Ta đi trên đường tạm dung Vùng Ca Li quanh năm nắng ấm Mà lòng người lưu vong vẫn thấy lạnh lùng Trời Si-át-Tơn mưa rơi chẳng dứt Cỏ hoa đua nhau khoe mầu sắc Mà lòng ta chưa thôi rạn nứt vết thương Con tim thành đá, nhưng lửa thù ngụt trong mắt ta
Ôi Mit-sip-si-pi ! Trường giang lượn khúc Đưa người về gốc, có bao giờ đưa ta về nguồn. Ta đi trên đường tạm dung
Dừng chân nơi mênh mông Tếch-Xát Máy dầu vùi sâu trong bãi cát vàng đen Như đà điểu không tin sự thực Chúi đầu vào con xinh vợ đẹp Không nhìn đời, hay nghe một lời phương xạ
Như bông bay qua miền Lu-sia-na Như cam đong đưa miền Fờ-lo-riđda Như cơn phong ba trên hồ Mi-chi-găng rộng rãi Bước chân người còn phải đi xa
Qua Viêc-gi-nia, lich sử người xưa Hai trăm năm qua lập đời Tự Do
Đến bến Nữu Ước, nơi này năm trước Xây một tượng đá, vác đuốc thần, mở cửa bao lạ Này Thần Tự Do ơi ! Muốn hỏi Nàng mấy tiếng vu vơ Có phải Nàng, mắt đá ngu ngơ Khiến Nàng nhìn thế giới không xa Nên Nàng còn phân biệt mầu da Triệu người Đông Á Không bằng vài người (Do Thái) ở nước Nga Này Thần Tự Do ơi ! Hướng Nàng nhìn vốn dĩ Tây Phương Muốn Nàng chuyển hướng tới Đông Phương Muốn Nàng nhìn các nước Đông Dương Khóc ròng vì bao cảnh lầm than. Cho đẹp lòng tôi, thế giới cũng vui !
Ta đi trên đường tạm dung Trời Ca-Li ta yêu nó đấy Vùng Si-át-tơn mưa rơi lả lướt Lòng lưu vong nghe như dịu mát Đà Lạt ơi ! Đâu đây phảng phất khói sương Ôi Mi-ni-sô-ta ! Ngủ yên đi nhá Thông xanh rực rỡ, không vì mùa lạnh cây chết khô Cho người bền chí, mãi nuôi tình quê hương chàn chề. Này Thần Tự Do ơi ! Cũng vì Nàng sẽ nhớ vinh quang Nước này từng đã đứng tiên phong Bênh vực quyền sống giữa non sông Trắng, Vàng, Đỏ, Đen : Quyền làm dân Cùng nhau tranh đấu xua tan độc tài Phải thế không ? Này Thần Tự Do ơi ! Sẽ vì Nàng đốt đuốc cao hơn Sẽ nhận nhìn đất nước bao dung Cũng đẹp tựa chốn cũ quê hương Sẽ phục vụ Nhân Quyền vẻ vang Nàng chờ tôi nhé ! Một ngày tôi sẽ cho Nàng nụ hôn Thắm thiết miếng hôn !
Thơ Truyền Khẩu trên bàn rượu, ở nơi thiếu vắng đàn bà.
Em hỏi thật anh giữa em và rượu?
Thì anh ơi, anh sẽ chọn bên nào?
Câu hỏi buồn nghe đơn giản làm sao!
Trong một phút anh đi vào bối rối.
Nếu chọn em nghĩa là anh nói dối!
Còn rượu ư? - Anh thấy thật sai lời.
Rượu và em là nắng rớt mưa rơi.
Mà mưa nắng suốt đời luôn tiếp nối,
Rượu trong chiều còn em thì trong tối
Rượu và em là gạch nối của đời anh
Nếu bây giờ em lại hỏi anh!
Thì anh bảo em đừng cho anh ngốc nghếch
Nếu vì men lắm cuộc đời chấm hết!?
Thì trong yêu thiên hạ chết cũng nhiều
Rượu và em là hai nỗi nhớ đáng yêu!
Nếu được chết:
Anh sẽ chết một chiều bên em và có rượu.
Here's a feel-good video that shows what hard work can do. A kid catches
a beautiful moment on camera when he surprises his father with his much
improved math score.
"I year before this video I was at a grade F
in maths and in England you need a C (pass) to basically do anything
with your life, ive never been amazing academically and have struggled
through out school , neither me or my dad or my teachers thought I was
going to get my C , I know some of you who got A'S and A*'s will be
thinking "I don't understand what the fuss is about it's not hard to get
a C" for you it may not be but for me it was tough and when I told my
dad who means the world to me this was his reaction... Enjoy"
Check out this beautiful moment a kid passed math and makes his father proud.
Dù đã sẵn sàng hay chưa chuẩn bị, một ngày kia, chúng ta cũng phải chia tay thế giới này.
Sẽ chẳng còn ánh mặt trời chói chang chào đón, sẽ chẳng còn một ngày mới bắt đầu bằng giọt nắng trong vắt của buổi bình minh.
Sẽ không còn nữa những ngày xuân hiền hòa, ấm áp.
Tiền bạc, danh vọng, quyền lực,… tất cả với ta cuối cùng cũng sẽ trở thành vô nghĩa. Còn ý nghĩa chăng là những gì ta tạo ra đối với thế giới này.
Vậy điều gì là thật sự quan trọng lưu lại dấu ấn của ta trong cuộc sống?
Quan trọng không phải là những thứ bạn mang theo bên mình, mà là những gì bạn đã đóng góp.
Quan trọng không phải
là những thứ bạn nhận được, mà là những gì bạn đã cho đi.
Quan trọng không phải là những thứ bạn đã học được, mà là những gì bạn đã truyền lại cho người khác.
Quan trọng không còn là năng lực của bạn, mà chính là tính cách - là những gì bạn cư xử với mọi người xung quanh.
Quan trọng là những
khoảnh khắc bạn khắc ghi trong lòng người khác, khi cùng chia sẻ với họ
những lo âu, phiền muộn, khi bạn an ủi và làm yên lòng họ bằng cách
riêng của mình, hay chỉ đơn giản là một cái nắm tay, đỡ cho một người
khỏi ngã.
Quan trọng không chỉ là những ký ức, mà phải là ký ức về những người đã yêu thương bạn.
Quan trọng đâu chỉ là bạn sẽ được mọi người nhớ đến trong bao lâu, mà là họ nhớ gì về bạn . Quan trọng không phải là bạn quen biết thật nhiều người, mà là bao nhiêu người sẽ đau xót khi mất bạn trong đời.
Vậy thì, bạn ơi, hãy nhìn cuộc sống bằng ánh mắt yêu thương. Bởi vì chỉ có tình yêu thương mới đem lại những điều kỳ diệu cho cuộc sống.
Chúc Bạn khám phá ra muôn điều kỳ diệu trong cuộc sống!
Cụ Nguyễn văn Thành, Cỏ
May có nhắc trong bài trước, là một trong 20 000
người bị nhà cầm quyền thực dân Pháp ở Việt Nam cưỡng bức vội vàng qua Pháp để
lao động không lương phục vụ cho Nhà nước Pháp.
Những người này bị Nhà
nước Pháp liên tục từ trước Đệ II Thế chiến tới nay quên lãng một cách vô cùng
tự nhiện. Trong gần đây có nhà văn, nhà báo, nhà làm phim, sinh viên làm Tiểu
luận Cao học và Luận án Tiến sĩ, lần lược nhắc lại và đặt vấn đề trách nhiệm
với Nhà nước Pháp . Nhiều buổi hội thảo, thuyết trình được tổ chức tại những
địa điểm nơi những người Đông dương này đã ở qua, làm việc trước kia, để vực
dậy trí nhớ của những người trách nhiệm. Và đồng thời cũng nhằm giúp những thế
hệ sau này có những thông tin về thân nhân của họ.
“Công Binh, Đêm Đông Dương Dài ” (Công Binh, la longue nuit indochinoise) là một cuốn phim do Lâm Lê
thực hiện để nhắc lại những người lính thợ đông dương trong đó có nguời cha của
tác giả và một số ít hiện diện như những nhơn chứng trong phim hãy còn sống sót
ở Việt Nam và ở Pháp ngày nay.
Trước khi Đệ II Thế
chiến khai diễn, nhà nước thực dân Pháp ban hành lệnh cưỡng bách trưng dụng
người dân xứ thuộc địa đưa về chánh quốc làm việc như công nhân không chuyên
môn (ONS = Ouvrier Non Spécialisé) và không lương tại các xưởng kỹ nghệ chiến
tranh. Việt Nam bị nhà cầm quyền thực dân bắt 20000 thanh niên đưa khẩn cấp
qua Pháp để thay thế lính Pháp phải đi đánh giặc.
Sau khi Pháp thất trận,
những người Việt Nam này bị nhận lầm là lính nên bị quân Đức và những người
Pháp hợp tác với Đức sử dụng. Họ phải sống lưu đày cơ cực dưới thời Đức chiếm
đóng. Một số người này là những người đầu tiên trồng lúa theo kiểu Việt Nam ở
Camargue.
Ở Pháp, họ bị nhà cầm
quyền Pháp bắt làm nô lệ. Về xứ, họ bị Hà Nội kết tội là những người phản quốc.
45 ngày
tới Pháp
Nhắc lại chính xác ngày
29 tháng 8 năm 1939, Công Báo Đông Dương phổ biến một Nghị định theo đó nhà cầm
quyền thực dân pháp tuyển dụng cưỡng bách 20000 thanh niên Việt Nam đưa qua
Pháp, không phải đi lính, mà làm những công việc không chuyên môn.
Mỗi gia đình nào trong
làng có 2 con trai tuổi từ 18 tới 45, phải nạp một người nhưng tránh cho con
trai trưởng để ở nhà lo việc thờ cúng gia tiên. Nếu nhà nào có con mà không đưa
con đi thì người cha phải chịu ở tù. Chánh quyền thuộc địa được lệnh phải kết
thúc chiến dịch tuyển người trong vòng 6 tháng. Có nhiều người bị bắt đi không
kịp từ giã vợ con.
Nói là 20000, nhưng con
số tới Pháp là 19550 người trong đó có 6900 người ở Bắc, 10850 người ở Trung,
tức xứ Annam, và 1800 người ở xứ Nam kỳ thuộc địa. Họ xuống tàu ở Hải
Phòng, Đà Nẵng và Sài Gòn. Và cuộc hải hành của họ thường phải mất 45 ngày. Dĩ
nhiên họ bị nhốt trong hầm chở hàng hóa, bị cấm lên boong vì nơi đây có người
pháp và sĩ quan. Họ ngủ cứ 5 hay 6 người trên một sạp gỗ, không nệm, chiều dài 1,50m. Vì hầm tàu là nơi chở hàng nên không được trang bị các điều kiện vệ sinh
nêmộtn mùi hôi bốc lên nồng nặc. Ăn uống, cứ 10 người nhận một cái thau thức ăn chia
nhau.
Tới Marseille, 75 Đội
được đưa tới Baumettes thuộc Quận IX của Marseille ngày nay ở tạm chờ phân phối
đi các nơi làm việc. Lúc đó chỗ ở Baumettes vừa mới xây xong, sau này là khám
đường của Marseille còn tồn tại tới ngày nay. Ở nhiều trại, công nhân ăn không
đủ no vì bị tham nhũng ở khâu cung cấp lương thực. Mỗi người phải tự xoay sở
lấy giải quyết cái đói. Mèo, chó lúc đó quí giá vô cùng, ngon hơn thỏ và cừu,
cho nên trong phạm vi vài cây số chung quanh, người ta không còn nghe được
tiếng mèo ngao, tiếng chó sủa ma nữa.
Nhà
nước bảo hộ hay nhà tù?
Tháng 6 năm 1940, Pháp thua
trận. Vài ngàn trong số công nhân này được hồi hương. Nhưng từ năm 1941, đường
biển Âu châu và Viễn đông bị cắt bởi Hải quân Anh, 14 000 công nhân này bị kẹt
lại ở Pháp. Bộ Lao động Chánh phủ quyết định đem bán những công nhân này cho
các xí nghiệp tư như xưởng dệt, nhà máy luyện thép, xưởng cưa, nông trường, hay
cho chánh quyền địa phương để đào cống rãnh, lấp đầm lầy, đốn cây, … với giá
nhân công rẻ mạt.
Khi mướn công nhân,
người chủ chỉ làm giao kèo với Bộ Lao động, đúng hơn, với Sở Nhân Công Bản Xứ
(M.O.I = Service de la Main d’Oeuvre Indigène)), trả tiền làm việc thẳng cho
M.O.I, tức cai thầu. Suốt nhiều năm dài, cai thầu thực dân thu tiền bán nhân
công nhưng lại không trả lại cho công nhân một đồng xu lớn, đồng xu nhỏ nào
hết. Họ làm việc không lương, chỉ nhận được một số tiền phụ cấp bằng 1/10 lương
của công nhân Pháp lúc đó. Họ còn bị bữa đói, bữa no, ngược đãi, chỗ ở tồi tệ,
không nước nóng, không sưởi vào mùa lạnh, không được đi lại tự do. Những công nhân ở lại,
không về xứ được do chiến tranh, tập trung ở Miền Nam Pháp, trong những trại
lớn ở rải rác từ Marseille qua Bordeaux.
Nước Pháp được Đồng Minh
giải phóng khỏi sự đô hộ của Đức Quốc Xã nhưng tình trạng của những công nhân
lao động cưỡng bách Việt Nam lại không thay đổi.
Những đợt hồi hương đầu
tiên chỉ được tổ chức vào năm 1948. Và những công nhân sau cùng về xứ năm 1952,
sau 12 năm bị cưỡng bách biệt xứ. Có khoảng một ngàn người lấy quyết định ở lại
Pháp sanh sống.
Từ đó, 20000 công nhân
Việt Nam bị cưỡng bách tới Pháp trước Thế Chiến để giúp làm chiến tranh giài
phóng nhà nước Bảo Hộ tại bổn quốc hoàn toàn bị lịch sử Pháp bỏ quên. Như những
người này chưa bao giờ hiện hữu trên đất Pháp. Cũng may, năm 1986, một nữ sinh
viên ở Đại học Nanterre làm một Tiểu luận Cao học về thân phận của những người
bị bỏ quên này. Qua năm 1996, Ông Lê Hữu Thọ, nguyên Giám thị-Thông ngôn (
Surveillant-Interprète) của Đội 35 cho Nhà L’Harmattan, Paris V, ấn hành những
kỷ niệm của ông dưới nhan đề “Lộ Trình của một Quan Lại nhỏ ” (Itinéraire d’un
petit mandarin).
Tiếp theo, nhà báo
Pierre Daum, như bị thu hút mãnh liệt bởi hoàn cảnh nghiệt ngã của những người
nghèo khổ ở tận Đông Dương bị Nhà nước Pháp bỏ quên, bèn lao mình vào cuộc tìm
tòi thông tin, nhân chứng suốt bốn năm liền. Sau cùng, ông cho ra đời được
“Những người di cư bị cưỡng bách, những người lao động Đông Dương trên đất Pháp
(1939-1952) “, do nhà Actes-Sud xuất bản. Tác phẩm của ông đưa ra ánh sáng
trang sử thuộc địa đen tối của Pháp.
Với sự khuyến khích thêm
của Ông Lê Hữu Thọ, Ông Pierre Daum vận động Thị trưởng Thành phô' Arles tổ chức
triển lãm và nói chuyện về những người phục vụ nước Pháp bị Chánh phủ Pháp bỏ
quên suốt 70 năm dài.
Chọn Thành phố Arles để
khơi dậy ký ức của nước Pháp vì chính nơi đây, 70 năm trước, có 1500 ngưòi Việt
Nam được gởi tới làm ruộng muồi và ruộng lúa. Họ đã thành công ngoài sự hi vọng
với cách làm ruộng như ở Việt Nam. Bởi họ vốn gốc nông dân bỗng bị bốc khỏi
đồng ruộng đem qua đây. Ruộng lúa Camargue do họ khởi công cày cấy từ những năm
1941- 1945 đã đem lại cho vùng này sự phồn thịnh. Ngày nay, không riêng người
dân Camargue ăn gạo cấy gặt từ đây, mà trên thị trường xứ Pháp, gạo Camargue
cũng được bày bán rộng rãi. Với nhiều thứ như gạo lứt, gạo trắng, gạo hột tròn,
gạo hột dài, gạo thơm, gạo đỏ, gạo đen, … Cỏ May từ lâu nay ăn gạo Camargue,
gạo lứt, gạo đỏ, thay thế gạo trắng Thái Lan.
Ăn trái nhớ kẻ trồng
cây. Lần đầu tiên, Thành phố Arles, nhờ sự vận động của nhà báo Pierre Daum,
hồi tháng 12 năm 2009, tổ chức lễ tưởng nhớ công ơn những người Việt Nam đã khó
nhọc giai đọan đầu cày cấy ruộng lúa Camargue nhờ đó mà ngày nay có gạo
Camargue. Mà đó lại là điều mọi người không ai biết tới chớ đừng nói nhắc tới. Trong buổi lễ, trước sự
hiện diện đông đảo của dân chúng địa phương và, đặc biệt hơn hết, của mươi tác
nhân và chứng nhân, tức trong số 20 000 người trước kia nay còn sống sót được,
ông Thị trưởng đã chánh thức thừa nhận nước Cộng Hòa Pháp đã có trang sử đen
tối đó trong thời làm thực dân.
Gạo Camargue
Trước chiến tranh, năm 1938,
Pháp nhập cảng mỗi năm 600 000 tấn gạo từ Á châu mà hết 80% của Việt Nam. Pháp
thất trận, Đế quốc thực dân cũng bị sụp đổ theo luôn. Chánh phủ Vichy, năm
1941, có sáng kiến sử dụng nhân công Việt Nam những người gốc nông dân chuyên
nghiệp để thử trồng lúa ở vùng ngập nước Camargue không khác những điều kiện
nước, đất như ở Việt Nam. Thế là 225 công nhân không chuyên môn Việt Nam gốc
nông dân được gởi tới Camargue. Lúa giống, mua ở Ý.
Những người Việt Nam này bắt
tay làm ruộng theo cách thức đã từng làm ở Việt Nam từ bao nhiêu đời. Năm 1942,
vụ gặt đầu tiên trúng mùa: 182 tấn lúa thu hoạch trên 50 mẫu đất canh tác. Qua
năm sau, thu được 600 tấn lúa trên 230 mẫu đất. Năm 1944, 2200 tấn lúa thu được
trên 800 mẫu đất.
Đà sản xuất này kéo dài tới năm
1960. Lúc bấy giờ, người ta làm được 3 mùa. Gạo đạt phẩm chất tuyệt hảo. Người dân Camargue còn nhớ dưới
thời bị Đức chiếm đóng, gạo là vàng. 1kg gạo đổi được 50kg xi-măng nên có nhiều
người dân Camargue đã trở thành điền chủ giàu nhờ vài mẫu ruộng.
Và một sự khám phá kỳ thú về
gạo Camargue do nông dân Việt Nam, những người bị lưu đày biệt xứ, khai sanh ra
tại đây. Một hôm, nhà báo Pierre Daum vào xem nhà máy chà gạo Lustucru ở Arles
nhìn thấy những bức hình nông dân Việt Nam, ông bèn tìm hiểu tới và đã khám phá
ra lịch sử gạo Camargue ngày nay đang lưu hành trên thị trường.
Trong buổi lễ tưởng niệm và tri
ơn những công nhân Việt Nam tới đây trước thế chiến và ở lại đây, đem lại cho
Camargue, một vùng ruộng lúa phí nhiêu ngày nay, ông Thị trưởng Arles tuyên bố
sẽ làm bia tưởng niệm những người bạn cao quí Việt Nam và đặt tấm bia ấy tại
một địa điểm xứng đáng trong thành phố.
"La France s'honorera toujours de recevoir en son sein et
sous ses drapeaux les soldats de la liberté qui viendront s'y ranger pour
la défendre,et, quelle que soit leur patrie, ils ne seront jamais
étrangers pour elle"(Décret du 11 juillet 1792).
«Nước Pháp
sẽ luôn luôn vinh dự cưu mang và tiếp nhận dưới ngọn cờ của mình những người
lính của tự do để bảo vệ nước Pháp, và, không phân biệt quốc gia của họ, họ
sẽ không bao giờ là những người xa lạ với nước Pháp »
Một
hôm, một sinh viên trẻ có dịp đi dạo với giáo sư của mình. Vị giáo sư
này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên "người bạn của
sinh viên" vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với học sinh.
Trên
đường đi, hai người bắt gặp một đôi giày cũ nằm giữa đường. Họ cho rằng
đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở một cánh đồng gần bên,
có lẽ ông ta đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình.
Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư: "Chúng ta hãy thử trêu
chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu giày của ông ta rồi thầy và em
cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi
không tìm thấy đôi giày."
Vị giáo sư ngăn lại: "Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem
những người nghèo ra để trêu chọc mua vui cho bản thân. Nhưng em là một
sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn
hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãv đặt một đồng tiền vào
mỗi chiếc giày của ông ta và chờ xem phản ứng ông ta ra sao."
Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó.
Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến
nơi đặt giày và áo khoác của mình. Người nông dân vừa mặc áo khoác vừa
xỏ chân vào một chiếc giày thì cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong,
ông ta cúi xuống xem đó là vật gì và tìm thấy một đồng tiền. Sự kinh
ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng
tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn
khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai.
Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào
túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày còn lại. Sự ngạc nhiên của ông
dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên
trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì
xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông
bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một
mòn quà đúng lúc cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh
tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn.
Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo
sư lên tiếng: "Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem
ông ta ra làm trò đùa không?" Người thanh niên trả lời: "Giáo sư đã dạy
cho em một bài học mà em sẽ không bao
giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà
trước đây em không hiểu: "Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về".
Pay It Forward -- Are you ready to do the world a favour?
TT - TS Nguyễn Thiện Tống, khoa kỹ thuật hàng không Trường ĐH Bách khoa
TP.HCM, năm nay 66 tuổi. Đi nhiều, làm việc nhiều nhưng trông ông vẫn
thư thái và khỏe mạnh, nụ cười luôn trên môi. Ông chia sẻ:
TS Nguyễn Thiện Tống (phải) thực hiện kỹ thuật ném của aikido với huấn luyện viên Trần Minh Dũng
- Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo Quảng Trị. Do ăn uống thiếu
thốn, mẹ sinh ra tôi bé choắt. Đi học, tôi luôn được ngồi bàn đầu vì nhỏ
con. Ngày ấy các bạn đặt cho tôi biệt danh Tống “lùn”. Chơi với các bạn
luôn bị bắt nạt, do vậy tôi luôn tìm cách ăn nhiều cho khỏe và học cho
giỏi để tự bảo vệ mình.
Tôi nhớ trong nhà tôi lúc ấy có bốn cuốn sách dạy võ do
các anh mua: Hầu quyền, Liên hoa quyền, Mai hoa quyền và Tấn nội công.
Không có thầy dạy, tôi nghiền ngẫm tự học và luyện, may mà không bị “tẩu
hỏa”. Bây giờ nghĩ lại thấy mình rất liều (cười)...
Huấn luyện viên huyền đai tam đẳng Trần Minh Dũng (họa
sĩ Nhốp): Hiện nay trông ông vạm vỡ và rắn chắc, phải chăng ông luyện
luôn các môn võ ấy cho đến bây giờ?
- Không. Đó là cái háo thắng và muốn tránh bị các bạn
bắt nạt thôi. Lớn lên một chút tôi tập trung vào học văn hóa, nhưng ý
thức phải rèn luyện để mình có sức khỏe vẫn luôn hiện diện trong tôi.
Trong một lần tham gia bãi khóa chống chế độ Ngô Đình
Diệm của Trường Quốc học Huế, tôi bị bắt. Trong nhà giam tôi tình cờ đọc
được cuốn sách tự luyện yoga. Thế là tôi lại bắt đầu tập những bài tập
trong sách ấy (cũng với ý thức rèn luyện sức khỏe từ lúc nhỏ để không bị
bắt nạt) cho đến sau khi được thả một thời gian nữa...
* Và...?
- Sau đó tôi đi du học ở Úc để lấy tiến sĩ chuyên ngành
về kỹ thuật hàng không. Ở Úc, tôi đã mua đủ loại sách về võ thuật và
cũng tự luyện những lúc rỗi rảnh. Đó là một cách giải trí có ích sau
những giờ học tập căng thẳng...
Về nước, đi dạy học, tôi tập thêm judo một thời gian
khoảng hai năm, chưa lên tới đai nâu tôi lại dừng bước vì bận rộn chuyện
công việc và gia đình...
Khi con gái 12 tuổi, tôi muốn trang bị cho con một môn
võ nào đó để có thể tự bảo vệ mình. Lúc ấy tôi thấy hiệp khí đạo
(aikido) là phù hợp với cháu nhất. Nhưng cháu không chịu đi học nếu
không có tôi cùng học. Thương con tôi đành đi tập với con. Đấy là lần
đầu tiên tôi tiếp xúc với môn võ “tình thương và hòa hợp” này.
* Hết võ Thiếu Lâm sang yoga, judo rồi tới aikido, có lẽ ông “tham” quá chăng?
- Có lẽ mình chưa tìm thấy môn thể thao phù hợp với
mình đó thôi. Với môn aikido tôi “trụ” lại lâu nhất và đạt cấp đai cao
nhất (đai đen) trong các môn thể thao tự học. Cho đến bây giờ tôi vẫn
dành thời gian cho môn võ này. Có lúc sắp xếp được công việc thì lên sân
tập với anh em, còn không thì tự tập các bài tập “aiki taiso” (thể dục
hiệp khí) ở nhà mỗi ngày.
* Ông tìm thấy gì ở môn aikido và nó giúp ông ra sao trong cuộc sống?
- Chính nguyên lý “bất tương tranh” của aikido đã giúp
tôi “hóa giải và làm chủ” cảm xúc của mình trong đời sống hằng ngày. Tôi
bị ảnh hưởng tính thẳng thắn và không ngại va chạm của phương Tây nên
trong môi trường làm việc và sinh hoạt, thấy điều gì không đúng tôi
thường hay nói thẳng và đấu tranh không khoan nhượng. Không ít lần tôi
làm mất lòng nhiều người vì sự thẳng thừng ấy.
Từ khi “ngấm” aikido, tôi luyện tập mỗi ngày, có khi
liên tiếp hai ca (mỗi ca tập 90 phút), tôi dần nghiệm ra nguyên lý bất
đối kháng và kết nối đã giúp tôi tự điều chỉnh, tránh được va chạm mà
vẫn bảo lưu được sự thẳng tính của mình. Nó giúp tôi cân bằng cảm xúc,
giải tỏa sự căng thẳng không cần thiết trong cuộc sống, nói chung là tìm
thấy sự cân bằng của thể chất và tinh thần...
* Ông thấy có sự tương quan nào trong triết lý của aikido và nguyên lý bay của khoa học hàng không mà ông đang giảng dạy?
- Ồ, có sự tương đồng. Đó là “vượt qua những biến động để bay ổn định”
(nếu không, máy bay sẽ rơi) và “vượt qua đối kháng để hòa hợp” (trong
aikido).
* Trong tình hình bạo lực học đường diễn ra thời gian gần đây,
ông có dịp nào trao đổi với sinh viên về các nguyên lý của aikido giúp
họ cân bằng và làm chủ cảm xúc, tránh xung đột trong môi trường giáo dục
chưa?
- Có chứ. Tôi đã hỗ trợ một số đồng môn thành lập CLB
aikido ký túc xá Bách khoa từ năm 2005 tại khuôn viên Trường ĐH Bách
khoa. Hiện CLB này vẫn đang hoạt động mạnh. Tiếc là diện tích sân tập
còn quá nhỏ, chưa có điều kiện nhận thêm nhiều học viên để phổ biến môn
võ thuật có ích này.
Từ sự trải nghiệm của mình, tôi quan niệm rằng “Tinh
thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”.
Muốn làm việc được lâu dài
cống hiến cho xã hội cần phải có sức khỏe. Mỗi người nên chọn bất cứ
môn thể thao nào phù hợp để tập cũng được, miễn là phải tập cho “đổ mồ
hôi” và chuyên cần. Từ đó tạo sự cân bằng cho bản thân. Những cá thể cân
bằng tạo nên một tập thể cân bằng và một xã hội cân bằng.
PGS-TS Nguyễn Thiện Tống - Phó hiệu trưởng Trường ĐH Cửu Long, nhận
định: “Số trường đào tạo tiến sĩ trong nước có chất lượng chỉ đếm được
trên đầu ngón tay. Phần nhiều chương trình đào tạo ở các trường chưa đi
vào thực chất, còn cả nể… Tôi từng ngồi rất nhiều hội đồng, thực chất có
nhiều NCS theo tôi là không đạt nhưng hội đồng vẫn cho qua theo kiểu xí
xóa. Có thể thấy rằng, những người giỏi, người học vì kiến thức thường
không làm NCS trong nước”. Trước thực tế này, ông Tống cho rằng: “Đào
tạo tiến sĩ trong nước hiện còn nửa vời, chưa đúng mức và chủ yếu chạy
theo bằng cấp, danh hiệu là chính. Đề tài nghiên cứu khoa học cũng chưa
sát thực tiễn”. Ông đề nghị: “Cần bắt buộc các NCS phải có những bài báo
quốc tế, không thể để chuyện có cũng được không có cũng chẳng sao như
hiện nay. Cũng cần tiến đến chuyện làm nghiên cứu trong nước nhưng để
giáo sư nước ngoài chấm nhằm tạo tính khách quan, từ đó mới nâng được
chất lượng đào tạo”. Nỗi lo cơm áo gạo tiền
Những người đã qua giai đoạn làm NCS cũng thừa nhận có được tấm bằng
tiến sĩ là phải hy sinh, đánh đổi nhiều thứ. Phải để lại công việc ổn
định đang có, phải chấp nhận mất thu nhập trong nhiều năm để tập trung
nghiên cứu. Thạc sĩ Trần Thị Nguyệt Sương, giảng viên Trường ĐH Tôn Đức
Thắng cho biết: “Qua thực tế tìm hiểu, tôi nhận thấy NCS ở nước ngoài
toàn tâm toàn ý trong quá trình học tập nghiên cứu. Trong khi đó, ở Việt
Nam, NCS vừa phải làm tròn công việc cơ quan vừa phải nghiên cứu”. Vì
thế PGS-TS Nguyễn Thiện Tống cho rằng tiến sĩ của nước ta đang đào tạo
theo kiểu… tại chức
Tôi
vừa thí nghiệm thành công cách này và đã xuống được 3 Kg sau 1 tuần. Gởi
cho cácanh chị làm thử nếu
ai muốn bớt kí lô.
Tùng
Lưu
ý :
Tuyệt đối không được ăn ngọt và trái
cây.
Uống được café và nước mà thôi.
Đói thì chỉ ăn soupe mà thôi. Tuyệt đối
không được ăn cơm và bánh mì etc.
Được phép ăn kèm với thịt, cá
Khi
ăn theo chế độ nầy , sang ngày thứ hai, coi chừng bị "sỗ".
Nếu ai đi làm việc, nên ăn vào cuối tuần. Nếu đi làm, xem chừng toilettes có gần đó
hay không. Rất cần thiết.
Trong
1 tuần chỉ xuống được duy nhất 3 kg không thể tưởng tượng được. Nhưng sau 1 tuần,
tôi thấy trọng lượng cơ thể không xuống nửa. Tôi
ăn tiếp được 4 tuần, nhưng thấy trong lượng
không giảm nửa, vẫn ở mức "giảm 3 kg" mà thôi.
Sau
1 tuần, không còn thấy thèm ăn cơm như trước nữa.
Sau
đó tôi ăn ít lại và chỉ ăn khi thấy đói bụng mà thôi. Nặng quá cũng mệt và đi bộ thường xuyên như cũ. Hiện
nay chỉ xuống được thêm 1 kg, và không còn ăn soupe nửa.
CÔNG THỨC LÀM ỐM BẰNG CÁCH ĂN SOUPE
-
1 trái choux blanc (bắp cải)
-
4 trái tomate
-
2 oignon (củ hành)
-
2 trái poivron vert (pepper màu xanh)
-
1 bó céléri (celery - cần tây)
Rửa sạch, cắt ra từng khúc vừa ăn. Đổ vô
nồi, đổ nước xấp xấp trên mặt légumes.
Nấu 1 nồi, ăn được 4 bữa.
Không được ăn bánh mì, ăn cơm và không
được ăn trái cây. Khi nào đói bụng thì chỉ được ăn soupe nầy mà thôi.
Buổi trưa được ăn chung với thịt, cá.
Buổi chiều tối, chỉ ăn soupe mà thôi – không
ăn kềm với thịt cá.