khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Đói Khát Thời Hàn Vi - Tác giả Nguyễn Tuấn Khoa


Tôi và Khang An Nguyen chọn một góc lặng để lắng nghe các bạn hát Karaoke trong buổi picnic của VTT 1971 ở Cần Giờ. Giọng sâu lắng của Oanh Bamboo Bamboo đã đưa hai đứa tôi trở về ký ức thời sinh viên gian khổ: 

“Hà nội ơi những ngày thơ ấu trôi qua,

Mái trường phượng vĩ dâng hoa

… những ngày xa vắng bên sông…”

Hết thảy bạn bè tôi ai cũng có một thời hàn vi chông gai với những kỷ niệm giấu kín cùng những kỷ niệm có thể chia sẻ được. Nếu không ngồi với Khang hôm nay, có thể những câu chuyện này sẽ dần quên lãng theo thời gian.

Thời đó sinh viên ngoại trú của trường BK ăn trưa ở nhà ăn B10 trong trường. Giao Truong, Khang An Nguyen và Khoa cũng vậy. Ngày thứ Sáu cuối tuần là ngày được ăn ngon với thịt hoặc cá nên gương mặt của mọi người thấy hân hoan. Không khí nhà ăn nhộn nhịp khác thường. Tới giờ ăn 5 đứa không quen biết gom đủ 5 phiếu để nhận phần ăn chung. Mỗi người mỗi việc, đứa lấy chén bát đũa muỗng, đứa lấy cơm, đứa lấy canh. Còn tôi thì lấy phần thịt. Trên đường từ quầy ra bàn ăn tôi đã sơ ý làm rơi đĩa thịt xuống sàn nhà. Tan nát và vỡ vụn! Trời ơi! Tôi thấy tối sầm mặt mũi như trời đất sập dưới chân tôi. Liếc nhìn gương mặt thất vọng của 4  thằng cùng mâm, tôi hiểu rằng mình vừa gây ra một lỗi lầm tày trời. Tôi dọn sạch sàn rồi đi cửa sau lặng lẽ rời khỏi nhà ăn trong niềm ân hận tột cùng. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm được để chuộc lỗi với 4 đứa sinh viên nghèo khổ kia. Chờ mãi không thấy tôi trở lại, chắc tụi nó áy náy và khó nuốt trôi miếng cơm? Lúc đó tôi thấy thương tụi nó quá! 

Nhiều năm sau ngồi nghĩ lại, tôi thấy tôi thương tôi hơn vì ngày hôm đó học 2 buổi, tôi ra khỏi nhà từ sớm với bụng trống rỗng, không có bữa sáng, không có bữa trưa như mọi ngày và rồi phải đạp hơn 20 cây số đi-về trong cơn đói và khát đến quắt người.

Cũng vào thời gian đó, năm 1980, Trinh Doan rời giảng đường ĐH Sư Phạm Kỹ Thuật để hòa vào làn sóng người đi tìm tự do. Sau nhiều chuyến thử thách, cuối cùng nó bị bắt, thành án 1 năm và bị giam trong trại tù ở Cà Mau. Nó đã tự thay tên đổi họ, Hùng là tên mới, nên không có ai thăm nuôi, gia đình cũng không biết nó sống chết nơi nào. Nó sống nhờ hoàn toàn vào cơm tù nên bị cơn đói hành hạ mỗi ngày. Một ngày trong đội lao động nặng mới thành lập, bỗng nó và Chuan le Phuoc nhận ra nhau giữa một rừng áo tù. 

Cuộc hội ngộ của hai thằng bạn trung học VTT nơi chốn lao tù này thật hy hữu và cảm động. Không biết lúc đó tụi nó đã khóc hay cười? Hiểu hoàn cảnh khó khăn của bạn, Chuẩn mua cho Trinh một ly chè. Trinh nói ly chè trong lúc đói của thằng bạn tù đặc biệt này đã theo nó đến tận Hoa Kỳ. Hằng đêm nó vẫn ao ước có ngày tìm lại được Chuẩn.

Hôm nay là 27 Tết, lẽ ra xe từ Sài Gòn đã lên rước cả đội chúng tôi từ hôm 25 Tết rồi. Ở công trường nơi xứ rừng âm u này không ai bán thiếu cho ai. Không có gì trong bụng từ bữa trưa hôm trước, trưa nay chưa biết xoay sở ra sao? Cái khó nó ló ra cái khôn. Bỗng dưng đầu tôi lóe lên một ý hay: sang rủ lò bánh mì đá banh ăn… bánh mì! Cả team cùng hội ý một quyết định sống-còn. Nếu thua lấy tiền đâu mà chung? Đang đói sức đâu mà đá? Đá xong vừa đói vừa mệt làm sao chịu cho thấu? Lò bánh thằng nào cũng to khỏe, chịu nổi không? Tôi nói rằng đây là kế đưa lưng về sông của Khổng Minh, Ổng chưa thua trận nào!  

Hai đối thủ không cân sức như đã biết trước. Trận đấu chỉ diễn ra trên phần sân của những thằng ốm đói trong 10 phút đầu. Một cú đá phá cầu âu đã đưa trái banh đến chân tôi, đang đứng thở ở bên... lò bánh mì. Tôi dồn hết sức tàn sút vào gôn. Trái bóng méo nên bay theo quỹ đạo lắc léo. Vào! Cả đội đổ gục xuống sân. Không ai trong bên thắng trận còn sức để mừng. Bữa ăn trưa này chắc ngon nhất và đáng nhớ nhất trong cuộc đời của tôi! 

Sài Gòn, tháng Tư đen vẫn đen.

Những người chọn sống xa lạ với hệ thống đương quyền- Tác giả Trần Tiến Dũng

 

Không ai vong bản điên rồ đến mức cho rằng mình xa lạ trên chính tổ quốc mình; nhưng ai cũng có quyền là người xa lạ với hệ thống đương quyền, nhất là chế độ đó độc tài chuyên chế.
Non nửa thế kỷ từ biến cố 30-4 1975. Người Sài Gòn, dân miền Nam ở lại trong nước, số đông vẫn âm thầm hiện hữu chọn ý thức sống và cách sống xa lạ với chế độ cộng sản để bảo toàn phẩm chất gốc cội, được vun bồi bởi ý thức Cộng Hòa. Họ không thay đổi đề cầu cạnh danh, lợi tiến thân.
Có thể thống kê dân số cộng đồng người Việt lưu vong khắp thế giới, nhưng không thể biết được số lượng người Việt 46 năm qua ở lại và chọn ý thức tách mình xa lạ với hệ thống chính trị hiện hành. Nhiều người hoặc nhiều nhóm người… ở ẩn chính trị, nhưng không thể gọi họ là ẩn sĩ - bất đắc chí, bởi đơn giản chính họ chọn cho mình tư thế xa lạ với chính trị chế độ; và chọn điều kiêu hảnh đó có nghĩa là họ tự chọn cắt bỏ các ráp nối “lợi quyền chính trị” vốn là quyền của công dân ở mọi quốc gia.
Đã 46 năm, vì sao chọn xa lạ, và tin đó là điều tốt nhất cho đời thường dân? Một giáo sư đại học Sài Gòn trước năm 1975, ông kể. “Buổi họp đầu tiên của các giáo sư Sài Gòn với cán bộ tuyên huấn cấp cao từ Hà Nội vào. Tôi có đặt câu hỏi: Thưa quý ông, dưới chế độ mới, người trí thức chúng tôi có được tự do không? Vị cán bộ ấy trả lời: Tùy các ông hiểu tự do nào, hiểu tự do theo cách của chúng tôi muốn, các ông sẽ có tự do. Đó là câu hỏi đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi với chế độ.”
Mãi về sau, khi qua thời bao cấp đói khổ, chế độ mở cửa với kinh tế thị trường, con gái vị giáo sư đó làm việc ở tập đoàn nhà nước theo mô hình kinh tế tư bản. Cô được chọn ra nước ngoài học và sau đó được cấp trên quy hoạch làm cán bộ lãnh đạo với đề nghị là cô phải vô đảng. Cô về thưa lại chuyện và xin ý bố cô. Ông chỉ thản nhiên, nói. Nghỉ việc ngay. Và cô con gái cũng không chần chừ, đồng thuận với người bố.
Không chọn hiểu tự do theo cách người cộng sản muốn là phẩm chất có tầng sâu rộng hơn hẳn quan điểm và thái độ chính trị thông thường. Với người miền Nam, và phần lớn người Bắc di cư vào nam năm 1954, thì chọn lựa đó thể hiện tư thế toàn phần tinh hoa giáo dục, phẩm chất văn hóa, và nếp sống văn minh vốn trực tiếp tạo môi trường thành NHÂN của các thế hệ người miền Nam. Chọn xa lạ với chế độ mới là tư thế, dù tối thiểu nhưng ít ra giữ mình, để không hổ thẹn mà vẹn toàn tấm lòng tri ân với Đất - Trời - Người miền Nam, với lịch sử nước mắt và máu đào trong những thập niên Tự Do ngắn ngủi.
Khi chế độ chuyên chế suốt non nửa thế kỷ quyết định rằng, hình ảnh và nội dung về chế độ phải xâm chiếm công chúng không từ bất cứ ai, hệ thống cai trị đã làm tất cả để hình ảnh, nội dung tuyên truyền chiếm lòng dân với nội hàm “chính nghĩa” qua từng chi tiết tô màu, đóng dấu, Nhưng cách áp đặt tự do cho công chúng, con đường áp đặt, xâm chiếm đó sẽ dẫn đến cướp xóa mất sự thật nội tại của hàng triệu công dân miền Nam có quan điểm chính kiến riêng, dẫn tới nguy cơ diệt vong linh hồn tự do của họ.
Vì thế, thật chính đáng khi một người miền Nam chọn xa lạ với chế độ hiện hành, đó không phải là cách đóng cửa ngừng tiến hóa chính kiến; việc chọn xa lạ với chính trị chế độ, chính là mở cả không gian sự thật rằng: Không hề lụi tàn hay biến mất các giá trị định hình phẩm giá sáng rõ của một đời người trong một thời yêu và chết dưới ánh sáng mặt trời Tự do Miền Nam Việt Nam.
Vậy chọn tư thế xa lạ với chế độ thì có ích gì, khi sự kết nối - truyền thừa các giá trị chân chính nếu không bị cấm thì cũng không còn thực tế? Câu trả lời là bởi chính chế độ quyết nhồi nhét vào não trạng công dân bằng sự thật đánh tráo, dàn dựng dối trá, chính thực tế đó đã hình thành các thế hệ tiếp theo chọn thái độ và ý thức xa lạ với chính trị chế độ.
Một cô gái sinh năm 1977 mở quán cà phê nhỏ thuộc một hệ thống chuỗi thương hiệu cà phê đang thịnh hành ở Sài Gòn. Có lần cô kể chuyện với khách. “Cháu gốc dân quận tư, theo nhà chồng về Bình Dương, rồi trở lại Sài Gòn, trước khi lấy chồng cháu làm trưởng bộ phận ở một ngân hàng cổ phần. Nội, ngoại bên chồng đều là cán bộ có chức to. Ba chồng muốn cháu phấn đấu theo con đường của họ, cháu cũng muốn, nhưng mỗi lần hợp mặt gia đình thấy họ bênh chính quyền nói dối đến nhức đầu, cháu nghĩ, để có được địa vị mà phải cả đời nói dối thì thiệt sợ quá đi, đâu có đáng!”
Không phải là phong trào nhất thời, khi các thế hệ sinh sau 1975 tìm đến với không gian ký ức Sài Gòn, miền Nam. Có rất nhiều không gian quán cà phê, công ty kinh doanh, nhà riêng… bày trí đủ loại vật dụng, sách, ấn phẩm, biển hiêu, kỷ vật, nhất là âm nhạc Sài Gòn trước 1975… Người ta cho là, do người trẻ thấy tò mò và cả thấy lạ nên tìm đến phần ký ức lịch sử mà chế độ cắt bỏ ngay trong sách giáo khoa và dùng cả thời gian làm thứ thuốc tẩy xóa; nhưng những gì gần như im lặng bị hệ thống tuyên truyền bôi nhọ mà nay những người trẻ chạm vào, tiếng họ gõ vào cánh cửa tưởng như im bặt đó, không ít thì nhiều vang vọng, âm thầm tỏa ra ánh sáng giá trị thật, tuy người trẻ dưới chế độ chuyên chế có thể khó nắm bắt, nhưng chính vì là sự thật nên họ biết đó là nền dân chủ - tự do chân chính Việt Nam có thật, thuyết phục chân thật bằng phẩm chất tinh hoa từ hai nền Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
Người dựng nên nền độc lập của Ấn Độ Mahatma Gandhi, nói: "Tự do không bao giờ là đắt đỏ. Nó là hơi thở của cuộc sống. Có điều gì con người lại không từ bỏ để được sống?"
Chọn xa lạ với chế độ chuyên chế hiện hành cũng là một cách từ bỏ để được sống bằng hơi thở Tự Do sinh thành nên phẩm giá - lương tri Việt Nam.

Thứ Sáu, 23 tháng 4, 2021

Phỏng Vấn Cựu Đại Tá Vũ Quang Chiêm Về Ông Thiệu Và Ngày 30/4/1975





Tôi Đã Từng Bị Bắn Rơi Trên Miền Băc Khi Lái Phi Cơ C47 - Tác giả Cò Trắng Phan Thanh Vân


Những chiếc phi cơ của CIA Mỹ chở biệt kích ra miền Bắc đều sơn màu trắng, không có quân hiệu, số hiệu và phi công được gọi là Cò trắng.

Ngày 1-7-1961, Phan Thanh Vân nhận nhiệm vụ đặc biệt: thay phi công Nguyễn Cao Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế cho một đội biệt kích trước đó. Phi cơ của anh bị hỏa tiễn của CSBV bắn rơi ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình lúc 1g15 rạng ngày 2-7-1961, khi đang bay sát từ mặt biển vào đất liền. Phi cơ rơi xuống bãi sình lầy rồi bốc cháy. Có 10 người trên phi cơ, người chết cháy vì kẹt bên trong, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ còn lại 3 người sống sót, đều bị thương rất nặng. Sau khi bị giam giữ tại Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, ngày 15-11-1961 ba chiến sĩ VNCH bị đưa ra Tòa án Quân sự CSBV. Bản án như sau: Ðinh Như Khoa, Biệt kích Dù, 15 năm tù; Phan Thanh Vân, Trưởng phi cơ, 7 năm tù; Phạm Văn Ðăng, cơ khí viên, 3 năm tù. Phạm Thanh Vân bị 10 năm tù giam và quản thúc, sau được sang Pháp, rồi sang định cư ở Hoa Kỳ)
Chiều nay, sau khi làm xong cái giường đôi, gã chính ủy quản lý Hợp tác xã Mộc Ðồng Tiến ở thị xã Ba Vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng, nói:
- Anh nghỉ làm đi, về lán thu xếp để ngày mai về Hà Nội.
Tôi thắc mắc:
- Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà Nội có chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
- Anh đừng hỏi, đó là lệnh trên, tôi không biết lý do. Anh cứ đi, có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp hành lý mà trong lòng lo sợ: lại chuyện gì đây? Ðược đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã Mộc này đã gần 2 năm nay, ngày ngày tháng tháng lòng tôi lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng là “Giặc Lái Mỹ Ngụy”. Năm 1961, sau khi lãnh án tù 7 năm, tôi từ Hỏa Lò Hà Nội đi qua trại này, trại kia, cuối cùng là Trại tù E Phố Lu, Lào Cai, tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ người khi được Ðảng và Nhà Nước “trả tự do”, đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, “ngày động, tối điểm”: ban ngày lao động cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ…
Tối hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mình đây, tại sao lại bị đưa về Hà Nội, tại sao... tại sao...? Nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc lào. Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên bếp lửa canh nồi bánh chưng. Nếu không có cái lệnh ngày mai đi Hà Nội thì giờ này tôi cũng ngồi bên bếp với các bạn.
Rồi đêm dài cũng qua, chưa 9 giờ sáng, một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đến đậu trong sân hợp tác xã. Rồi tôi được gọi lên văn phòng. Cán bộ chờ tôi là cán bộ Toán. Ông nhẩn nha nói:
- Hôm nay tôi đưa anh về Hà Nội, rồi đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Ðảng và Nhà nước đã rất khoan hồng với anh và đã chấp thuận lời xin của người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.
Nghe nói tôi gần tắt thở, mừng đến nỗi tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài. Tôi cố bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi lập lại, nào là “anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Ðảng và Nhà nước”, nào là “anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, sống ở nước ngoài anh vẫn có thể phục vụ Tổ quốc, và để có ngày anh trở về nước phục vụ nhân dân, phục vụ Ðảng và Nhà nước”…
Ông Toán nói tiếp: “Ðây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, đây là giấy máy bay của hãng Hàng không Pháp Air France đi từ Hà Nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua. Thôi, chúng ta lên đường, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu gì không?”.
Tôi lập bập: “Dạ... Dạ... Báo cáo cán bộ..., dạ... dạ... thưa... không!”. Chân tôi bủn rủn, đi hết muốn vững. Ðâu có ngờ! Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại: “Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của hợp tác xã tặng anh, cầm theo mà ăn”.
Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường về Hà Nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật. Hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường bốc lên sau xe, nhưng tôi thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp, sáng, tưng bừng như... Tết. Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ, tôi không để ý xe đã băng qua Hà Nội lúc nào và đang trên đường đến sân bay Bạch Mai. Tôi nhìn sân bay, ngoài bãi đậu có hai ba chiếc máy bay, một chiếc kiểu Illouchine 14 của Nga, loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị cất cánh, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra. Tôi theo cán bộ Toán vào quầy hành khách trình giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay... Làm xong thủ tục, cán bộ Toán nói:
- Thôi đến giờ rồi, anh ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì tốt anh đã tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.
Tôi líu ríu: “Dạ... báo cáo cán bộ, dạ... tôi xin cám ơn!”. Tôi hối hả theo sau độ mười người nữa ra chỗ máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ áo Mao, chắc họ là cán bộ đi công tác, còn tôi thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay ôm túi bánh chưng và gói quần áo. Tôi tìm chỗ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da trắng đỏ, có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để vào buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại... ngày nào!
Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của Hàng không Nga chuyển bánh ra phi đạo, rồi cất cánh bay lên. Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nhớ đến... một chuyến bay xưa! Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm trước tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim.
Tôi nhớ chiếc phi cơ C47 trắng ngần do tôi lái đêm ấy khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển rồi vào vùng trời miền Bắc. Cả 10 anh em chúng tôi đều thần kinh căng thẳng, không ai nói với ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay rung giật mạnh, không nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì, hai tay tôi ôm cứng tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ, rồi... tôi không còn biết gì nữa!
Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng, hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang... chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn, máu, mặt tôi đầy máu, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian. Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi nghe có tiếng người văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya. Tiếng kêu: “Chết tôi, nóng quá, nóng quá, chết... tôi!”. Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, một nửa người của tôi ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt nhìn: cách chỗ tôi “đứng” vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt, những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi nửa tỉnh nửa mê, lờ mờ biết rằng chiếc phi cơ C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy! Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra lần hai, lúc này tôi đã nhìn được lờ mờ thấy khung cảnh đồng ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
Tiếng quát tháo của đàn ông, đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe đốt sáng cả một góc trời, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đến quát tháo bên tôi mà tôi vẫn “đứng im như một xác chết đứng”. Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy. Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống, gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, uống máu, ăn thịt tôi, tôi đau đớn, tôi sức tàn, tôi sợ, tôi nhắm mắt lại, rồi lại lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa: “Coi chừng, nó hãy còn sống, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm!”.
Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều... Trong máy bay lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống... với giấc chiêm bao vừa qua!
Với tay lấy cái mền đắp lên người tôi mới nhớ ra các giấy tờ mang theo, tôi lấy ra xem. Ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công an Hà Nội là giấy máy bay của Hàng không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường bay: Hà Nội, Canton, Hong Kong, Paris. Tôi nghĩ: tại sao ghé qua Quảng Ðông (Canton)? Ðó là đất Trung Cộng, nếu gặp lôi thôi, trở ngại biết làm sao? Mãi loay hoay với cả ngàn ý nghĩ lo âu, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật sáng, cho đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẩn bị đáp xuống.
Phi trường Quảng Ðông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu. Tôi xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga. Tôi tìm ngay đến quầy của Air France. Sau khi xem giấy tờ, giấy máy bay của tôi, một người Tàu, bập bẹ tiếng Pháp, nói:
- “Chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hong Kong, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền trước trong giấy của anh, chúng tôi sẽ cho anh đi Hong Kong bằng đường xe lửa, khi đến Hong Kong anh sẽ lấy máy bay đi Paris, anh theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa”.
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để ghi nhận! Nhà ga xe lửa Quảng Ðông nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người nhân viên Tàu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé rồi đưa tôi lên một toa giữa con tàu, may mắn tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, anh ta đưa tay bắt tay tôi, anh chúc tôi may mắn: “Bonne chance”. Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách theo từ khi rời Hà Nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tàu đủ loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.
Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng Ðông và Hong Kong. Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc đồng phục, một người Anh và một người Tàu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di trú (Immigration) lên toa xe để kiểm soát giấy tờ. Sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem kỹ rồi nói: “Với giấy thông hành này của CS Hà Nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) Hong Kong 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong Kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt anh và trục xuất anh về Hà Nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói không?”.
Tôi xanh mặt, lắp bắp trả lời: “Yes, yes Sir!”.
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả, tôi nghĩ thầm: “Chết cha thằng nhỏ rồi, biết lo liệu làm sao đây?”. Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong Kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền ximăng sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của Thế giới Tự do! Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak, phi trường quốc tế của Hong Kong.
“Thả cọp về rừng”, đường sá ở Hong Kong đâu có xa lạ gì với tôi, khi tôi còn lái cho Air Vietnam, nhiều lần tôi ghé qua ăn chơi ở đây. Tôi vừa đi vừa chạy, băng qua các phố xá đông nghịt người vui cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho mau đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là lúc phố xá lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé Air France, trình giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong Kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua. Người nhân viên Air France sau khi xem vé và giấy thông hành của tôi, nói:
- “Chúng tôi rất tiếc không thể cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang giấy tờ của CSBV, máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi sợ nhà cầm quyền Thái sẽ làm khó dễ anh, họ làm khó cả hãng chúng tôi vì họ đã có lời yêu cầu không được cho người Bắc Việt Nam đi trên máy bay dù người đó chỉ ghé qua Thái Lan. Tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào thuận lợi cho anh thì anh hãy đi”.
Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả, tôi thở hắt ra: “Hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi mò ra ghế ngồi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo sợ cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Sợ mà không biết phải làm sao để có thể đến Paris. Chợt có người từ đằng sau đi tới vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp: “Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, captain Air Vietnam? Ði đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?”.
Tôi quay lại, một người đẹp trong bộ y phục nữ chiêu đãi viên hàng không tươi cười đưa tay cho tôi bắt, nàng nói: “Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!”. Tôi ngỡ ngàng nhìn người thiếu phụ quen quen mà không nói được một lời, nàng huyên thuyên kể chuyện cũ. À! Thì ra nàng là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho Hàng không Ðức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, từng được tôi mời ăn, mời uống, mời nhảy mỗi khi tôi gặp nàng ở những escale Hong Kong hay Tokyo. Tôi mừng quá là mừng. Tôi vội kể sơ cuộc đời tôi trong 10 năm vừa qua và cái rắc rối lớn tôi gặp ở đây. Nghe xong nàng nói:
- “Anh đừng lo, tôi sẽ thu xếp cho anh đi Paris ngay đêm nay. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh đi trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Frankfort lúc 10 giờ đêm nay, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp cho anh tránh khỏi sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp”.
Mừng như người sắp chết được sống lại, tôi líu ríu đi theo người đẹp mà lòng xôn xao thầm nghĩ: “Sao mình may mắn được hưởng cảnh ‘thánh nhân hậu đãi kẻ khù khờ’ như vầy nè”. Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “từ Cõi chết Cộng sản tìm về Cõi sống Tự do”, cuối cùng tôi đặt chân xuống phi trường Orly, Pháp, ngày 7 tháng 2 năm 1971.

Đêm Từ Biệt Việt Nam - Tác giả Trần Hoài Thư

 

Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Đêm ấy đêm trừ tịch
Có những con người lại cách ngăn
Chào những đường thân, những lối quen
Những hàng cây rũ lá bên thềm
Chào cây cầu đá qua thành phố
Chào những bờ hiên, những cột đèn
Chào ai, lầm lũi trong đêm lạnh
Cơn gió giao mùa chớm lá xuân
Người về cho kịp đêm đoàn tụ
Ai lại lên đường. Ai lặng câm
Vẫn biết lần đi là bỏ hết
Là phủi tay. Cháy túi. Sạch trơn
Quay nhìn lại: Em còn bóng nhỏ
Ngọn đèn vàng lạnh một dòng sông
Về đi. Em nhớ đừng ôm mặt
Rồi thắp giùm anh một nén nhang
Con có hỏi anh. Em hãy chỉ
Mây dịu dàng trôi giữa mênh mông
Về đi để tiếp đời cô phụ
Tiếp mảnh hồn khô héo nhớ nhung
Mai mồng Một, cắn răng đừng nấc
May cuộc đời tươi đẹp mùa xuân
Về đi để trả bài ma quỷ
Những đau thương câm nín chất chồng
Em hãy lấy ngày này giỗ kỵ
Một ngày nào chim đã bặt tăm
Về đi, kẻo máy tàu đã nổ
Như những người ôm ngực con tim
Trong khoang chật, nghe chừng nín thở
Anh hùng đâu. Một nỗi lặng thinh
Gió trừ tịch hú dài Bãi Giá
Đập mạn thuyền, sóng vỗ buồn tênh
Đêm vượt thoát ai ngồi nín thở
Cả quê nhà, mờ nhạt hai bên
Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Một vệt mờ xa thẳm
Một chút rưng rưng bật xé lòng
Việt Nam. Tối quá, không đèn lửa
Ta ở trên thuyền ngực vỡ toang
Một nỗi buồn như đông đặc lại
Một nỗi vui oà vỡ cả hồn
Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương
Là lúc lòng dửng dưng chờ đợi
Nỗi dửng dưng buồn bã lạ lùng
Như thể trong một trời chuyển động
Một giọt sương cô độc tận cùng

US Dragon crewship launches to space station





Ai đang làm chủ cuộc chơi tại Biển Đen ?





Nạn khan hiếm chất bán dẫn gây xáo trộn công nghiệp thế giới





Tiểu thương phố đi bộ- chợ đêm Bạch Đằng chật vật đòi tiền cọc





Cầu Long Biên lộ khe nứt, xuống cấp…





Trịnh Vĩnh Bình : "Nếu muốn về VN đầu tư, phải chịu muôn vàn sự phức tạp"





Văn hóa đọc của giới trẻ Sài Gòn





Giỗ tổ tại đền Hùng Vương ở Thành Hồ





“Sự trở lại của văn học đô thị miền Nam”: Đi đâu mà trở lại? - Tác giả Tuấn Khanh

 

Hơn một năm trước, thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn Vòng tay học trò của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Với Nguyễn Thị Hoàng, thì đó rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Rồi mới đây, thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử… những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng với cuốn Vòng tay học trò vừa được tái bản, cùng sự hào hứng quen gọi tên là tác phẩm thuộc “dòng văn học đô thị miền Nam”.

Nghe mà đột nhiên thấy chạnh lòng. Nghe “đô thị“, có vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói văn chương “đô thị” miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá riêng “đô thị” của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có nơi còn gọi là sự “trở lại”!

Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâu mà trở lại?

Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất là đi xuyên qua sự thù hận, chà đạp và hủy diệt… mà dù có đau đớn hay rách nát thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung) vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới và tỏa sáng với những tư tưởng tự do không kiểm duyệt.


Bìa "Vòng Tay Học Trò"
– ấn bản mới phát hành tại Việt Nam giữa tháng Tư 2021

 

Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.

46 năm, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?

Văn học đô thị miền Nam” – cách gọi bị ám ảnh từ lối tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay – vẫn ngầm chứa trong đó một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận miền Nam Việt Nam là một chính thể. Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu, và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn “Văn hóa văn nghệ Việt Nam từ 54 đến 75″ đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy. Báo Nhân Dân số ra ngày 13-9-2016, với bài viết “Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975” của tác giả Hạnh Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng “bằng sự gạn đục khơi trong, chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài”.

Sự “cho phép” chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm nay tìm đọc với một sự thích thú về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.

Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam “trở lại”, khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.

Nói “trở lại” là giả tạo trong việc mô tả một chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.

Trong tiểu luận “Văn học Miền Nam 1954-1975: những Khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa” của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền Nam Việt Nam là bởi “nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975″.

Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, với những thành tựu “ngoạn mục”, như trên báo chí vẫn nói, xã hội cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay “trở lại“, như Vòng tay học trò của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, và của nhiều trí thức từng bị phủ nhận khác.

 

Thứ Năm, 22 tháng 4, 2021

Thảm Sát Tân Lập, hố chôn người ám ảnh - Hồi ký Trần Đức Thạch





Cái chết của Bộ Trường Trần Chánh Thành - Tác giả Bạch Diện Thư Sinh

 

Nhân kỉ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư lần thứ 35, chúng tôi xin đúc kết một số tài liệu để vẽ phác chân dung cựu Bộ trưởng Trần Chánh Thành và cái chết lẫm liệt của ông như một nén hương tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ ông.
Mỗi năm, vào dịp kỉ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư, lại thấy xuất hiện trên các phương tiện truyền thông khắp nơi hình ảnh các vị tướng tá đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết hi sinh mạng sống để bảo vệ danh dự, tiết tháo của một cấp chỉ huy. Các vị ấy xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng của Quân Lực VNCH, xứng đáng được lưu danh muôn thuở.
Cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do suốt 20 năm là cuộc chiến đấu chống CS của toàn dân, mà trọng trách giao vào tay quân, cán, chánh. Khi nước mất, thành đổ, nếu đã có những vị tướng tá quyết tự chọn lấy cái chết oai hùng để đền nợ nước thì đồng thời cũng ghi nhận có những viên chức bên phía chính quyền dám tuẫn tiết, không chịu để bị lọt vào tay bọn CS.
Trong số các vị ấy, nổi bật lên sáng chói là cái chết bi dũng của cựu Bộ trưởng Trần Chánh Thành. Ông đã an nhiên chọn lựa một cách chết trước quân thù, để gióng lên một lời tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước về những hiểm họa sẽ giáng xuống dân tộc VN, một khi đất nước bị đảng CS nắm trọn quyền thống trị.
Những bước đầu tiên
Ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành gốc miền Bắc, do cha tùng sự tại Huế cho nên ông học và tốt nghiệp Trung học tại đây; sau đó, trở ra Hà Nội học lấy Cử nhân Luật. Ông học rất giỏi, đã đậu đầu kì thi ngạch Tri huyện Tư pháp cho toàn cõi Bắc và Trung kì, rồi được cử làm Chưởng lí các tòa án Trung kì. Khi chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, ông được bổ làm Chánh văn phòng Bộ Tư pháp cho Tổng trưởng Trịnh Đình Thảo. Không bao lâu sau, nổ ra cuộc ‘Cách Mạng Tháng Tám’ đưa ông HCM lên nắm chính quyền. Dưới bình phong mặt trận Việt Minh (tên tắt của Mặt trận VN Độc Lập Đồng Minh, ngày 19.5.1941), đảng CS đã thu hút được các thành phần ái quốc với khẩu hiệu đánh Pháp đuổi Nhật. Ông Trần Chánh Thành đã được mời ra Hà Nội trong thời kì này và được trọng dụng trong chức vu. Giám đốc Tư pháp Liên khu 3 (trong 3 năm), rồi Giám đốc Kinh tế Liên khu 3 (trong 2 năm sau đó). Song, cũng như trường hợp nhiều trí thức trẻ khác vào thời đó, sau khi đi theo Việt Minh tham gia kháng chiến một thời gian, ông Thành đã hiểu ra bộ mặt thật của Việt – Minh – Cộng – Sản cho nên ông khéo léo cáo bệnh từ chức, để trở về Diễn Châu, Nghệ An (Liên khu 4), trú tại nhà ông Cao Xuân Vỹ. Từ Nghệ An, cùng người em con ông chú là nhà báo Mạc Kinh, ông vượt biển ra vùng quốc gia. Sau vài tháng ở Hà Nội, ông vào Saigon làm nghề luật sư trong văn phòng của Luật sư Trương Đình Du.
Vào tháng 10. 1952, ông Ngô Đình Nhu chủ trương tạp chí Xã Hội, anh em ông Trần Chánh Thành và Mạc Kinh đã cộng tác với tờ tạp chí và trở thành chỗ thân tình với ông Ngô Đình Nhu Mối giao tình này đánh dấu một khúc rẽ quan trọng trong cuộc đời chính trị của ông.
Bậc lương đống của nền Cộng Hòa
Có thể nói ngay ông Trần Chánh Thành cùng với các ông Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu…là những bậc lương đống ‘khai quốc công thần’ của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Trong bài báo nhan đề Ông Ngô Đình Diệm Lên Cầm Quyền Như Thế Nào (Thông Luận Số 191, ra ngày 04.4.2005), tác giả Nguyễn Gia
Kiểng chứng minh chính ông Ngô Đình Nhu đã bí mật đạo diễn một vở kịch chính trị lớn để đưa ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền chứ không phải là người Mĩ hay Vatican. Trong vở kịch này, ông Trần Chánh Thành được giao cho thủ một vai và ông đã đóng xuất sắc. Duyên do bắt đầu từ mối liên hệ thân tình giữa ông Ngô Đình Nhu với ông Trần Chánh Thành.
Tác giả Nguyễn Gia Kiểng thuật lại, vào tháng 11.2004, ông được ông Trần Minh Châm trao cho 2 bức thư viết tay bằng tiếng Pháp:
Một của ông Jacques Bénet, bạn của ông Trần Minh Châm, viết ngày 18.10.2004 gửi cho bà Ngô Đình Nhu và một của ông Ngô Đình Nhu
viết ngày 20.4.1955 gửi cho ông J. Bénet. Ông J. Bénet và ông Ngô Đình Nhu là bạn học rất thân khi còn tại trường Ecole des Chartes.
Trong thư gửi cho bà Ngô Đình Nhu, ông J. Bénet xác nhận 2 điểm quan trọng: một là ông (J. Bénet) có đóng vai môi giới trong việc
vận động các nhà lãnh đạo nước Pháp để đưa ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền; hai là ông ca ngợi ông Ngô Đình Nhu đã có một ý kiến ‘thiên tàí vì đã nắm bắt đúng vào lúc (3.1954) chính quyền Pháp đang lúng túng do viễn ảnh thất trận tại Điện Biên Phủ để mở chiến dịch thuyết phục họ (Thủ tướng Laniel – Ngoại trưởng Bidault – Reynaud) nên mau chóng đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền. Để thực hiện sáng kiến này, ‘Ông Nhu đã cử bạn ông là ông Trần Chánh Thành sang Paris và nhờ ông Jacques Bénet giúp đỡ để tiếp xúc và thuyết phục chính quyền Pháp về đề nghị này. Ông Bénet đã làm được việc này nhờ một người bạn tên là Antoine Ahond quen thân nhiều
nhân vật quan trọng trong chính quyền Pháp, đặc biệt là các ông Germain Vidal, chánh văn phòng thủ tướng, ông Bourgenot, bộ trưởng
tại phủ thủ tướng, và ngoại trưởng Bidault. Mặt khác, chính ông Trần Chánh Thành cũng tỏ ra xuất sắc. Nhờ thế mà ông Diệm đã được chính quyền Pháp chấp nhận và ép buộc ông Bảo Đại phải chấp nhận’.
Ông Trần Chánh Thành được giao nhiệm vụ vận động các yếu nhân trong chính quyền Pháp, tuy được khen là đã hoàn thành ‘xuất sắc’, nhưng có lẽ ông chỉ biết phần đầu của vở kịch chính trị lớn của ông Ngô Đình Nhu. Chính trong lá thư thứ hai của ông Ngô Đình Nhu viết gửi ông J. Bénet mới cho biết phần hai của vở kịch chính trị này.
Trong thư viết ngày 20.4.1954 gửi cho ông J. Bénet, ông Ngô Đình Nhu yêu cầu ông Bénet giúp đỡ trong việc ‘vận động để chính quyền Pháp thực hiện khẩn cấp một kế hoạch đã được dự trù. Ông Nhu viết : “Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao (NGK: họ quá thân nhau) chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được khẩn cấp gửi sang Saigon”. Theo tác giả Nguyễn Gia Kiểng, “chiều hướng này” được hiểu là một loạt các việc cấp bách yêu cầu chính phủ Pháp làm ngay. Đó là giúp cho ông Ngô Đình Diệm nắm được quân đội quốc gia từ tay Tướng Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh, dẹp các giáo phái vũ trang và sau đó tiến tới tổng tuyển cử. Tất cả đã diễn ra thành công mau chóng, suông sẻ, khiến cho các nhà quan sát quốc tế lúc ấy phải lấy làm ngạc nhiên và đánh giá ông Ngô Đình Diệm như là một lãnh tụ đầy tiềm năng mới ở Á châu. Chưa hết, ông Ngô Đình Nhu chỉ khéo léo than phiền nhẹ nhàng là tướng Ely, Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại VN, ‘ là một con người tiêu cực và thiếu quả quyết’, cũng đủ làm cho chính phủ Pháp triệu hồi tướng Ely trong thời gian chưa đầy hai tháng!
Do thành tích trước đây, lại là chỗ thân tình với ông cố vấn Ngô Đình Nhu, cho nên ông Trần Chánh Thành rất được Thủ tướng Ngô Đình Diệm tin dùng trong nhiều chức vụ quan trọng:
Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng 06.7.1954
Tổng trưởng Thông tin ngày 10.5.1955
Chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia, đã đề ra kế hoạch Tố Cộng (Nguyễn Trân. Hồi Ký Công Và Tội. Xuân Thu, 1992. Trang 176).
Khi kế hoạch được phát động, chính ông nắm vai trò Chỉ đạo Chiến dịch Tố Cộng Trung ương bao gồm liên bô. Thông tin, Tư pháp, Quốc phòng và Nội vụ. Chiến dịch này được phát động nhằm tiêu diệt các tổ chức cán bô. CS nằm vùng, đồng thời triệt hạ những lực lượng thực dân, phong kiến (bài phong, đã thực), trọng điểm là việc truất phế Quốc trưởng Bảo Đại.
Ngoài ra, ông còn là một Dân biểu Quốc hội và là một trong 14 vị thuộc Ủy ban soạn thảo Hiến Pháp.
Nhìn thoáng qua như thế đủ biết ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành đã trở thành ngôi sao sáng vào thời khai mở nền Đệ nhất Cộng hòa.
Tuy nhiên có nghi vấn, đang khi ông được Sài gòn tin dùng thì, ngoài Huế, ông Ngô Đình Cẩn lại muốn tách ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành và cả ông Cố vấn Ngô Đình Nhu (?) ra khỏi vòng quyền lực (Thomas L. Ahern Jr. Hai tài liệu của CIA về các tướng lãnh VN và gia đình ho. Ngộ Nguyễn Kỳ Phong lược dịch. Nam Úc Tuần Báo, Số 718 ra ngày 30.10.2009).
Thêm vào đó, nếu chiến dịch Tố Cộng triển khai thắng lợi lúc ban đầu, khiến cho khoảng 200 ngàn cán binh CS được cài lại ở miền Nam có nguy cơ bị tiêu diệt thì, tại các địa phương, phát sinh tệ nạn chụp mũ CS lên đầu những người từng có thành tích kháng chiến chống thực dân Pháp. Mà theo ông Nguyễn Trân, ‘…không phân biệt kháng chiến với CS là đi ngược lại lòng dân’ (Nguyễn Trân. Hồi ký Công Và Tội. Sd. Trang 177).
Những lực đối kháng này một khi đã nuôi ý đồ, sẽ dễ dàng tạo ra được một mối nghi ngờ trong dư luận về lòng trung thành với phe quốc gia của ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành, căn cứ vào việc ông đã nắm giữ những vị trí tư pháp quan trọng ở Liên khu 3, thời Việt Minh. Tuy nhiên Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn tiếp tục tin tưởng ông cho tới cuối tháng 10 năm 1960. Đó là thời điểm xẩy ra việc 4 ông bộ trưởng đồng loạt từ chức; gồm có các ông Trần Chánh Thành (Bộ Thông tin), Trần Trung Dung (Bộ Quốc phòng), Lâm Lễ Trinh (Bộ Nội vụ) và Nguyễn Văn Sĩ (Bộ Tư pháp). Có dư luận cho là vì các ông bất đồng về sự lạm quyền của đảng Cần Lao? Chỉ 2 tuần sau đó, ngày 11.11.1960, nổ ra cuộc phản loạn của Nguyễn Chánh Thi – Vương Văn Đông.
Năm 1962, Tổng thống cử ông Trần Chánh Thành đi làm đại sứ tại Tunisie (ở Bắc Phi châu).
Ngày 01.11.1963, Tướng Dương Văn Minh cầm đầu cuộc đão chánh thành công, chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ đã giao công tác cho ông
Trần Chánh Thành đi Nam Vang tiếp xúc thiện chí với Quốc vương Shianouk (18.12.1963).
Trong những năm chính trường miền Nam hết sức rối ren sau đó, ông Trần Chánh Thành rút lui vào bóng tối sống ẩn dật.
Khi nền Đệ nhị Cộng hòa được thành lập, ngày 01.4.1967, một bản Hiến pháp mới được ban hành đưa đất nước trở lại trật tự, quy củ. Rồi ngày 03.9.1967, diễn ra cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Ông Trần Chánh Thành ra ứng cử trong liên danh Đoàn Kết Để Tiến Bộ, dấu hiệu con voi trắng (Bạch Tượng) đứng chung với các ông Trần Văn Lắm (thụ ủy liên danh), Trần Trung Dung, Đào Đăng Vỹ, Bà Phan Nguyệt Minh (Nguyễn Văn Thơ), Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Phượng Yêm, Phạm Như Phiên, Đoàn Văn Cừu, Trần Ngọc Oành. Liên danh ‘Bạch Tượng’ đã đắc cử với 550,157 phiếu (Nguyễn Văn Chức. VN Chính Sử. Tiền Phong, 1989. Trang 163).
Sau trận đánh Tết Mậu Thân 1968, ngày 28.5.1968, Cụ Trần Văn Hương lại được mời thành lập chính phủ mới thay cho chính phủ của Ls. Nguyễn Văn Lộc. Đây là thời điểm cuộc hòa đàm Paris khởi sự, sắp bước sang giai đoạn công khai, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tín nhiệm Nghị sĩ Trần Chánh Thành vào chức vụ Tổng trưởng ngoại giao. Đây là chức vụ cao cấp cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của ông. Sau khi Tướng Trần Thiện Khiêm trình diện nội các mới vào ngày 01.9.1969, chức vụ tổng trưởng ngoại giao được chuyển sang cho Nghị sĩ Trần Văn Lắm, cũng thuộc Liên danh Bạch Tượng. Ông Trần Chánh Thành trở về giảng dậy môn báo chí tại Trường Luật cho tới ngày ‘trời sập’ 30.4.1975.
Những dòng lược thuật trên đây cho thấy ông Trần Chánh Thành là nhân vật hiếm hoi được lãnh đạo tin dùng ở những vị trí cao cấp và rất quan trọng trong cả 3 giai đoạn chính trị của đất nước: thời toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, thời Đệ nhất Cộng hoà và thời Đệ nhi. Cộng hòa. Điều đó chứng tỏ ông là một người có thực tài, tận tụy phục vụ. Đặc biệt là ông đặt lợi ích và lí tưởng quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân: khi biết rõ đảng CS nắm trọn quyền lèo lái mặt trận Việt Minh, ông từ chức và tìm cách đào thoát; đang khi được TT
Ngô Đình Diệm trọng dụng, ông sẵn sàng từ chức bộ trưởng để phản đối phe cánh Cần Lao lạm quyền; và khi nền Đệ nhị Cộng hòa thành lập, ông gạt bỏ mặc cảm là người của ‘chế độ cũ, chấp nhận trọng trách được giao phó. Cuối cùng, theo gương các bậc tiền bối xưa, hết ‘làm quan’ ông vui vẻ về làm thầy truyền thụ sở học qúy báu cho môn sinh.
Chọn lựa một cách chết lẫm liệt
Từ khi chiến dịch Tây nguyên do Cộng quân mở ra đầu tháng 3.1975 cho tới ‘ngày sập trờí 30.4.75 vỏn vẹn chỉ có 55 ngày đêm. VNCH
đang đi những bước thụt lùi vội vã, tất tưởi cuối cùng tới bờ vực thẳm. Đương nhiên ông Trần Chánh Thành phải là người tiên đoán được tình hình bi đát và tuyệt vọng ấy và ông đã gửi vợ con đi Pháp trước. Theo nhà báo Đặng Văn Nhâm, ông và hai bạn thân là cựu Thủ tướng Phan Huy Quát và Nghị sĩ Trần Trung Dung được Tòa đại sứ Pháp hứa sẽ bốc đi vào lúc 10 giờ sáng ngày 29. Nhưng vừa khi Tướng Dương Văn Minh ra nhận chức tổng thống lúc 5 giờ 30 chiều 28.4 thì giờ phi trường Tân Sơn Nhất bị CS oanh tạc và chiến dịch HCM bắt đầu. Saigon lên cơn sốt, mạnh ai nấy chạy thoát thân. Sáng 29.4, tân Tổng thống Minh gửi thư cho Đại sứ Martin yêu cầu quân Mĩ triệt thoái trong vòng 24 giờ. Yêu cầu này cũng được tân Thủ tướng Vũ Văn Mẫu tuyên bố công khai. Trong tình hình ấy, kế hoạch người Pháp hứa giúp ông Trần Chánh Thành và các bạn ông di tản bằng phi cơ không còn có thể thực hiện được. Cả ba ông bị kẹt ở lại. Nhất thời, ngày 30.4, các ông tạm lánh mặt tại nhà thương Grall của Pháp. 24 giờ sau, bệnh viện yêu cầu các ông ra khỏi nơi này.
Rời bệnh viện Grall, ông Trần Chánh Thành tạt vào một cao ốc trên đường Gia Long sát góc đường Tự Dọ Khoảng 4 giờ chiều ngày 02.5, nhà báo Mạc Kinh, người em thúc bá rất thân thiết với ông đến đón ông về nhà trên đường Duy Tân. Nhà ông lúc này chỉ còn lại mẹ ông, bà chị tên Nhơn và ba bốn người làm.
Suốt buổi chiều hôm ấy, anh em ông bộ trưởng đã trút hết nỗi niềm tâm sự lần cuối cùng với nhau. Sắp tới 7 giờ chiều là giờ giới nghiêm, khi chi tay với ông Mạc Kinh, ông bộ trưởng nói lời cuối cùng: ‘Chúng ta đều đã hiểu CS quá rõ. Với anh, chỉ có một lựa chọn cuối cùng. Anh phải tự xử lấy anh thôi…Em về đi. Giờ giới nghiêm đã tới rồi. Sáng sớm mai em lên với anh nhé!’
Ông Mạc kinh nghe lời nói đó mà ngỡ như lời trối trăn. Ông chỉ có thể van vỉ ông anh: ‘Dù thế nào chăng nữa, xin anh cũng đừng quyết định gì vội. Hãy cố chờ đến sáng mai anh em ta gặp lại nhau.
Tuy nói như thế, nhưng thâm tâm ông MK vẫn không tin vào hiệu quả của lời mình nói. Linh tính đã báo cho ông biết rằng kể từ giây phút này, ông đã mất hẳn, mất vĩnh viễn ông Thành …
Hôm sau, khi trời vừa sáng, ông Mạc Kinh phóng xe lên nhà ông bộ trưởng.
Cho tới nay, duy nhất chỉ có nhà báo lão thành Đặng Văn Nhâm có thể thuật lại tỉ mỉ, sống động cái chết bi tráng của ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành: ‘Vừa đặt chân vào phòng khách. Khác hẳn mọi khi, nơi đây bỗng trở nên vắng lặng như tờ, như không còn một hơi thở nào nữa. Không khí trong căn phòng này đã bao phủ một màu thê lương, ảm đạm. Bà Nhơn lẻ loi, đôi mắt đỏ hoe, đang ngồi thu mình nơi bực cầu thang, lối dẫn lên phòng ngủ của ông Thành . Bà Nhơn bảo ông MK:
“Em lên ngay đi. Thành an nghỉ rồi! Hồi hôm, Thành đã nói chuyện lâu với chị…dặn trao tập giấy màu vàng cho em đó… Thành nằm
ở phòng ngủ nhỏ lầu hai… Em ở bên Thành đi. Chị phải tới sứ quán Pháp ngay bây giờ để làm sẵn thủ tục. Chị sẽ quay về thật gấp…”
Lập tức ông MK phải lo giải quyết ngay một số việc cần kíp.
Trước hết, mời bà cụ thân mẫu của ông Thành đi theo bà Nhơn đến tạm trú tại nhà một thân nhân khác, và phải nói dối là cụ cứ đi trước, còn ông Thành sẽ được tòa đại sứ Pháp cho xe đến đón ra phi trường sau. Ông MK sợ bà cụ mà biết chuyện ông Thành tự tử thì sẽ lôi thôi to. Mọi việc lo cho ông Thành bây giờ phải thật kín đáo, không để lộ một chút tin tức hay nghi hoặc nào ra ngoài vòng ruột thịt. Mặt khác, ông MK dặn gia nhân hãy để cho ông Thành ngủ yên, đừng ai quấy rầy, không cần đem sữa sáng như thường lệ, vì đêm qua ông đã thức khuya…Sáng nay ông Thành cũng không muốn tiếp khách nữa!…
Khi còn lại chỉ có một mình trong ngôi nhà rộng thênh thang, ông MK mới đẩy nhẹ cửa phòng ngủ, tiếng máy lạnh vẫn sè sè nho nhỏ.
Ông Thành đang nằm đó, bất động như người đang ngủ mê. Nét mặt bình thản. Nhưng hai bên cánh mũi có hai vệt thuốc nhỏ màu nâu nhạt lẫn chút máu đỏ đọng lại, dài bằng hai đốt ngón tay. Ông MK ôm nhẹ mặt ông Thành, thấy vẫn còn ấm, ngực và chân tay vẫn hãy còn ấm. Ông thầm nghĩ chắc ông Thành chỉ mới vừa từ giã cõi đời thôi. Nhì trên mặc chiếc bàn ngủ, một hộp thuốc ngủ 50 viên chẳng còn sót một viên nào. Nơi bàn giấy góc phòng, mọi thứ đều ngăn nắp. Có một tập giấy 18 trang. Ông MK liếc thoáng qua, biết ngay là những lời trăn trối cuối cùng của ông Thành. Ông Thành lên tiếng tố cáo hiểm họa CSVN trước thế giới tự do, sau khi chúng đã cưỡng chiếm miền Nam. Ông Thành cũng tiên liệu để kêu gọi thế giới dân chủ, nhân đạo phải có trách nhiệm tinh thần ngăn chận bàn tay máu trả thù trút lên
mạng sống của toàn thể quân nhân và quần chúng miền Nam. Ngoài ra, ông Thành còn phác họa cho mọi người thấy trước thảm trạng
của miền Nam, đồng thời phơi bày âm mưu gây chiến tranh loạn lạc đối với các nước láng giềng trong bán đão Đông Dương và Thái Lan. Cuối cùng ông Thành minh xác, ông đã lấy cái chết để phản đối CSBV xâm chiếm miền Nam….
Bên cạnh tập giấy đó, ông Thành còn viết sẵn vài dòng chữ trên một tấm danh thiếp, nhằm gửi thẳng cho cơ quan an ninh, xác định cái chết của ông là do chính ông tự chọn, đừng gây phiền nhiễu cho ai hết!
Trong vòng một tiếng đồng hồ sau, bà Nhơn đã trở về. Lúc này, toàn thân ông ông Thành mới bắt đầu trở lạnh, lạnh ngắt. Một mặt ông MK phải lo canh chừng đám gia nhân, vài người còn lại. Mặt khác bà Nhơn lo liên lạc báo tin cho vài người bà con trong thân tộc nội, ngoại (bên bà Thành). Nhưng không một ai lui tới. Dường như ai cũng lo ngại, muốn trốn tránh. Không khí thành phố Saigon lúc ấy căng thẳng đến tột độ. Ai cũng có chuyện để phải lo và để sợ. Một tiếng động mạnh cũng đủ làm cho người ta giật mình kinh hoảng, nhớn nhác… Trong hoàn cảnh đó, một mình ông MK phải lo hết mọi việc rửa ráy thi hài và tẩn liệm cho ông Thành.
Lúc ấy, khoảng ba giờ chiều , bỗng gia nhân báo tin có ban Quân Quản đến khám nhà. Gồm ba cán bộ đeo súng ngắn bên hông, băng đỏ trên cánh tay, và một tên bộ đội mang tiểu liên đi theo hộ vệ. Trong trường hợp này, dù muốn dù không, ông MK vẫn phải ra mặt tiếp đón. Ngay câu đầu tiên bọn cán bộ CS đã nói thẳng, chúng đến tiếp thu ngôi nhà, và ra lệnh đưa chúng đi xét nhà. Chúng đi thẳng một mạch lên lầu 4, rồi từ đó mới trở xuống, vào từng phòng một, quan sát soi mói và khám xét cẩn thận. Không bỏ sót một phòng nào. Vào đâu chúng cũng ngắm nhìn, để ý kiểm điểm từng ly từng tí, rồi xẵng giọng hạ lịnh: “Đồ đạc ở đâu để nguyên đấy. Cấm tuyệt không được di chuyển!”
Khi xuống đến lầu 2, nơi có phòng thi hài của ông Thành nằm đó, bỗng nhiên đầu óc ông MK trở nên căng thẳng tột độ. Tinh thần ông bấn loạn. Nếu bọn cán bộ CS bất chợt thấy thi hài ông Thành đang nằm trơ trơ ở đó, ông sẽ trả lời như thế nào? Một điều chắc chắn nhất, không thể nào tránh được là bọn cán bộ CS sẽ hạch hỏi mọi người hiện diện trong nhà. Rồi thì mọi sự sẽ phải khai trình tỉ mĩ, từ tên tuổi, chức phận cũ, rồi đến nguyên nhân cái chết… Nhưng liệu bọn CS ác ôn này có cho phép chôn cất ngay không, hay sẽ đem thi hài đi mổ xẻ, khám nghiệm…?
Lại còn vấn đề sấp giấy ông Thành đã viết di ngôn tố cáo CSVN nữa chứ. Ông MK bối rối vô cùng, không biết sẽ phải ăn nói ra sao, và rồi những gì sẽ xảy ra cho bản thân ông ngay sau đó, ông không thể lường được.
Trong tình cảnh nguy nan đó, ông MK chỉ còn kịp nghĩ đến việc cầu nguyện vong hồn ông Thành, sống khôn, thác thiêng, xin ông phù hộ cho gia đình thoát qua được cơn hiểm nghèo nghiệt ngã này, để còn có cơ hội chôn cất di hài ông êm thắm!
Không ngờ một chuyện lạ của đời người đã xảy đến, chẳng khác nào như lời khấn vái của ông MK linh ứng, như linh hồn ông Thành hãy còn lẩn khuất đâu đó, để lôi chân bọn cán bộ CSBV đi qua căn phòng đó. Chúng vừa đi vừa chuyện trò với nhau, và vẫn ra lệnh mở từng cửa phòng, nhưng không còn vẻ tích cực soi mói như vài giây đồng hồ trước đó. Khi chúng đến trước cửa phòng ông Thành nằm, lồng ngực MK tưởng chừng sắp nổ tung. Nhưng chẳng khác nào như một phép lạ, chúng cứ thế đi luôn, không dừng lại, cho đến phòng cuối của từng lầu 2, rồi chúng đi luôn xuống dưới nhà…
Nơi đây, chúng dừng lại, ghi vội biên bản, coi như ngôi nhà này vô chủ. Chủ nhân đã bỏ đi ngoại quốc! Thì ra bọn cán bộ này cũng ngờ ngệch lắm.Trong đầu chúng đã bị nhồi chặt cứng một mớ lý thuyết Mác Xít, với những giáo điều rẻ tiền, đâu còn chỗ nào để chứa thêm một thứ hiểu biết gì khác! Nhưng chúng đặc biệt quan tâm đến mọi thứ đồ đạc vật chất trong nhà. Cuối cùng, trước khi ra đi, chúng ra lệnh: Mọi người trong nhà chỉ được phép quây quần ở tầng trệt, không được bén mảng lên lầu. Đồ đạc trong nhà không được tơ hào suy suyển.
Sau đó bà Nhơn và ông MK phân công mỗi người một việc cần kíp. Bà Nhơn chạy vội ra phường khai tử cho ông Thành, với lý do bịnh tim. Còn ông MK phóng thẳng về nhà tìm giấy chủ quyền ngôi mộ của bà thân mẫu ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, đem trình ban Quân Quản Nghĩa Trang, để xin đóng dấu cho mai táng.
Đến lúc này xét ra cái chết của ông Thành chẳng còn gì cần phải che giấu nữa, nên gia nhân đều được biết hết. Tiếng khóc không còn bị đè nén ấm ức, nghẹn ngào nữa, mà được tự do vang lên, khiến các nhà hàng xóm không khỏi ngạc nhiên. Cách nhà ông Thành chừng hai, ba ngôi biệt thự là trụ sở của “Hội Trí Thức Yêu Nước” thành phố HCM của đám Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Trương Đình Dzu, Trần Thúc Linh v.v…Vì thế nên tin ông Thành qua đời đã mau chóng đến tai những người trong hội ấy.
Ngày hôm sau, 2.5.1975, lèo tèo vài thân nhân đến viếng. Trong đám bạn bè, người ta chỉ thấy một mình ông Trần Trung Dung.
Ngày 4.5.75, khoảng vài mươi người đã đến tiễn đưa di thể ông Thành đến nơi an nghỉ cuối cùng. Không khí lo sợ, ngại ngùng lặng lẽ bao trùm hết cả vẻ “tử biệt sinh ly” của một đám tang’… (Đặng Văn Nhâm. Ls. Trần Chánh Thành Đã Coi Cái Chết Nhẹ Như Lông Hồng Để Phản Đối Hành Động Xâm Lăng Của CS Và Cảnh Giác Thế Giới Tự Dọ Daichung.com).
Ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành đã chọn cho mình một cái chết can trường để bảo vệ sĩ khí và tiết tháo của một nhân vật chính trị, của một viên chức cao cấp từng mang trọng trách. Khi biết tình thế không còn có thể cứu vãn được, bản thân không mong thấy được thành quả tốt đẹp của lý tưởng đời mình nữa thì ông an nhiên, thanh thản ra đi, quyết không chịu để bị lọt vào tay Cộng quân.
Trên chính trường nước ta thời cận đại, một nhân tài, một nhân cách như ông Trần Chánh Thành, rõ ràng là không có nhiều.
Ôi cám cảnh thay! Anh hùng mạt lộ!
Khi tàn cuộc chiến, nước mất thành đổ, mới rõ mặt anh hùng, bất kể vị anh hùng ấy là võ hay là văn.

Quốc Hận 30/4: Đọc lại bi kịch Dân Việt qua Nước mắt Biển Đông





Sức hút và lực đẩy: hai khía cạnh trái ngược trong quan hệ Việt-Trung[1]- Tác giả Nguyễn Thế Anh


Nhìn sâu vào lịch sử, đối với người Việt, những trải nghiệm với người Trung Quốc dường như nằm trong phức cảm yêu-ghét, hay đúng hơn là một sự pha trộn của thu hút và thù hận, mà tiêu đề bài hát của nhạc sĩ Serge Gainsbourg, “Je t'aime, moi non plus” [tôi yêu em, nhưng tôi không còn như thế nữa] gần như khắc hoạ đúng trường hợp này. Trạng thái này tác động đến tất cả các vấn đề đối ngoại của Việt Nam, và trong hàng ngàn năm qua, quan hệ với Trung Quốc đặc trưng bởi một sự phức tạp có thể nói là gai góc ở tầm chính thức, xuề xoà và thân thiện ở trong lề thói thông thường. Trên thực tế, mối quan hệ hiện nay là sự hoán chuyển giữa một bên là những xung đột nảy lửa với một bên là những tuyên ngôn chính thức về tình hữu nghị không thể lay chuyển. Chúng phần nào gợi nhớ lại những kiểu giao kết Việt-Trung cổ xưa, đặc trưng bởi những rối rắm trong chính sách ngoại giao của một quốc gia nhỏ hơn luôn luôn phải dè chừng ý đồ bành trướng của ông hàng xóm to lớn trong quan hệ khu vực.

Nằm ngay sát cạnh Trung Quốc, dân tộc Việt Nam, có lẽ khác người Miến Điện và Thái Lan, luôn phải dè chừng ông bạn to lớn này trong các mối quan hệ khu vực. Trong suốt nghìn năm kể từ khi Việt Nam giành được độc lập cho đến giai đoạn thực dân kiểu Pháp, ghi dấu bốn cuộc xâm lược lớn của Trung Quốc, cộng thêm giai đoạn nhà Minh chiếm đóng khá dài, người Việt đã tích luỹ được bề dày kinh nghiệm trong việc giải quyết những mối quan hệ này. Trong khi đó, suốt quá trình đô hộ của Trung Quốc, từ thế kỷ II trước CN đến thế kỷ X sau CN, Việt Nam đã hấp thu từ Trung Quốc các lý thuyết chính trị, cơ cấu xã hội, thực hành chế độ quan liêu, tín ngưỡng tôn giáo và các thuộc tính văn hoá khác. Sự tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ và văn hoá Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá xã hội Việt Nam, tiếp tục cho tới cuối thế kỷ XIX. Thật vậy, các nhà cai trị của Việt Nam không ngừng lấy nguồn cảm hứng văn hoá từ Trung Quốc, ngay cả khi họ củng cố quốc gia độc lập và thống nhất. Chữ Hán được lấy làm ngôn ngữ chính thức và là phương tiện giảng dạy, phương tiện để biểu đạt tri thức. Người  Việt được học các chủ đề văn chương Trung Quốc cũng như giáo lý đạo đức được trích dẫn từ Nho giáo cổ điển. Đóng góp của Trung Quốc cho Việt Nam bao gồm tất cả các khía cạnh của văn hoá và xã hội. Đặc biệt, ảnh hưởng của Trung Quốc được cảm nhận mạnh mẽ nhất ở cấp cao nhất của nhà nước và chính trị: khái niệm luật pháp và quản trị của Trung Quốc đã trở thành yếu tố quan trọng của chính thể  Việt Nam trong thời kỳ độc lập, bởi vì nó giúp nhà cầm quyền củng cố quyền lực và chống lại các đe doạ từ bên ngoài, đặc biệt đe doạ từ Trung Quốc. Nền học thuật và văn học của Việt Nam không thể tránh khỏi việc thẩm thấu di sản cổ điển của Trung Quốc; chữ Hán là ngôn ngữ của hành chính và giáo dục, như tiếng la-tinh ở châu Âu tiền hiện đại. Khả năng thể hiện sự thông thạo về  ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc của các sứ giả Việt Nam ngay tại triều đình Hoa Hạ là cách quan trọng để chứng minh Việt Nam là một đất nước “văn minh” và không cần đến chính quyền Trung Quốc quan tâm chỉ bảo “khai hóa văn minh”.

Do tác động mạnh mẽ của nền văn minh Trung Quốc đối với Việt Nam, năng lực của Việt Nam được nâng cao để tiếp nhận một cách có lựa chọn các yếu tố văn minh Hoa Hạ, hoặc chí ít  cũng quan trọng ở các thành tựu được hấp thu. Kể từ khi Việt Nam giành được quyền tự trị, ảnh hưởng của Trung Quốc đến xã hội Việt Nam vẫn tiếp tục mạnh mẽ như khi trực thuộc chính quyền tỉnh của Trung Quốc. Các vị vua Việt Nam có thể thúc đẩy đường lối làm việc theo kiểu Trung Quốc với nhiều thành công hơn các thái thú Trung Quốc, vì họ thường biết  dân của họ sẽ chịu đựng được đến mức nào [Taylor, 1983: 298]. Hơn nữa, với kinh nghiệm  thu được từ sự cai trị của Trung Quốc, người Việt Nam hiểu một cách sâu sắc những  ý đồ của người Trung Quốc. Sống trong cái bóng của một đế chế lớn, người Việt nhất thiết trở thành chuyên gia về nghệ thuật sống còn, và họ nắm bắt được lề lối của Trung Quốc như một cách thức để tồn tại. Sự cần thiết phải vô hiệu hóa nguy cơ đô hộ từ phương  Bắc bằng cách chiếm hữu nguồn gốc của tính hợp pháp phương Bắc khiến họ nỗ lực đầu tư để đạt được và duy trì các kỹ năng công nghệ, hành chính và văn hoá. Do đó, trong giai đoạn độc lập, tầng lớp thống trị ở Việt Nam đã học cách áp đặt các nguyên tắc của nền văn minh cổ truyền, nhờ đó vượt qua "chủ nghĩa man rợ" và loại bỏ mọi nguyên cớ khiến Trung Quốc có thể thực hiện sứ mệnh "khai hoá văn minh" trên đất đai của họ [Woodside, 1971].

Người Việt Nam vẫn duy trì ngôn ngữ riêng, và cùng với đó là  những ký ức của họ về một nền văn minh tiền Hán. Việc bảo tồn tiếng Việt hết sức đáng chú ý: có nghĩa là bất cứ điều gì người Trung Quốc làm ở Việt Nam đều được điều hoà bởi thực tiễn văn hoá sao cho nó riêng biệt và tách rời khỏi ảnh hưởng tư tưởng của Trung Quốc. Mọi thứ người Việt Nam vay mượn từ Trung Quốc đều được bẻ cong qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa Việt. Do đó, bất chấp di sản Khổng giáo thông thường, sẽ là sai khi nghĩ rằng tâm thức thống trị đời sống trí thức ở Trung Quốc và Việt Nam luôn giống nhau. Đôi khi chúng khác nhau cũng như điều kiện địa lý khác nhau, và sự khác biệt đã giúp hạn chế quá trình Hán hoá Việt Nam.

Liệu có sự khác biệt đáng kể giữa các thiết chế Việt Nam và Trung Quốc, và liệu những khác biệt đó ít nhất thể hiện dù chỉ một phần trong quan điểm riêng mà các nhà tư tưởng Việt Nam tạo lập và theo đuổi? Câu hỏi lớn là làm thế nào người dân Việt Nam có thể hưởng lợi từ văn hoá Trung Quốc mà không trở thành người Trung Quốc? Trong hàng thế kỷ, rõ ràng Việt Nam chịu sức hút từ tư tưởng chính trị, thực tiễn xã hội, xu hướng văn học và công nghệ của Trung Quốc và tự điều chỉnh bằng cách nào đó với quyết tâm bảo vệ độc lập của Việt Nam. Việt Nam chưa bao giờ ngừng vay mượn văn hoá từ Trung Quốc; trái lại, các triều đại khác nhau của một nước Việt Nam độc lập, vào khoảng giữa năm 1010 và 1885, còn tăng mạnh hơn nữa. Trên thực tế, nhận thức được sự vượt trội về kinh tế và khoa học của Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam không muốn từ bỏ việc tiếp cận các sáng kiến ​​của Trung Quốc, và sử dụng những cây cầu văn hoá đã được xây dựng giữa hai nước để tham gia vào thế giới Hán văn.

Tầng lớp nho sĩ được sinh ra từ cơ cấu giáo dục chính thống đã định hình, họ là những người kiên định ủng hộ một nền văn học chính thống gắn với quan niệm đạo đức Khổng giáo của xã hội, thống trị nền văn học và sử học của Việt Nam. Với tinh thần nhân văn dồi dào và tình yêu tri thức sách vở, Khổng giáo đã giúp đem lại cho Việt Nam một giai tầng học giả có ý thức lịch sử, những người có niềm tin sâu sắc rằng những nguyên tắc tiên thiên của đạo đức con người cần phải được thấu hiểu qua đọc và viết sử ký.

Việc vay mượn văn hoá này thậm chí còn quá toàn diện để có thể truy nguyên toàn bộ tính toán chiến lược một cách có ý thức. Nó đôi khi là sự thuần phục một cách không cần thiết. Chẳng hạn, Hoàng đế nhà Nguyễn thế kỷ XIX tự nhận là “Thiên tử" ( 天子), ngụ ý bình đẳng với hoàng đế Trung Quốc. Họ đã đặt tên đất nước của mình là Đại Nam ( ) [Woodside, 1971: 9]. Lại nữa, sau năm 1802, họ đã xây dựng Kinh đô mới tại Huế ở miền Trung Việt Nam, vốn đã được lên kế hoạch là một bản sao của Kinh đô Yên Kinh của Trung Quốc. Việc bắt chước còn thể hiện trong luật nước Nam, một bản sao rõ ràng của luật pháp của Trung Quốc. Sự bắt chước đi cùng với tình trạng công khai khi Việt Nam được công nhận là "chư hầu" của Trung Quốc trong hệ thống ngoại giao Trung Quốc truyền thống cũng như việc triều cống. Và thẩm quyền của Trung Quốc đối với các tiêu chuẩn văn hoá là chuyện không phải bàn cãi khi triều đình Việt Nam luôn luôn lựa chọn sứ giả sang Trung Quốc là những học giả đồng thời là nhà thơ hoặc triết gia xuất sắc nhất Việt Nam, để chứng minh cho người Trung Quốc rằng người Việt Nam cũng có thể làm chủ được văn hoá Khổng giáo.

Các thể chế truyền thống của Việt Nam - chế độ quân chủ, cơ chế quan liêu, hệ thống luật pháp, và ngay cả dòng dõi gia tộc - tất cả đều giống Trung Quốc. Tuy nhiên, tại sao một nước Việt Nam tiền hiện đại không chỉ đơn thuần là một “Trung Quốc thu nhỏ”? Dường như câu trả lời là chủ nghĩa nhân văn Nho giáo thực dụng đã lan rộng đến Việt Nam như một phần của nền cổ điển Trung Quốc, biến tầng lớp thượng lưu Việt Nam thành một tầng lớp ý thức được việc phải có sứ mệnh độc lập đối với các nhà cai trị Trung quốc [Woodside, 1988: 29]. Trên thực tế, nghiên cứu lịch sử, vốn được các giá trị cổ điển Trung Quốc khuyến khích, chắc chắn sẽ hướng sự quan tâm của Việt Nam đến những sai lầm mà họ nghĩ họ đã phải chịu đựng trong tay Trung Quốc. Trí thức Việt Nam sống với những băn khoăn về sự tiếp nối của một nền văn hoá giàu có hình như đã mai một hoặc bị tàn phá. Lê Quý Ðôn, một nhà triết học và sử gia lỗi lạc của thế kỷ XVIII, đã đưa ra một bản kiểm kê về thư tịch và lưu trữ của Việt Nam, nhiều trong số đó đã bị phá hủy hoặc bị người  Trung Quốc xâm lược cướp về nước họ. Đây là quá trình “tập hợp bất công” trên một quy mô đáng kinh ngạc: giới quan lại yêu chuộng thư tịch của Việt Nam có một bộ nhớ được bảo quản tỉ mỉ nhất về di sản văn hóa bị mất mát hoặc bị đánh cắp [Woodside, 1982].

Quá trình tương tác với Trung Quốc và việc nằm trong tầm ảnh hưởng của đế chế văn hoá Trung Hoa, trớ trêu thay lại có tầm quan trọng với việc hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam. Những người Việt Nam có học thức thông thạo các tài liệu văn học Trung Quốc thậm chí còn cung cấp vũ khí ngoại giao chống lại Trung Quốc [Wolters, 1999: 63]. Triều đình Việt Nam đã nhiều dịp nhắc nhở triều đình phương Bắc về giáo lý của người Trung Quốc rằng một vị minh quân phải thể hiện thái độ khoan hoà với viễn khách. Các thông điệp của người Việt gửi Trung Quốc thường bóng gió những lý lẽ để can ngăn các hoàng đế Trung Hoa xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ cơ bản được giao cho ngành chép sử truyền thống Việt Nam là phải xác định được bản sắc hoàn toàn khác biệt của quốc gia này, xét về biên giới thực cũng như huyền thoại, nhằm vĩnh viễn gạt bỏ ý đồ của Trung Quốc muốn hồi sinh một giả thuyết hợp thức hoá nào đó để có cớ can thiệp. Được Vua Trần Thánh Tông ban Dụ  biên soạn lịch sử Ðại Việt (được hoàn thành năm 1272), nhà sử học Lê Văn Hưu đã lắp ráp một số mảnh triết lý và lịch sử Trung Quốc, trong đó một vài mảnh được ông tách ra khỏi bối cảnh nguyên thuỷ, để thể hiện tính cổ điển của thiết chế phong kiến Việt Nam mà Trần Thái Tông và người kế vị của ông đã đấu tranh bảo vệ và chống lại Kubilai Khan [Hốt Tất Liệt].

           Các mảnh ghép Trung Quốc được sử dụng để bảo vệ vị thế độc lập của các nguyên thủ Việt Nam khi đối mặt với các mưu đồ của phong kiến Trung Quốc. Chúng được thiết kế riêng cho phù hợp với lịch sử Việt Nam và cho thấy rằng mối quan hệ chư hầu giữa Việt Nam với Trung Quốc chỉ là tưởng tượng [Wolters, 1999: 86]. Lê Văn Hưu bắt đầu khảo cứu các sự kiện lịch sử kể từ năm 207 trước CN và thành tựu của  người sáng lập quốc gia Nam Việt [Nanyue], Triệu Ðà [Zhao Tuo], theo sử gia, đó là người đầu tiên lập một đế chế ở phương Nam có thể tồn tại song song bên cạnh đế chế phươngBắc: «Triệu Vũ Đế [Zhao Wudi], khai thác đất Việt ta mà tự xưng Đế trong nước, ngang hàng với nhà Hán, .. mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lớn lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp phải đạo với láng giềng, lấy lòng khoan dung để duy trì ngôi báu thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được” [Đại Việt sử ký, 1983: 134].

Bằng cách này, Lê Văn Hưu nhấn mạnh cơ sở pháp lý và lịch sử của nền độc lập Việt Nam. Triệu Đà, vị vua phương Nam phản kháng xâm lược phương Bắc, trở thành quốc vương hợp pháp bởi các biểu tượng văn hoá địa phương trước khi chính quyền tỉnh của Trung Quốc được biết đến. Vì vậy, Triệu Đà đại diện cho sự kết thúc của vương triều bản địa tiền Hán; ông cũng đại diện cho sự khởi đầu của thời kỳ khi khái niệm về vương quyền gắn chặt với khả năng chống lại sự hiếu chiến của Trung Quốc. Nhìn ra thực tế thì Triệu Đà không phải là người Việt Nam lúc sinh thời, song các nhà sử học Việt Nam đã nhìn thấy trong con người này tinh thần chính trị bất khuất của chính họ và dựa vào đó mà coi ông là người Việt [Taylor, 1983: 293]. Lê Văn Hưu lựa chọn Nam Việt của Triệu Ðà làm điểm bắt đầu cho lịch sử Việt Nam và điều đó trực tiếp nhấn mạnh tinh thần “bình đẳng của Việt Nam” với Trung Quốc.

Tương tự như vậy, một tác phẩm khác được sáng tác vào cuối thời Trần, Việt sử lược, đã không xếp Việt Nam vào khu vực kiểm soát bởi các vị hoàng đế khôn ngoan của Trung Quốc, cũng là nằm ngoài ảnh hưởng của văn minh Hán trong thời hoàng kim của Trung Quốc. Ý đồ của hành động này  nhằm chứng minh tổ tiên của đất nước Việt Nam, những người sáng tạo ra vương quốc Văn Lang hưng thịnh với 'các phong tục thuần khiết, giản dị' tồn tại từ rất lâu trước thời kỳ có thể chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, có tư cách bình đẳng với các vị vua sáng lập ra Trung Quốc. Trong khi Lạc Long Quân, vua đầu tiên của Văn Lang là người Việt Nam, tương đương với Hoàng đế Trung Quốc, những đổi mới văn hoá của ông có thể sánh với những cải tiến văn hoá phương Bắc. Nói rằng văn minh cổ đại của Văn Lang có sự tương đồng với thời cổ đại xa xôi của Trung Quốc trên thực tế có nghĩa là khẳng định sự bình đẳng giữa Bắc và Nam, thông qua tiêu chí chính trị và văn hoá mà người Trung Quốc đưa ra để tuyên bố ưu thế của họ hơn tất cả tộc người khác.

Việc khắc hoạ Việt Nam như một quốc gia văn hoá [văn hiến chi bang 文獻之邦] tương tự Trung Quốc sẽ được Nguyễn Trãi lặp lại vào cuối thế kỷ XV, khi ông viết Bình Ngô đại cáo, tuyên bố thất bại của nhà Minh khiến quân đội Minh triều bị đánh đuổi ra khỏi Việt Nam:

Đất đai bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Trong tuyên ngôn của mình, Nguyễn Trãi đã sử dụng các yếu tố truyền thống Trung Quốc để chỉ ra phương thức đúng đắn nhằm ngăn chặn âm mưu của nhà Minh - Trung Quốc. Đối với ông, các thể chế Hán (Sinic) không phải là “Trung Quốc” và Việt Nam không phải là một thực thể bên ngoài chỉ biết bắt chước họ [O'Harrow, 1979: 174]. Tuyên ngôn của Nguyễn Trãi là một nỗ lực chứng minh nền độc lập và bình đẳng của Việt Nam. Giống như các nho sĩ Việt Nam khác, ông tin rằng văn học cổ đại Trung Quốc có đặc trưng phổ quát chứ không chỉ đơn giản là các mô hình kinh nghiệm của Trung Quốc. Trong một số trường hợp, các học giả này đánh đồng các phương châm của Khổng giáo với một kiểu công nghệ, một công nghệ tiên tiến nhất để kiểm soát và quản lý xã hội. Do đó, họ không ngần ngại khơi gợi các đoản văn Hán ngữ như những tinh hoa về phép tu từ để minh họa vị trí cao quý của họ trên thế giới và coi bất cứ điều gì mà họ nói ra đều là chuẩn mực. Nói cách khác, các mô hình văn hoá Trung Quốc vẫn đồng nghĩa với “nền văn minh”, và bởi vậy giới nho sĩ Việt Nam không ngừng xác lập văn hoá Việt Nam tách biệt khỏi các nước láng giềng Đông Nam Á, kiên trì nâng cao nhận thức phổ biến về các chuẩn mực Nho giáo nhằm làm sâu sắc thêm mối liên kết giữa dân tộc Việt Nam và Khổng giáo. Do sự liên kết văn hóa này, trong quá khứ, các học giả Việt Nam luôn có xu hướng nhấn mạnh vai trò quan trọng của đất nước họ như một trung gian chuyển giao công nghệ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Lê Quý Ðôn đã có lần tuyên bố một cách dứt khoát rằng sản vật của Việt Nam hơn hẳn  Trung Quốc ở tất cả mọi thứ từ hoa trái đến rau quả. Trên tất cả, ông chỉ ra rằng các loại gạo chín sớm đa dạng đều có nguồn gốc từ Champa, sau đó đến Việt Nam trước hết, rồi mới tới Trung Quốc. Như Alexander Woodside đã gợi ý, sự lan rộng toàn thế giới của gạo Chăm vào thế kỷ XI trở thành chủ đề chính cho độc giả Việt Nam vào bảy thế kỷ sau đó, "Lê Quý Đôn đã mời họ hình dung lại toàn bộ lĩnh vực kinh tế của biển Nam Trung Quốc trong cái nhìn tách khỏi Trung Quốc và ủng hộ Đông Dương "[Woodside, 1997: 256257]. Rõ ràng mục tiêu của Lê Quý Đôn không chỉ làm giảm tầm quan trọng của Trung Quốc, mà còn lấy dữ liệu từ sự phát triển nông nghiệp khu vực để mang lại chiều sâu ý thức về bản sắc Việt Nam.

Đối với tầng lớp thượng lưu của Việt Nam những năm 1700 và đầu những năm 1800, đế quốc Trung Hoa đã không thể  hoàn thiện cộng đồng lý tưởng của các triết gia Khổng học. Trong mắt người Việt Nam, Trung Quốc thực sự là một đế quốc của các đô thị thương mại khổng lồ nơi các nhà cai trị giả dối nói bằng nhiều thứ tiếng. Ngược lại, ở Việt Nam, thương mại nhỏ hơn, gần gũi hơn với quy mô của các thành phố - tiểu bang thời đại Khổng Tử, và có môi trường tiềm năng thích hợp hơn cho các giá trị Nho giáo [Woodside, 1997: 248]. Do đó, niềm tin của bậc đế vương Việt Nam là họ không cần phải là người 'Trung Quốc' để tạo ra một quốc gia có các phẩm chất như các quốc gia mà Khổng Tử ngưỡng mộ. Điều này giải thích lý do tại sao biên niên của nhà Nguyễn mô tả bậc đế vương Việt Nam trong thế kỷ XIX như là người thực sự bảo tồn Khổng học chính thống, với văn hoá vượt trội so với nhà Thanh là giống “man di” vì có nguồn gốc từ Mãn Châu.

Những tuyên bố bá quyền của Trung Quốc và cuộc kháng chiến dai dẳng của người Việt Nam chống lại tuyên bố này, minh chứng cho sự tin tưởng ngoan cường của người Việt rằng Việt Nam và Trung Quốc, trái ngược với tín điều Trung Quốc, có chủ quyền ngang nhau. Sự xác tín này rõ ràng được xác lập như là phủ nhận các tham vọng của Trung Quốc muốn chiếm lĩnh vai trò là trung tâm duy nhất trên thế giới [Wolters, 1979]. Trong lời mở đầu cho các biên niên sử Việt Nam, nhà sử học thế kỷ XV Ngô Sĩ Liên lập luận rằng người Việt có nguồn gốc từ Thần Nông, một trong những bậc minh quân huyền thoại của Trung Quốc, nhưng thuộc nhánh khác với Trung Quốc [Đại Việt sử ký, 1983: 99]. Điều này góp phần làm nên hình ảnh lý tưởng của mối quan hệ giữa người Việt Nam với Trung Quốc: có cùng nguồn gốc, nhưng với một lịch sử độc lập, ngầm phủ nhận bá quyền chính trị của Trung Quốc. Như một hệ quả, các nguyên thủ Việt Nam hình dung về thế giới từ quan điểm 'Bắc' và 'Nam', khẳng định rằng kể từ khi được độc lập khỏi ách đô hộ Trung Quốc, họ đã liên tục duy trì một truyền thống đế quốc phía Nam vốn bắt nguồn từ thời cổ đại, và do đó bác bỏ vị trí trung tâm của Trung Quốc trong vũ trụ [Nguyễn Thế Anh, 1990: iii]. Do đó, tới lượt mình, họ nỗ lực buộc các nước láng giềng Đông Nam Á nhìn nhận phiên bản của họ về một thế giới nơi họ cũng phải chiếm vị trí vượt trội [Woodside, 1971: 234-246].

Trong khi người Việt duy trì được độc lập qua nhiều thế kỷ mặc dù các hoàng đế Trung Quốc liên tục đòi áp đặt quyền lực của họ đối với Việt Nam, phần lớn là do Trung Quốc cho rằng bất cứ điều gì mà họ thèm muốn ở Việt Nam, những gì họ nhận được không xứng với thứ mà họ yêu cầu. Do đó, mối quan hệ phiên thuộc vẫn được duy trì, từ quan điểm của Trung Quốc có nghĩa là mối quan hệ của bá chủ và chư hầu, từ quan điểm của người Việt Nam là mối quan hệ của hai nước độc lập, có “chủ quyền” (dù không bình đẳng về mặt quyền lực). Tuân thủ nghiêm túc các quy tắc và diễn giải về mối quan hệ này theo như quan niệm của Việt Nam góp phần vào chung sống hòa bình. Tuy nhiên, mối quan hệ phiên thuộc không phải là quan hệ giữa hai quốc gia bình đẳng, mà là do sự sắp xếp phức tạp, theo đó, mặc dù không được thể hiện cụ thể bởi bất kỳ điều ước nào, chúng vẫn dựa trên các quan hệ cá nhân giữa hai bậc đế vương của hai nước. Điều đó ngầm hiểu là Trung Quốc thoả thuận hiện diện với tư cách cường quốc đồng ý hỗ trợ cho chư hầu của mình trong trường hợp cần thiết, và bên chư hầu ngầm chấp nhận các nghĩa vụ theo nghi lễ nhất định, nhất là các nghĩa vụ cống nộp định kỳ cho triều đình Trung Quốc. Vị thế phiên thuộc  không áp đặt cho quốc gia Việt Nam, mà giành cho hoàng đế, người về nguyên tắc có tính hợp pháp vì được Hoàng đế Trung Quốc phê chuẩn. Qua nghi lễ tấn phong này, Thiên tử của Trung Quốc long trọng tuyên bố người mà ông ban cho danh hiệu “An Nam Quốc vương” là xứng đáng vì lòng trung thành và tận tuỵ. Như vậy, việc phong tặng tạo ra sự phụ thuộc, nhưng đồng thời góp phần thiết lập tính hợp thức cho nền quân chủ Việt Nam với sự giúp đỡ của nước láng giềng to lớn.

Bắt nguồn từ các cuộc chinh phạt từ thời Hán, quyền bá chủ của Trung Quốc, đến tận thế kỷ XIX được khẳng định liên quan đến lãnh thổ Việt Nam hơn là đối với dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ gắn liền với quan điểm truyền thống về trọng luân lý và đạo đức của Trung Quốc như là bá chủ thiên hạ (天下), mà còn phân định khá rõ  ở miền bắc Việt Nam, một phần của lãnh thổ  hoặc “đất tiếp giáp” với Hán và Đường[2].

Sau khi Việt Nam giành độc lập, sự can thiệp của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào việc khôi phục các vị trí hoàng thân Việt Nam bị phế truất. Vấn đề tính hợp pháp vẫn luôn là mối quan tâm của Trung Quốc cho đến thời kỳ hiện đại. Hành động của Minh Thành Tổ  năm 1407 chủ đích là trị an chư hầu gặp sự biến, khi vua thuộc quốc kêu gọi giúp đỡ, và sau đó trả lại trật tự. Trong triều đại nhà Thanh, Việt Nam là một trong ba hoặc bốn chư hầu trung thành nhất trong việc cống nạp cho triều đình Bắc Kinh. Và trong nhiều trường hợp, quân đội của hoàng đế [Trung Quốc] được cử đến lãnh thổ Việt Nam, theo yêu cầu của hoàng đế Việt Nam, để đàn áp nổi loạn địa phương. Cho đến thế kỷ XIX, những sự kiện đó, cùng với mối quan hệ văn hoá và chủng tộc lâu đời, đã được người Trung Quốc xem là bằng chứng đầy đủ về quyền bá chủ không thể xoá bỏ của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Tuy nhiên, hệ thống phiên thuộc thỏa mãn các lợi ích cơ bản của hai bên. Đối với Trung Quốc, đó là một phương tiện hành động thông minh và tiết kiệm để giữ lại trong quỹ đạo ảnh hưởng của nó một quốc gia lân cận mà vì lý do thực tiễn họ không thể kiểm soát trực tiếp. Điều này cho phép Trung Quốc có trong tầm tay một chư hầu thuần phục có thể giúp họ giữ yên xã hội phương Nam. Về phần mình, các vị hoàng đế Việt Nam ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải chấp nhận tư cách phiên thuộc của họ, để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc vào công việc nội bộ. Hơn nữa, vì lợi ích, triều đình  Việt Nam thà mất một phần chủ quyền để đổi lấy sự đảm bảo rằng nếu có biến trong nước, vua Việt Nam sẽ được Trung Quốc trợ giúp, Trung Quốc sẽ chịu trách nhiệm về mặt đạo đức phải bảo vệ triều đại hợp pháp mà họ đã công nhận-, và trong thời bình,  sẽ không có nguy cơ bị Trung Quốc can thiệp, chinh phục và trực tiếp cai trị đất nước. Bên cạnh đó, giới cai trị ưu tú của Việt Nam dễ dàng chấp thuận chế độ chư hầu này chừng nào nó cho phép họ hưởng lợi từ lợi ích vật chất và văn hoá: các sứ thần được cử đến triều đình Trung Quốc có dịp được mang về nước mình những cuốn sách văn học và khoa học, chưa kể đến lợi nhuận từ kinh doanh phụ trong thời gian đi sứ.

Tuy nhiên, các Hoàng đế Việt Nam đã thận trọng thực hiện các hoạt động nhằm vô hiệu hóa những hạn chế của hệ thống phiên thuộc mà họ không thể công khai xoá bỏ. Bắt đầu với nhà Trần (1226-1400), những người đứng đầu Việt Nam đã sử dụng tên giả [Giả húy ] trong thư tín ngoại giao của họ với triều đình Trung Quốc [Hoàng Xuân Hãn 1967: 143-144]. Người đi thế Quang Trung khi sang Bắc Kinh năm 1790 để nhận tấn phong nhằm mục đích tương tự [Trương Bửu Lâm 1968: 174-177]. Trong những trường hợp này, đối với các nhà cai trị Việt Nam việc lừa dối triều đình Trung Quốc không ý nghĩa bằng việc tìm ra một thủ thuật ngầm để làm mất hiệu lực việc tấn phong của Hoàng đế Trung Quốc: khi việc tấn phong dành cho một thực thể giả, nó sẽ là vô nghĩa. Bằng cách đó, tính độc lập của nền quân chủ Việt Nam ít nhất được bảo đảm.

Dù sao, người Việt Nam đã nhận thức đầy đủ về việc họ vay mượn văn hoá của một nền văn minh, thay vì nhiều nền văn minh khác nhau. Họ vẫn nghĩ như vậy cho đến khi chế độ thuộc địa của Pháp đến buộc Việt Nam phải quay lưng lại với truyền thống Trung Quốc và hướng tới văn hoá phương Tây. Sự hiện diện của Pháp cũng làm gián đoạn xu hướng địa phương hóa xã hội Việt Nam của những người Trung Quốc là thương nhân và người tị nạn đến Việt Nam. Cho đến lúc đó, những người Trung Quốc đến định cư ở Việt Nam đã thích nghi với trật tự chính trị bản địa và thường được coi là đã vượt qua “bài kiểm tra văn hoá”[3]

Sau khi bị áp đặt bởi những nguyên tắc của người Pháp, mối quan hệ lâu dài giữa Hoa kiều với môi trường văn hoá thay đổi do sự kết hợp của chính sách thực dân Pháp và sự tập trung cao độ các lao động nhập cư: không chỉ các Hoa kiều không đồng hoá được môi trường bản địa, mà còn làm cho những người nhập cư sau họ trở nên khó khăn hơn trong thích nghi. Với thành công của cuộc cách mạng cộng sản ở Trung Quốc năm 1949, tình hình biến đổi hoàn toàn. Không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ giữa lãnh đạo và cán bộ ở cả hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam,[4] mà còn cả triết lý đã nuôi dưỡng Đảng Cộng sản Đông Dương đặc biệt nhấn mạnh vào nguyên tắc "chủ nghĩa quốc tế vô sản" và ý tưởng về 'sự hiệp nhất của các đảng anh em', được so sánh ẩn dụ với “môi và răng”. Các ấn phẩm gần đây đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người Trung Quốc trong việc lập kế hoạch và thậm chí chỉ huy các chiến dịch quân sự trong các cuộc chiến do Việt nam Dân chủ Cộng hòa  tiến hành chống Pháp và Hoa Kỳ[5]. Thực tế, với quan hệ chặt chẽ  Việt-Trung thời đó và kinh nghiệm quân sự của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo dường như đã cho phép Trung Quốc có quyền tham gia rộng rãi và ảnh hưởng đến quyết định được đưa ra trong chiến tranh. Chất lượng mới của mối quan hệ Trung-Việt thể hiện trong việc sử dụng thuật ngữ "bọn phong kiến phương Bắc" để chỉ người Trung Quốc khi họ xâm chiếm Việt Nam. Do đó, sự nổi lên của cuộc xung đột Trung-Xô vào cuối những năm 1950 và  bùng nổ năm 1960 dường như là một sự xáo trộn khủng khiếp của trật tự tự nhiên. Tương tự, trong vòng 15 năm tiếp theo, trong khi cuộc chiến tranh chống Mỹ phát triển và tiếp tục qua các giai đoạn khác nhau, người Việt Nam đã kiên nhẫn quản lý được mối quan hệ kép, một mặt nhận được sự trợ giúp thiết yếu từ Liên Xô và khối XHCN Châu Âu và mặt kia, từ  Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Chuyển đổi một cách hiệu quả mối quan hệ truyền thống được thể hiện dưới hình thức phiên thuộc thành một mối quan hệ mới trên cơ sở bình đẳng về lý thuyết đòi hỏi phải có sự điều chỉnh lớn trong quan điểm của mỗi quốc gia đối với phía bên kia. Đối với vấn đề đó, áp lực của Trung Quốc dưới bất kỳ hình thức nào cũng được người Việt Nam cảm nhận bằng trực giác như một mối đe dọa đối với sự sống còn của dân tộc. Mặt khác, sự khẳng định của Việt Nam về các lợi ích quốc gia chứ không phải chiều theo chính sách của Trung Quốc cũng được người Trung Quốc cảm nhận theo bản năng như một sự xấc xược gần với bất phục tùng. Như một hệ quả không thể tránh khỏi của sự khác biệt về quy mô giữa hai nước, những cảm xúc này vẫn còn nằm ở gốc rễ của quan hệ Trung-Việt ngày nay như đã từng xảy ra một hoặc hai ngàn năm trước đây. Những nguyên nhân khác nhau của sự đổ vỡ mối quan hệ hòa bình giữa hai nước năm 1978 (khôi phục lại những căng thẳng cũ dọc theo biên giới, sự can thiệp của người Việt để giúp lật đổ chế độ Pol Pot ở Cambodge) có lẽ ít quan trọng hơn so với việc Trung Quốc không thích ý tưởng về một nước Việt Nam thật sự độc lập. Quan hệ Việt-Trung xấu đi kể từ khi Trung Quốc cắt viện trợ vào giữa năm 1978 và kể từ khi Hiệp ước Liên Xô-Việt Nam được ký kết tháng 11 năm đó đã gần đạt đến điểm châm ngòi cho cuộc xâm lăng của Trung Quốc, một sự đảo ngược chính sách cũ của «giới phong kiến phương Bắc»[6]. Cuộc tấn công kéo dài 28 ngày này và việc quân đội Trung Quốc rút khỏi Việt Nam kéo theo những diễn biến liên quan, chẳng hạn việc trục xuất người Hoa ra khỏi Việt Nam, thay đổi cán cân lực lượng ở biên giới phía Nam Trung Quốc. Chiến tranh với Việt Nam là một cú tát vào mặt những người theo chủ nghĩa lý tưởng ở Trung Quốc vẫn còn tin vào tính đúng đắn của “chủ nghĩa quốc tế vô sản”[7].

Tuy nhiên, quan hệ ngoại giao Việt-Trung không bị phá vỡ. Bên cạnh đó, khi Liên Xô sụp đổ,  Hà Nội không còn cách nào khác ngoài việc sớm nối lại quan hệ với Bắc Kinh. Chắc chắn, sự e ngại và sự không đồng thuận vẫn dồn về những ý đồ của Trung Quốc. Những ngờ vực sâu sắc trong lịch sử giữa hai nước sẽ không dễ tiêu tan. Trong khi những người bảo thủ Việt Nam, đặc biệt là quân đội, đánh giá Trung Quốc như là đồng minh cộng sản cuối cùng quan trọng nhất, các nhà cải cách chỉ ra mối đe dọa mà Trung Quốc có thể gây ra trong một hoặc hai thập kỷ khi họ củng cố sức mạnh quân đội, đặc biệt là hải quân. Tuy nhiên, người Việt Nam đã tích cực tìm cách cải thiện và hoàn toàn bình thường hóa quan hệ thông qua một loạt các chuyến thăm cấp cao và các hiệp định. Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc  ấm hơn vào năm 1989, một thập kỷ sau khi quân đội Trung Quốc tấn công miền Bắc Việt Nam để "dạy cho Việt Nam một bài học" vì đã xâm lược Cambodge. Thương mại biên giới hưng thịnh được khôi phục lại. Khách hàng từ khắp Việt Nam đến thị trấn biên giới Ðồng Ðăng để giao thiệp với các thương gia tư nhân để mua quạt, phích nước, xe đạp, băng ghi âm, đồ gốm sứ, bia và hàng tiêu dùng khác do Trung Quốc sản xuất. Thương nhân Trung Quốc tìm mua hải sản, động vật hiếm để làm thuốc, đồng, vải, rau, thịt và gạo. Về phần mình, Việt Nam đã từ bỏ các chính sách phân biệt đối xử với Hoa kiều vốn đã khiến cho Bắc Kinh định tố cáo vào năm 1978. Quan chức Việt Nam đã sẵn sàng thừa nhận rằng họ đã mắc sai lầm trong cuộc vận động  chuyển đổi xã hội chủ nghĩa tháng 3 năm 1978 để cải tạo công thương nghiệp, bắt các hãng công thương nghiệp tư nhân theo tư bản ở miền Nam - khoảng một nửa trong số đó là người Hoa.

Rõ ràng, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc khu vực duy nhất, làm bất cứ việc gì cũng phải xem xét mọi ý đồ và chính sách của họ. Vị trí của Trung Quốc trong sự cân bằng quyền lực của châu Á có thể là của một nước Trung Hoa mới, một phiên bản hiện đại bắt đầu hình thành rõ ràng khi Bắc Kinh tìm cách khôi phục lại vị trí lịch sử của Trung Quốc như là cường quốc của châu Á. Trong quan hệ quốc tế,  sức mạnh quân sự, chính trị nội bộ, tiến bộ kinh tế và chủ nghĩa dân tộc lên cao, Trung Quốc nổi lên như một cường quốc châu Á mà mọi quốc gia phải tính đến. Khái niệm Trung Quốc như là cường quốc vượt trội ở châu Á đã quay trở lại, vì vậy mà không một quyết định nào đưa ra mà thiếu sự phê chuẩn của Bắc Kinh[8]. Nhưng, khi Bắc Kinh tuyên bố bắt buộc phải có "mối quan hệ tốt đẹp với các nước xung quanh", Giang Trạch Dân đã trích dẫn Tân Hoa Xã, cơ quan thông tấn quốc gia Trung Quốc, nói về xung đột Trung-Việt năm 1979  rằng “một số vấn đề lịch sử còn lại” có thể được giải quyết hợp lý, miễn là hai bên biết nhìn xa trông rộng, hiểu nhau và tham khảo ý kiến ​​một cách công bằng và hợp lý. Trong những trường hợp này, sức mạnh chính định hình chính sách đối ngoại của Việt Nam phải là Trung Quốc. Trong những năm gần đây, quay trở lại với Trung Quốc như là một nguồn hỗ trợ tư tưởng và chính thống, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam liên tục thực hiện các chuyến hành hương của họ đến Bắc Kinh, nơi họ cam kết các mối quan hệ về ý thức hệ với các đối tác Trung Quốc của họ, viện dẫn các ngôn từ hoa mỹ của chủ nghĩa marxisme-léninisme và cam kết đưa quan hệ Việt-Trung lên “một tầm cao mới”.

Ngày 8 tháng 12 năm 1997, Lý Thụy Hoàn李瑞環, Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và là Chủ tịch Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc [Mặt trận tổ quốc], tuyên bố trong chuyến thăm Việt Nam: «Trung Quốc và Việt Nam núi liền núi sông liền sông, nhân dân hai nước chia sẻ tình hữu nghị truyền thống qua bao đời nay. Trong cuộc đấu tranh cách mạng dài lâu, nhân dân Trung Quốc và Việt Nam đã ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, chia ngọt sẻ bùi, chiến đấu bên cạnh nhau và tạo ra một sự đồng cảm cách mạng sâu sắc. Trong những năm qua, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong mối quan hệ láng giềng và hữu nghị tốt đẹp. Trung Quốc và Việt Nam chia sẻ các mục tiêu và nhiệm vụ cũng như những khó khăn chung ... ». Đáp lại, Chủ tịch nước Trần Ðức Lương bày tỏ: "Việt Nam coi trọng mối quan hệ hữu nghị truyền thống với Trung Quốc, và sẽ làm việc hết mình để thực hiện các mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc một cách toàn diện, trên tinh thần hữu nghị vào thế kỷ XXI”[9]. Kể từ đó, các diễn ngôn chính thức đều nhấn mạnh mối quan tâm chung rất quan trọng mà cả Trung Quốc và Việt Nam đều chia sẻ là phát triển thành công "nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa". Trung Quốc đứng một mình trong số 5 quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại và được coi là thành công trong nỗ lực thực hiện tư tưởng này. Hành trình tới Trung Quốc để nghiên cứu khả năng áp dụng các cải cách thị trường xã hội chủ nghĩa kiểu Trung Quốc đối với Việt Nam, do đó là thiết yếu. Bốn tương đồng cơ bản giữa các cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam được kể ra là: theo đuổi chủ nghĩa xã hội có tính đến điều kiện của từng quốc gia; đổi mới và cải cách làm cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định tình hình chính trị; huy động nguồn lực trong nước đồng thời tận dụng hợp tác quốc tế; tất yếu phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.[10]

Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam ngày 28 tháng 11 năm 1998, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố: " Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của quan hệ Việt-Trung, chúng ta đã tích cực và chủ động đẩy mạnh tình hữu nghị và quan hệ hợp tác với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong nhiều lĩnh vực. Chúng ta cũng đã duy trì tất cả các cuộc họp cấp cao hàng năm. Sự kiện nổi bật nhất trong năm nay là chuyến thăm hữu nghị chính thức tới Trung Quốc của Thủ tướng Phan Văn Khải vào tháng 10. Việc trao đổi các chuyến thăm giữa các ngành và địa phương ở hai nước tiếp tục phát triển tích cực. Chỉ riêng trong 9 tháng đầu năm nay, 80 chuyến viếng thăm trao đổi đã được thực hiện bởi các phái đoàn từ cả hai phía ở tất cả các cấp. Chúng ta đã tích cực đưa ra các biện pháp thiết thực để tăng cường hiệu quả của hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và tăng khối lượng thương mại. Chúng ta đang phấn đấu đưa khối lượng thương mại song phương lên 2 tỷ đô la vào năm 2000. Gần đây, các hiệp định thương mại biên giới, trợ giúp pháp lý và các dịch vụ lãnh sự sẽ giúp khôi phục lại trật tự quản lý khu vực biên giới. Chúng ta đã cố gắng đẩy nhanh quá trình đàm phán cho việc ký kết thoả thuận về biên giới đất liền và thoả thuận về việc phân định Vịnh Bắc Bộ vào năm 2000 phù hợp với sự đồng thuận của các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước. Nói tóm lại, chúng ta đã thực hiện được những tiến bộ đáng kể trong mọi cuộc đàm phán”[11].

Về vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, các cuộc đàm phán tẻ nhạt và không mang tính chiến lược, liên quan đến hàng trăm điểm còn gây bất đồng trong đo lường liên quan đến những sai số dưới vài trăm mét có nguồn gốc từ một bản đồ thế kỷ trước. Tuy nhiên, tranh cãi về đất đai biên giới được giải quyết nhanh chóng. Tháng 12 năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được một thỏa thuận lịch sử về phân định ranh giới đất liền. Một năm sau, một thỏa thuận khác giải quyết vấn đề Vịnh Bắc Bộ bằng cách vẽ đường chia đều giữa Việt Nam và đảo Hải Nam. Tuy nhiên, hai bên vẫn còn xa nhau khi đề cập đến hai quần đảo trên biển Đông nơi họ có những tuyên bố tranh chấp về Trường Sa và Hoàng Sa[12]. Hai nhóm đảo tranh chấp ngoài khơi bờ biển Việt Nam vẫn là những điểm nóng tiềm ẩn trong quan hệ Việt-Trung. Trường Sa (Nam Sa theo tiếng Trung Quốc), "hòn đảo của những nơi nguy hiểm”, như cách gọi của các thủy thủ thế kỷ XIV, có tầm quan trọng vì các mỏ dầu tiềm năng, các vùng đánh cá phong phú và vị trí chiến lược cùng với các tuyến vận tải chính thông qua biển  [Đông của Việt Nam]. Trung Quốc nhắc lại những gì họ gọi là “Chủ quyền không thể tranh cãi” kể từ triều đại nhà Đường đối với Trường Sa. Việt Nam tuyên bố chủ quyền dựa vào các bản đồ thời Pháp thuộc và bằng chứng khảo cổ học (đặc biệt là gốm Việt Nam có niên đại thế kỷ XIII). Một số nội dung tranh cãi liên quan đến vấn đề định nghĩa. Điều thực sự quan trọng là hình ảnh mà những hòn đảo này đại diện, biểu tượng. Nếu mối quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện liên tục trong thập kỷ vừa qua kể từ khi bình thường hoá quan hệ, tất cả không có gì ngoài việc hoà giải liên quan đến Trường Sa.

Những tranh chấp lãnh thổ này vẫn còn âm ỉ, dù vào tháng 6 năm 2000, 21 năm sau khi hàng nghìn binh lính Trung Quốc đổ vào Việt Nam để dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Cambogde vào Giáng sinh năm 1978, 16 trong số các quan chức cấp cao nhất của Việt Nam đã tới Trung Quốc để thảo luận một bài học khác, không được tuyên bố công khai: làm thế nào để cải cách một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà không mất đi sự kiểm soát của Đảng. Sự phát triển là một điều phi thường. Với nền kinh tế ảm đạm và Đảng Cộng sản Việt Nam bị ám ảnh phải duy trì vai trò lãnh đạo, Hà Nội dường như tìm kiếm chỗ cứu hộ trong mối quan hệ gần gũi với kẻ thù lâu đời nhất [Chanda, 2000]. Được điều hành bởi Uỷ viên Bộ Chính trị Trung Quốc Lý Đình Giới 李廷介các đại biểu Việt Nam đã tham gia “Toạ đàm lý luận” kéo dài 2 ngày, bắt đầu từ 13 tháng 6, sau đó đến Tây Nam Trung Quốc để tiến hành khảo sát thực địa về cải cách kinh tế. Khi cuộc họp bắt đầu, Bắc Kinh tuyên bố đã cho Việt Nam 55 triệu đô la để nâng cấp hai nhà máy thép và phân bón do Trung Quốc xây dựng. Cuộc họp là một trong nhiều dấu hiệu của nối lại tình hữu nghị, nếu không thì là việc Việt Nam quay trở về với một trong những vai trò lịch sử của nó, trong đó Việt Nam là học sinh và Trung Quốc là thày giáo. Đây được gọi là thuật ngữ chính thức như là tình bạn dựa trên “16 chữ vàng”, mà báo Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Việt Nam kể ra:  "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" [13].

Tờ báo nhấn mạnh rằng việc trao đổi quan điểm và kinh nghiệm, đặc biệt trong giáo dục chính trị, giữa hai bên là rất cần thiết cho việc xây dựng và đổi mới đảng trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự hiểu biết lẫn nhau và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ được phát triển theo nguyện vọng và lợi ích của mỗi quốc gia.

Rõ ràng, các động thái chiến thuật nằm dưới sự ấm dần lên sau một thời kỳ xung đột giữa hai nước. "Hãy nhớ rằng, sau khi đánh bại Trung Quốc, chúng tôi luôn gửi lời tri ân”, một  quan chức của Việt Nam nói về sự bực bội gần đây của Hà Nội. Tuy nhiên, một số ở Việt Nam nghi ngờ về sự khôn khéo đằng sau. Trần Bạch Ðằng, một nhà lãnh đạo cộng sản kỳ cựu ở thành phố Hồ Chí Minh, tuyên bố thẳng thừng rằng Trung Quốc đang tiến hành chiến tranh kinh tế chống lại Việt Nam bằng cách làm tràn ngập thị trường của Việt bằng hàng hóa giá rẻ [Chanda, 2000]. Nói về tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam với Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, ông nói: "Trung Quốc là mối đe dọa không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với thế giới. Trung Quốc đã tấn công tất cả các nước láng giềng: Ấn Độ, Việt Nam và Nga". Mặc dù họ chia sẻ các quan niệm chung về xã hội chủ nghĩa, sự gần gũi về mặt địa lý, và các mối quan hệ đã bình thường hoá, cả hai quốc gia vẫn còn cảnh giác với nhau.

Tư tưởng và mối quan tâm quốc gia chi phối việc bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt-Trung. Trung Quốc và Việt Nam đang chứng kiến ​​một tình huống mới khi cơ hội và thách thức cùng tồn tại. Vì cả hai quốc gia đang chia sẻ một gắn kết chung - tư tưởng cộng sản, cải cách kinh tế, và hội nhập trong nền kinh tế toàn cầu – họ thể hiện những tương đồng tuyệt đối. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đặc biệt muốn biết Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cân nhắc ra sao những rủi ro đối với chế độ độc đảng khi tham gia WTO, và nó tác động như thế nào  đến người dân Trung Quốc. Họ muốn tìm hiểu làm thế nào để bảo đảm rằng nguyên tắc cộng sản không bị phá vỡ khi mở cửa ra với kinh tế thế giới[14]. Cũng giống như ở Trung Quốc, chống tham nhũng nhằm mục đích nhằm củng cố nền tảng chính trị của một nhóm nắm quyền. Các nhà tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam đồng thuận trong việc đạo đức hóa hình ảnh Đảng Cộng sản của họ để chống lại các cú sốc từ bên ngoài. Và cũng giống như Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam tìm thấy một kẻ thù nước ngoài thích hợp, và nếu như không có, họ phải tạo ra: cáo buộc lâu dài về “gián điệp nước ngoài” không phải là điều có thể được chứng minh, nhưng phục vụ một mục đích tốt, vì vậy chính quyền Hà Nội vẫn tiếp tục chiến dịch chống lại kẻ thù này. Đối với vấn đề đó, sự đàn áp của Trung Quốc giành cho Pháp Luân Công không nghi ngờ gì đã được các lãnh đạo Việt Nam khen ngợi và coi là nhằm tăng cường các xu hướng đàn áp đối với bất kỳ nhóm nào cố gắng hoạt động độc lập với quyền lực nhà nước. Quan điểm của Trung Quốc về nhân quyền và tự do tôn giáo là đối trọng chống lại áp lực của phương Tây và củng cố mạnh thái độ chính thức của Việt Nam.

Mặc dù vậy, mục tiêu cơ bản của Việt Nam vẫn là tránh phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng châu Á đã làm thay đổi vị thế của Việt Nam trong không gian của khu vực. Tìm kiếm sự cân bằng giữa Đông Nam Á và Trung Quốc, chính phủ Việt Nam thực hiện một cách tiếp cận chiến lược và chính trị trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại, ngược lại với hành động có xu hướng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Trên thực tế, việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 chủ yếu là từ các động cơ chính trị: niềm tin rằng những xích mích xưa cũ giữa Việt Nam và Trung Quốc ít có khả năng bùng phát thành xung đột công khai khi Việt Nam thuộc về ASEAN, một nhóm có tầm quan trọng lớn đối với Trung Quốc. Trong khi đó, trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc trong một loạt các mặt hàng xuất khẩu từ giày dép đến dệt may, và các doanh nhân địa phương đã kinh ngạc trước triển vọng đối mặt với một người khổng lồ cạnh tranh như vậy ở phía Bắc khi các cam kết cải cách của Trung Quốc với WTO được kích hoạt. Mối quan ngại là hàng hoá Trung Quốc, đã được bán rộng rãi ở Việt Nam, có thể tiếp tục tràn ngập khi nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng tốc. Hiện nay, mặc dù Hà Nội rõ ràng trải nghiệm những cảm xúc phức tạp về đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam, họ muốn thấy việc buôn lậu hàng Trung Quốc phải chấm dứt ở biên giới.

Như vậy, Việt Nam dựa vào hệ tư tưởng để đạt được các mối quan hệ song phương có khả năng ngăn ngừa xung đột còn bỏ ngỏ, trong khi thừa nhận vị thế quốc tế vượt trội hiện tại của Trung Quốc, đáp lại các cam kết của họ đối với an ninh và thương mại quân bình. Tất cả mọi thứ đều được xem xét, tuy nhiên, những tương đồng về ý thức hệ dường như vẫn chưa đủ để chiếm ưu thế trong suốt lịch sử thù hận và nghi kị mà cả Trung Quốc và Việt Nam đều có điểm chung[15].

 

T.P.H dịch

 

Tài liệu tham khảo:

 

Bùi Xuân Quang (2000),  La troisième guerre d’Indochine, 1975-1999. Sécurité et géopolitique en Asie du Sud-Est. Paris, L’Harmattan.

Chanda, Nayan (2000),  “Friend or Foe? Hanoi has embarked on a controversial policy of closer ties with its oldest enemy – China”. Far Eastern Economic Review, June 22.

Chemillier-Gendreau, Monique (1996) La souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys. Paris, L’Harmattan.

Đại-Việt sử ký toàn thư. Bản dịch:1983. Hanoi, Nxb. Khoa học Xã hội, vol. 1.

Eastman, Lloyd E. (1967), Throne and mandarins. China’s search for a policy during the Sino-French controversy, 1880-1885. Cambridge, Harvard U.P.

Goscha, Christopher E. (1999),  “Entremêlements sino-vietnamiens: Réflexions sur le sud de la Chine et la révolution vietnamienne entre les deux guerres”. Approches-Asie 16:81-108.

Hoàng Xuân Hãn (1967) “Vụ Bắc-Sứ năm Canh thìn đời Cảnh Hưng”. Sử Ðịa [History-Geography, Saigon] 6: 3-5, 142-155.

Nguyễn Thế Anh (1989) “La frontière sino-vietnamienne du xie au xviie siècle”. In Les frontiers du Vietnam. Paris, L’Harmattan: 65-69.

Nguyễn Thế Anh (1990), Le Đại-Việt et ses voisins. Paris, L’Harmattan.

Nguyễn Thế Anh (1996),  “L’immigration chinoise et la colonisation du delta du Mékong”. The Vietnam Forum, 1: 154-177.

Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng (1983), Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm. Hà Nội:  Quân đội nhân dân.

O’Harrow, Stephen (1979), “Nguyễn Trãi’s Bình ngô đại cáo 平吳大誥 of 1428: The Development of a Vietnamese National Identity”, Journal of Southeast Asian Studies,10-1.

Qiang Zhai (2000) China and the Vietnam wars, 1950-1975. Chapel Hill, University of North Carolina Press.

Stuart-Fox, Martin (2002) China and Southeast Asia. St Leonards, Allen and Unwin, 2002.

Taylor, Keith W. (1983) The Birth of Vietnam. Berkeley, University of California Press.

Trocki, Carl A. (1997) “Chinese Pioneering in Eighteenth-Century Southeast Asia”, The Last Stand of Asian Autonomies, A. Reid ed. Houndmills, Macmillan Press: 83-101.

Trương Bửu Lâm(1968). “Intervention versus tribute in Sino-Vietnamese relations”. In The Chinese World Order, John K. Fairbank ed. Cambridge, Harvard U.P.: tr.165-179.

Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược (1981),  Hanoi, Nxb. Khoa học Xã hội.

Việt sử lược. Trần Quốc Vượng dịch: 1960. Hà Nội: Văn Sử Địa, 1960.

Wolters, O. W. (1979), “Historians and emperors in Vietnam and China: Comments arising out of Lê Văn Hưu’s History, presented to the Trần court in 1272”. In Perceptions of the Past in Southeast Asia, A. Reid & D. Marr ed. Singapore, Heinemann.

Wolters, O. W. (1999), History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives. Ithaca, seap.

 Woodside, Alexander (1971), Vietnam and the Chinese Model . Cambridge, Harvard University Press.

 Woodside, Alexander (1982), “Conceptions of Change and of Human Responsibility for Change in Late Traditional Vietnam”. In Moral Order and the Question of Change:Essays on Southeast Asian Thought , David K. Wyatt & Alexander Woodside ed. New Haven, Yale Univ. Southeast Asian Studies: tr.104-150.

Woodside, Alexander (1988) “Vietnamese History: Confucianism, Colonialism, and the Struggle for Independence”, The Vietnam Forum  11: 21-48.

Woodside, Alexander (1997). “The Relationship between Political Theory and Economic Growth in Vietnam, 1750-1840”. In The Last Stand of Asian Autonomies. Responses to Modernity in the Diverse States of Southeast Asia and Korea, 1750-1900 , A. Reid ed.Houndmills, Macmillan Press: tr. 245-268.

 



[1] Nguyên văn Anh ngữ “Attraction and Repulsion as the Two Contrasting Aspects of the Relations between China and Vietnam”, được trình bày trong Hội thảo China and Southeast Asia: Historical Interactions. An International Symposium, University of Hong Kong, 19-21/07/2001 và được xuất bản trong Tonan Ajia Kenkyu (Southeast Asian Studies) [Kyoto Univ.], vol.40, n°4 (03/2003), tr.444-458; East Asian Science, Technology, and Medicine (Tübingen), n°21 (2003), tr.94-113 

[2] Ở nửa sau thế kỷ XIX, người phát ngôn Trung Quốc là Tăng Kỷ Trạch vẫn còn tuyên bố rằng “Việt Nam thuộc Trung Hoa”, do đó “Trung Hoa có trách nhiệm bảo hộ toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam” (dẫn theo Eastman, 1967: 39).

[3] Xem Nguyễn Thế Anh, 1996 và Trocki, 1997.

[4] Về những tranh luận của mối quan hệ qua lại trước 1945 giữa ĐCS Trung Quốc và Việt Nam, xem Goscha, 1999.

[5] Quang Zhai 2000.

[6] Về vấn đề này, xem Bùi Xuân Quang: 2000.

[7] Trong ghi chép cá nhân, Martin Stuart-Fox cho rằng cú tát này lớn hơn đối với những người theo chủ nghĩa lý tưởng ở Việt Nam vốn hy vọng “chủ nghĩa quốc tế vô sản” có thể thay thế cho “chủ nghĩa bành trướng” truyền thống.

[8] Xem Stuart-Fox 2002, tác giả chứng minh rằng, khi sức mạnh của Trung Quốc gia tăng và chủ nghĩa Marx được thay thế bằng chủ nghĩa dân tộc, không chỉ Trung Quốc quay trở lại các mối quan hệ truyền thống với Đông Nam Á, mà các quốc gia Đông Nam Á cũng đang đáp lại theo cùng một hướng.

[9] Xinhua Domestic Service [Phát thanh quốc nội của Tân Hoa xã], 8/12/1997.

[10] Nhân Dân, 16/10/1998.

[11] Bài phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tại phiên khai mạc thứ 4, kỳ họp thứ 10 Quốc hội Việt Nam, 28/11/1998.

[12] Xem Chemillier-Gendreau: 1996.

[13] Kể từ khi bình thường hoá quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1991, việc trao đổi chuyến thăm và tư vấn thường xuyên về các vấn đề lớn giữa lãnh đạo hai nước được coi là đóng một vai trò không thể thay thế trong việc thúc đẩy quan hệ song phương. Gần đây, trong một bài xã luận ngày 7 tháng 9 năm 2001, báo Nhân Dân mô tả chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc Lý Bằng như một nguồn động viên cho nhân dân Việt Nam và một biểu hiện sống động của hai nước mong muốn phát triển mối quan hệ trên nguyên tắc ":  "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"”. Tờ báo này cũng ca ngợi những thành công lớn của nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được thành tựu trong xây dựng quốc gia, phát triển kinh tế đều đặn trong hơn hai thập kỷ cải cách và mở cửa. Tờ báo nhắc lại rằng, kể từ đầu những năm 1990, hai nước đã phấn đấu để thúc đẩy kinh tế chính trị, trao đổi văn hoá nhằm nâng cao hợp tác toàn diện song phương trong các khía cạnh mới. 

[14] Cụ thể, quyết định đưa ra vào giữa năm 2001 để hoàn thiện sửa đổi hiến pháp năm 1992, với chủ trương tôn vinh quyền của khu vực tư nhân, khuyến khích Việt Nam bám sát kế hoạch của Trung Quốc trong việc cho phép các doanh nhân tham gia Đảng Cộng sản cầm quyền.

[15] Việc thay thế Lê Khả Phiêu trong chức vụ  người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2001 là do quá gần gũi với Trung Quốc và những cáo buộc ông đã nhân nhượng quá nhiều trong đàm phán đường biên giới với Bắc Kinh, luôn được coi là đối thủ truyền thống của Việt Nam mặc dù có hệ tư tưởng chung.