khktmd 2015
Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018
Đà Nẵng và các bước ngoặt chiến lược của Mỹ - Tác giả Nguyễn Tiến Hưng
Khi nghe tin hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson sẽ vào Đà Nẵng, tôi tự hỏi: tại sao không phải Cam Ranh mà là Đà Nẵng, và tại sao lại tháng Ba?
Các bước ngoặt ấy lại có sự trùng hợp là thường hay xảy ra vào tháng Ba:
Tháng Ba, 1965: sau bao nhiêu thẩm định, cân nhắc, Washington đi tới quyết định đưa quân tác chiến vào Việt Nam. Đà Nẵng được chọn làm nơi để bắt đầu. Quyết định này phản ảnh thay đổi chiến lược từ chiến tranh du kích, chống nổi dậy tới chiến tranh quy ước.
Tháng Ba, 1973: sau Hiệp định Paris, lễ chính thức hạ cờ Mỹ để kết thúc vai trò của quân đội tác chiến tại Việt Nam lại được tổ chức tại sân bay Đà Nẵng.
Tháng Ba, 1975: Tòa Lãnh sự - bộ phận dân sự còn lại của Mỹ - đóng cửa và rút đi trên con tàu cuối cùng rời Đà Nẵng.
Bây giờ, sự kiện siêu hàng không mẫu hạm cập cảng Đà Nẵng có đánh dấu một bước ngoặt khác?
Trước hết ta nhìn lại những mốc lịch sử của Đà Nẵng liên hệ tới chiến lược của Mỹ:
Tháng Ba, 1965: đổ bộ Đà Nẵng
Sau khi TT John F. Kennedy bị sát hại vào tháng 11/1963, Phó TT Lyndon B. Johnson lên kế vị. Tuy có lập trường cứng rắn về Việt Nam, ông cố gắng kìm hãm, không leo thang cuộc chiến vì đã đặt ra mục tiêu ưu tiên cho chính quyền ông là War on Poverty - chiến đấu để khắc phục sự nghèo khó của người thiểu số ở Mỹ.
Cuối năm 1964, dù đại thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, nhiều người khuyên ông nên có hành động mạnh ở Việt Nam nhưng ông vẫn tiếp tục tự chế.
Nhưng rồi biến cố Pleiku đã thay đổi hẳn lập trường của ông. Cuộc tấn công vào doanh trại cố vấn Mỹ tại Pleiku và căn cứ trực thăng Holloway (cách đó khoảng bốn dặm) vào lúc 2:00 giờ sáng ngày 7 tháng 2, 1965 đã gây nên thiệt hại lớn: trong số 137 quân nhân Mỹ có 9 người bị giết, 76 người bị trọng thương. Những tổn thất về thiết bị cũng rất nặng nề: 16 trực thăng và 6 máy bay các loại khác bị hư hại. Đó là cuộc tấn công lớn nhất vào các cơ sở của Mỹ tại miền Nam Việt Nam cho tới thời gian đó.
Nó đã đưa tới một quyết định mau lẹ của Tổng thống Johnson để trả đũa. Ông nhóm họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và nói:
"Tôi đã gác khẩu súng ở phía trên lò sưởi và cất đạn ở dưới hầm nhà từ lâu rồi, nhưng địch quân đang giết hại người của ta...Hèn nhát đã đưa chúng ta vào nhiều cuộc chiến hơn là trả đũa: nếu như Hoa kỳ đã mạnh dạn hơn ngay từ đầu thì đã tránh được Thế Chiến I và II."
Sau đó ông cho khởi động chiến dịch Rolling Thunder: từng lớp máy bay khu trục bay xuyên mây oanh tạc các doanh trại Bắc Việt cách Vĩ tuyến 17 khoảng 40 dặm về phía bắc tại Đồng Hới. Việc trả đũa này đã bắt đầu một chiến dịch oanh tạc kéo dài với Linebacker I và Linebacker II.
Đưa nhiều máy bay oanh tạc vào tham gia cuộc chiến thì phải bảo vệ phi trường Đà Nẵng và khu vực chung quanh phi trường để tránh bị pháo kích như ở Pleiku. Vì vậy Washington tính đến việc mang quân vào để đáp ứng.
Nhưng nếu mang quân tác chiến vào thì vi phạm Hiệp định Geneva và có khả năng là chiến tranh sẽ leo thang.
Bàn kỹ nhưng Washington vẫn đi tới kết luận phải chấp nhận mọi rủi ro.
Ngày 23/02/1965, tại Sài Gòn, Tướng William Westmoreland đề nghị với Tư lệnh Thái Bình Dương và Bộ Tổng Tham Mưu:
"Đưa một Lữ đoàn Viễn chinh Thủy Quân Lục Chiến MEB (Marine Expeditianory Brigade) để giữ an ninh cho Đà Nẵng. Việc đưa quân vào tiếp theo sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào sự đồng ý của thượng cấp trên căn bản chính trị. Đại sứ Taylor cũng sẽ đề nghị đưa một đội Tiểu đoàn Đổ Bộ BLT (Battalion Landing Team) vào Đà Nẵng ngay."
Ngày 26/02, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Sứ quán tại Việt Nam:
"Thượng cấp đã có quyết định tiến hành đổ bộ cùng một lúc một đơn vị MEB, một đơn vị BLT, và một phi đội trực thăng...rồi sẽ thêm BLT thứ hai, tất cả đều trong Khu vực Đà Nẵng ..."
Ngày 8/03, bốn tàu USS Henrico, Union, and Vancouver đưa một lữ đoàn 3,500 TQLC vào đổ bộ ở bãi biển "Red Beach."
Hành động này là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ trợ giúp, cố vấn trong chiến tranh du kích, chống nổi dậy (counter-insurgency) tới chiến lược đem quân tác chiến vào cuộc.
Lữ đoàn TQLC Viễn chinh 9 đã là đội tiền phong dẫn đường cho trên một nửa triệu quân nhân Mỹ vào Việt Nam
Tháng Ba, 1973: rút quân khỏi Đà Nẵng
Theo Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1, 1973 thì Mỹ phải đơn phương rút khỏi Miền Nam.
Điều 5 quy định: "Nội trong 60 ngày sau khi bản Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự, và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội...phải được hoàn toàn triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam..."
Vì Hiệp định được ký ngày 27 tháng 1 cho nên ngày 27 tháng Ba là hạn chót của việc rút quân. Vào thời điểm ấy thì một số quân đội Mỹ còn đóng ở Đà Nẵng.
Điều 6 quy định thêm:
"Các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Một, phải được giải tỏa trong hạn 60 ngày, sau khi Hiệp định được ký kết."
Đà Nẵng là căn cứ không quân quan trọng nhất yểm trợ hai Quân Khu I và II. Nó đã được chọn để tổ chức một nghi lễ biểu tượng quan trọng: Lễ hạ lá cờ Mỹ và mang đi, đánh dấu việc chấm dứt sự có mặt của quân đội tác chiến Mỹ tại Miền Nam. Lễ diễn ra rất trang trọng với sự hiện diện của Trung Tướng VNCH Ngô Quang Trưởng, theo đúng thủ tục cuốn cờ gồm năm bước của quân đội Mỹ.
Tháng Ba, 1975: Lãnh sự cuối cùng rời Đà Nẵng
Tuần cuối tháng Ba, với gần một triệu dân từ Huế, Quảng Trị và vùng lân cận di tản kéo về Đà Nẵng, thành phố bị tràn ngập và hỗn loạn trước sự tiến quân của quân đội Bắc Việt. Tình trạng an ninh trở nên tuyệt vọng.
Hoa Kỳ cử hai tàu Pioneer Contender và Miller tới cảng Đà Nẵng để giúp di tản nhân viên Mỹ ở Tòa Lãnh sự cùng hàng trăm ngàn người Việt.
Ngoài số tàu biển còn có Boeing 727 của Air America đã hạ rồi cất cánh trong cảnh hỗn loạn tại phi trường.
Sau cùng thì viên lãnh sự Mỹ, ông Al Francis đã ra đi bằng đường biển.
Tháng Ba, 2018: hàng không mẫu hạm vào Đà Nẵng
Mỹ đi rồi Mỹ lại về...vào Đà Nẵng?Lich sử sẽ ghi nhận sự kiện này thế nào?
Ta có thể tạm thời nhận xét như sau:
Thứ nhất, về chiến lược ở Biển Đông: Mỹ đang xúc tiến cho thật nhanh diễn tiến 'Xoay Trục.' Như chúng tôi đã đề cập trong cuốn 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào': hoàn cảnh lịch sử hiện nay hết sức khó khăn. Nó khác hẳn với hoàn cảnh trong những thập niên 60 và 70. Trong hai thập niên ấy, chiến lược của Mỹ là "ngăn chặn Trung Quốc," còn bây giờ là phải "trực diện đối đầu với Trung Quốc".
Từ khi Mỹ rút khỏi Đài Loan, rồi mặc kệ, không giúp Miền Nam Việt Nam trong việc bảo vệ Hoàng Sa chống Trung Quốc, và sau đó là bỏ rơi Miền Nam, Trung Quốc đã tràn xuống Biển Đông và đang thâu tóm trọn vẹn khu vực này, đúng như thuyết Domnino.
Nhưng Xoay Trục khó có thể hoàn thành mau lẹ và thành công nếu không có sự cộng tác của Việt Nam, vì đây là "địa điểm chiến lược quan trọng nhất" như Bộ Quốc Phòng Mỹ đã xác định ngay từ đầu thập niên 50 (xem cuốn 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào,' Chương 2).
Vì vậy Mỹ muốn thúc đẩy hợp tác quân sự chặt chẽ hơn đối với Việt Nam.
Thông cáo chung về chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump tháng 11, 2017 xác định hai điểm:
•Hai bên "khẳng định kế hoạch hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ trong giai đoạn 2018-2020."
Ta thấy giai đoạn 2018-2020 là trùng hợp với khung thời gian Mỹ đặt ra cho mục tiêu hoàn thành bước đầu của chiến lược Xoay Trục khi 60% của hải lực Mỹ sẽ có mặt ở Thái Bình Dương.
•Hai bên "hoan nghênh hàng không mẫu hạm Mỹ lần đầu tiên tới thăm một hải cảng của Việt Nam trong năm 2018."
Lưu ý độc giả một điểm có ý nghĩa: đây không phải là lần đầu tiên kể từ sau cuộc chiến Việt Nam như tất cả truyền thông quốc tế loan tin mà là lần đầu tiên kể từ trước tới nay.
Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều hàng không mẫu hạm Mỹ như USS Constellation, Hancock, Ticonderoga có tham chiến, nhưng chỉ đậu ở Subic Bay (Phi Luật Tân), Yokosuka (Nhật Bản) hay thả neo ở ngoài khơi, chưa bao giờ vào Đà Nẵng (hay Cam Ranh).
Năm 1964 chỉ có một hàng không mẫu hạm USS Card chở quân trang, quân cụ và thiết bị vào Sài Gòn và bị đánh bom). Nhưng tàu này rất nhỏ, thuộc vào loại hộ tống Bogue, cũ kĩ vì sản xuất từ 1941.
Đưa nhiều hàng không mẫu hạm, chiến hạm vào Biển Đông thì cần phải có cơ sơ hỗ trợ từ đất liền - hải cảng, sân bay, bảo trì, tiếp vận xăng nhớt, thực phẩm, tiện nghi. Những cơ sở ấy thì thực tế nhất, tiện lợi nhất là vùng duyên hải của Việt Nam - đặc biệt là Cam Ranh và Đà Nẵng. Đây là hai nơi mà Mỹ đã xây cất, sử dụng trong nhiều năm nên đã quá quen thuộc.
Nhưng tại sao Mỹ không đưa hàng không mẫu hạm vào Cam Ranh có vịnh nước sâu mà lại đem vào Đà Nẵng? Về phương diện hậu cần, USS Carl Vinson quá lớn, khó mà thả neo ở Hải cảng Quốc Tế Cam Ranh.
Lại nữa, có thể vì lý do thành phố Đà Nẵng có giá trị tượng trưng cho vai trò của người Mỹ ở Việt Nam trước đây - qua các biến cố như đã đề cập. Ngoài ra, còn có khả năng là sẽ có đông dân chúng Việt Nam chào đón tàu Carl Vinson, giống như thời xưa (1965) có các thiếu nữ ra bãi biển tràng hoa lên cổ các chiến sĩ thuỷ quân lục chiến Mỹ, hay gần đây nhiều người Việt leo lên chiến hạm Mỹ do hạm trưởng người Mỹ gốc Việt lái tới Đà Nẵng, hoan hỉ đón tiếp.
Và như vậy là để nêu cao sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc thăm viếng hữu nghị này?
Xác định xong về cuộc viếng thăm là có hành động cụ thể ngay. Tại Hà Nội ngày 25/01, Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis đã chính thức tuyên bố là sự việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba.
Trong mấy năm vừa qua, đã có tàu ngầm và chiến hạm Mỹ ra vào Cam Ranh, nhưng đây là lần đầu tiên một Hàng không mẫu hạm tiến vào hải phận và cập cảng Đà Nẵng.
Thứ hai, phô trương lực lượng: hàng không mẫu hạm là tiêu biểu cho sức mạnh hải và không lực Mỹ. Nó được gọi là một "không quân nhỏ" (small air force) lưu động.
USS Carl Vinson thuộc lớp Nimitz, siêu mẫu hạm loại mới (2009), chạy động cơ nguyên tử. Nó cũng là tàu chỉ huy của Đội mẫu hạm tấn công 1 (Carrier Strike Group 1) mới thành lập, có trụ sở tại San Diego. Đây là một phần của Đệ tam Hạm đội, mạnh nhất thế giới, thường thả neo ở các đại dương khác chứ không phải ở Thái Bình Dương vốn là nơi do Đệ thất Hạm đội đảm trách.
Tàu này thực sự chứa những khí giới gì ngoài những phi đội khu trục thì còn là một bí mật quân sự - nhưng có thể Trung Quốc cũng đã biết.
Hiện tại tất cả thế giới chỉ có 19 hàng không mẫu hạm đang hoạt động, và 6 cái đang được sản xuất.
Trong số 19 tàu này thì Mỹ đã chiếm tới 10 cái, hơn một nửa. Số còn lại thì hầu hết thuộc các nước đồng minh của Mỹ như Anh (4), Pháp (2), Ý (1).
Nga chỉ có một hàng không mẫu hạm đang hoạt động, tàu Đô đốc Kuznetsov.Nga có bốn chiếc khác nữa nhưng thuộc vào lớp Kiev (như Minks, Novorossiysk), đều đã "về hưu."
Như vậy, nếu số mẫu hạm của Mỹ cộng với của các đồng minh thì hải lực tổng hợp này thực sự bá chủ cả bốn đại dương.
Thứ ba, gửi tín hiệu cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã lên hàng cường quốc, nhưng về mặt hải lực thì còn rất yếu kém. Đó là vì chỉ mới có được một con tầu cũ tên là Varyag mua lại của Ukraine năm 1998 rồi đưa về tân trang ở Đại Liên, đặt tên là Liêu Ninh. Từ 2012, tàu này được đưa vào hoạt động chủ yếu để tập luyện.
Việc điều khiển một hàng không mẫu hạm trên đại dương, nhất là giữa một cuộc chiến đòi hỏi nhiều kỹ năng và kinh nghiệm. Nguyên công tác "roping" (buộc giây, thả neo) đã rất phức tạp. Rồi đến việc điều khiển từng lớp khu trục cất cánh, hạ cánh, đến công tác phòng không, điều hợp với trung tâm hành quân và các lực lượng hỗ trợ từ trên bờ.
Ngoài số lượng, Trung Quốc chưa bao giờ có kinh nghiệm về hải chiến lớn - chứ chưa cần nói tới hàng không mẫu hạm. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi đoàn quân của Tướng Mỹ Douglas MacArthur từ ngoài khơi đổ bộ vào hải cảng chiến lược Incheon, 100 dặm về phía nam Vĩ tuyến 38 và 25 dặm từ Seoul, vào ngày 15/9/1950, quân đội Trung Quốc và Bắc Hàn phải vội vã cuốn gói rút về qua vĩ tuyến 38. Tới Trận Hoàng Sa tuy là nhỏ mà TQ cũng đã bị tổn thất nhiều.
Ngược lại, Mỹ thì đã có kinh nghiệm về hải chiến và sử dụng hàng không mẫu hạm từ cả một thế kỷ: trong Đệ Nhất, rồi Đệ Nhị Thế Chiến, tới chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, và ngày nay, chiến tranh vùng Trung Đông.
Mở ra một chương lịch sử mới?
Như chúng tôi đã có dịp đề cập trước đây, trong chuyến công du tại Hà Nội năm 2016, TT Barrack Obama đã gợi ý về trang sử mới này khi ông trích Nguyễn Du trong truyện Kiều:"Rằng trăm năm cũng từ đây.
Của tin gọi một chút này làm ghi"
Tiếp theo, TT Trump đã đi thẳng vào vấn đề và phát biểu;"Chúng ta đã gắn kết dần với nhau để tìm được những mục tiêu chung, những lợi ích chung. Và đó là điều đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để tái khẳng định những gắn kết đó."
Thông cáo chung cũng xác định việc "mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở ...các lợi ích chung và mong muốn chung".
Tại Hà Nội hôm 25/01 vừa qua, Bộ trưởng Jim Mattis đã cám ơn Việt Nam về sự phát triển của quan hệ đối tác ấy, qua việc hàng không mẫu hạm tới Đà Nẵng (nguyên văn: "Thank you for increasing partnership, with our aircraft carrier coming into Danang here in March" ).
Thứ tư, trấn an các quốc gia đồng minh: qua hành động này, Mỹ cũng muốn gián tiếp trấn an các quốc gia đồng minh tại Á Châu. Họ đang lo ngại về quyết tâm của Mỹ. Lại nữa, cho tới nay chính sách ngoại giao của TT Trump chưa rõ ràng về Biển Đông.
Thứ năm là lợi ích chiến thuật: các thế hệ trẻ của hải quân Mỹ - những quân nhân mới vào cuộc sau chiến tranh Việt Nam, gồm cả gần hai lữ đoàn trên USS Carl Vinson có dịp làm quen với bãi biển, hải cảng và sân bay Đà Nẵng.
Ngược lại, cũng để Hải quân Việt Nam lên thăm viếng, được chỉ dẫn tường tận và làm quen với mẫu hạm chiến thuật của Mỹ. Cách đây 6 năm, khi thấy Mỹ trực tiếp giúp Việt Nam dọn dẹp, làm sạch chất độc da cam tại sân bay Đà Nẵng vào mùa hè 2012, chúng tôi cho rằng Mỹ khó mà quên được cái địa danh Đà Nẵng.
Rõ ràng là bang giao mang tính chiến lược và tiến tới toàn diện Việt - Mỹ đã đi được một bước đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bước ấy dài hay ngắn thì còn tùy thuộc vào việc có hay không những hành động có thực chất tiếp theo. Cụ thể, ta có để đặt câu hỏi liệu sẽ có những cuộc tập trận giả, thao diễn quân sự Việt - Mỹ có tầm cỡ lớn với sự tham gia của Hải Đội Tấn Công USS Carl Vinson trong năm 2018 hay không?
Việc đưa USS Carl Vinson vào Đà Nẵng là quyết định của cả hai bên muốn mở ra một chương lịch sử mới cho quan hệ Việt - Mỹ.
Nhưng muốn cho chương này kéo dài và bền vững thì nó phải dựa trên căn bản vững chắc.
Căn bản ấy chính là quyền lợi hỗ tương của hai nước: chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc và bảo vệ tuyến hàng hải vào hàng quan trọng nhất thế giới ($3,000 tỷ lưu thông mỗi ngày), nằm chỉ cách vùng duyên hải của Việt Nam 12 hải lý.
Việt Nam, lại một lần nữa có cơ hội đóng vai trò địa chính trị chiến lược trên thế giới, nhờ vào vị trí nhìn ra Biển Đông của Đà Nẵng.
Tại sao đám tang ở xứ Tàu hay có vũ thoát y?
Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2018
Dzô! Một biểu tượng kết đoàn- Tác giả Nguyễn Hà Hùng
Hà Nội những ngày giáp Tết đặc người, xe, tiếng còi, khói bụi, giấy ăn, bia và mùi xào nấu. Tiếng gào dzô dzô vang khắp nơi nơi. Tôi chui vào KFC, nơi chỉ bán đồ ăn nhanh và nước ngọt. Chọn được chỗ ngồi tương đối yên tĩnh là một thách thức lớn.
Dzô đã là khẩu lệnh của người Việt trước/trong mỗi trận rượu bia. Giống như lời hiệu triệu đoàn kết, đồng lòng quyết chí tiêu diệt quân thù. Một lòng một dạ rất đáng giá trong một cộng đồng đắn đo nhiều nghi kỵ. Ngồi cùng thuyền, không mấy ai bất tuân mệnh lệnh. Một người lĩnh xướng "Hò dô ta. Nào!", tất cả đồng thanh "Kéo cái ly này lên! Nào! DZÔÔÔ".
Hết mình bia rượu bỗng là minh chứng cho sự hết lòng. Càng uống càng khó nuốt, nó thử thách sự trung thành, mức độ sẵn sàng, lòng quyết tâm và bản lĩnh đàn ông chân chính. Ực! Ai nấy giơ cao ly đã cạn đến đáy, minh chứng trăm phần trăm vì sự nghiệp tập thể. Sau đó là những cái bắt tay rất chặt, chứ không hờ hững, vô hồn thường nhật. Tửu lượng càng cao, cơ hội thành công càng lớn.
Khi đã ngà say, người ta gào lên tâm sự. "Nói thực nhé", "chẳng dấu gì cậu", "chân tình đấy"… cứ lặp đi lặp lại. Không ai nghe rõ bạn nhậu nói gì, nhưng đều có vẻ cảm thông sâu sắc. Họ uống nhiều giờ, từ sáng tới tối, thâu đêm chưa phê lê đi quán khác. Tuần dăm bữa là thường, bạn nhậu gặp gỡ quanh năm. Quán nhậu sẵn hơn thư viện, học đường, sân bóng, rạp chiếu phim...
Khác hẳn vẻ tẻ nhạt lờ đờ giờ hành chính, người Việt hoạt bát hơn nhiều trên bàn nhậu. Họ ít phát biểu trong hội thảo, nhưng tranh nhau nói trong bữa uống. Rõ ràng, họ cũng có nhu cầu thể hiện. Vốn ngưỡng mộ người Nam khoáng đạt, thẳng thắn, cởi mở, người Bắc có thể vô thức, đã nhanh chóng nhận ra sự kết dính mê hồn của dzô và cồn, bung biêng và nối kết, nghẹn ngào, thơ và hát.
Dù câu cửa miệng của người Việt là "ăn chơi nhảy múa", lúc cao hứng họ huơ huơ bắt nhịp, leng keng đũa bát. Dù các chương trình "Khắp nơi ca hát" phổ biến khắp nước, hiếm khi người Việt hát cùng nhau một bài trọn vẹn. Họ không nhớ ca từ, kẻ thuộc, người không. Trong trí nhớ tập thể, một cách tự nguyện, chẳng có bài nào xứng đáng. Tuy vậy, khi dzô, điều đó có thể xảy ra. Đoạn trích "quan họ" dưới đây tiêu biểu tinh thần ăn nhậu hiện đại.
"đừng thấy kho hết rượu mà buồn,
tuy rằng kho hết rượu,
nhưng vẫn còn là còn trong dân.
Uống đi thôi các bạn mình ơi!
À hội à là ứ hội ừ"…
Của dân là vô tận?
Một, hai, ba, DZÔÔÔ!
Tiếng hô của các cháu tiểu học quàng khăn đỏ làm tôi sực tỉnh. Trong trẻo, tự tin, dõng dạc, rất to, đều tăm tắp, hơn người lớn rất nhiều. Sẵn sàng tiếp bước cha anh.
Thứ Năm, 22 tháng 2, 2018
Mỳ tôm Quảng Nôm- Tác giả Đinh Yên Thảo
Ngay trước Tết, chúng tôi được đãi ăn mỳ Quảng. Theo lời mời của một nhà thơ gốc Huế - nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Ông đặt mỳ từ một chị người Nam nấu, rồi mang tới nhà một vợ chồng người bạn gốc Quảng Nam của nhóm để đãi bạn. Vì từ ngày hiền nội của ông mất, ông về ở với con cái, tụ họp đông người bất tiện. Dẫn sơ vậy để thấy chuyện ăn tô mỳ đã lắc léo, liên quan đủ vùng miền, huống hồ ... viết về nó. Phở thì đã quá phổ biến, còn thì hiếm có món ăn nào được viết nhiều, nhắc nhiều như mỳ Quảng. Bún bò Huế chắc không bằng mà bún mắm lại càng không. Hủ tíu Mỹ Tho, Nam Vang, bún cá Nha Trang, Châu Đốc... cũng chẳng có mấy. Còn mỳ Quảng, không biết bao nhiêu người cầm bút xứ Quảng, những bậc đàn anh mà tôi quen thân đến sơ giao hay chỉ nghe tên, đã viết về tô mỳ xứ mình. Mỗi người mỗi kiểu, "hoa phong luận ... mỳ", công phu và thâm hậu hơn cả cách ... nấu mỳ. Viết thêm chi nữa. Nhưng một chị bạn lại biểu "Em viết về mỳ Quảng đi, chị muốn biết... tô Mỳ Quảng của em ra sao". Má ơi! Có gì đâu mà khác, nào giờ tui chỉ biết có mỗi tô mỳ của ... má tôi nấu. Theo như lời của tác giả nào đó. Đại khái ông bảo rằng "má mình nấu sao thì lớn lên mình chỉ biết tô mỳ Quảng là vậy". Nhưng thôi cứ viết, dẫu gì mình cũng là dân gốc Quảng và hội Quảng Đà Dallas đang xôn xao mở hội mừng Xuân. Lỡ tô mỳ Quảng có ... mặn (chát) thì cũng cái lòng đứa con xa quê, ngày đầu Xuân nhắc về quê xưa.
Thú thật thì tô mỳ mẹ mình nấu cách nào vẫn luôn ngon. Ngon nhất. Lớn lên tôi cảm nhận được vậy. Bởi cái gì mẹ nấu cho con cũng ngon vì có cả tình yêu thương của mẹ. Và với mẹ. Nhưng chuyện "mẹ nấu sao thì biết vậy" lại là chuyện khác. Dân gốc Quảng phần nhiều đều biết nấu mỳ Quảng nên nhà tôi ai cũng nấu mỳ. Nhưng cùng "một lò" thì mẹ tôi nấu khác, các dì tôi nấu khác và các chị cũng khác xa. Chẳng ai giống ai, lại càng không giống cách mẹ tôi đã từng nấu. Còn tôi thì nấu mỳ Quảng làm nhưn thịt bò, bỏ thêm nước dừa cho ... béo. Mới đúng điệu. Đúng cách. Chậc! lại quen thói cà rỡn, giỡn mặt với dân Quảng và các đàn anh văn thi sĩ xứ Quảng. Bởi có ai nấu mỳ Quảng với thịt bò bao giờ. Nhưng đùa vậy để nói rằng, mỳ Quảng cũng không phải "có gì nấu đó, không theo công thức nào" như nhiều người thường nói hay viết. Dù cái nhưn mỳ Quảng thì quả thật có vô số người nấu và cách nấu, từ nhưn tôm, thịt heo, thịt gà, sườn, gan cho đến cá lóc, sứa... hay mỳ Quảng chay có đủ. Sau này nghe bảo có cả mỳ Quảng ếch, có thấy quảng cáo mà tôi chưa từng ăn qua. Xứ nghèo nên người ta có chế biến, gia giảm theo đồ nhà sẳn có hay đi chợ mua được. Rồi về sau, mỳ Quảng ... "tha hương", vào Nam hay tới Sài Gòn đã quá quen thuộc với cái lẩu, tô hủ tíu quá dư thừa nhưn nhị nên thêm vào đủ thứ. Thêm trứng cút, trứng gà, trứng vịt luộc hay chả lụa, chả quế. Thiếu điều bỏ thêm lạp xưởng cho đủ bộ. Chợ Bà Hoa tại Ngã Tư Bảy Hiền, nơi tập trung hầu hết dân Quảng mà bán tô mỳ cũng thay đổi nhiều, chan nước như hủ tíu và thêm vào đủ thứ, huống hồ nơi khác. Hỏi chuyện thì người bán bảo dân Sài Gòn thích ăn vậy nên họ bán theo khẩu vị người ăn hơn là giữ theo cái truyền thống món ăn. Mỳ Quảng tất nhiên là gốc Quảng nhưng không hay cãi, không biết cãi nên để người ta tùy nghi, tùy tiện. Chứ thật ra tô mỳ Quảng đạm bạc hơn và cũng có cách chung, chứ chẳng phải "nấu sao cũng được".
Lớp chúng tôi bây giờ, nói nào ngay thỉnh thoảng cũng có dịp ... đi đó đây "bốn vùng chiến thuật", nên có thêm nhiều dịp để thử mỳ Quảng của vô số người nấu khác nhau. Tôi được ăn mỳ từ một số anh chị văn nghệ sĩ gốc Quảng khoản đãi, từ nhà thơ Xuyên Trà tại Atlanta, nhà văn Sean Bảo tại Austin, nhà thơ Phạm Cây Trâm hay chị Mỹ Liên tại Dallas... Nhật Hoàng, chủ nhiệm báo Trẻ mỗi lần nấu mỳ đãi bạn là cứ như chuẩn bị đón cô dâu. Tỉ mỉ, chăm chút nồi nhưn và tự tay canh sợi mỳ. Có lần bỏ cả thau mỳ vì luộc quá tay. Nhờ vậy mà tô mỳ khá ngon. Rồi tại nhiều tiệm ghé vào mà thực đơn có ghi mỳ Quảng, nơi các thành phố đã đi qua. Chỉ có lần sang Dubai thì không kiếm ra mỳ Quảng mà thôi. Chắc xứ của mấy anh Hồi Giáo nên kiếm thịt heo hơi khó. Chừng đâu sáu, bảy năm trước, lần đầu tiên quay về lại xứ Quảng sau vài chục năm xa quê, từ Kon Tum đi dọc theo Quốc Lộ 14, quá trưa đói bụng gần xỉu mà tôi vẫn ráng nhịn bởi nghe nói sẽ đi qua làng mỳ Túy Loan của Quảng Nam. Đó là một làng cổ nổi tiếng nghề làm bánh tráng và mỳ Quảng thuộc Hòa Vang, trước khi vào đến Đà Nẳng. Hai bên đường đầy các quán mỳ Quảng và chỉ bán mỳ Quảng. Không có thứ gì khác, ngoài thức uống. Đó là lúc bấy giờ và tại cả hai quán tôi ghé vào cho biết thêm mỳ ...tình. Tô mỳ đạm bạc, chỉ hai ba con tôm và vài miếng thịt. Nước chan xăm xắp không quá mặt mỳ, rắc thêm hành và đậu phộng rang. Có thêm bánh tráng mè và dĩa sau sống bắt mắt cùng dĩa chanh nhỏ, vài trái ớt xanh và chén mắm tỏi để riêng, ăn tới đâu gắp rau, bóp bánh tráng hay chan thêm mắm tùy khẩu vị mỗi người. Chỉ chừng đó, nhưng khá ngon. Sợi mỳ đủ dai và dẻo, thơm mùi dầu phụng khử củ nén. Nhân béo mà không ngậy, tôm thịt hay sườn vừa chín tới, không dai mà chẳng rục, ăn để thưởng thức cái hương vị riêng biệt của tô mỳ. Dĩa rau có bắp chuối và cả đọt thân chuối non bào mỏng, tất nhiên không thể thiếu húng lủi. Cộng thêm cái thơm giòn miếng bánh tráng. Những thứ căn bản và thanh đạm đó đã làm nên tô mỳ Quảng đậm đà từ cái làng mỳ có hàng trăm năm, không phải cái thừa mứa, áp đảo của tôm thịt. Nhưng làm ra tô mỳ thì công phu hơn vậy nhiều. Nghe bảo họ chọn thứ gạo đặc biệt nào đó trồng ở Đại Lộc để tráng mỳ mới ra được vậy. Tráng mỳ là bí quyết và tay nghề của người làm mỳ và bán mỳ, vì tôi còn nhớ nhà mình cũng từng tráng mỗi khi ăn mỳ thủa xưa. Gạo ngâm vài tiếng, không quá lâu làm chua bột mà không quá ít để hạt gạo chưa kịp mềm. Gạo ngâm xong đem xay bằng cối đá, vừa xay vừa đổ nước, giữ sao bột xay ra đừng quá khô mà cũng chẳng quá lỏng. Lò tráng mỳ lửa than, tráng kiểu bánh tráng hay bánh cuốn trong Nam, dày mỏng ra sao chỉ có người tráng quen tay. Mỳ tráng ra gọi là mỳ lá (hay lá mỳ), được phết dầu phộng khử củ nén, gấp lại làm ba, rồi đem xắt thành sợi mỳ Quảng. Xay gạo trắng thì ra lá mỳ trắng, còn gạo đỏ ra lá mỳ đỏ, sau này đi xa nên người ta thêm nghệ cho lá mỳ thành vàng, bắt mắt hơn. Chỉ riêng công đoạn tráng mỳ này đã làm nên "danh trấn" của tô mỳ Quảng. Món ăn mộc mạc nên cách ăn cũng dân dã. Người Quảng ăn mỳ không dùng muỗng, mà bưng tô mỳ lên lua (và). Nhưng đó cũng là cách chân quê, lâu lắm rồi tôi không còn bắt gặp ai ăn kiểu này. Chỉ là thói quen thôi.
Tô mỳ Quảng xuất ngoại, sang Mỹ và đi nhiều nơi thế giới, có khi tôi cũng được mời ăn tô mỳ do người nấu tự tráng. Tất nhiên phần lớn từ người gốc Quảng. Còn thì cứ mỳ Quảng khô bán đầy ngoài chợ, đem về luộc. Rồi nhưn, rau sống. Cũng ngần ấy thứ. Được người thân, bạn bè, những người quen biết chiêu đãi, nấu theo cách và khẩu vị của mình. Công phu và chăm chút, nên tô mỳ khá ngon. Ngon và ...ngán. Vì thịt thà, tôm tép dư thừa, lại quá béo. Nhưng không ăn lại nhớ, lại thèm. "Mỳ tôm anh Tốm Quảng Nôm, đi mô cũng nhớ vô lồm một tô". Nghe biểu đó là câu thơ dán vách một quán mỳ Quảng xưa của anh Tám nào đó tại Sài Gòn trước đây. Đi đâu cũng nhớ tô mỳ Quảng bởi với dân Quảng, tô mỳ Quảng là cả một trời ... Quảng Nam, không thể thiếu được. Mấy ông Nghè "Ngũ Phụng Tề Phi" xứ Quảng mà không có tô mỳ Quảng của mẹ, của chị mình thì làm sao mà đi thi, đỗ đạt cao trọng được? Vậy mà các kênh du lịch thế giới hay CNN lại bỏ sót khi nhắc về món ăn Việt Nam. Thiệt là tiếc!
Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018
Thứ Ba, 20 tháng 2, 2018
Tôi có một giấc mơ - Tác giả Mạnh Kim
Tôi mơ lòng tự ái dân tộc xen lẫn tự hào dân tộc được dồn hết vào việc phát kiến canh tân đất nước
Tôi mơ Việt Nam có thể “trả thù lịch sử” bằng việc “dội bom” xuống khắp Trung Quốc bằng hàng hóa và dịch vụ từ những công ty có tên “Hai Bà Trưng”, “Trần Hưng Đạo”, “Lý Thường Kiệt”… (như cách Nhật từng “trả thù” Mỹ sau Thế chiến thứ hai bằng chiến dịch “oanh tạc” hàng hóa khiến báo chí Mỹ phải khóc lên rằng “Nước Mỹ đang bị xâm lược”!)
...
Tôi mơ Việt Nam có thể trả được mối hận Hoàng Sa bằng việc có một công ty khổng lồ mang tên “Hoàng Sa” đặt tại Bắc Kinh thuê mướn hàng ngàn công nhân Trung Quốc
Tôi mơ Việt Nam có những “đại gia” có khả năng và tài kinh lược thu tóm được những siêu thị lớn nhất Thái Lan, Philippines hoặc Indonesia…
Tôi mơ Việt Nam có một hãng hàng không có thể đặt tất cả các hãng hàng không khu vực “dưới chân mình” như cách Singapore Airlines đạt được
Tôi mơ có những doanh nhân làm ăn lương thiện không chỉ vun đắp kinh tế quốc gia mà còn xây dựng tinh thần trách nhiệm cộng đồng
Tôi mơ Việt Nam có những giáo sư đại học được thỉnh giảng ở Harvard, Princeton,… theo cách như các giáo sư Việt Nam trước 1975 từng được
Tôi mơ Việt Nam xây dựng được nền giáo dục nhân bản, khai phóng và tự do
Tôi mơ Việt Nam có một nền y tế đủ tử tế và một nền y học đủ mạnh để tạo ra những nghiên cứu đột phá chấn động
Tôi mơ Việt Nam có một nền kỹ nghệ tự lực tự cường
Tôi mơ bàn ăn Việt Nam có thực phẩm sạch, người dân sống trong bầu không khí sạch và những đứa trẻ được tắm trên dòng sông sạch
Tôi mơ Việt Nam có một nhân vật có thể mang lại những phát kiến kỹ thuật làm thay đổi xã hội – một người thôi cũng được. Tôi mơ Việt Nam có một tiến sĩ làm thay đổi được nhận thức lẫn tư duy xã hội – một tiến sĩ thôi cũng được. Tôi mơ Việt Nam có một sử gia mang lại ánh sáng lịch sử cho thế hệ trẻ - một sử gia thôi cũng được
Tôi mơ người dân không còn lo lắng tìm cách bỏ nước mà đi và những người xa nhà đều trở về để cùng nắm tay kiến thiết quê hương
Tôi mơ những con người máu đỏ da vàng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đều cùng ngồi lại với nhau bằng tinh thần hòa ái
Tôi mơ nước mắt những bà mẹ già và những cô vợ trẻ sẽ khô đi, khi người thân họ được thả ra khỏi những nhà tù nhuộm đen lương tâm
Tôi mơ Việt Nam luôn có nụ cười, những nụ cười suốt chiều dài chữ S – những nụ cười rạng rỡ của một “VIỆT NAM MỚI”
Tôi mơ Việt Nam có những “đại gia” có khả năng và tài kinh lược thu tóm được những siêu thị lớn nhất Thái Lan, Philippines hoặc Indonesia…
Tôi mơ Việt Nam có một hãng hàng không có thể đặt tất cả các hãng hàng không khu vực “dưới chân mình” như cách Singapore Airlines đạt được
Tôi mơ có những doanh nhân làm ăn lương thiện không chỉ vun đắp kinh tế quốc gia mà còn xây dựng tinh thần trách nhiệm cộng đồng
Tôi mơ Việt Nam có những giáo sư đại học được thỉnh giảng ở Harvard, Princeton,… theo cách như các giáo sư Việt Nam trước 1975 từng được
Tôi mơ Việt Nam xây dựng được nền giáo dục nhân bản, khai phóng và tự do
Tôi mơ Việt Nam có một nền y tế đủ tử tế và một nền y học đủ mạnh để tạo ra những nghiên cứu đột phá chấn động
Tôi mơ Việt Nam có một nền kỹ nghệ tự lực tự cường
Tôi mơ bàn ăn Việt Nam có thực phẩm sạch, người dân sống trong bầu không khí sạch và những đứa trẻ được tắm trên dòng sông sạch
Tôi mơ Việt Nam có một nhân vật có thể mang lại những phát kiến kỹ thuật làm thay đổi xã hội – một người thôi cũng được. Tôi mơ Việt Nam có một tiến sĩ làm thay đổi được nhận thức lẫn tư duy xã hội – một tiến sĩ thôi cũng được. Tôi mơ Việt Nam có một sử gia mang lại ánh sáng lịch sử cho thế hệ trẻ - một sử gia thôi cũng được
Tôi mơ người dân không còn lo lắng tìm cách bỏ nước mà đi và những người xa nhà đều trở về để cùng nắm tay kiến thiết quê hương
Tôi mơ những con người máu đỏ da vàng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đều cùng ngồi lại với nhau bằng tinh thần hòa ái
Tôi mơ nước mắt những bà mẹ già và những cô vợ trẻ sẽ khô đi, khi người thân họ được thả ra khỏi những nhà tù nhuộm đen lương tâm
Tôi mơ Việt Nam luôn có nụ cười, những nụ cười suốt chiều dài chữ S – những nụ cười rạng rỡ của một “VIỆT NAM MỚI”
Mục sư Nguyễn Trung Tôn
Linh mục Đặng Hữu Nam: sẽ tiếp tục bảo vệ các nạn nhân Formosa dù bị thuyên chuyển
Linh mục Đặng Hữu Nam, phụ trách giáo xứ Phú Yên, tỉnh Nghệ An vừa nhận được quyết định thuyên chuyển sang phụ trách giáo xứ Mỹ Khánh, xã khánh thành, huyện Yên thành, tỉnh Nghệ An hôm 7/2. Ông là người đã nhiều lần lên tiếng chỉ trích chính quyền về việc giải quyết thảm họa môi trường Formosa. Ông cũng đã từng bị báo chí nhà nước lên án là người kích động giáo dân và yêu cầu ông phải bị thuyên chuyển đi nơi khác. Nhân dịp này đài Á Châu Tự Do có cuộc phỏng vấn ngắn với linh mục Đặng Hữu Nam về quyết định thuyên chuyển mới. Trước hết linh mục Đặng Hữu Nam cho biết hoàn cảnh ông nhận được quyết định như sau:
Đặng Hữu Nam: trước đấy một tuần thì có nghe thống báo của Đức Giám mục là sẽ bổ nhiệm, thuyên chuyển đi chức khác. Vào ngày mùng 7 tháng 2 tức là vào ngày 23 Tết thì hôm ấy là tất niên của Giáo phận. Các linh mục trong toàn Giáo phận về bên Tòa Giám để tất niên. Sau buổi tất niên đấy thì Ngài cho bằng bổ nhiệm để đến Giáo xứ Mỹ Khánh và tất cả các thủ tục đều làm xong trong ngày 23 đấy. Nhưng rồi vì sau những ngày đó là Tết truyền thống cho nên tất cả mọi sự em vẫn im lặng để cho người dân ăn Tết để khỏi xáo trộn trong Giáo xứ. Hôm nay, sau khi những ngày nghỉ Tết đã xong và với lệnh của Đức cha phải đi sớm thì em cũng cố sắp xếp để đến với Giáo xứ mới sớm hơn và sẽ rời xa Giáo xứ Phú Yên nầy sớm hơn.
RFA: Ông có biết nguyên nhân vì sao có quyết định thuyên chuyển này không?
Đặng Hữu Nam: Ở Giáo phận Vinh thì không có hạn định là bao nhiêu năm của một linh mục coi xứ. Ở đây, chúng ta cũng biết là theo nguyên tắc thì Giám mục Giáo phận có quyền thuyên chuyển và bổ nhiệm các linh mục đi đến các Giáo xứ, các nhiệm sở khác trong từng thời kỳ và tùy theo mục vụ của Giáo xứ và Giáo phận. Đó là nguyên tắc. Còn trong vấn đề của em ngày hôm nay, chúng ta cũng biết trước đó bên nhà cầm quyền không chỉ bằng văn bản giấy tờ mà còn trực tiếp yêu cầu và làm sức ép lên Đức cha Phao-lô Nguyễn Thái Hợp. Họ đã công khai làm điều đó là yêu cầu trục xuất Linh mục Đặng Hữu Nam ra khỏi địa bàn của tỉnh Nghệ An. Đặc biệt, họ yêu cầu là cùng lắm thì đưa đi chỗ khác chứ không thể để tại Giáo xứ Phú Yên vì nó có môi trường Formosa và người dân Phú Yên làm ngư nghiệp. Và họ không chỉ nhiều lần ép lên Hội đồng Bề Trên của Giáo phận, Vinh mà cón ép lên Hội đồng Giám mục Việt Nam. Thậm chí, họ còn vươn vòi đến cả Vatican. Chúng ta đã thấy họ công khai nói đến nhiều đó rất nhiều lần. Việc ngày hôm nay em nhận bằng bổ nhiệm đến một Giáo xứ khác thì em khôn bình luận gì ngoài việc là em vâng lời vì Giám mục Giáo phận có toàn quyền để quyết định điều nầy. Giáo xứ là của Giám mục và chúng em là linh mục thì chúng em sẽ vâng lời theo quyết định của Giám mục.Còn vấn đề như thế nào thì người ra quyết định đấy mới có thể trả lời cho chúng ta chính xác được. Với em là người vâng lời để làm trong chương trình , bổn phận cũng như vai trò của người linh mục.
RFA: Ông có chuẩn bị gì cho những thuận lợi và khó khăn sắp tới ở giáo xứ mới?
Đặng Hữu Nam: việc truyền giáo ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ có những khó khăn và thuận lợi và nói chung tại Việt Nam chúng ta ở đâu cũng vậy, vì môi trường chính trị ở Việt Nam không tôn trọng nhân quyền và tự do tôn giáo, đặc biệt người ta coi công giáo là kẻ thù số 1 của chế độ vậy thì đi bất cứ nơi đâu cũng gặp khó khăn. Nhưng thánh paolo đã dặn với chiến sĩ của tin mừng thì dù thuận tiện hay không thuận tiện thì chúng ta vẫn phải loan báo tin mừng mà tin mừng đó là tin mừng cứu độ con người, tin mừng của chân lý và sự thật và linh mục phải là tín nhân của tin mừng về chân lý và sự thật đó. Cho nên bất cứ nơi đâu, hoàn cảnh nào ở Việt Nam thì đâu cũng có khó khăn cả.
RFA: ông có kế hoạch gì ở giáo xứ mới liên quan đến những gì mà ông đã làm từ trước tới nay trong việc giúp đỡ các nạn nhân của Formosa ở Nghệ An?
Đặng Hữu Nam: điều thứ nhất là nguyên tắc và đường hướng của linh mục như tôi đã nhiều lần khẳng định là làm chứng cho sự thật… những vui mừng, hy vọng, u sầu và âu lo của người nghèo, những người bị loại ra bên lề của xã hội thì cũng phải là vui mừng, hy vọng, u sầu và âu lo của những người môn đệ Chúa. Vậy đã là linh mục thì bất cứ đâu, bất cứ ai đau khổ thì phải trở thành tiếng nói của những người không có tiếng nói, phải nói lên tiếng nói nguyện vọng của những người cùng khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội, và đấu tranh cho công lý sự thật và nhân quyền và nhân phẩm của con người. Vậy thì đi bất cứ nơi đâu có bất công thì là linh mục em sẽ lên tiếng. Còn với các nạn nhân của thảm họa Formosa, mặc dầu đến nhiệm sở mới, họ không là những ngư dân nhưng em vẫn tiếp tục hỗ trợ nhưng sẽ khác hơn so với khi em là cha xứ ở giáo xứ mà người dân của mình là nạn nhân trực tiếp. Bây giờ họ là những giáo dân gián tiếp của mình chứ không phải thuộc quyền trực tiếp. Chắc chắn một điều là với những nạn nhân của Formosa thì em sẽ tiếp tục đồng hành với họ để tìm cách đòi quyền lợi chính đáng cho họ, và bảo vệ họ trước pháp lý.
10 tỷ USD kiều hối “đổ” về Việt Nam trong năm 2017
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh công bố hôm 19/2/2018 cho biết số tiền kiều hối gửi về thành phố tính đến cuối tháng 11/2017 là 4.55 tỷ đô la, ước tính tổng lượng kiều hối về Việt Nam trong cả năm là hơn 10 tỷ đô la.
Theo báo cáo, nguồn kiều hối chủ yếu đến từ Mỹ (chiếm 60%) và châu Âu (chiếm 20%).
Ông Nguyễn Ngọc Cảnh, Giám đốc Sở Giao dịch Chứng khoán của Ngân hàng Nhà nước, ngày 8/2/2018 trả lời báo trong nước rằng nguồn kiều hối đã tăng mạnh, khoảng 10,4% vào cuối năm 2017.
Vào tháng 10 năm ngoái, Ngân hàng Thế giới dự đoán kiều hối về Việt Nam trong năm 2017 sẽ giảm 10% do chính sách nhập cư của Mỹ và chính sách 0% tiền gửi bằng đô la của Việt Nam.
Nguồn kiều hối chuyển về từ nước ngoài chủ yếu qua bốn kênh: ngân hàng thương mại, tổ chức kinh tế, hải quan hoặc bưu điện. Trong đó, khoảng 72% tiền gửi về qua các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, theo Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia (NCIF) của Bộ Kế hoạch – Đầu tư nhận định: Năm 2018, kiều hối về Việt Nam sẽ gặp nhiều áp lực từ chính sách chống nhập cư của Hoa Kỳ và chính sách nâng lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
Thứ Hai, 19 tháng 2, 2018
Nhật ký ngày rời Việt Nam sang Mỹ - Tác giả Trương Minh Tam
Gia đình chúng tôi lên sân bay khi trời còn chưa sáng. Chuyến xe do các nhân viên công vụ Hà Nam đã thống nhất cùng tôi nhiều ngày trước. Trời hôm nay gió lạnh. Cha con chúng tôi nhìn nhau trong bóng tối và sự bình lặng của những người đàn ông. Đêm qua, tôi gõ máy tính khuya như mọi hôm ngay sát phòng cha đang ngủ yên.
8 giờ. Chúng tôi có mặt ở cột 8 ga đi Quốc tế N...ội Bài như hẹn của nhân viên IOM. Gió mùa hôm nay lạnh. Các nhân viên công vụ Việt Nam và nhân viên IOM trao đổi với nhau để thống nhất việc làm thủ tục rời Việt Nam cho tôi. Tôi không khen nhân viên IOM về sự chuyên nghiệp bởi đó là công việc của họ nhưng tôi rất thích thú thái độ rõ ràng của họ về việc họ phải hoàn thành công việc đưa tôi đi an toàn. Họ nói, họ không thể làm khác được khi đó là công việc của họ. Cuối cùng thì chúng tôi cũng thống nhất được với nhau rằng tôi sẽ làm việc với các nhân viên công vụ không có mặt của nhân viên IOM. Sau đó nhân viên IOM làm những thủ tục cuối cùng tiễn tôi ra khu vực chờ bay và trao cho tôi túi IOM- chiếc túi chứa đựng toàn bộ số phận tương lai của tôi và nó có giá trị như một tấm visa đặc biệt để vào Hoa Kỳ khi trong tay tôi không có bất kỳ giấy tờ gì chứng minh tôi là tôi.
Chúng tôi ( nhân viên công vụ và tôi) có với nhau chừng 2 giờ 30 phút trò chuyện. Nhân viên IOM ngồi chờ.
10 giờ 30. Các nhân viên công vụ và tôi chụp ảnh kỷ niệm. Nhân viên IOM trao tôi chiếc túi và vẫy tay chào.
10 giờ 45. Tôi bay. Hà Nội hôm nay nắng nhẹ. Tôi không buồn, không vui. Tôi cũng không nhớ bố, mẹ và những người thân. Với bố mẹ, họ đã già và tôi đã làm đám ma cho họ rồi để tôi và họ cùng bình yên chia tay nhau. Với anh em cũng thế, họ phải sống cuộc sống của họ và tôi sống cuộc sống của tôi. Chúng tôi trao cho nhau sự tự do thoải mái nhất dù chúng tôi rất thương nhau. Có chút nước mắt của chị tôi rơi. Có chút trau mày lo lắng của anh tôi nhưng tôi gạt đi trong sự thanh thản và bước vào phòng cách ly. Lúc đó tôi chỉ nhớ người yêu của tôi.
15 giờ (GMT+8) Tôi lần đầu đáp xuống phi trường Đài Bắc. Trời mưa. Cơn mưa nhẹ nhàng thanh thản và tôi đứng ngắm nó. Phía sau lưng tôi là Việt Nam, tôi đã rời nó không biết ngày nào trở về. Nhưng lòng tôi lúc này như cơn mưa. Tôi băn khoăn nhưng tôi không hận thù về quá khứ. Tôi không sao quên quá khứ khi tôi đã từng bị 4 nhân viên công vụ của nhà nước Việt Nam làm nhục tôi ở trại giam Hoả Lò và công an Hà Tĩnh khi tôi là người đồng tính. Tôi không quên nhưng tôi chỉ nhớ để hiểu rằng tôi đang sống giữa nhân gian này thật nhỏ bé, bất lực, khổ đau, hạnh phúc… Nhưng điều đó ăn nhậu gì khi tôi vẫn sống đây với tất cả sự bình thản như khói như mây!
Thảm sát Huế Tết Mậu Thân - Tác giả Elje Vannema
Sớm tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi…
Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết…
Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.
Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.
Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Đập Đá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Đám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Địa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.
Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Đàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có, già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.
Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó “Ta đi mô đây”. Có tiếng phụ họa “Lên núi hay tới chỗ chết?”.
Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. “Bắt gió cho ông ta ” tiếng ai đó vang lên… Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.
Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. “Xin để tui đi, để tui ở lại đây”, ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. “Tui không đi xa hơn được nữa”.
“Đứng dậy “.
Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.
Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô “Dừng lại “. Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Đám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác… Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh.
Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Đa số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai.
Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra…
Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9.69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương… Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này…
Mồ Tập Thể
Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26.02.1968.
Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi – Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em gái (sister) cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22.02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26.02. Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14.02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16.03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người thứ tư là Trần Đình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17.02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08.02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26.02, ở khuôn viên trường. Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12.02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.
Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Đặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08.02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khuỷu bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.
Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08.68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.
Tiết lộ về “mồ chôn tập thể” đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28.02.68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm “ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng”. Cũng theo phát ngôn viên, “các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn”. Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Đông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ: ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09.02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Đà Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10.03.68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Đông, được khám phá ngày 14.03.68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khuỷu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhô ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Đức và Đồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Đây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19.03.68, nhưng mãi cho tới tháng 6.69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Đặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6.69.
Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21.02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.
Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25.02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Đa số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua.
Tới tháng 6.69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Đức có Đoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06.02.68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19.03.68, chôn chung với năm người khác cùng làng.
Tại lăng Đồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay, tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23.03.68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không.
Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải giấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27.03.68 gần lăng Đồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01.03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.
Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20.02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người
không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở cửa Đông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Đây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08.02.68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05.05.68.
Địa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05.02.68. Xác tìm được ngày 17.03.68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Địa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06.02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10.03.68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.
Địa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác.
Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02.02.68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01.03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.
Địa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Đàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinh viên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25.03.68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khuỷu, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Địa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Đức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02.04.68.
Địa điểm mười lăm ở Đông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01.04.68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có15 sinh viên,
nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.
Tới tháng 05.68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính… Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.
Điểm chôn thứ mười sáu: Đầu tiên ở làng Vinh Thái. Địa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Địa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08.69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này…
Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Đông và Đông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6
tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục…
Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác.
Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Đa số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02.68. Trong số 357 xác có cha Bửu Đồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8.11.69).
Các con cái yêu dấu:
Đây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp… (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ.. (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.
Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Đức Mẹ.
Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời.
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Đồng)
Điểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng 07.69. Chỉ
có ba xác nhận diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết.
Điểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04.69, và ở làng Vinh Hưng,
quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07.69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu… Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Điểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09.69 ở Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Đại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có chỗ xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vứt xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất tích?
Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B 52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04.68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B 52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Đường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Đá Mài. Khe Đá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Địa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia (xác của những người mang từ Huế ra) bị phát hiện, mà nếu có phát hiện thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán, tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình…
Sau khi Đá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.
Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông cùng với bốn đứa con…
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)