994).

Sáng hôm sau ông viết lên giấy đòi về nhà, tôi cho gọi trực thăng tới để đưa ông đi, ông viết cho tôi là “tôi biết ông có đủ khả năng để xây cất một cái Miếu đường cho tôi để tôi có chỗ ở mà thờ phượng”. Tôi trả lời “Được, tôi sẽ giúp ông Đạo nhỏ”, ông cầm tờ giấy đó xếp lại và bỏ vào túi. Tôi đưa ông ra trực thăng bay lên núi Sam (Châu Đốc) kiếm ông Thiếu tá Công binh của tôi đang bắn đá ở đó, tôi gọi Radio trước cho ông nầy nên trực thăng vừa tới là ông leo lên cùng bay về Hồng Ngự với tôi và Ông Đạo Nhỏ. Khi trực thăng đậu ngay sân Chi khu là có sẵn chiếc xe Jeep chờ sẵn chở chúng tôi đến nơi mà Ông Đạo Nhỏ muốn xây cất miếu. Nhà ông ở cũng gần chợ Hồng Ngự, ông viết giấy đưa cho tôi nói đây là đất nhà của ông. Tôi nói với ông Thiếu tá :“Thiếu tá cố gắng giúp Ông Đạo Nhỏ xây cái Miếu ở đây còn phương tiện hay cần vật liệu gì, Thiếu tá cứ viết giấy về Liên đoàn lãnh vật liệu lên làm”, tức là tôi cung cấp toàn bộ và cho các anh em CB gồm cả một tiểu đội để việc xây cất càng nhanh càng tốt. Ông Đạo Nhỏ lấy giấy viết vẽ sơ sơ ra cái nền vuông rồi ngăn vách phân biệt nơi nào để thờ phượng, nơi nào là chỗ ngủ của ông, chỗ để quần áo, nơi thay quần áo, rồi chỗ ở của người tu chung với ông, rồi cái bếp, cái nhà tắm, cầu tiêu… Nơi nào ông cũng có viết chữ trong đó, ông vẽ khéo lắm như một kiến trúc sư vậy. Ông còn cho cả chiều ngang khoảng 12 thước còn chiều xuôi chừng 16-18 thước. Diện tích cũng giống như một căn nhà chớ không nhỏ lắm, còn trên cái nóc thì muốn làm sao cứ làm. Riêng phía trước chỗ phần thờ phượng thì chiếm 1/3 căn nhà có xây một cái trang ở trên, rồi có cửa trước và có cửa ra vô hai bên hông. Công tác nầy do anh em Công Binh hoàn thành khoản 20 ngày dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Hoàng bá Hải (Ông nầy có lẽ là người Nha trang nhưng nói giọng miền Nam, rất lanh lợi, làm Giám đốc hầm đá núi Sam khoảng 7-8 năm). Sau khi hoàn tất, ông Thiếu tá nầy có mời tôi lên ăn Khánh Thành nhưng lúc đó rất bận nên tôi không thể đến dự. Chính ông và Ông Đạo Nhỏ cùng mọi người làm lễ Khánh thành trước khi Ông Đạo Nhỏ dọn vào ở. Còn tên miếu là gì thì tôi không biết.

Tôi cứ cầm tập thơ viết đầy 200 trương nầy coi đi coi lại hoài, nghiền ngẫm những điều ghi trong đó, sau đó tôi cầm về Saigòn cẩn thận cất vô tủ sắt trong nhà. Tôi có người bạn là Bác sĩ Nguyễn bá Khả (có người em là Bác sĩ Nguyễn bá Tín), người Bắc di cư năm 1954, cha mẹ vẫn còn sống và đang ở chung với ông ở Cư xá Lữ Gia, Saigon . Ông Bác sĩ nầy rất đàng hoàng và nhân ái. Trước cửa phòng mạch của ông ở đường Gò công, Chợ lớn có dán tờ giấy ghi là “Kẻ nghèo khổ và người tu hành được khám bịnh miễn phí”. Ông làm Tổng trưởng Y tế trong thời gian Nguyễn cao Kỳ là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương. Khi ông đi họp bên Phi luật Tân thì ở bên nhà ông Chánh văn phòng của ông là người miền Nam bị ông Kỳ ra lịnh cho Đại tá Liễu, Giám đốc Cảnh sát bắt đem giam trong khám Chí Hòa. Nhóm trí thức và dân biểu gốc miền Nam chống ông Kỳ về vụ bắt giam nầy, ông Kỳ đổ thừa là Bs. Khả ra lịnh. Ông Khả đang họp ở Phi Luật Tân có người gọi điện thoại báo cho ông, ông liền bỏ họp trở về Việt Nam . Ông vô Văn phòng ông Kỳ mạt sát ông nầy dữ dội :“Ông làm như vầy là sai ! Tại sao Đổng lý Văn Phòng của tôi mà ông ra lịnh bắt, tại sao ông không nhận lại đổ thừa là tôi ra lịnh ?” Sau khi sỉ vả ông Kỳ một hồi rồi đưa thơ từ chức, không làm nữa. Ông còn nói rằng :“Tôi muốn giúp ông để làm việc nước nhưng ông đã làm trái với nguyện vọng của tôi nên tôi không chấp nhận làm việc chung với ông nữa, tôi muốn trở về làm dân”. Sau đó, Bs. Khả trở về nhà và buồn bực lắm. Thấy vậy, tôi mới mời ông tới nhà tôi chơi và cho ông xem quyển sách đó. Ông ngồi với tôi vừa uống nước vừa xem hết 200 bài thơ trong đó. Ông là một Bác sĩ có bằng cấp của Pháp, du học bên Pháp nên thuộc loại Bác sĩ giỏi. Xem xong, ông không nói năng gì và ra về. Trước khi về lại Cần Thơ, tôi đem cuốn sách đó cất vào tủ sắt. (Lúc bấy giờ ông William Colby đang làm Cố vấn cho chương trình Phụng Hoàng).

Đến tháng sau, tôi trở về Saigon thăm vợ con, tôi mở tủ sắt ra coi lại thì quyển sách của tôi đã bị mất, luôn cả bản đồ vẽ đủ thứ trên đó cũng bị mất. (Tôi nhớ Bs.Nguyễn Bá Khả cũng có coi qua bản đồ nầy !). Tôi hỏi Bác sĩ Khả có nói với ai về quyển sách nầy không, ông trả lời :“Tôi với anh là bạn mà, tôi coi xong rồi thôi, có nói với ai đâu !” Tôi cố tình tìm kiếm vẫn không ra rồi từ từ cũng không còn nhắc tới nữa, nhưng tôi tiếc lắm. Lâu lâu tôi cũng muốn giở ra coi để biết thời cuộc, vì đây là sách thiên cơ mà tôi tin tưởng.

Đến năm 1975 khi tôi sang được Hoa Kỳ, ở thành phố Roseville, CA. thì được ông Colby gởi lời mời lên nhà chơi. Lúc đó, ông đang là Giám đốc CIA của chánh phủ. Khi tôi đến nhà thì được bà vợ ra tiếp đón còn ông thì đi làm, trưa đó mới về gặp tôi. Ông lấy cho tôi một cái Hotel bên ngoài và một tài xế để tôi tiện việc đi chơi đây đó nhứt là đi vòng vòng thăm Hoa Thịnh Đốn cho biết.
 
Trong lúc ăn cơm, tôi kể lại câu chuyện về Ông Đạo nhỏ cho ông Colby nghe. Nghe xong, ông Colby chỉ cười và nói ông biết rồi. Tôi hỏi tại sao ông biết. Ông trả lời chính Bs. Khả báo cáo với ông. Hóa ra là Bs. Khả làm việc cho CIA mà tôi đâu có biết ! Colby nói là ông đã cho người lúc ban đêm mở cửa vào nhà tôi và mở tủ sắt lấy hết hồ sơ đó. Tôi hỏi ông lấy để làm gì, ông nói sau khi lấy xong thì cho người mang tay về Hoa kỳ, vì ở CIA có một Ban chuyên môn nghiên cứu về chuyện đó và để tại đây cho họ nghiên cứu. Tôi nói :“Thôi bây giờ đã nghiên cứu xong rồi, cho tôi xin lại dù là bản sao cũng được”. Ông nói: “Không được ! Nó đã thành một văn kiện mật, rất tối mật. Chính Tổng thống Mỹ cũng không được xem chớ đừng nói việc trả lại cho you !” nên tôi đành chịu thôi.

Đầu năm 1978 có hai vợ chồng ông Thiếu tá gốc Phật Giáo Hòa Hảo ở Nam Cali lên Sacramento thăm bà con ở đây. Ông có gặp và kể cho tôi nghe về chuyện Ông Đạo Nhỏ. Ông Thiếu tá nầy quê ở Rạch giá có vợ ở Hồng ngự, ông là Tiểu Đoàn trưởng, Sư đoàn 9 BB nhưng sau biến cố 1975, vợ chồng ông trở về Hồng Ngự trốn lánh, nhờ bà con chung quanh che chở không ai tố giác thành ra ông không phải đi học tập cải tạo. Nhà bên vợ có một miếng ruộng ở giữa đồng nên vợ chồng ra đó làm ruộng từ năm 1975 đến năm 1977 mà không bị bắt. Ông nói, ông có đến gặp và biết Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự. Ông Đạo ở đó lo tu hành và chữa bịnh. Những bịnh nhẹ và ma quỷ thì ông làm hay lắm còn về nóng lạnh hoặc sốt rét thì chữa không được khá, đặc biệt, bịnh thuộc về ma hành quỷ bắt hay điên loạn thì ông chữa đươc hết.

Vào một buổi sáng sớm vào năm 1977, trong lúc vợ chồng ông đang nhổ mạ để sửa soạn cấy thì thấy có một người mặc áo dài đen, mặc quần trắng, đầu trần tóc hớt chải coi trẻ lắm và mang dép da từ trong chợ Hồng Ngự đi ra (từ đó cách chợ Hồng Ngự mấy cây số). Sau đó, hai vợ chồng đứng dậy chào vì biết người vừa tới đó là Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo lúc bấy giờ đã 17 tuổi rồi. Thấy hai người đứng dậy chào thì ông chỉ vô thúng xôi (khi họ đi đồng thì thường đem theo một cái thúng trong đó có đựng cơm nếp, muối mè và nước uống…). Ông chồng hiểu ý, lấy một chén xôi rắc muối mè rồi đưa cho ông Đạo, ông Đạo ngồi xuống bờ đất ăn ngon lành. Ăn xong chén xôi, ông chỉ hũ nước. Ông chồng lấy cái chén sạch rót cho một chén nước đưa cho ông. Uống xong, ông đứng lên chắp tay xá một xá rồi băng ngang đồng đi về hướng Cao lãnh. Hai vợ chồng lui cui nhổ mạ để kịp cấy nên lơ là, lúc đó chỉ độ 8 giờ sáng, nên ông Đạo mất dạng lúc nào cũng không ai hay biết. Từ đó, Ông Đạo Nhỏ không còn trở về ngôi miếu của ông nữa.

Sự việc nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng của Đức Phật Thầy đã chuyển kiếp qua Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ rồi sau đó lại chuyển qua Ông Đạo Nhỏ. Sở dĩ tôi nghĩ như vậy vì khi tôi hỏi Sư phụ của tôi, ông đã cho tôi biết. Sư phụ tôi là một vị Hòa thượng người Quảng Ngãi. Năm 1974, ông đã được 104 tuổi rồi. Lúc còn trẻ, ông tu ở Quảng Ngãi rồi sau đó đi ra Hà Nội và qua bên Tàu. Ông lại đi theo các ông sư Miến Điện về tu ở Miến Điện 5 năm, học ngôn ngữ và chữ viết Miến Điện rồi lại đi theo mấy ông sư nầy hành hương qua Nepal rồi đến Tây Tạng ở đó tu suốt 30 năm nữa. Sư phụ tôi có thể nhịn đói 3, 5 năm mà không chết và có thể chết 100 ngày hay 50 ngày rồi sống lại, ông đã biễu diễn nhiều việc làm tôi phải hết hồn.

Bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới ông đều biết cả. Tôi đã đưa một ông Đại tá người Đức tới thăm ông, lúc đó ông đang ở trong Chợ lớn được mấy người Tàu cất cho một cái am nho nhỏ để tu hành cùng với một tiểu đồng, khi người Đức tới hỏi tiếng Đức thì ông cũng trả lời ngay bằng tiếng Việt. Lúc trước, tôi có dẫn một đồng bào người Thượng gốc Rhađê biết nói tiếng Việt tới hỏi chuyện với ông bằng tiếng Rhađê thì ông trả lời bằng tiếng Việt liền, người nầy hỏi cái gì ông lền trả lời ngay cái nấy.

Có lần, tôi đem ông Đại úy người Anh đến thì cũng được trả lời rất rành rẽ bằng tiếng Việt, khi ông nghe thì hiểu ngay nhưng không nói được thứ tiếng đó mà trả lời bằng tiếng Việt. Tôi đưa nhiều người ngoại quốc tới gặp ông đều được trả lời bằng tiếng Việt rồi tôi thông dịch lại bằng tiếng Anh và đều được thỏa đáng. Sau đó tôi còn đưa một ông Đại úy Ấn độ tới thì cũng như mấy lần trước nghĩa là khi hỏi bằng tiếng Ấn thì được trả lời bằng tiếng Việt. Sau đó ông khuyên tôi là đừng mắc công đưa người ngoại quốc tới nữa.

Ông tu đến mức là đọc được ngôn ngữ xuất phát từ tư tưởng con người. Người ta nói gì mặc kệ nhưng ông đọc được tư tưởng của họ nên biết họ muốn hỏi về việc gì vì tư tưởng họ phát ra lời nói ấy. Rõ ràng là Sư phụ tôi đã tu đến cái mức cao thâm rồi. Sư phụ đã chỉ dạy cho tôi cái pháp gọi là “Ngũ hành tương sanh tương khắc” để đỡ đạn, không bị đạn vô trong người. Sư phụ còn cho tôi biết, khi mình khấn vái cái gì mình không cần phải nói ra bằng miệng, mình chỉ nghĩ trong tư tưởng rồi chấp tay làm thinh khấn vái thì cái lời khấn cầu của mình sẽ tới người nghe liền, chỉ nhìn cái tư tưởng của mình là người ta biết ngay chớ không cần phải nói ra bằng lời. Luyện pháp “Ngũ hành tương sanh tương khắc” là để khi đạn bắn vô người thì nó bị trợt ra ngoài, nhưng muốn luyện cái pháp môn nầy phải mất công phu nhiều lắm.

Sư phụ tôi là người không những biết pháp mà còn biết bùa chú nữa. Chẳng hạn như có hôm, đang ngồi nói chuyện trong bàn tròn trước sân am của ông thì có một anh du đãng người Tàu say rượu bước vô nói bậy, nói bạ rồi tự kéo ghế ngồi. Sư phụ tôi nói: “Chú đi ra ngoài chơi !” Nó nói: “Ngộ không có li !” Ông đưa cái tay lên như vầy (giống như tung chưởng ra) tức thì tên nầy bật ngửa ra sau lăn mấy vòng, hoảng hồn chạy tuốt ra ngoài. Còn bên trong am, tôi có cho ông một cái bàn viết bằng sắt của Mỹ với cái ghế còn rất mới, ở phiá sau lưng ông có một cái tượng Phật bằng vàng do người Tàu đem cúng, nặng năm lượng để lộng trong một cái hộp bằng kiếng, khiến ai nhìn cũng ham muốn. Nhiều đứa ăn trộm tới định đánh cắp nhưng khi vừa đưa tay ra thì đứng ngay tại đó luôn cho tới sáng, đợi ông thức dậy xin tha mạng. Ông đưa tay giải bùa cho nó, nó té xỉu xuống đất nằm một hồi rồi tỉnh dậy chạy đi, nên thấy ông Phật bằng vàng mà không ai ăn cắp được.

Còn tiền của ông để hai bên hộc bàn không bao giờ khóa mà không ai dám ăn cắp. Ông chuyên môn chữa bá bịnh, bịnh nào ông chữa cũng hết. Tuy nhiên, bịnh nào không chữa khỏi thì ông nói chữa không được, ông nhìn mặt bịnh nhân là biết chữa được hay không (người Tàu trong Chợ lớn tin ông ghê lắm), bịnh mà mấy Bịnh viện chê đều đem tới cho ông. Tôi đã chứng kiến việc nầy nhiều lần, ông hỏi người bịnh đang nằm ngáp ngáp, ông vừa hỏi vừa lấy tay rờ lên trán rồi ông để hai ngón tay dưới lòng bàn chân bấm vô một lúc là thấy hết ngáp ngáp. Ông nói: “Ngồi dậy !” là bịnh nhân tức thì ngồi dậy. Kế đó, ông hỏi thẳng bịnh nhân bịnh tình thế nào rồi viết cho mấy toa thuốc, căn dặn kỹ lưỡng cách cho uống như thế nào. Nhưng trước khi chữa bịnh, ông thường đặt vần đề tiền, ông bảo đảm bịnh nầy có thể chữa sống hai năm nữa hay sáu tháng nữa hoặc một năm nữa.

Ông thường nói thẳng vấn đề tiền bạc nếu thân chủ đồng ý là ông chữa, tùy theo căn bịnh mà ra giá, có thể là năm trăm ngàn hay tám trăm ngàn hoặc hơn nữa và cũng tùy theo kinh tế của gia đình người đó. Mà hễ khi nói đến tiền là phải chạy ngay về nhà đem tiền đến thì ông mới chịu chữa, thường thì người giàu lấy nhiều còn người nghèo thì lấy ít. Khi nhận tiền, ông không cần đếm lại cứ thẩy vô hai hộc tủ đó. Số tiền nầy ông không xài, ông có một lô đệ tử nghèo khổ đang làm thuê vác mướn, nếu vợ con gặp đau yếu thì tới ông, ông chữa trị giúp cho mà còn đưa tiền để về nhà lo chạy gạo hoặc mua thuốc. Đám nghèo khổ tới chữa bịnh đều được ông cho tiền.

Có một việc ông làm cho tôi sợ là từ năm 1970 đến 1974, mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy là tôi phải đi vô am của ông, đem ông vô nhà sau tắm rửa cho ông. Lúc bấy giờ ông già lắm rồi, người của ông còn chừng hơn hai mươi ký lô còn cái vòng bụng của ông từ đằng trước ra phía sau lưng thì không bằng một gang tay. Thân thể ông chỉ như bộ xương vì từ năm 1970 đến năm 1974 ông không còn ăn gì nữa nhưng đi đứng vẫn bình thường, mỗi ngày chỉ uống mấy tách nước trà vậy thôi.

Mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy từ năm 1970 tới năm 1974 là tôi phải vô tắm cho ông (mỗi năm chỉ tắm một lần). Tôi kỳ rửa bằng sà bông sạch sẽ rồi đưa quần áo cho ông mặc vô, sau đó ông nằm lên “đi-văng” đặt ở phòng khách rồi đắp mền lên người. Ông nằm dài ngay ngắn ra đó thẳng hai tay hai chân rồi niệm “Nam mô A Di Đà Phật” ba lần, rồi từ từ làm thinh luôn. Ông đã dặn tôi trước đó, là: “Thầy sẽ chết giả 49 ngày”. Việc nầy bắt đầu từ năm 1970, thành ra tôi phải cho người nhà tới canh chừng 24 trên 24 giờ và giữ nhà cho ông. Tôi sợ bị chuột cống lên cắn ông nên phải lấy mùng giăng cho ông trong thời gian nằm đó. Khi ông nằm như vậy một lúc, tôi rờ thử lỗ mũi thì thấy ông đã hết thở, còn thân thể tới chiều thì xám xịt và đến ngày hôm sau là lạnh ngắt như cái xác chết.
Đúng 49 ngày sau lúc 12 giờ trưa thì người trực ở đó cuốn mùng lên, lấy mền ra thì xác ông vẫn nằm nguyên đó, nhưng từ từ tôi thấy mấy ngón tay ngón chân của ông bắt đầu nhúc nhích. Sau đó, ông ngồi bật dậy, lấy hai bàn tay chà lên mặt mấy cái rồi cười “hả hả” trở lại tươi tỉnh bình thường như cũ. Lúc ông chết giả, tôi có đưa Bs. Khả tới thử nghiệm. Ông Khả đem máy móc y khoa tới, ông dùng máy đo áp suất máu (tâm động đồ) thì chỉ thấy một đường chạy ngang tức là tim không còn đập, nhưng khi dùng máy đo Encephalogram kiểm soát bộ óc coi có còn làm việc hay không thì thấy nó chạy bình thường giống như người đang nằm ngủ. (Bác sĩ Khả lúc bấy giờ cũng là đệ tử của ông).


Tới tháng Giêng năm 1974 thì ông nói trước: “ Ngày Rằm tháng Bảy nầy, Thầy sẽ về núi”. (về núi tức là chết thiệt). Ông nhắn cho 12 người Đại đệ tử phải có mặt đầy đủ ở bên ông. Đến chừng đó, tôi mới biết tôi là người Đại đệ tử thứ 12. Ông hẹn 10 giờ mới được gặp mặt, ai tới trước cũng không được vô. Đúng 10 giờ, chúng tôi bước vô thì ông ngồi dậy với tư thế xếp bằng. Ông nhắn nhủ rằng: “Cái đời khổ sắp tới rồi ! Các con phải rán giữ gìn tâm ý, làm điều thiện và lo tu hành”.

Ông còn nói thêm một câu nữa: “Trước khi đi về thế giới khác, các con nên biết là 49 ngày của 4 năm sau cùng nầy, Thầy đã đi về cõi khác (Thầy để cái xác nằm ở đây nhưng linh hồn về cõi khác), đường đi nước bước là Thầy rành lắm, nơi cõi khác đó, nơi thế giới khác đó đều có mặt những vị đã tu thành chánh quả. Qua sang năm (tức năm 1975) thì miền Nam sẽ gặp đại nạn. Người nào tiền nhiều thì tội nhiều, người nào chức trọng quyền cao chừng nào thì tội càng nặng chừng nấy. Hòa thượng, sư sãi, ni cô, cha cố, dì phước tất cả mọi người đều phải tự cày cấy, trồng trọt mới có cái ăn. Dân chúng không còn có khả năng cúng dường nữa và cái đại nạn nầy sẽ trên dưới 30 năm rồi cơ trời mới chuyển, tự nhiên cái nạn nó mới hết”. (Khi Thầy tôi nói “trên dưới 30 năm” thì phải hiểu theo Toán học: trên 30 năm là 35 năm, dưới 30 năm là 25 năm, khoảng 10 năm đó là con số “du di” lên xuống cho nó chẵn. Năm nay là 32 năm rồi thì hy vọng 3 năm nữa mới hết cái đại nạn).

Sau khi nói xong câu nầy thì Thầy cho phép đệ tử mỗi người được hỏi một câu hỏi. Bắt đầu là Đại đệ tử thứ nhứt được lên hỏi, mà muốn câu hỏi không cho người khác biết nên phải kê miệng vô lỗ tai ông nói nhỏ rồi kê lỗ tai vô ngay miệng ông để nghe câu trả lời. Người Đại sư huynh của tôi là một ông Lục người Cam-pu-chia, ông ở đâu dưới miền Nam đến khi ông tới đây, tôi mới được biết. Lúc đó ông đã hơn 80 tuổi rồi, vì là người Việt gốc Miên nên nói được tiếng Việt. Sau khi nghe Thầy trả lời, ông chắp tay xá một cái rồi đi xuống ngồi yên lặng ở đó, kế đó, tất cả mọi người tuần tự đi lên. (Bữa đó, Bác sĩ Khả được ông Thầy cho phép nên cũng có mặt. Bác sĩ Khả chỉ là đệ tử người sư huynh của tôi vì cũng muốn học môn nhịn đói).

Tôi là người Đại đệ tử cuối cùng nhưng nhường Bác sĩ Khả lên trước. Ông Khả lên đặt miệng vô lỗ tai ông Thầy hỏi một câu, sau đó định kê lỗ tai vô miệng Thầy để nghe trả lời thì ông Thầy lấy tay đỡ mặt Bs. Khả ra rồi nói lớn lên câu: “Phụ mẫu tại đường bất khả viễn du”. Ông Khả nghe xong quỳ xuống xá một xá rồi đi xuống ngồi yên. Đến lượt tôi lên, tôi hỏi nhỏ: “Thưa Thầy ! Nếu cái chuyện nó xảy ra như Thầy nói, con phải làm sao ?”. Ông nói nhỏ trong lỗ tai tôi rằng: “Con nghĩ sao, con làm vậy.” (có nghiã là lúc cái đại nạn nó tới, tôi nghĩ sao thì tôi làm vậy).

Vì vậy, khi gần tới ngày 30 tháng Tư năm 1975 tôi đã cho vợ con tôi lên máy bay đi Mỹ trước theo đám Cố vấn Mỹ mà không cần giấy tờ gì hết, vì lúc đó tôi đang làm Thứ trưởng của Phủ Quốc vụ khanh đặc trách cứu trợ nạn nhân định cư. Tôi nghĩ, tôi có khả năng nhịn đói cả tháng nên có thể vô rừng ở hoặc đi bộ qua Thái Lan cũng dễ dàng nên quyết định ở lại. Cuối cùng, như một phép lạ tôi được đưa lên trực thăng tại DAO ở Tân sơn Nhứt bay ra hạm đội Mỹ vào giờ thứ 25 với tư cách là một Mục sư Tin lành chớ không phải là một Thiếu tướng của Quân lực VNCH.

Thử nghiệm máy bay tàng hình F-35B lần cuối trước khi được phép chính thức cho phi hành vào tháng bảy năm 2015. J31 của "con trời" cứ tự do chuẩn bị bảo vệ tổ quốc.







LÍNH ĐÁNH THUÊ (Lơ Bạt Ti Dăng)





Tàu Cộng chơi cha







Trương Duy Nhất nói về Điếu Cày




                                        


Câu Chuyện Gián Điệp - Tác giả Trần Khải





Có gián điệp VC ở hải ngoại hay không? Tất nhiên là có, vì bất kỳ chính phủ nào rồi cũng phảỉ gài gián điệp ở khắp mọi nơi có thể để theo dõi. Do vậy, gián điệp VC hẳn nhiên là có, và có thể được chỉ huy trực tiếp từ Tòa Đại Sứ CSVN ở thủ đô Washington DC, hay từ Tòa Lãnh Sự ở San Francisco.

Chúng ta cũng có thể ngờ vực rằng, vì thành phố Riverside láng giềng của chúng ta đã kết nghĩa với Cần Thơ, có thể Tổng Hành Dinh Sở Gián Điệp VC Hải Ngoại sẽ đặt ở thành phố này, nơi chỉ cách thủ đô tỵ nạn Little Saigon có 40 phút lái xe.

Câu chuyện gián điệp trong thời điểm 40 năm Miền Nam thất thủ còn được hâm nóng bằng cuốn tiểu thuyết “The Sympathizer” mới ấn hành trong tháng 4-2015 của tác giả Viet Thanh Nguyen.
Tiểu thuyết này viết bằng tiếng Anh, vì tác giả là thế hệ trẻ lưu vong.

Cốt truyện ghi rằng vào tháng 4-1975, Sài Gòn chao động. Tại biệt thự của ông, một tướng lãnh quân đội VNCH với sự giúp đỡ của viên đại úy tin cẩn ngồi soạn danh sách những người sẽ lên chuyến bay cuối để rời bỏ Việt Nam.

Tiểu thuyết này nói rằng ông tướng này và những người thân bắt đầu cuộc đời mới ở Los Angeles, mà không biết rằng một tay thân tín của ông, viên đại úy kia, đang bí mật theo dõi và báo cáo mọi chuyện về cho cấp chỉ huy ở Việt Nam.

Tiểu thuyết này kể về viên đại úy có cha là một người Pháp, mẹ là người Việt. Viên đaị úy này đi du học đaị học ở Mỹ, nhưng trở về VN để chiến đấu cho “lý tưởng Việt Cộng.”

Dĩ nhiên, tiểu thuyết này cũng lồng vào tình yêu để làm men cho đủ thứ gay cấn: chiến tranh, tình báo, Việt Cộng, nhan sắc…

Chúng ta không biết tiểu thuyết kia có bao nhiêu phần trăm sự thực -- chỉ biết tác giả Viet Thanh Nguyen, cũng là một giaó sư văn chương ở một đại học Hoa Kỳ tại California, trả lời báo Mỹ rằng ông có dựa vào một phần sự that.

Chúng ta có thể tin là những gián điệp tương tự đang gài ở Bolsa hay không?

Câu trả lời là chắc chắn có gián điệp, vì thế nào VC cũng phải gài vào các hội đoàn để quan sát và báo cáo về Hà Nội.

Nhưng chớ nghĩ rằng gián điệp VC là răng hô mã tấu, là những người nói rặt giọng Nghệ An hay giọng Bắc kỳ 75… Họ cũng không hẳn là những người nói nhầm chữ “n” với chữ “l” hay tương tự.
Họ có thể là chính một số người Miền Nam chạy ra ngoài (như tiểu thuyết kia nói), nhưng cũng có thể là những người về thăm quê nhà và sập bẫy tình trong cac1 khac1h sạn và bị quay phim để bắt chẹt. Họ cũng có thể là con, là em của những ngườic hống cộng, và hốt nhiên bị nhồi sọ về “giấc mơ hòa hợp hòa giải,” và có lẽ rất nhiều người trong họ đã rơi vào bẫy tiền, lún sình trong nợ nần, không rút chân ra được, thế là phải làm gián điệp. Nói chung là đa dạng.

Nhưng tận cùng, hãy từ bi với nhau, vì họ chỉ là những quân cờ tội nghiệp… Khi có một vận hội mới cho dân chủ tại Việt Nam, họ sẽ tỉnh ngộ và sẽ đứng về hang ngũ dân oan và người dân chủ.

Xin chú ý, gián điệp tại Bolsa khơng hẳn chỉ là người Việt.

Bởi vì tại cộng đồng gốc Á, luôn luôn có cuộc chiến gián điệp giữa quốc-cộng Trung Hoa. Ngắn gọn, là giữa Đài Loan và Trung Quốc.

Báo Đài Loan Want China Times tuần này ghi lời Lin Chong-bin, Cựu Thứ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan, rằng TQ đang tăng tốc hoạt động tình báo chống Đài Loan, một phần để làm cho Mỹ do dự về việc chuyển giao kỹ thuật quân sự cho chính phủ Đài Loan vì lo sợ gián điệp Tàu sẽ trộm và chuyển kỹ thuật quân sự về cho Bắc Kinh.

Lin nói như thế trong một diễn đàn tổ chức bởi viện nghiên cứu có tên là Center for Asian Policy của đại học National Tsing Hua University hôm 16-4-2015.

Lin nêu ra vụ bắt giam năm ngoái gián điệp Hoa Lục Zhen Xiaojiang, cựu sĩ quan của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân (nghĩa là quân đội Tàu Cộng).

Đây là trường hợp hiếm: Đaì Loan bắt được 1 gián điệp sinh trưởng từ Hoa Lục. Bởi vì thường là, hầu hết gián điệp làm cho Bắc Kinh bị Đài Loan bắt được là công dân Đài Loan bị Tàu Cộng tuyển mộ để làm gián điệp.

Lin cũng nêu ra là một số nhà quan sát Tây Phương thúc giục Mỹ dè dặt khi chuyển kỹ thuật quân sự cho Đài Loan vì có thể rơi vào tay Tàu Cộng.

Bởi vậy, chuyện gián điệp tất nhiên là có, nhưng sẽ không nhiều tới mức ngồi đầy phố Bolsa. Gián điệp Việt Cộng có, Tàu Cộng có… nam có, nữ có…

Gián điệp có khi ngồi từ xa tận Hà Nội, thủ thỉ với người hải ngoại hàng đêm trên mạng PalTalk, hay các chat room nào đó.

Gián điệp Tàu Cộng cũng thực tế đang ngồi đầy Hà Nội, chứ không riêng gì ở Đài Bắc hay Bolsa…
Một bản nghiên cứu của công ty FireEye, nơi chuyên nghiên cứu cách phá tường lửa của Tàu Cộng, cho thấy rằng chính phủ TQ liên tục bủa vây do thám mạng đối với Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Có nghĩa là, Tàu Cộng cũng do thám Việt Cộng liên tục.

Bản nghiên cứu nói do thám mạng trong hình thức này của TQ ít nhất là có từ năm 2005, và “tập trung vào các mục tiêu -- cả chính phủ và thương mại -- những thông tin và người nắm các chức vụ quan trọng về chính trị, kinh tế và quân sự trong khu vực.”

Đồng tác giả bản nghiên cứu là Bryce Boland nói là các vụ đột kích mạng của Tàu Cộng vẫn không hề ngơi nghỉ.

Nghiên cứu này nói nguồn đột kích mạng được tin là từ chính phủ Trung Cộng.

Bởi vậy, phảỉ cảnh giác. Không chỉ là gián điệp bàn phím… mà gián điệp này cũng có thể là một nhan sắc bạn đã gặp trong chợ hoa trước thương xá Phước Lộc Thọ.

Cẩn trọng là tốt vậy.


Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015

SỐ PHẬN




– Anh yêu, có đúng là Chúa đã ban em cho anh không?
– Đúng, nhưng anh không hiểu là do anh đã phạm lỗi gì?



Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Cực Kỳ Sốc khi xem ba tấm ảnh bên dưới




Trần Vũ viết:

"Hôm nay, trước lấn đất lấn biển đã diễn ra, không dân Việt nào không ưu tư khi nhìn vào báo quân đội của quốc gia. Trước hiểm nguy Hán thuộc kề cận, đã áp sát, đã nhìn thấy, đã chứng kiến trong bất lực sự kiện xâm lược giàn khoan, dân chúng không thể không đặt câu hỏi: Vì sao phải cần 1 thiếu tướng làm Tổng biên tập tạp chí Quốc phòng Toàn Dân với 2 đại tá quyền phó Tổng biên tập; và 1 thiếu tướng với 3 đại tá cùng 1 thượng tá phụ trách biên tập báo Quân Đội Nhân Dân cho một nội dung không chuyên ngành mà thường thức như trăm báo dân sự khác? Trống vắng tranh luận và hoang vu thao thức càng làm nảy sinh những câu hỏi khác: Vì sao tiếng nói của các sĩ quan trẻ ưu tú đang quan tâm đến tình hình đất nước không được cất lên trên chính diễn đàn của họ? Vì sao những lo lắng cho biển cả của tổ tiên đang bị cướp giật không được hiện diện trên trang Quân chủng Hải quân của chính tập thể đang mang trọng trách bảo vệ vùng biển ấy?

Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy. Nhìn vào tạp chí Quốc phòng Toàn Dân và báo Quân Đội Nhân Dân trông thấy kiểm duyệt. Một kiểm duyệt mang tính tội ác, vì là tội của Lê Chiêu Thống."










Cây Búa, Con Người, Và Con Bò - Tác giả: Đinh Từ Thức



Theo tin BBC ngày 21 tháng 05, 2015, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Antony Blinken nói tại thành phố Hồ Chí Minh rằng Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama ‘rất mong’ đón Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Phát biểu tại Trung tâm Hoa Kỳ, Lãnh sự quán Hiệp Chủng Quốc, TP HCM,  hôm 19/5 trong khuôn khổ chuyến thăm hai ngày tới Việt Nam, ông Blinken nói:

"Tổng thống Obama rất mong được đón tiếp Tổng bí thư [Nguyễn Phú Trọng] ở Washington. Đây là chuyến đi lịch sử. Đó là chuyến thăm đầu tiên của một Tổng bí thư tới Washington và Hoa Kỳ. Tôi nghĩ nó sẽ gửi đi thông điệp mạnh mẽ cho thế giới rằng các cựu thù, vốn đối đầu trong cuộc chiến khó khăn và gây biết bao đau khổ, có thể trở thành bạn."


clip_image002
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đang cầm cờ Đảng Cộng Sản VN

Chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng, khi được thực hiện, đúng là chuyến đi lịch sử, vì từ khi lập quốc, Hoa Kỳ đã từng đón tiếp nhiều vua chúa, quốc trưởng, tổng thống, thủ tướng, nhưng chưa từng đón tiếp một Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản. Hơn thế nữa, ngày 24 tháng 8, 1954, Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ còn thông qua đạo luật coi hoạt động cộng sản là bất hợp pháp (Communist Control Act). Đạo luật này nói rõ, Đảng Cộng Sản, tuy hình thức là một đảng chính trị, nhưng thực chất là một tổ chức hoạt động theo lệnh ngoại bang, nhằm mục đích cướp chính quyền bằng bạo lực, để thiết lập chế độ độc tài.

Chính vì luật lệ chống cộng của Mỹ, vào năm 1959, Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô Nikita Khrushchev đã phải vận động khó khăn mới được Tổng Thống Eisenhower đồng ý đón tiếp. Tuy nhiên, vào năm 1958, khi Nikolai Bulganin bị mất chức Thủ Tướng, Khrushchev kiêm luân chức vụ này, thành ra, ông tới Mỹ với tư cách đứng đầu Chính Phủ Liên Xô, không với tư cách Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản. Người tương nhiệm đón ông, Tổng Thống Eisenhower, với tư cách đứng đầu Chính Phủ Hoa Kỳ, không với tư cách người đứng đầu Đảng Cộng Hoà. Điều này không gây trở ngại cho nghi lễ ngoại giao: Ngày 15 tháng 9, 1959, Mỹ đã đón tiếp Khrushchev bằng nghi lễ dành cho một quốc trưởng, với 21 phát đại bác (đúng ra, hàng thủ tướng chỉ được 19 phát – nhưng Khrushchev muốn 21, Mỹ cũng chiều), và quốc kỳ Liên Xô được trưng bầy cùng với quốc kỳ Mỹ.

Cũng vậy, vào cuối tháng Một đầu tháng Hai 1979, Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) tới thăm Mỹ, tuy là nhân vật quyền thế nhất Trung Quốc thời bấy giờ, ông ta không tới với tư cách Tổng Bí Thư. Đặng Tiểu Bình đã tới Mỹ bằng chức vụ chính thức là Phó Thủ Tướng Chính Phủ (Vice Premier), một địa vị cũ ông từng đảm nhiệm từ năm 1952, thời còn Thủ Tướng Chu Ân Lai. (Trong một cuộc đón tiếp, Tổng Thống Carter đã nói nhầm “Vice Premier” thành “Vice Minister”, rồi cố chữa lại).

Khi hai chức Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nước Trung Quốc còn riêng rẽ, vào mùa Hè 1985, Lí Tiên Niệm (Li Xiannian) đã tới Mỹ với tư cách Chủ Tịch Trung Quốc, được Tổng Thống Reagan đón tiếp, không có vấn đề gì, vì tuy thực tế họ Lí ít quyền hơn lãnh tụ Đặng Tiểu Bình và Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang (Hu Yaobang), nhưng trên danh nghĩa, ông đại điện cho cả nước. Từ khi Tổng Bí Thư Đảng kiêm cả chức Chủ Tịch Nước, ông Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) đã tới Mỹ thời Tổng Thống George W. Bush (2006), và Tổng Thống Obama (2009) với tư cách Chủ Tịch Nước, không với tư cách Tổng Bí Thư.

Về phần Việt Nam, các ông Phan Văn Khải đến Mỹ vào tháng Sáu 2005, và Nguyễn Tấn Dũng vào tháng Sáu 2008, đều với tư cách Thủ Tướng Chính Phủ. Ông Nguyễn Minh Triết thăm Mỹ tháng Sáu 2007 với tư cách Chủ Tịch Nước. Tóm lại, Mỹ chưa từng tiếp đón nhân vật nào tới thăm với danh nghĩa Tổng Bí Thư Đảng Động Sản, dù từ Liên Xô, Tầu, hay Việt Nam.
*
Nghi lễ nào ỡ Mỹ sẽ dành cho Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, và ai sẽ đón tiếp ông?

Bản tin BBC trích lời Thứ Trưởng Ngoại Giao Blinken nói: "Tổng thống Obama rất mong được đón tiếp Tổng bí thư [Nguyễn Phú Trọng] ở Washington”. Nhưng đón với tư cách gì? Không thể dành nghi lễ đón tiếp quốc trưởng hay thủ tướng cho ông Trọng, vì ông Trọng không đảm nhiệm các chức vụ này. Cũng không thể đón tiếp ông Trọng với danh nghĩa Tổng Bí Thư, vì ông Obama không phải là Tổng Bí Thư đảng Dân Chủ, và dù ông đang làm chủ Nhà Trắng, nhưng Quốc Hội trong tay đảng Cộng Hoà. Trừ khi ông Obama muốn đón ông Trọng – cả hai người với tư cách riêng — ở nhà riêng của ông ở Chicago, hay tại quê ông ở Hawaii, thì được.

Ngoài sự không tương xứng về chức vụ giữa khách và chủ, còn có rắc rối về cờ. Trong nghi lễ đón quốc khách, nước chủ nhà trưng quốc kỳ của mình cùng với quốc kỳ của khách. Cờ đỏ sao vàng khởi đầu là cờ của Việt Minh, nhưng sau đã biến thành quốc kỳ của Việt Nam bây giờ, trong khi Đảng Cộng Sản có đảng kỳ riêng là hình búa liềm mầu vàng trên nền đỏ. Mỹ trưng cờ đỏ sao vàng đón các ông Khải, Triết, Dũng là điều hợp lý, vì các ông này đứng đầu Nước, hay đầu Chính Phủ của Nước Việt Nam. Với ông Trọng, đúng ra phải trưng cờ búa liềm (giống lá cờ ông cầm trong hình), là đảng kỳ của Đảng do ông làm Tổng Bí Thư. Nếu trưng cờ đỏ sao vàng đón ông Trọng, Mỹ sẽ phạm sai lầm: Một là đánh đồng địa vị Tổng Bí Thư cùng với những người có địa vị thấp hơn như Chủ Tịch Nước và Thủ Tướng, hai là phủ nhận biểu tượng của Đảng Cộng Sản qua hình ảnh búa liềm.

Như mọi người đã biết, cái liềm là biểu tượng của nghề nông, rất phù hợp cho nghề nghiệp của đa số dân Việt vào đầu thế kỷ 20. Cây búa là biểu tượng cho công nhân công nghiệp. Nhưng khoảng giữa thế kỷ 20, công nghiệp tại Việt Nam không đáng kể. Do đó, cây búa trên đảng kỳ Cộng Sản Việt Nam có một vai trò quan trọng hơn nhiều. Đó là võ khi chủ yếu đề hoàn thành cuộc “cách mạng thần thánh”.

Trên Facebook của Nguyễn Tuấn vào đầu tháng Năm 2015, có đăng một tấm hình do Nguyễn Lân Thắng chụp ở Bảo tàng Quân đội Việt Nam, với ghi chú nguyên văn như sau:

Cây búa dưới đây được chụp ở Bảo tàng Quân đội Việt Nam (1). Phía dưới kỉ vật có ghi như sau:
"BÚA. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, huyện đội phó huyện Mỏ Cày (Bến Tre) dùng bổ chết 10 tên ác ôn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước". Ngoài ra, còn có dòng chữ tiếng Anh:

"HAMMER. WITH THIS, CAMARADE NGUYEN VAN THANG, DEPUTY CHIEF OF MO CAY MILITARY DISTRIS, BEN TRE PROVINCE, KILLED TO DEATTS A TOTAL OF 10 LOCAL TYRANTS." (Chú ý phiên bản tiếng Anh sai văn phạm và ngữ vựng rất nhiều, nhưng không có nói đến "Chống Mỹ cứu nước").


clip_image004
(1) Người chụp là Nguyễn Lân Thắng
(Nguồn: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1437766089869846&set=a.1385818691731253.1073741828.100009094052648&type=1&theater)
Cây búa này là khí cụ đã đánh cho “Mỹ cút Nguỵ nhào”, đã được trình bầy trong Bảo Tàng Quân đội, và hình ảnh của nó trên Đảng kỳ. “Mừng Đảng, Mừng Xuân, Mừng Đất Nước”, Đảng trên Nước hai bậc, cờ Đảng trọng hơn cờ Nước, trưng cờ Nước đón TBT Đảng là hạ nhục Đảng, coi thường TBT. Để không phạm lỗi ngoại giao, Sở Nghi Lễ Nhà Trắng nên gọi sang Tầu, đặt làm ngay một lô Cờ Búa Liềm để đón TBT Trọng. Đảng Kỳ Việt “Made in China”. Perfect!

*

Tin RFI ngày 21 tháng 05, 2015, cho hay:
 
Theo hãng tin DPA, chính quyền Việt Nam hôm nay, 21/05/2015, thông báo sẽ kiểm tra các lò mổ sau khi có những lời tố giác là bò sống của Úc xuất sang Việt Nam đã bị giết bằng cách dùng búa tạ đập vào đầu.

Thông báo nói trên được ông Đàm Xuân Thành, Cục phó Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, đưa ra sau khi Thủ tuớng Úc Tony Abbot cho biết là chính quyền Canberra sẽ điều tra về cáo buộc của Hiệp hội bảo vệ súc vật Úc Animals Australia.

Hôm thứ ba vừa qua, hiệp hội này cho biết đã có được một clip video bò bị đập đầu bằng búa tạ tại một lò mổ ở Việt Nam. Theo Animals Asutralia, những hình ảnh này « kinh khủng đến mức không thể phổ biến được ». Hiệp hội này kêu gọi tạm ngưng xuất khẩu bò sống của Úc sang Việt Nam, giống như đã từng làm với Indonesia năm 2011.


clip_image006
Báo Sydney Morning Herald đăng ảnh chụp tại một lò mổ Việt Nam, ảnh do tổ chức Animals Australia gửi lên Bộ Nông nghiệp Úc

Không có hình chụp cảnh đồng chí Nguyễn Văn Thắng đã dùng cây búa được trưng bầy trong Bảo tàng Quân đội đập chết mười người như thế nào, chỉ thấy trong cảnh đập bò trên đây, cây búa giết người và giết bò giống hệt nhau. Điều này giúp chính quyền Việt Nam dễ dàng trả lời chính quyền Úc về vấn đề nhân đạo đối với bò Úc. Có thể trả lời đại khái như vầy:
Quý vị đã hoàn toàn hiểu sai lầm chúng tôi. Như quý vị đã biết qua những bằng chứng cụ thể còn được trưng bầy trong Bảo tàng Quân đội, trong cuộc chiến đấu thần thánh của chúng tôi, cây búa đã được dùng như một khí cụ để các đồng chí cán bộ của chúng tôi kết liễu đời sống của bất cứ viên chức chính quyền địa phương nào bị coi là cản trở tiến trình của cách mạng. Nói khác đi, cây búa đã được chúng tôi dùng để hoá kiếp cuộc sống của con người, khi chúng tôi thấy con người đó không thích hợp cho cách mạng. Nay, 40 năm sau cách mạng thành cộng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản quang vinh muôn năm, toàn dân đã quy về một mối, cây búa vạn năng không còn cần cho con người nữa, chúng tôi đã dùng nó cho những con bò của quý quốc. Bằng chuyển hoá tài tình này, bò của quý quốc đã được đối xử ngang hàng với người dân bốn ngàn năm văn hiến của chúng tôi. Thế mà quý quốc đã phản đối, thay vì ghi nhận thiện chí của chúng tôi, đó là sự sai lầm đáng tiếc cần sớm điều chỉnh.
*
Sau khi lãnh đạo phái đoàn Hoa Kỳ tham dự cuộc đối thoại thường niên giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lần thứ 19 tại Hà Nội, trong cuộc họp báo tại đây ngày 11 tháng 5, Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Thomas Malinowski nói ông đã nhận thấy có tiến bộ, tuy không nhiều, về hiện tình nhân quyền tại Việt Nam. Ông kể ra một vài bằng chứng như số tù nhân lương tâm trong tù đã giảm đi, và gần đây, không có vụ kết án nào mới….

Trở về Hoa Kỳ, trong cuộc gặp gỡ cộng đồng người Mỹ gốc Việt vùng Thủ Đô Washington vào chiều 20 tháng 5, tại tư gia Bác Sĩ Nguyễn Quốc Quân, trả lời thắc mắc qua một số câu hỏi về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam hiện nay, ông Malinowski tái xác nhận ông có thấy một chút tiến bộ, tuy không có gì là vững chắc, và Việt Nam cần phải thay đổi nhiều hơn nữa, như sửa đổi bộ Luật Hình Sự, để được nhận vào TPP.

Ông Malinowski đã nói đúng. Chỉ với những bằng chứng được nêu ra trong bài này, cũng đủ để chứng minh, quả thật Hà Nội đã có tiến bộ về nhân quyền: Đi từ chỗ tuỳ tiện đập chết người bằng búa, bây giờ, họ chỉ còn tuỳ tiện đánh bể mặt người bằng ống sắt, bất cứ ai bị coi là “phản động”.


clip_image008
Anh Nguyễn Chí Tuyến

Ngày 11 tháng 05, 2015, thi hành Công luật (Public Law) 103-258 do Quốc Hội thông qua và Tổng Thống Clinton ký ban hành vào tháng Năm 1994, trong khi Lễ kỷ niệm năm thứ 21 Ngày Nhân Quyền Việt Nam (Vietnam Human Rights Day) diễn ra tại trụ sở Thượng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, tại Hà Nội, như một trả lời hùng hồn cho hiện trạng nhân quyền tại Việt Nam, nhà vận động nhân quyền Nguyễn Chí Tuyến (Blogger Anh Chí) đã bị côn đồ, mà dư luận nghi là theo lệnh của công an, đánh bể đầu bằng ống kim khí. Hãy tưởng tượng, vào thời nhân quyền chưa có tiến bộ tại Việt Nam, cái đầu anh có chịu nổi cây búa tạ không?

Tám hôm sau, 19 tháng 05, 2015, vào đúng ngày Việt Nam tưng bừng kỷ niệm Sinh Nhật thứ 125 của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và cũng tại “Thành Phố mang tên Bác”, anh Đinh Quang Tuyến đã bị đánh bể mặt, gẫy mũi, bằng ống kim khí. Tội của anh là, trước kia HCM tranh đấu dành độc lập bằng cách đặt mình dưới sự sai khiến của Tầu, trong khi ngày nay anh bảo vệ nền độc lập quốc gia bằng cách chống Tầu. Cũng may mắn như anh Tuyến Nguyễn, nhờ Hà Nội đã tiến bộ từ thời búa tạ lên thời ống sắt, mà công dân Tuyến Đinh không bị chung số phận với những con bò Úc.


clip_image010
Anh Đinh Quang Tuyến.

*

Bây giờ, xin trở lại chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Vì là chuyện tương lai, chúng ta phải chờ để quan sát sự tinh tế của chính quyền Obama như thế nào, qua việc sẽ tiếp ông Trọng theo nghi lễ nào; nghi lễ dành cho một người đứng đầu nước, hay nghi lễ cho một người đứng đầu đảng cộng sản, cờ đỏ sao vàng hay cờ búa liềm…

Tuy nhiên, dù với nghi lễ nào, cũng có chuyện có thể bàn ngay từ bây giờ, đó là món quà ông Trọng sẽ tặng ông Obama. Đồ dùng hay kỷ vật bằng ngà voi, là thứ không thể tặng được nữa, vì quốc tế đã cấm. Trước nay, trong các chuyến công du, lãnh đạo Việt Nam thường có thói quen mang theo những bức hoạ khảm xà cừ hay sơn mài hình Chùa Một Cột, Vịnh Hạ Long…, những thứ này đã quá nhàm. Chuyến đi của ông Trọng có tính lịch sử, cũng nên mang theo một món quà đặc biệt, có khả năng tạo ấn tượng nơi người nhận, và gây chú ý trong dư luận nước chủ nhà.

Hãy nhìn vào lịch sử của Mỹ, để xem món quà nào do quốc khách tặng đã được chú ý nhiều.

Thời Tổng Thống đầu tiên George Washington, món quà nhận được từ nước ngoài nổi đình đám nhất là chiếc chìa khoá ngục Bastille của Pháp. Hầu Tước (Marquis) Lafayette vốn là một phụ tá của Washington trong cuộc chiến dành độc lập cho Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Về Pháp, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng 1789, Lafayette được trao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng Vệ Binh Quốc Gia, và được giữ chìa khoá Ngục Bastille (nhà tù bị dân chúng nổi dậy phá ngày 14 tháng 7, 1789, biến ngày này thành Quốc Khánh của Pháp). Tháng 3, 1790, Lafayette gửi chiếc chìa khoá Bastille tặng Tổng Thống Mỹ. George Washington rất trân trọng món quà này, ông trưng bầy nó tại phòng khánh tiết Phủ Tổng Thống ở New York. Khi thủ đô tạm đặt tại Philadelphia, ông cũng trưng bầy chiếc chìa khoá ở đây. Trước khi về hưu năm 1797, chìa khoá Bastllle được đem về tư dinh của Washington ở Mount Vernon, và vẫn còn giữ tại đó cho đến nay.



clip_image012
Chìa khoá ngục Bastille, nặng 1 pound, 3 ounces, do Lafayette tặng Washington


Món quà Khrushchev tặng Eisenhower trong chuyến thăm nước Mỹ vào tháng 9 năm 1959 là một vật làm giống hệt vệ tinh nhân tạo Sputnik thu nhỏ, đựng trong một cái hộp. Hai năm trước đó, ngày 4 tháng 10, 1957, Liên Xô đã qua mặt Mỹ trong lãnh vực không gian, bất ngờ phóng lên quỹ đạo quanh trái đất một vệ tinh nhân tạo nhỏ, hình trái cầu, đường kinh hơn nửa mét với 4 que antenna, nặng 184 pounds, mang tên Sputnik. So với ngày nay, vệ tinh này chỉ là một thứ đồ chơi, sống được có bốn tháng, nhưng hơn nửa thế kỷ trước, nó đã gây chấn động dư luận thế giới, khiến giới khoa học Mỹ mất ăn mất ngủ. Lúc đầu, Khrushchev đã định mở món quà đặc biệt này trước ống kính TV thế giới ngay khi tới Mỹ tại phi trường quân sự Andrews, nhưng sau nghĩ lại, đã chỉ trao quà tại Bạch Ốc.



clip_image014
Món quà Khrushchev tặng Eisenhower làm giống vệ tinh nhân tạo Sputnik này


Từ hai món quà của Lafayette và Khrushchev, có thể rút ra kết luận, món quà tặng của quốc khách cần mang tính lịch sử, và có giá trị áp đảo về tinh thần. Món quà để TBT Trọng tặng TT Obama gồm cả hai đặc tính trên, chính là cây búa của đồng chí Nguyễn Văn Thắng. Giá trị lịch sử ở chỗ chính nó là một di vật lịch sử đang được trang trọng trưng bầy trong Bảo tàng Quân đội, và hình ảnh của nó trên Đảng kỳ, và áp đảo ở chỗ người Mỹ nhìn thấy sẽ khiếp sợ. Nếu cho rằng cây búa này đã trở thành bảo vật quốc gia, không thể lấy ra khỏi viện bảo tàng để tặng nước ngoài, thì có thể làm quà bằng một cái khác giống như vậy, hay theo kích thước và trọng lượng nhỏ hơn, kiểu món quà Sputnik của Khrushchev, với lời dẫn cả tiếng Việt và tiếng Anh vẫn để y hệt lời dẫn của cây búa nguyên thủy. Điều này sẽ là cơ hội để TBT Đảng Cộng Sản VN khẳng định trước Hoa Kỳ và thế giới rằng: “Chúng tôi có thể không hoàn hảo trong việc sử dụng tiếng Anh, nhưng chúng tôi là bậc thầy trong lãnh vực sử dụng cây búa một cách tuỳ tiện, dù trên con người, hay con bò”.

Phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng về căng thẳng biển Đông




                                          


“Ô Mai Gót”




Việt Kiều là giống ngớ ngẩn nhất trần gian”. Tôi nghĩ thế khi ba mùa hè liên tiếp gần đây, liên tục đón cả đại gia đình các em, các cháu tôi từ bên kia bờ đại dương về lại Sài Gòn.

Năm 1975, cũng như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi cũng trong cơn chấn động kinh hoàng của lịch sử, của thời cuộc. Hai mẹ con tôi quyết định ở lại đón ba tôi đi tập kết trở về (nghe nói cũng làm lớn trong quân đội Bắc Việt và không hề nghĩ đến chuyện vợ lẽ, con thêm)… Chỉ bốn đứa em sau cùng cha dượng của tôi quyết tâm xuống tàu vượt biển.

Chuyến đi vất vả nhưng trót lọt, sau ít năm tị nạn tại Hong Kong, cả 5 được chính phủ chấp nhận định cư tại Mỹ.

Bằn bặt gần 30 năm sau thì mọi người lần lượt tìm về thăm má già và anh cả là tôi. Sau đó thấy Việt Nam tuy nghèo khổ, lệ thuộc Trung Cộng, nhưng không đến nỗi man ri, mọi rợ như trí óc họ hình dung, và còn dây mơ rễ má với mảnh đất quê hương, nên hai năm một lần, mỗi gia đình gồm cha, mẹ, và hai hoặc ba đứa con lại trở về.

Lần đầu tôi nhìn thằng cháu đích tôn gọi tôi bằng bác, hoàn toàn là người Việt , máu đỏ da vàng, không lai căng, lai kiết gì hết. Nó chào tôi, mắt dửng dưng xa lạ:

- Hai!

Tôi bất bình sửa lại:

- Hai, ba gì, mày phải gọi đầy đủ là “Thưa bác Hai, con mới về”, nghe chưa?

- Ồ, mẹ nó bênh vực: – Nó chào anh mà, “Hai”! Cũng như “hê lô” là tiếng chào bình thường của người Mỹ thôi, không phải nó bày đặt gọi tên anh đâu.

Ra vậy, buổi trưa hôm sau nó đi đâu về, mồ hôi ướt rượt trên khuôn mặt trắng trẻo, bụ sữa của tuổi …20, tôi yêu qúa, liền bảo, giọng đon đả:

- Đi ăn cơm con!

Nó trả lời bằng tiếng Việt , giọng ráo hoảnh cộc lốc:

- Chưa bây giờ !

- Trời, tôi cười phá lên, nếu nói đầy đủ phải là: “Thưa bác, bây giờ con chưa ăn ạ, vậy mà không hiểu nó nói tiếng Việt kiểu gì mà cùn cằn, cộc lốc như vậy.

Nghe tôi kể lại, mẹ nó đỏ mặt chữa thẹn:

- Thì nó quen với tiếng Mỹ mà: Not now có nghĩa là nó sẽ ăn nhưng chưa phải là lúc này. Vì có thể mới về lại nhà mình, khẩu phần ăn sáng thay đổi, không phải sữa và ốc miu (oak milk) nữa, nên bây giờ nó chưa đói.

-Lại còn thế nữa, tôi lẩm bẩm – Đúng là đồ lai căng, nửa An Nam nửa…American có khác, ai lại uống sữa với ốc miu bao giờ? Tào tháo đuổi cho thì… “quấn ra sòn” suốt ngày.

Đang chí chóe tranh luận trong nhà, tôi bỗng nghe thằng em nó gọi giật giọng:

- Mẹ! chết đuối!

- Trời đất, cả tôi và má nó té ngửa, tưởng mấy đứa mon men ra hồ chơi rồi rơi tòm xuống nước, không biết bơi nên có đứa nào bị chết rồi.

Ba chân, bốn cẳng chạy ra, cả ba chúng tôi đứng chắn ngang thằng Bé, hỏi giật giọng:

- Đâu đâu, ai chết đuối?

Thằng bé đưa tay chỉ, miệng ú ớ:

-Đó đó…chết đuối …

Điểm mặt vẫn đủ mọi thành viên trong nhà, cả tôi và em gái, cháu ruột cùng ngẩn ra rồi cười phá lên khi thấy chiếc xuồng cột ở bờ sông tự dưng bị đứt dây, trôi ra xa bờ và dần dần chìm xuống làn nước hồ mênh mông.

Thay vì mách bác, mách mẹ là chìm xuồng, thì nó la chết đuối, làm quả tim tôi bắn ra khỏi lồng ngực.

Trở lại nhà, thằng lớn lúc này mới thay quần áo, vừa thay nó vừa càu nhàu:

- Sài Gòn nóng qúa, con bắt chước bác Hai, cởi truồng vẫn cứ nóng.

Lại đến lượt anh em tôi phì cười, vì rõ ràng nó vẫn mặc quần xoọc rất bảnh trên người, chỉ cởi trần giống tôi.

Nhớ lại tối đầu tiên ngủ tại nhà, dù tôi và má đã thu xếp chỗ ngủ tươm tất cho cả 5 thành viên nhà nó. Vậy mà sáng hôm sau, đầu tóc bù xù, mắt đỏ kè, vừa ngồi dạy trên giường, ra phòng khách, nó cự nự:- Nhà này lắm chuột qúa, họ chạy lung tung suốt đêm làm con không ngủ được.

-Ôi đúng là cái giống Việt Kiều ngố, ai lại gọi chuột là họ, coi chuột như người vậy? Bốn chân phải khác hai chân chứ?

Chưa kể con út nhìn thấy bà ngoại lúi húi rửa một đống tô, chén tú hụ, nó không đỡ một tay, còn ngớ ngẩn hỏi:

-Ngoại giặt chén à, sao ngoại không giặt bằng máy mà lại giặt bằng tay vậy? Làm vậy đâu có sạch?

Trong khi bà nó ngơ ngẩn nhìn cháu gái chẳng hiểu mô tê ất giáp gì thì mẹ nó đứng đằng sau giải thích:

-Bà ngoại đang rửa chén bằng tay đó con, ở Việt Nam không có máy rửa chén như ở Mỹ đâu con à, nên đa số làm bằng tay hết.

Nó lật đật chạy về phía bếp và tỏ rõ sự thất vọng vì tuyệt nhiên không thấy một chiếc máy nào hết. Trong khi theo mẹ nó giải thích thì máy rửa chén là một bộ phận không thể thiếu được trong bất cứ gia đình nào ở Mỹ. Ngay từ khi thiết kế bếp nấu, người Mỹ đã gắn luôn chiếc máy rửa bát vào phía dưới bồn rửa cạnh vòi nước để vận hành. Ăn xong chỉ cần cho chén vào máy, đổ xà phòng vào là máy tự xúc, rửa, tráng, lau khô đến mức nóng rẫy, sạch bong mới thôi ,đâu có ướt lẹp nhẹp như chén ngoại rửa?

- Ờ, cứ cho Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu hơn Mỹ đi, nhưng làm sao nó lại có thể nhầm từ rửa chén thành giặt chén được cơ chứ? Hệt thằng anh nó vậy, bảo vào ăn cơm nó lại lật đật chạy vào phía vòi nước bảo: con phải giặt tay, giặt đầu cho cu (cool) đã …Bố ai mà hiểu được?

Cả con mẹ nó cũng thế xa nước gần 40 năm ,ở nhà đã nói tiếng Việt sành sỏi, rành rẽ rồi mà đi với tôi, nó nói gì mà cả má và tôi đều không hiểu, nếu không có thằng chồng đi kèm làm phiên dịch tiếng Việt ra tiếng … Việt:

Đơn giản má biểu:

- Con cho má ra chợ bến Thành mua ít đồ gửi về ngoải cho ông bà thông gia nghe con

Vậy mà nó trả lời:

- Con không “mếch sua” đâu nha. Bộ má tưởng ở American tụi con không “in náp” hả?

Nghĩa là, theo lời thằng chồng phiên dịch lại, vợ nó không chắc chắn sẽ đưa mẹ đi được( Make sure), vì ở bên Mỹ cả gia đình nó ở cùng nhà với bố mẹ chồng, đầy đủ hết, chẳng thiếu thứ gì ( enough)

Đang đi đường, tất nhiên là thuê taxi tự lái, vì cả nhà nó chả ai chịu đi xe ôm cả. Đường đông, người đi qua đi lại nườm nượp như mắc cửi, thỉnh thoảng con vợ lại cự nự chồng:

-Kìa “pát” đi anh, sắp tới rồi, đó đó, ở “con nờ” đó.

Tôi ngồi sau cũng không sao hiểu nổi thứ tiếng pha trộn nửa Việt Nam , nửa Mỹ của nó, nếu cậu em rể không xởi lởi giải thích :

- Dạ, ý nhà em giục em băng ngay qua đường đi (Pass), chứ chờ hết xe mới đi như ở Mỹ thì chờ đến tối cũng không xong. Còn cái địa chỉ mà vợ chồng em định đến ở ngay góc đường ( conner) anh à.

Bước chân vào khu biệt thự sang trọng (khác hẳn nhà tôi), thằng bé phát biểu:

- Ở Việt Nam toàn làm nhà bằng gạch nhỉ? Ở Mỹ nhà chỉ làm bằng củi thôi, đẹp lắm, nhưng mà không chắc chắn bằng.

- Trời! Tôi trợn mắt hỏi: – Nhà gì mà làm bằng củi, bộ nhà ở giữa rừng sao?

Ba nó cười bảo: Nhà bằng gỗ chứ con, đâu phải củi?

Nó chất vấn: – Thì “út” (Wood) mà

Hóa ra tiếng Mỹ dịch ra tiếng Việt cũng rắc rối thật, thể nào mà lũ em, lũ cháu tôi, mang tiếng là Việt Kiều mà ngố ơi là ngố, , nói bằng từ Việt Nam là ngố toàn phần , ngố đến mức ông bà, cô bác đến thăm đều nói tiếng Việt mà cả ba anh em nhà nó cứ ú ớ như vịt nghe sấm, như dã tràng nghe…tôn giáo bể. Chả trách có lúc bị gọi chệch là vịt kều.

Ngó trên, ngó dưới , trên lầu, dưới sân, em gái tôi nhấm nháy gọi tôi ra một góc vườn, bảo, giọng bồi hồi, xúc động:

- Anh Hai xem kỹ đi, biệt thự này em định mua để má và anh Hai cùng sắp nhỏ ở đó. Nhà rẻ qúa chừng, chỉ cần anh Hai nói má mạnh dạn bán căn nhà đang ở đi, dọn đến đây, thiếu bao nhiêu, vợ chồng em phụ giúp.

- Ủa- Tôi trừng mắt la lớn, khi nhớ ra gốc tích căn nhà:- Coi bộ em khùng hả?. Biệt thự này tuy đẹp nhưng gốc gác là của một tay cán bộ cộng sản cướp nhà đó. Nó không ở được nên mới tìm cách bán rẻ bán tháo, nhưng những người chủ cũ đâu để cho ai yên, đêm đêm họ vẫn kéo về mà.

-“Ô mai gót”, em tôi la: -Sao lại có chuyện lạ dzậy? Em đi từ 75 mà, em đâu biết . Anh Hai nói rõ cho em nghe được hông?

Tôi thủng thẳng kể:

- Gia đình này có 9 người, 6 trai, 3 gái cùng người mẹ già. Họ giàu lắm, vì cả 6 con trai đều là thiếu tá, đại tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Một người con gái mở tiệm vàng . Ngày 29-4, người con trai cả mang xe Jeep về để đón má, đưa cả nhà di tản, nhưng người mẹ lo cho bố mẹ già và bầy em 9 đứa ở Bắc nên do dự không đi…Khi cách mạng vào, họ bị kiểm kê tài sản và dĩ nhiên là mất trắng. Bà mẹ lúc này mới hiểu rõ bản chất của cách mạng, đặc biệt qua xum họp gia đình, biết bố mẹ đã bị đấu tố trong cải cách rụộng đất, chết tức tưởi, các em ai cũng nghèo nàn túng kiết, nên cố giấu 10 lượng vàng dung thân. Không ngờ tay công an ở kế bên rình mò theo dõi và cũng giỏi “bắt nọn” đã bắt bà phải khai ra số vàng cất giấu, dù bà van lậy như tế sao, đưa nó một lượng , coi như cống nạp, vậy mà nó đòi “ăn chia sòng phẳng” 50/50. Đau khổ, uất hận bà đành phải đưa thêm 4 cây vàng cho nó…

Vậy mà vẫn không yên. Thấy căn biệt thự của bả đẹp, nó tuy chỉ là phó đồn công an phường, một vợ một con, đã có căn nhà hai tầng , tổng cộng 100 m2 , vẫn rắp tâm cướp không căn nhà của bà. Lấy cớ kiểm tra hộ tịch, nửa đêm nó dựng cả nhà dạy, cho quân lục soát, khám xét, xem có giấu vàng ở đâu không? Vàng không có nhưng hở tờ tiền đô nào nó cũng cướp, vì cho đó là tiền của đế quốc Mỹ…Bị o ép, dồn nén đến ngạt thở, một đêm cuối năm 1979, cả nhà bà bảy người liều lĩnh vượt biên (ba anh con trai đang học tập cải tạo), vài hôm sau, xác nổi lên cùng 193 người nữa ở mũi Cát Lái, nó lấy cớ “ bảo quản nhà vắng chủ”, dọn sang ở, rồi chiếm luôn…Dù đã phải cống nạp cho thủ trưởng , mua chức mua quyền, không còn là cấp phường nữa mà là cấp quận , thành phố , nhưng đêm nào nó cũng gặp ác mộng. Lúc thì bà chủ nhà về đòi nó trả lại 5 cây vàng. Lúc thì con gái bà trừng trừng nhìn nó trong đêm (Khi nó cho quân kiểm kê, niêm phong tiệm vàng), rồi vợ chồng nó cãi cọ, ly hôn, 3 đứa con nó, đứa lành lặn thì bỏ học, đua đòi , ăn chơi trác táng, đứa đui què sứt mẻ, cả khuôn mặt có đủ các bộ phận tai, mũi, mồm, chỉ trừ đôi mắt. Làn da trắng nhợt kéo thẳng từ trán xuống đến sống mũi trông ngây độn, kỳ quái…

Biết là bị quả báo, nó sợ hãi bán tống bán tháo cho người khác, nhưng người này ở chưa đầy một năm cũng luôn gặp ác mộng nên bỏ không cả mấy năm trời rồi tiếp tục sang tên chủ mới. Từ đó đến nay, đã 30 năm, căn nhà này có tới cả chục chủ, nhưng chả ai ở quá 3 năm ,dù cúng giỗ cầu siêu, xây miếu thờ v.v vẫn trong cảnh thấp thỏm, lo âu. Trong khi giá nhà đất lên vèo vèo thì giá nhà này vẫn đứng yên.

Nghe tôi nói, em tôi lè lưỡi:

- “Ô mai gót”, em tưởng nhà sạch thì mua, chứ gặp “nai me” thường xuyên thì chết à?

- Ồ tôi ngán ngẩm giải thích, nhà rộng, sạch sẽ, sáng sủa nhưng giữa thành phố thì làm gì có nai hả em?

Chồng nó đứng phía sau từ lúc nào, nghe tôi nói vậy liền cười tủm tỉm đỡ lời:

- Nightmare là gặp ác mộng ấy chứ anh. Nếu có nai thật thì tốt qúa rồi, đâu có gì phải sợ? Ngày hai vợ chồng và 3 đứa con trở lại Mỹ, tôi và má mua một túi quà cho nó, trong đó không thể thiếu được món ô mai, món mà hồi nhỏ nó rất thích và thường ngước đôi mắt to tròn, đen ánh lên hỏi mỗi khi hai mẹ con đi xa về:

-Má , má và anh Hai có mua ô mai cho con không má?

Còn bây giờ sau gần 40 năm trở về, đầu hai thứ tóc mà hơi một tí là nhắc: “Ô mai gót”. Tuy không biết quả gót là quả gì nhưng cứ nghĩ đến số quà nó đem từ Mỹ về, nào chà là, nho khô, hạt dẻ cười, táo tàu, v.v hai mẹ con lại động viên nhau phải kiếm cho bằng được để làm quà cho nó cũng như ông bà thông gia, gọi là “hương vị quê hương”

Tìm khắp chợ Bến Thành rồi các chợ xung quanh cả tuần lễ liền, không ai biết quả gót là quả gì. Ai cũng bảo: “Ở Việt Nam chưa bao giờ nghe thấy, chắc ở tận bên tàu, chứ Việt Nam chưa hề nhập về”.

Khệ nệ trở về trên chiếc xe máy cũ kỹ, nhìn thấy túi quà, đủ các loại ô mai xấu, ô mai cóc, ô mai me , ô mai khế, ô mai mơ v.v mỗi túi một cân, cả nhà phát hãi , không khảo mà xưng cùng la tướng lên: “Ô mai gót”.

Má tôi ngại ngùng giải thích:

- Không có ô mai gót đâu con, má biết mày thích loại đó, nên ngày nào cũng nhắc tới, mà má tìm rạc cẳng không có con à.

Đang mải mê sắp xếp đồ đạc cùng sắp nhỏ, bỗng dưng nó cười chảy nước mắt , thay vì ôm chồng lại ôm chầm lấy má:

- Ôi má ơi, con nói tiếng Mỹ mà. Oh, my god, nghĩa là “chúa ơi” , đâu phải con thèm ô mai mà má và anh mua nhiều thế này, cả nhà con ăn bao giờ cho hết? Với lại xách nặng thế này, con đem lên máy bay sao được hả má?

Đến nước này, thay vì kêu chúa như nó vẫn làm, tôi buộc phải kêu trời khi nhận ra sự nhầm lẫn tai hại của mình: Đúng là vịt kìu, sao nó không nói tiếng Việt thuần chủng là “trời ơi”, “chúa ơi” mà lại nhập khẩu cái tiếng Mỹ chết tiệt ấy để tôi hiểu lầm cơ chứ. Oh, my god!