khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

Phỏng vấn Phạm thị Hoài


Diễn đàn Thế kỷ: Sau biến cố 30 tháng Tư 1975, dần dà chị có dịp tiếp xúc với đời sống miền Nam. Xin chị cho biết cảm tưởng chung của mình về đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng trên mảnh đất trước kia gọi là Việt Nam Cộng hòa.

Phạm Thị Hoài: Tôi thuộc thế hệ lớn lên trong "chân lý không bao giờ thay đổi" rằng "nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một", chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội và Chủ tịch Hồ Chí Minh là quốc gia hợp pháp duy nhất trên toàn bộ mảnh đất hình chữ S. Chính quyền Sài Gòn là bù nhìn. Rất lâu sau này tôi mới nghe danh xưng Việt Nam Cộng hòa.

Lần đầu tiên tôi đến Sài Gòn là năm 1984, đi phiên dịch cho một đoàn khách Đông Đức sang dự hội thảo khoa học. Điều duy nhất của miền Nam mà tôi còn nhớ là khi xe dừng trước khách sạn Bến Thành, một bác vận giày da và đồng phục rất đẹp tiến tới mở cửa xe. Tôi chui ra, ríu rít "Cảm ơn bác ạ", nhưng chưng hửng trước một gương mặt đóng băng. Tôi tiện tay đóng cửa xe sau lưng. Lớp băng trên gương mặt ấy thoáng rạn thành hai vệt lông mày nhíu lại, nhưng cặp môi vẫn lịch sự nói "Xin bà nhẹ tay", rồi lông mày lại giãn ra, lớp băng lại đóng kín. Chiếc xe êm ru ấy không cần tôi dùng hết sức lực của một cơ thể chưa đầy 40 ký để đóng cửa. Ngoài Bắc, cửa xe như tôi biết khi ấy thường cần thêm một cú đạp. Ngoài Bắc, gác cổng cơ quan nào cũng có thể vênh mặt rất chân đất hách dịch, nhưng không băng giá lịch thiệp. Ngoài Bắc, người đáng tuổi cha chú không gọi một cô gái là bà.

Lần tiếp theo là năm 1989, môi trường tôi tiếp xúc là giới báo chí và xuất bản, toàn bộ nằm trong tay một đội ngũ cán bộ hoặc từ miền Bắc vào, trong đó có nhiều người miền Nam tập kết ra Bắc rồi lại từ Bắc phái vào Nam, hoặc là người miền Nam có lý lịch và thành tích cách mạng, phần lớn từng là những gương mặt nổi bật của phong trào đô thị. Những người được coi là cấp tiến trong số đó, dù cởi mở thế nào vẫn là những cán bộ cộng sản tiếp quản một thành phố đã Bắc hóa về nền tảng. Sài Gòn khi đó khấm khá hơn, sôi động trẻ trung hơn Hà Nội, song phần lớn di sản của Việt Nam Cộng hòa thì đã di tản, đã thành tro bụi, hoặc đã tàn lụi trong các trại cải tạo. Trầm tích còn lại thì ẩn sâu. Tôi chỉ thực sự tiếp cận một phần di sản ấy sau này, từ khi định cư ở Đức. 

Diễn đàn Thế kỷ: Xin chị cho biết đánh giá của chị về di sản ấy.

Phạm Thị Hoài: Bản thân người trong cuộc, tức các thế hệ từng sống trong những thể chế khác nhau của Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ, cho đến nay vẫn tiếp tục tranh cãi, thường là rất gay gắt, đầy nghi kị thù hận, đến mức thóa mạ, nguyền rủa, thậm chí như sẵn sàng làm thịt nhau về cái di sản ấy. Điều đó dễ hiểu. Định mệnh của Việt Nam Cộng hòa gắn liền với Chiến tranhViệt Nam, một chương sử đau thương vô hạn và cũng chia rẽ vô hạn của người Việt. Trong khi miền Bắc cùng thời là một khối duy nhất, đúc bằng ý chí sắt thép máu lửa của chủ nghĩa cộng sản thời chiến, không có gì để và có thể bàn cãi, thì miền Nam, ở mọi thời điểm của cuộc chiến, là một tổng thể phức tạp của nhiều phân mảnh đối kháng nhau mạnh mẽ. 

Cả hệ thống quốc gia chống cộng lẫn Việt cộng và những người được coi là "thành phần thứ ba" cũng như khối dân chúng chao đảo giằng xé giữa các bên đều thuộc về miền Nam ấy. Cả ấp chiến lược lẫn “vùng giải phóng” cũng như cả Tổng thống Ngô Đình Diệm lẫn Hòa thượng Thích Quảng Đức; cả thảm sát ở Huế lẫn thảm sát ở Mỹ Lai; cả Nguyễn Văn Trỗi đặt mìn lẫn Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom; cả tà áo dài tân thời của Đệ nhất Phu nhân Trần Lệ Xuân lẫn tấm áo bà ba của Phó Tư lệnh Mặt trận Nguyễn Thị Định; cả tướng Nguyễn Ngọc Loan lẫn đại úy biệt động Nguyễn Văn Lém; cả tướng Nguyễn Cao Kỳ, tướng Nguyễn Khoa Nam lẫn tướng Dương Văn Minh, tướng Phạm Xuân Ẩn; cả linh mục Cao Văn Luận lẫn linh mục Chân Tín; cả luật gia Nguyễn Văn Bông lẫn luật sư Nguyễn Hữu Thọ; cả thầy Tuệ Sỹ, thiền sư Lê Mạnh Thát lẫn Phật giáo Hòa Hảo, thiền sư Thích Nhất Hạnh; cả nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam lẫn nhà hoạt động Trương Như Tảng; cả nhân sĩ Hồ Hữu Tường lẫn nhân sĩ Lý Chánh Trung; cả học giả Nguyễn Hiến Lê lẫn nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng; cả triết gia Phạm Công Thiện lẫn giáo sư triết Nguyễn Văn Trung; cả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lẫn nhạc sĩ Lưu Hữu Phước; cả thi sĩ Bùi Giáng lẫn nhà thơ Lê Anh Xuân; cả nhà văn Mai Thảo lẫn cây bút Vũ Hạnh; và cả triệu người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 lẫn triệu người từ miền Nam di tản năm 1975...

Tất cả những nhân vật, sự kiện, hiện tượng, khuynh hướng ấy đều thuộc về di sản của Việt Nam Cộng hòa, và chỉ riêng điều đó đã là một thành tựu vô tiền khoáng hậu. Không một quốc gia nào trên lãnh thổ Việt Nam từng trải qua một lịch sử đa tầng và nén chặt như vậy. Hai mươi năm là một khoảnh khắc rất ngắn trong lịch sử, chỉ đủ cho người Việt ngủ rồi thức dậy vẫn trong giường chiếu cũ, vươn vai hít thở không khí cũ, khề khà xỏ chân dép cũ, ra hiên cũ ngắm mây cũ đọng vuông trời cũ. Phần lớn là như thế suốt mấy ngàn năm. Nhưng hai thập niên Việt Nam Cộng hòa là một chuyến tốc hành lao vào những xung đột trung tâm của một thế giới luôn kề cận một cuộc đại chiến mới. Không phải miền Bắc tuyệt đối một lòng và vì thế phiến diện, mà miền Nam đa diện bỗng trở thành đấu trường nóng bỏng của những lý tưởng và trào lưu thời đại nổi bật. Lần đầu tiên, và cho đến nay là lần duy nhất, người Việt có mặt ở đỉnh cao của tinh thần thời đại, dù đó là một thời đại kinh hoàng. Là người ngoài cuộc, tôi có thể dễ dàng chọn cách nhìn nhận gia tài "hai mươi năm nội chiến từng ngày"của miền Nam từ tổng thể ấy. Song với người trong cuộc thì khó hơn nhiều, họ phải sống với những sự thực khác nhau mà những nỗi đau riêng vẫn còn nguyên. 45 năm không ngắn nhưng chưa đủ dài.

Diễn đàn Thế kỷ: Chị đã biết hiện tượng đốt sách và việc bắt giam một số khá lớn các nhà văn nhà báo miền Nam của phe thắng trận. Chị đánh giá việc này ra sao?

Phạm Thị Hoài: Đó là cách hành xử của nhiều chính quyền độc tài, không riêng gì cộng sản. Thời Minh thuộc, sách vở văn tự An Nam bị đốt sạch phá sạch để dọn đường cho văn minh Bắc triều. Hà Nội cũng làm thế với miền Bắc sau 1954 để dọn đường cho văn minh cộng sản: sách vở báo chí tiền chiến bị bài trừ; bia đình chùa miếu mạo biến thành đá lót; nông dân đốt sổ sách văn tự trong Cải cách Ruộng đất; và Hà Nội tiếp tục chính sách thay máu tàn khốc nhưng hiệu quả này với miền Nam sau 1975. Miền Nam không phải là ngoại lệ, mà chỉ đi sau cả nước trong công cuộc thay máu đó. Nhiều cây bút miền Bắc thậm chí còn chịu số phận cay đắng hơn. Chế độ chính trị hiện hành đã vượt qua hai cuộc chiến tranh nóng và kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh với sự sụp đổ của hệ thống; đã trải qua nhiều hình thái, từ giáo điều đến cải cách, từ khép kín đến mở cửa, từ cộng sản chiến khu đến cộng sản bao cấp, từ cộng sản ảo mộng đến cộng sản vỡ mộng, từ cộng sản trong tim đến cộng sản ngoài da, từ cộng sản cần lao đến cộng sản đại gia, từ cộng sản đào mồ chôn tư bản dân tộc đến cộng sản ôm chân tư bản toàn cầu. Chế độ ấy vững tin ở sự bất diệt của bản thân, như thể nó sẽ trụ lại ngay cả khi dân tộc này qua đi. Nhưng lịch sử không có điểm dừng cuối cùng. Một hay nhiều vụ thay máu văn hóa khác, cũng sẽ dã man và ngu xuẩn không kém, không phải là không thể diễn ra nữa trên mảnh đất Việt Nam. Chúng ta luôn nhắc nhở rất hoa mỹ về những bài học của lịch sử, nhưng con người nói chung chỉ lắng nghe quá khứ khi đã muộn.

Diễn đàn Thế kỷSau này chị đã làm công việc sưu tầm và số hóa các tác phẩm văn học của miền Nam và đưa lên Website có tên talawas để mọi người có thể tiếp cận. Chị có thể cho biết động lực, cách thức và thời gian để chị thực hiện việc này?

Phạm Thị Hoài: Một trong các trọng tâm của talawas là đối thoại đa chiều, song điều đó là bất khả nếu cơ hội cho các bên không bình đẳng. Tôi rất ngạc nhiên vì cộng đồng hải ngoại của "Việt Nam Cộng hòa nối dài" khi ấy chưa hề có một thư viện online cho sách báo miền Nam trước 1975, mặc dù có thẩm quyền và nhiều nguồn lực nhất để làm việc đó. Vậy thì chúng tôi, toàn những người xuất xứ từ "bên thắng cuộc", phải bắt tay vào mà làm thôi, không có gì phải dài dòng cân nhắc. Chúng tôi giao cho một số cộng tác viên ở trong nước tìm và chọn tác phẩm, cho đánh máy và sửa bản thảo cũng ở trong nước rồi gửi bản điện tử đến tòa soạn. Khá thủ công, tốn kém và vất vả, nhưng khi đó tốc độ internet cũng như các công cụ hỗ trợ cho phép những giải pháp kỹ thuật khác chưa phát triển như hiện nay.

Diễn đàn Thế kỷ: Nhiều thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước nhờ talawas mà đã tìm đọc, thưởng thức và nghiên cứu lại cả một nền văn học có cơ bị xóa bỏ hẳn bởi phe thắng trận. Thế nhưng, công việc đẹp đẽ này bỗng dưng phải ngừng lại. Chị có thể cho biết lý do?

Phạm Thị Hoài: "Sách xuất bản tại miền Nam trước 1975" chỉ là một trong nhiều nội dung của talawas. Chúng tôi hoạt động ở giai đoạn bước đệm, khi internet vừa mở ra cơ hội cho một môi trường truyền thông độc lập của người Việt, song trước thời điểm mạng xã hội bùng nổ. Chúng tôi quyết định dừng lại khi nhận thấy talawas đã đi hết giới hạn cuối cùng khả dĩ ở quy mô và chất lượng mà nó đã đạt được. Mô hình làm việc tự nguyện, tay trái, ngoài giờ, không lương, của ban biên tập và sự đóng góp bài vở cũng tự nguyện, không thù lao, của các tác giả, tuy đẹp và thậm chí lãng mạn nhưng rốt cuộc chỉ là giải pháp tạm thời của tình huống bất đắc dĩ. Nếu hình dung trước là sự tạm thời đó kéo dài đến 9 năm, có lẽ tôi đã không đủ can đảm để bắt đầu.

Một mô hình chuyên nghiệp, với một tòa soạn chuyên nghiệp và một đội ngũ cộng tác viên chuyên nghiệp đòi hỏi một nguồn tài chính và nhân lực lâu dài, ổn định. Chúng tôi không thể có điều đó, dù được cảm tình của một lượng độc giả khá đông đảo. Ngoài ra, cuối thập niên 2000 các blog cá nhân trên nền tảng Yahoo, rồi WordPress, Google nở rộ và không lâu sau đó, đầu thập niên 2010, mạng xã hội Việt Nam hình thành và bùng nổ với Facebook. Nếu tiếp tục với mô hình cũ, talawas sẽ chỉ là cái bóng lay lắt của chính nó cho đến khi tắt hẳn. Chúng tôi muốn tiết kiệm cho mình và độc giả cái kết cục đó. Một mạng lưới truyền thông độc lập, có uy tín, chất lượng và độ lan tỏa lớn; có khả năng xây dựng một công luận tự do và có trách nhiệm; có thể thực sự làm đối trọng với truyền thông "lề phải" do chính quyền Việt Nam quản lý; hình thành từ ý chí và nguồn lực của chính cộng đồng Việt chứ không phải là một chi nhánh của những hãng truyền thông nước ngoài như BBC, RFA, VOA, RFI... cho đến nay vẫn chỉ là một trong những ước mơ miễn phí của chúng ta, còn thực tế thì chúng ta phó thác hết cho vị cứu tinh đáng ngờ là Facebook.

Tôi không phủ nhận vai trò khai phóng của Facebook đối với những xã hội chuyên chế như Việt Nam, song nó là con dao hai lưỡi, có thể thúc đẩy nhưng cũng có thể đe dọa hay đầu độc tiến trình dân chủ và văn minh hóa một quốc gia độc tài chậm tiến. Mọi con vật đều bình đẳng trên mạng xã hội, song sự phát triển ở Nga, Trung Quốc và các nước độc tài Trung Đông cho thấy một số con vật rõ ràng bình đẳng hơn những con khác. Tự do trên Facebook được định nghĩa bởi chính Facebook và nhà cầm quyền. Hai thế lực này, dù khác biệt đến đâu và sau một thời gian dè chừng lẫn nhau, cuối cùng sẽ phải câu kết để duy trì lợi nhuận cho bên này và quyền lực cho bên kia hay thậm chí cả hai lợi ích gộp lại cho đôi bên; vụ Facebook chấp nhận kiểm duyệt ở Việt Nam mới đây chỉ là một trong chuỗi những mở đầu mà chúng ta ghi nhận để rồi bỏ qua như chưa hề xảy ra. Chúng ta là những con ếch trong bình nước đang nóng dần. Khi chính quyền học được cách sử dụng và chế ngự mạng xã hội cho chính sách tuyên truyền của mình - trấn áp, lung lạc, chia rẽ, mị dân – thì tiếng nói riêng lẻ của các nhà báo công dân sẽ chỉ còn hồi thanh trong những phòng cách âm rải rác trên không gian ảo. Mạng xã hội lại hình thành trong bối cảnh người Việt tuy bập rất nhanh vào công nghệ hiện đại, ào ào lướt mạng, thoăn thoắt bấm phím, hội chứng Facebook thành chứng chỉ chất lượng sống, nhưng phần lớn đều kém cả kiến thức lẫn nhận thức về môi trường mới này, vì vậy vừa dễ làm mồi ngon cho tin giả, đủ thứ trào lưu mù quáng và những cạm bẫy đổi đời – lấy đời ảo thay đời thực, vừa hăng hái kết nối lan tỏa những căn bệnh khủng khiếp của mạng xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà năm nay Việt Nam lọt top 5 cộng đồng mạng kém văn minh nhất theo đánh giá của Microsoft. Thú thật, tôi thấy may mắn cho talawas là đã đình bản đêm trước, khi sáng hôm sau Facebook tiến vào và chiếm lĩnh không khói súng cả trái tim, khối óc lẫn tâm hồn người Việt.

Diễn đàn Thế kỷ: Theo chị, gia tài văn hóa nghệ thuật 20 năm đó của miền Nam có đóng vai trò gì trong lịch sử tinh thần của dân tộc Việt Nam?

Phạm Thị Hoài: 451 độ F là câu chuyện nổi tiếng nhất về đốt sách, xóa sạch dấu vết của tư tưởng và nghệ thuật, những thứ nguy hiểm hoặc vô dụng đối với một xã hội không cần động não vì tất cả đã có chính quyền lo hết, dân chúng chỉ việc sinh sống và xem TV. Trớ trêu là tác phẩm này chính thức được xuất bản bằng tiếng Việt từ mấy năm trước, không hề bị truy bức như trường hợp Chuyện ở nông trại (Animal Farm), song rơi tõm vào sự thờ ơ của độc giả Việt Nam, tức cũng ít nhiều chung số phận của những cuốn sách bị đốt mà nó miêu tả. Tác giả Ray Bradbury lập ngôn bằng viễn kiến, nhưng chắc chắn không tính đến viễn cảnh về ngày mình bị ra rìa trong một xã hội như Việt Nam hiện tại, không phải vì bị ngăn cấm mà đơn giản bị đào thải. Bây giờ chính quyền có thể vững tin rằng dân chúng chẳng buồn quan tâm đến những thứ rách việc và vô bổ như văn chương nghệ thuật, kiểm duyệt làm gì cho mệt mà có thể còn gây hiệu ứng ngược. Tôi e rằng, ngay cả hiệu ứng ngược cũng đã tắt ngóm. Những năm gần đây, một số tác phẩm của các tác giả miền Nam trước 1975 đã được xuất bản trở lại, song trong môi trường văn hóa hiện tại, với cuốn sách vĩ đại duy nhất là Facebook của 60 triệu tác giả đồng độc giả tiếng Việt, mọi thành tựu văn học bất kể miền Bắc, miền Nam hay thế giới đều vô nghĩa. Dĩ nhiên đó là trên bề mặt rộng. Ở sâu bên dưới, các chuyển động tinh thần như nước ngầm, thấm vào những tầng và tụ về những phương mà mắt thường không xuyên tới. Trong văn giới, trước hết ở các tác giả ngoài luồng, hai mươi năm văn học miền Nam ít nhất đã để lại cảm hứng tự do và những phong cách đa dạng. Đời sau sẽ khai quật những báu vật ấy để bảo tàng hay chỉ bận đi tìm những mỏ vàng; lịch sử tinh thần của dân tộc này sẽ thăng trầm hay sẽ phẳng lì; và chúng ta sẽ làm gì với gia tài văn hóa của mình, tôi hoàn toàn không biết. Nhưng tôi dự cảm, rằng với công cuộc phây hóa ngày càng thắng lợi như hiện nay, người Việt sẽ quẳng mọi gánh nặng văn học nghệ thuật đi để vui sống.

Mỹ loan báo đột phá về chữa trị virus corona


Một loại thuốc thử nghiệm vừa được loan báo chữa trị hữu hiệu bệnh COVID-19, người đứng đầu Viện Quốc gia Hoa Kỳ về Dị ứng và Các bệnh truyền nhiễm (NIAID), bác sĩ Anthony Fauci, cho biết ngày 29/4.
“Remdesivir có hiệu ứng tích cực rõ ràng đáng kể trong việc rút ngắn thời gian phục hồi,” bác sĩ Fauci phát biểu tại Phòng Bầu dục Toà Bạch Ốc.
“Một loại thuốc có thể chặn đứng virus này.”
Bác sĩ Fauci cho biết một cuộc thử nghiệm quốc tế được thực hiện tại Viện của ông từ ngày 21/2 với hàng trăm bệnh nhân nhập viện vì virus corona.
Những bệnh nhân được cho uống thuốc này phục hồi trong 11 ngày trong khi nhóm bệnh nhân được cho uống giả dược phục hồi trong 15 ngày, theo Viện NIAID.
Remdesivir, do hãng Gilead sản xuất, được tiêm vào tĩnh mạch bệnh nhân và có nhiệm vụ can thiệp với một enzyme tái sản xuất chất liệu gen virus.
Trong các cuộc thử nghiệm trên động vật đối với bệnh SARS và MERS, các căn bệnh cũng do một loại virus corona tương tự gây ra, Remdesivir giúp ngăn lây nhiễm và giảm các triệu chứng trầm trọng. Tuy nhiên, thuốc chưa được nơi nào trên thế giới chấp thuận cho sử dụng.
Dự kiến Cơ quan Quản trị Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ ngày 29/4 sẽ cho phép dùng thuốc này trong trường hợp khẩn cấp khi điều trị COVID-19. Một cuộc nghiên cứu khác về Remdesivir không đạt được kết luận khả quan.
“Đó không phải là một cuộc nghiên cứu đầy đủ,” bác sĩ Fauci nói về cuộc nghiên cứu đăng trên tạp chí The Lancet mà kết quả cho thấy Remdesivir không hữu hiệu khi điều trị bệnh nhân COVID-19.
COVID-19 đã giết chết hơn 224.000 người trên thế giới, gần 60 ngàn người trong số này là ở Mỹ.
Tổng số ca nhiễm virus corona tại Mỹ vượt trên 1 triệu người, cao nhất thế giới.
Ngày 29/4, Tổng thống Mỹ Donald Trump chất vấn ‘có ai tin rằng’ Mỹ có nhiều ca bệnh hơn Trung Quốc hay không?
Ông Trump một lần nữa quy trách nhiệm cho Trung Quốc và Tổ chức Y tế Thế giới về đại dịch hiện nay.
“Họ (Trung Quốc) không đáng được chúc mừng vì những gì đã diễn ra mà WHO lại chúc mừng họ,” ông Trump nói. “Và khi họ bắt đầu làm điều đó thì chúng ta bắt đầu gặp tai ương.”
Trước đây trong tháng, ông Trump đình chỉ tài trợ của Mỹ cho WHO, thường mỗi năm tổng cộng từ bốn tới năm trăm triệu đô la. WHO nói họ đang làm việc với các đối tác để lấp khoảng trống tài chính khi Mỹ ngưng viện trợ.
Hoa Kỳ là nhà tài trợ lớn nhất của WHO.

Những giờ phút cuối cùng ở ĐSQ Mỹ, 30/4/1975





Trích: Sinh hoạt văn học miền Nam trước 1975, ghi chép những ý nghĩ rời- Tác giả Đinh quang anh Thái


VÕ ĐẮC DANH là người cầm bút đã thành danh ở Việt Nam sau 1975. Anh viết nhiều, các tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút sắc bén của Danh là Nỗi Niềm U Minh Hạ, Đồng Cỏ Chát, Thế Giới Người Điên, Canh Bạc, Đồi Chợ Chợ Đời…

Danh sinh ra trong một gia đình “rặt cộng sản.” Nói theo cách của nhà văn Lê Phú Khải trong cuốn Lời Ai Điếu “những lần họp mặt gia đình ngày giỗ tết, trừ cái cột nhà, ai cũng là đảng viên cộng sản.”
Vậy mà tối 30 Tháng Tư 2019, ngồi với nhau tại nhà tôi, Danh nâng chén rượu, giọng dưng dưng nói “anh em mình cùng mất nước; anh Thái mất miền Nam, còn tui, Việt Nam bây giờ không còn là Việt Nam của tui nữa.”
Tôi bảo Danh, thực ra đất nước mình nào có mất, mà chỉ bị một tập đoàn cưỡng chiếm, cướp đoạt khát vọng của người dân muốn được sống đúng nhân phẩm.
Lần đầu gặp Danh năm 2011, Danh dẫn theo con gái đang học bên Mỹ, anh bảo con “tía muốn con nghe câu chuyện của những người như bác Thái để hiểu tại sao đất nước mình thống nhất mà nhiều người phải bỏ nước ra đi như vậy.”
Danh chào đời vào thời điểm chiến tranh ác liệt nhất; và lớn lên ở Cà Mau, trong vùng “giải phóng”, những phần đất mà Việt Nam Cộng Hòa gọi là vùng mất an ninh hoặc vùng Việt Cộng. Danh nói, phía Việt Cộng gọi vùng Quốc Gia là vùng Ngụy quân Ngụy quyền hoặc là vùng "tạm chiếm."
Tháng Giêng 2020, từ Xẻo Lá gần Sài Gòn, vợ chồng Danh chạy ngược chạy xuôi lo mua vé máy bay để sang Mỹ ‘trốn dịch Covid 19” đang có nguy cơ bùng phát ở Việt Nam và để đoàn tụ với 2 con gái đã định cư tại Nam California từ nhiều năm qua.
Đến thăm Danh, vợ Danh nấu cho ăn mấy món thuần quê Nam Bộ: Cá kèo kho tiêu, canh bầu, thịt luộc chấm mắm ớt. Câu chuyện miên man dẫn đến đề tài sinh hoạt văn hóa của miền Nam trước 1975, Danh nói, ba Danh và cả dòng họ đều đi theo kháng chiến. Ba của Danh hồi ấy là xã ủy viên, trưởng ban binh vận xã nên nhà Danh thường là điểm hội họp của cơ quan ba Danh và có khi cũng là điểm họp của xã ủy. “Vì thế mà những câu nói mang tính ‘thời sự’ của mấy chú, mấy bác sớm gieo vào trí nhớ tôi đến mức thuộc lòng. Những buổi tối, tôi hay bày ra một trò chơi, lấy gối chất thành một vòng tròn trên giường giả làm các ‘nhân sự’ trong cuộc họp, và tôi đóng vai người lãnh đạo, phát biểu với các ‘đồng chí’ trong chi bộ.”
Giọng “rặt” Nam Bộ, Danh hồi tưởng nguyên văn lời đã từng phát biểu trong trò chơi thời thơ ấu: "Thưa các đồng chí, vùng nông thôn giải phóng của chúng ta tuy còn nhiều khó khăn, tuy còn phải chịu mất mát đau thương bởi bom đạn của quân thù, nhưng chúng ta không khổ bằng hàng triệu đồng bào ta ở các đô thị miền nam đang chịu đựng sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ, từng ngày, từng giờ họ đang chờ chúng ta về giải phóng . . ."
Tuổi thơ của Danh gắn liền với hình ảnh các “chú Việt Cộng” đêm đêm đem súng về làng. Sau đó, vì chiến tranh ngày càng leo thang, mẹ Danh gởi Danh về quê ngoại để đi học trường tiểu học cộng đồng ở một vùng "tạm chiếm". Danh nói, gọi là vùng tạm chiếm nhưng chỉ cách tỉnh lỵ An Xuyên chưa đến mười cây số. Một vùng ven trù phú và rất bình yên. Thỉnh thoảng có mấy anh mặc đồ đen từ ngoài chợ chạy xe đạp vô dạy đám trẻ cùng tuổi với Danh múa hát, và gọi là đoàn thiếu nhi nông thôn. Sau mỗi buổi sinh hoạt, ông xã trưởng mặc quân phục tới phát cho đám mỗi đứa một ổ bánh mì, ông luôn dặn dò các em phải cố gắng học giỏi, phải biết vâng lời ông bà cha mẹ, phải biết lễ phép với người lớn tuổi, phải biết ôn hòa với bè bạn và em út trong gia đình. Có khi ông đến sớm và cùng vỗ tay và hát với đám Danh:
Em là đoàn thiếu nhi nông thôn
Cùng vui sống bên bờ tre ruộng đồng
Em là đoàn thiếu nhi nông thôn
Biết mến yêu quê mình
Em áo rách nhưng lòng không rách
Em biết yêu cha mẹ khó nhọc
Đổ mồ hôi cho nhà em no ấm
Đổ mồ hôi cho đồng thêm lúa xanh
Danh nói, hàng năm, khi bãi trường thì Danh lại khăn gói về quê, tạm biệt ngôi trường, tạm biệt "vùng tạm chiếm" để về với gia đình ở "vùng giải phóng".
Danh kể “Những chiều êm tiếng súng giao tranh, các anh bộ đội thường ra xóm vui chơi với bà con, tối tối, các anh thường gọi mấy đưa trẻ chúng tôi lại quây quần dạy múa hát:
Qua miền Tân Đức cây là dừa xanh mát
Bóng tre vườn cau đã chứa bao hờn căm
Bộ đội ta về đây giải phóng quê nhà
Quân với dân một lòng
Cùng đồng tâm tiêu diệt hết quân thù

Sau ba tháng hè, ngày tựu trường lại đến, tôi lại trở về ‘vùng tạm chiếm’, lại hát:

Em là đoàn thiếu nhi nông thôn
Em biết yêu cha mẹ khó nhọc . . .

Và cứ thế, tuổi thơ tôi cứ trôi theo dòng chảy của cuộc đời như đám lục bình trôi theo dòng nước, không thể lựa chọn bến bờ.

Thế rồi cái dòng chảy ấy dừng lại thành cái mốc lịch sử 30 Tháng Tư như cái định mệnh cho " triệu người vui và triệu người buồn.”
Danh uống nhiều, và trong vài ba lần gặp nhau, lúc ngà ngà hơi men, có khi Danh còn hát vọng cổ cho tôi nghe. Chất giọng mạnh, sang sảng, Danh hát bài “Ghe Chiếu Cà Mau” hay tuyệt.
Hỏi Danh về kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trong ngày 30 tháng Tư năm 75, Danh nói, lúc hơn 10 giờ trưa, “tôi ôm chiếc radio, mở hết volume chạy trong mưa, chạy dài theo xóm, vừa chạy vừa la: Dương Văn Minh đầu hàng rồi bà con ơi ! Giải phóng rồi bà con ơi! Nhưng rồi sau đó không lâu, bỗng một ngày, mấy đứa bạn học cùng trường cùng lớp với tôi mặt mày biến sắc, có đứa khóc ròng vì một sự cố xảy ra: Đánh tư sản! Đang giàu có bỗng trở thành kẻ trắng tay, đang nhà cao cửa rộng bỗng trở thành kẻ vô gia cư. Đứa thì theo cha mẹ vô sân chùa căng lều che mưa che nắng, đứa về quê tá túc với họ hàng, đứa vượt biên, đứa bỏ thây ngoài biển.
Tôi rùng mình nhớ lại trò chơi tuổi thơ, giả làm lãnh đạo phát biểu hùng hồn với mấy chiếc gối quanh giường: . . . Thưa các đồng chí, vùng nông thôn giải phóng của chúng ta tuy còn nhiều khó khăn, tuy còn phải chịu mất mát đau thương bởi bom đạn của quân thù, nhưng chúng ta không khổ bằng hàng triệu đồng bào ta ở các đô thị miền nam đang chịu đựng sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ, từng ngày, từng giờ họ đang chờ chúng ta về giải phóng . . ."
***
TUẤN KHANH từng tốt nghiệp Nhạc Viện ở Sài Gòn bộ môn flute và sáng tác nhạc từ năm 17 tuổi. Nhiều năm gần đây, anh là Facebooker nổi tiếng với rất nhiều bài viết nêu lên những thảm trạng của đất nước và con người Việt Nam, và vạch trần những dối trá của chế độ. Có lần, nhà báo Huy Đức, tác giả cuốn Bên Thắng Cuộc, nói với tôi, Khanh viết hay đến độ, nhiều người trong giới cầm bút ở Sài Gòn nói với nhau, sáng sáng thức dậy mong đọc bài của Khanh.
Mỗi lần Khanh từ Việt Nam sang Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thường tìm đến nhau để hỏi han tin tức “quê nhà quê người.” Những đêm trò chuyện, nghe Khanh nói, tôi có cảm tưởng lửa đang hừng hực cháy trong lòng Khanh khi Khanh bày tỏ nỗi phẫn uất về những chuyện xảy ra cho người dân trong nước.
Năm nay, dịch Covid 19 đang tàn phá nhiều quốc gia, không thấy Khanh sang chơi. Tôi email về Sài Gòn hỏi Khanh, rằng trong mắt Khanh, sinh hoạt văn học miền Nam ra sao, Khanh email trả lời:
Mùa hè năm 2000, trong một lần trò chuyện với một biên tập viên văn học có tên tuổi từ miền Bắc vào, tôi có nhắc đến việc sắp kỷ niệm 3 năm mất của Bùi Giáng, một thi sĩ lừng danh của miền Nam.
Đó là lần trò chuyện tổn thương đến mức, tôi không sao quên được. Người biên tập viên đầy ắp các tác phẩm văn học cổ điển của Pháp, Đức và Nga đã cười nhẹ, như chừng thương hại tôi ‘Nói thật, Bùi Giáng có gì đâu mà xuất sắc. Chỉ là người miền Nam mấy anh cứ nống lên.’ Tôi sững người, vì chưa bao giờ trong đời đối mặt với một sự phủ nhận tàn khốc đến vậy. Sự phủ nhận cứ như xô tôi – một người miền Nam hoàn toàn trung dung – vào bờ biển như một người bị đắm tàu, trôi dạt và kiệt sức. Để thuyết phục tôi về sự vĩ đại của nền văn học miền Bắc, người biên tập viên ấy kể không ngớt về Nguyễn Khải, Nguyễn Tuân, Xuân Quỳnh, Viễn Phương… tôi im lặng nghe, nhưng trong đầu cứ quay cuồng với suy nghĩ về cái hố sâu thẳm chia rẽ nhận thức của người Việt với người Việt đến vậy. Nhưng tôi quyết định không thuyết phục người đối diện. Bởi, văn hóa hay tri thức, là điều phải tự đến, không phải bằng thắng ở một cuộc tranh cãi.
Gần 10 năm sau, tôi gặp lại người biên tập viên ấy, ở đường sách Sài Gòn đối diện Vương Cung Thánh Đường, nơi các nhà sách đương thời xếp hàng nhau trưng bày các ấn phẩm mới. Nhưng nơi đó, đặc biệt có những quầy sách cũ của miền Nam Việt Nam trước 1975, lúc nào cũng có người cắm cúi tìm, lật, đọc. Người biên tập viên ấy cười, chào và nói anh đang tìm mua một số sách cũ. ‘Ở đây thì đắt nhưng còn chịu được, chứ bọn con buôn vác ra Hà Nội thì đắt gấp mấy lần.’ Trong những chồng sách cũ ấy, có đủ các tác giả được nhà nước cho phép lẫn không vui khi thấy tên. Tôi kéo ra cuốn Hoàng Tử Bé của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch, và nói rằng bao nhiêu năm đọc lại vẫn thú vị. ‘Vâng, Bùi Giáng thì siêu rồi,’ người biên tập viên ấy nói, hào hứng.
Tôi không nhắc lại câu chuyện mà tôi như bị rạch trong tim từ 10 năm trước. Như vậy chắc là đủ. Nhận thức là thời gian, và sự khác biệt của văn học miền Nam là thấm sâu và chiếm trọn trái tim, không cần một sự thuyết phục nào. Văn hóa miền Nam bị giằng xé rách rưới, đứng giữ đống bùn lầy, vẫn mỉm cười kiêu hãnh, bất chấp đạo quân chiến thắng năm 1975 đã trút mọi căm thù lên bằng cách đốt, cấm, bắt cả những người viết sách đi tù.
Tôi được nghe rằng sau năm 1990, có một chỉ đạo từ Hà Nội, rằng những gì mà miền Nam đã có, nguồn lực của chế độ mới có thể thay thế, thì phải ra sức thay, để nhấn chìm văn hóa miền Nam vào quên lãng. Chẳng hạn như sách dịch: cuốn Hoàng Tử Bé, bản gốc Le Petit Prince của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch được thay bằng bản mới là Hoàng Tử Nhỏ. Bố Già, nguyên tác The Godfather của Mario Puzo, bản dịch của Ngọc Thứ Lang, thì được thay bằng bản mới là Ông Trùm. Đỉnh Gió Hú, nguyên bản của Emily Bronté do Nhất Linh chuyển sang Việt ngữ thì thay bằng Đồi Gió Hú…
Rõ ràng, có một chủ trương muốn thay thế và cào bằng đối với văn học miền Nam, nhưng có vẻ như sức sống của một giai đoạn văn chương và tri thức của hai nền Cộng Hòa vẫn đứng vững. Những ấn bản được nhặt lên từ bùn lầy, bị xô giật rách rưới, vẫn tỏa sáng kỳ lạ đến tận hôm nay.
Chuyện kể, để thay sự diễn giải khô cằn. Và thú vị thay, tôi còn nhìn thấy những người bạn trẻ quanh mình, từ phía Bắc, lớn lên và được tắm mát từ những gì đã bị phế bỏ ấy.
***
THÚY HÀ, từng có thời làm thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ của đảng. Sau đó Thúy Hà lấy chồng là con một ông sĩ quan “ngụy” cao cấp, cùng chồng sang Mỹ định cư. Hà viết nhiều, và đã viết một số bài về văn học Miền Nam, đặc biệt là về thơ Cao Tần (Lê Tất Điều). Có lần nói chuyện với Hà về thơ Cao Tần, cả hai chúng tôi đều rất tâm đắc bốn câu trong bài “Mai Mốt Anh Trở Về”:
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Tháng Tư 2020, cả thế giới chao đảo vì con virus Covid-19, không ai ra khỏi nhà, nên chỉ nói chuyện với nhau bằng phone, bằng email. Gọi cho Hà hỏi thăm sinh hoạt gia đình cô ra sao, rồi câu chuyện đẩy đưa đến đề tài văn học Miền Nam trước 1975 đối với lớp trẻ sinh ra và lớn lên sau thời điểm đó.
Hai ngày sau, Thúy Hà gửi cho tôi những giòng sau đây:
Covid chợt bùng lên, Chiều Trên Phá Tam Giang còn dai dẳng...
Trong những tuần qua trên Facebook, tôi thấy một số bạn bè mình ở Sài Gòn, ở Hà Nội... đăng tải những tấm ảnh thành phố vắng người kèm theo lời hát "Chiều Trên Phá Tam Giang" như một sự liên tưởng thú vị và thi vị. "Giờ này thương xá sắp đóng cửa... Giờ này thành phố chợt bùng lên..."
Thật lạ, khi một bài tình ca thời chiến lại in dấu trong tiềm thức những người Việt ở lứa tuổi thậm chí còn chưa hề trải qua chiến tranh, ở cả những người sinh ra và lớn lên bên kia chiến tuyến nơi bài hát xuất xứ- một bài hát từng bị cấm đoán tại Việt Nam sau 1975.
"Thật lạ"- đó là cảm giác của tôi năm 18 tuổi lần đầu nghe bài hát này ở một quán cà phê Thủ Đức khi đang là sinh viên Văn khoa năm thứ hai (cuối thập niên 90). Lời tự sự yêu đương, khắc khoải, xao xuyến ấy tự nhiên đi vào lòng người nghe- một cô gái trẻ, là tôi. Lúc đó tôi không hề biết bài hát phổ thơ Tô Thuỳ Yên- trong giáo trình đại học khoa Ngữ văn không hề có tên ông và bóng dáng nền văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Khoảng trắng về học thuật đó cũng không hề gợi nên thắc mắc nào trong thế hệ sinh viên-cừu non chúng tôi thời bấy giờ.
"Thật lạ" ở cấp độ cao hơn- "sửng sốt"- là cảm giác hơn 20 năm sau đó, khi tôi lần đầu đọc được nguyên bản bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang trên một trang mạng. Bài thơ nằm ngoài sự tưởng tượng của tôi về Chiều Trên Phá Tam Giang mà tôi chỉ biết lâu nay qua ca khúc.
Bài thơ dài 155 câu, đầy đặn, truyền cảm và sống động như một cuộn phim màn ảnh rộng. Thơ của một người từng là trưởng phòng tâm lý chiến quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà lại tự vấn hoang mang thế này ư? Giữa thời điểm 1972 khốc liệt mà người lính ấy lại độc thoại, trăn trở, suy tư về thân phận, về chiến tranh, về sống chết, về tuổi trẻ, về tình yêu và về sự thương xót đến như vậy ư? Nhất là cái tình con người thương xót con người- với kẻ thù bên kia chiến tuyến, khi cả hai đều không thoát khỏi bánh xe lịch sử và cùng phải đối mặt với tử thần.
Điều gây ấn tượng mạnh với tôi về bài thơ ngoài nghệ thuật ngôn từ chính là cái chất Người lộng lẫy ấy. Con Người được bày tỏ tận cùng tâm trạng của mình trước thời cuộc mà không bị trói buộc bởi ý thức hệ, mưu toan chính trị hay chế độ kiểm duyệt nào. Tôi tìm đọc thơ Tô Thùy Yên cũng từ đó, và yêu thích thơ ông cũng từ đó, tuy trễ tràng nhưng vẫn kịp. Sau này tôi biết thêm: Chiều Trên Phá Tam Giang được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của nền thi ca miền Nam giữa cuộc chiến.
Những tuần qua, việc lock down, cách ly xã hội diễn ra gần như trên toàn cầu và nhu cầu bày tỏ tâm trạng của con người trước biến loạn thời cuộc bằng văn chương nghệ thuật lại trỗi dậy. Và không phải ngẫu nhiên những người bạn của tôi những ngày này bỗng nhắc lại bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang của Tô Thùy Yên, và Trần Thiện Thanh phổ thành ca khúc, xem lại những bức tranh về sự khủng hoảng cô đơn của Edward Hopper...
Nghệ thuật đích thực về con người sẽ trường tồn dai dẳng, mà Covid-19 chỉ là cơn dịch có nhiệm vụ nhắc nhớ chúng ta...
***
TỐNG VĂN CÔNG từng có 56 năm là đảng viên Cộng Sản và từng là tổng biên tập báo Lao Động, một trong những cơ quan tuyên truyền “mũi nhọn” của chế độ. Ông bỏ đảng năm 2014 và xuất bản tại Mỹ cuốn hồi ký 'Đến già mới chợt tỉnh - Từ theo cộng đến chống cộng'.
Đến thăm ông vào một chiều cuối Tháng Năm 2016 khi vợ chồng ông vừa từ Việt Nam sang định cư tại căn nhà người con gái ông ở thành phố Stanton-California. Tuổi đã ngoài 80, ông nhìn vẫn khỏe, đôi mắt tinh anh, nước da “như còn bám chút phèn” của vùng quê Bến Tre của ông.
Gặp lần đầu tiên nhưng bản tính xởi lởi Nam Bộ của ông làm tôi không còn rụt rè. “Chú ở lại ăn cơm với anh chị nhé,” ông Công nói “thẳng như ruột ngựa” và coi như đương nhiên tôi nhận lời. Bữa cơm có Thúy Hà, từng một thời là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ của đảng. Chính nhờ Hà và một nhà báo còn ở trong nước nên tôi mới có dịp gặp ông Công.
Ba năm liền, tôi đến thăm ông Công nhiều lần và thường là ở lại ăn cơm với hai ông bà để có nhiều giờ nghe ông nói chuyện. Có lần, cả buổi ăn, ông nói về nhận xét của ông đối với sinh hoạt văn học của miền Nam thời 1954-1975.
Nhấp chút rượu vang đỏ, ông Công từ tốn nói, “trước khi cầm bút, tôi được dạy rằng ‘báo chí là tiếng nói của Đảng’. Do làm đúng như thế, tôi trở thành Tổng biên tập ba tờ báo của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tháng Chín năm 1969, khi ông Hồ qua đời, báo chí miền Bắc đăng lại bài viết của giáo sư Lý Chánh Trung đã đăng trên báo ở Sài Gòn, ca ngợi ông Hồ là một nhà ái quốc. Tôi hết sức kinh ngạc: ‘Ồ lạ nhỉ, báo chí của họ là tiếng nói của ai ? Tại sao họ có thể đăng bài ca ngợi kẻ thù của chế độ?’
Sau này tôi mới được biết ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố : "Ở Việt Nam Cộng Hòa không có báo chí viết tốt cho chính quyền. Báo chí chỉ viết tốt cho các cương lĩnh của cá nhân, của các nhóm chính trị, của các tôn giáo và thuần túy vì mục đích thương mại. Tức là báo chí được tự do nói lên quan điểm của mình đối với mọi sự kiện mà không bị chính quyền ràng buộc.
Hỏi ông, thế lúc bấy giờ, ngoài Bắc thì sao, ông cho biết, ông và những người cầm bút khác được dạy là văn học phải sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa , tác phẩm có giá trị trước hết phải "có tính Đảng sâu sắc". Nhưng theo ông thì các tác phẩm “được đảng đánh giá là xuất sắc sao mà quá tẻ nhạt!”
Ông nghĩ sao về giai đoạn sau Tháng Tư năm 1975, các loại sách của miền Nam bị tiêu hủy khiến nhiều người buộc phải đem sách ra bán trên vỉa hè như bán giấy lộn với giá rẻ như choông nói, “Tôi cũng như nhiều người yêu sách được dịp mua nhiều quyển sách quý : Âm Thanh Và Cuồng Nộ của William Faulkner, Dr. Zhivago của Pasternak, Mùa Hè Sa Mạc của Albert Camus... Đặc biệt là sách của các nhà văn Miền Nam như Thềm Hoang, Người Kéo Màn, Chuyện Bé Phượng của Nhật Tiến, Tiếng Chim Vườn Cũ của Nguyễn Mộng Giác, Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng ... Thơ của Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Du Tử Lê...
Sau này tôi được biết, trong lễ phát giải văn chương toàn quốc năm 1961-1962 , ông Trương Công Cừu, Bộ trưởng Đặc nhiệm Văn hóa và Xã hội của Việt Nam Cộng Hòa đã chúc các nhà văn miền Nam xây đắp xã hội mới ‘một thế giới gấm vóc mỹ lệ, dệt bằng tình bác ái không vụ lợi, bằng đức liêm khiết không xảo trá, và bằng tài trí không tự tôn tự đại.’ Trong một bài viết của Tiến sĩ Lubomir Svoboda, nhà phê bình văn học của Tiệp Khắc thời cộng sản nhận xét tác phẩm Người Kéo Màn của nhà văn Nhật Tiến: ‘Với bút pháp đầy trí lực, và cao hơn, tính nhân văn hay nói một cách chính xác là ông đã viết tác phẩm này bằng một trái tim nhân hậu, biết yêu thương và biết cả căm giận...’
Tôi nghĩ, có thể dùng hai nhận định nói trên để đánh giá chung cho nền văn học của Việt Nam Cộng Hòa.”
***
NGUYỄN THANH BÌNH chào đời tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Bắc, nơi là căn cứ địa của Việt Minh. Gốc gác gia đình Bình là dân Nam Bộ và “tập kết” ra Bắc năm 48. Lúc Hội Nghị Genève đang diễn ra ở Thụy Sĩ, thân sinh của Bình, ông Nguyễn Thanh Hà (tên thật là Nguyễn Thành A), đang ở Genève với cương vị tổng thư ký đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thân mẫu Bình, bà Huỳnh Thị Phi, người Vĩnh Long, sau đó mới ra Bắc, và sau năm 1954, làm nhân viên hành chánh của bộ Ngoại giao.
Hai đứa tôi sinh cùng năm. Chỉ hơn kém nhau 8 tháng.
Hai đứa tôi quen rồi thân nhau đúng là do “duyên nghiệp”, như cách Bình thường nói.
Nhà báo Huy Đức là người giới thiệu hai đứa tôi với nhau.
Năm 2015, tác giả “Bên Thắng Cuộc” đến thăm tôi. Thấy trên bàn tôi có cái tẩu hút thuốc màu trắng, Huy Đức nói, anh cho em đem về biếu một người bạn ở Việt Nam.
Khoảng một tháng sau đó, trên trang Facebook của Họa Sĩ Nguyễn Thanh Bình ở Sài Gòn có đăng hình cái tẩu với giòng chữ: Cám ơn Thái Đinh.
Vỏn vẹn 4 chữ, thế thôi. Sau đó, thản hoặc chúng tôi có liên lạc với nhau thì cũng chỉ là những câu ngắn gọn, nhưng tôi đọc nhiều bài viết của Bình và nghe bằng hữu ở quê nhà nói về chàng họa sĩ nổi danh này, tôi hình dung được Bình, một người đôn hậu, cởi mở, có lòng nhân.
Một buổi tối đầu Tháng Tám 2019, lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau khi tôi đón Bình từ Việt Nam sang Mỹ chơi.
Ba tuần ở với nhau, chúng tôi nói đủ thứ chuyện, chuyện đời, chuyện đất nước, chuyện người, chuyện mình… và nói về sinh hoạt văn học miền Nam. Bình nhận xét: “1954, người ta lấy một dòng sông chia đôi đất nước, một nửa phía Bắc, đứt lìa khỏi dòng chảy của Nam Phong, Tự Lực Văn Đoàn, nửa phía Nam vẫn tiếp nối và song hành cùng văn học thế giới. Những ai quan tâm đến văn học Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng (giai đoạn 1954 - 1975) không thể không biết những tên tuổi như Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Trần Hữu Tá, Võ Hồng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên ... duy trì một nền văn chương chuyên nghiệp. Đó là một nền văn học đúng nghĩa, đúng chức năng đối với xã hội, chỉ nhằm vào đối tượng duy nhất là con người.
Diện mạo văn học miền Nam (1954 - 1975) có nhiều gương mặt nổi bật, tuy nhiên, cũng giống như hội hội họa hay âm nhạc ở miền nam trước 75, nó không tạo ra được sức mạnh có tầm ảnh hưởng sâu đậm như Tự Lực Văn Đoàn và văn nghệ tiền chiến. Những cây bút xuất sắc nhất, tự mình tỏa sáng, tài năng của mỗi người được bảo toàn, hợp thành mảng văn học Việt Nam phong phú, đầy màu sắc, nhưng chưa đủ để soi rọi những ngóc ngách sâu xa của dân tộc đau khổ, oằn mình vì thời cuộc, bởi cuộc nội chiến tương tàn, thảm khốc ấy, có vai trò rất quan trọng trong tiến trình lịch sử của đất nước. Tự Lực Văn Đoàn là sự xuất hiện một văn đàn mang hồn cốt của dân tộc, trong bối cảnh nô lệ, điều ấy, nói ngắn gọn là ‘hồn dân tộc’ không bao giờ mất, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mà điều kiện của nó là sự tự do ngôn luận. Miền Nam trước 1975, quyền tự do ngôn luận được thể chế dân chủ bảo đảm, các nhà văn đã làm hết trách nhiệm của mình, đã đặt những dấu ấn không phai mờ, nhưng uy lực đã không còn rực rỡ như các bậc tiền bối.
Tuy nhiên, lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, sẽ tạc tên những người như Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu và cả Bùi Giáng ... lên tượng đài của mình, như là một phần tất yếu của hồn dân tộc những năm tháng khói lửa, đau thương ...
Và Bình đọc bốn câu thơ của Bùi Giáng để kết cho buổi nói chuyện kéo dài quá nửa đêm giữa hai đứa:
"Em từ vô tận dư vang
Kết chùm cỏ mọc đá vàng thiên thâu
Em đi từ tình mộng đầu
Trùng lai chất vấn biết đâu điệu chào ... "
(Bùi Giáng)
***
NGUYỄN THỊ HẬU là tiến sĩ khảo cổ học, được nhiều người biết tới với tên "Hậu khảo cổ”. Bà có nhiều công trình nghiên cứu về các nền Văn hóa Óc Eo, Đồng Nai, Sa Huỳnh, khảo cổ học đô thị... Bà cũng xuất bản nhiều cuốn sách ở các thể loại như ký, truyện ngắn, tản văn…Một số tác phẩm tiêu biểu của bà: Thế Giới Mạng Và Tôi, Ngắn & Rất Ngắn, Sài Gòn Bao Giờ Cũng Thế…
Nguyễn Thị Hậu sang Mỹ lần gần đây nhất trước khi thế giới bị cuốn vào trận đại dịch Covid-19 là năm 2019.
Gia đình tập kết từ Nam ra Bắc năm 1954, bốn năm sau, Hậu “khảo cổ” chào đời tại Hà Nội. Lớn lên ngoài Bắc và chỉ nhìn thấy miền Nam sau 1975, nên Nguyễn Thị Hậu có giọng nói “thuần Bắc.”
Nhiều lần gặp, ăn uống, trò chuyện, thậm chí còn đi với nhau cả một đoạn đường xa từ Nam lên Bắc Cali, có cả nữ nghệ sĩ trung hồ cầm Hồng Ánh, họa sĩ Nguyễn Thanh Bình và nhà báo Mặc Lâm, nhiều câu chuyện Hậu “khảo cổ” kể đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng về sinh hoạt xã hội miền Bắc. Nhất là những cảm nghĩ của Hậu về văn học miền Nam trước 1975.
“Sau năm 1975, nhiều người lần đầu vào Sài Gòn choáng váng khi nhìn thấy cuộc sống của thành phố này: nhà cửa, xe cộ, quần áo và hàng ngàn loại vật dụng sinh hoạt... mà hầu như gia đình nào ở Sài Gòn cũng có, trong khi đó ở miền Bắc chỉ có thể nhìn thấy vài thứ trên phim ảnh “Liên xô”, thậm chí có thứ chưa từng biết đến như TV, tủ lạnh, đồ dùng trong toilet... Có thể đọc những cảm nhận này qua hồi ký của một số người nổi tiếng mới xuất bản gần đây.
Giữa năm 1975 gia đình tôi – một gia đình miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 – đoàn tụ ở Sài Gòn. Những tháng đầu cả nhà ở tạm trong một căn phòng tại cơ quan của ba tôi (là một biệt thự trên đường Trần Quý Cáp). Trong căn phòng chừng hơn 30m vuông có một tủ sách lớn dựng suốt một bức tường. So với tủ sách đơn sơ của nhà tôi ở Hà Nội được đóng bằng những mảnh gỗ tạp, cũng chứa đầy sách, thì cái tủ sách “vĩ đại” này đã thỏa mãn ước mơ lớn nhất của tôi khi ấy! Tôi bỡ ngỡ và sung sướng làm sao khi trên đó đầy ắp các loại sách truyện, tạp chí... còn phía dưới giá sách là một dàn máy AKAI với một cuốn băng đang nghe dở “Sơn ca 7”. Đây là cơ duyên đầu tiên của tôi với văn học miền Nam và với nhạc Trịnh Công Sơn.
Từ cái tủ sách đó giờ rảnh rỗi tôi chỉ ôm sách đọc ngấu nghiến, đầu tiên là sách văn học. Lâu rồi tôi không nhớ hết tác giả và tác phẩm, nhưng tôi còn nhớ các tác giả Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Hồ Trường An, Bình Nguyên Lộc, Chu Tử, Hoàng Hải Thủy, Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ... Vài tác giả chuyên sáng tác chuyện miền Tây như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, An Khê, Lê Xuyên... Những tác giả của Tự Lực Văn Đoàn mà ngoài Bắc chỉ giới thiệu rất ít... Ngoài ra còn nhiều truyện dịch mà ba tôi rất thích; chị tôi mê mải với Quỳnh Dao còn anh tôi thì nghiền Kim Dung...
Từ năm 1976 vào học đại học Văn Khoa tôi còn được bạn bè giới thiệu và cho mượn sách của các tác giả Mai Thảo, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ... lúc này đã bị cấm lưu hành. Rồi khi nhiều thư viện “thanh lý” sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 ba tôi đã xin được mấy thùng sách về lịch sử của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, các bộ sử thời Nguyễn... Thế giới văn học của tôi trở nên rộng mở và cũng mang đến cho tôi bao điều mới mẻ, cả những nỗi hoài nghi mà tôi phải mất nhiều năm mới giải đáp được.
Lúc đầu tôi không thích lắm vì phần lớn các đầu sách là loại “tiểu thuyết gia đình” với tựa sách gợi cảm và hình bìa nhiều màu sắc, cốt truyện thường đơn giản, xoay quanh những cuộc tình éo le không lối thoát do thân phận, do cuộc chiến, nhiều tình tiết “lâm ly bi đát” giống tuồng tích cải lương khi ấy. Đọc xong không để lại ấn tượng gì ngoài một kết thúc buồn, hiếm khi nào “có hậu”. Phải chăng sự thật về chiến tranh luôn hiện diện trên báo chí truyền thông làm cho xã hội bất an, cuộc chiến ngấp nghé bên ngoài đô thành đã làm cho con người mất niềm tin vào tương lai?
Nhưng rồi, dần dần một thế giới mới đến với tôi, rất khác với các tác phẩm văn học tôi từng đọc ở miền Bắc. Từ cao sang đến nghèo hèn, từ quan chức tướng lĩnh đến công chức, buôn gánh bán bưng, thế giới của các tay anh chị, tướng cướp hay gái điếm... tất cả đều hiện diện trong văn chương, không loại trừ “kiêng cữ” một ai. Trong nhiều tác phẩm không có ai thật tốt hoặc thật xấu, nhưng ở vào thời điểm khó khăn thì họ đều bộc lộ phần nhân văn ẩn sâu bên trong... Vì vậy, dù kết thúc buồn nhưng vẫn mang lại cho người đọc cảm xúc đẹp về tình người.
Các tác phẩm về cuộc chiến thực sự khốc liệt, trần trụi, ác liệt... hầu như không có bóng dáng của những lời tuyên truyền “lý tưởng cao đẹp” như ngoài Bắc mà chỉ thấy trong mỗi người lính đầy ắp nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương, tình đồng đội... Cũng không thiếu vắng cái chết đau đớn của những người lính, nỗi đau giằng xé của vợ góa con côi, nhưng ước mơ một ngày giản dị bên gia đình, bên “người yêu bé nhỏ” khi đã “tàn cơn binh đao”... là hy vọng sống sót cho những người lính trận. Bởi vì, khi cuộc chiến kết thúc thì người lính lại trở về làm dân, nếu may mắn không “xanh cỏ” thì cũng có mấy ai được “đỏ ngực”.
Để lại nhiều ấn tượng với tôi là các tác phẩm của Duyên Anh như : Dzũng Đakao, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Điệu ru nước mắt; của Nhã Ca: Truyện cho những cặp tình nhân, Thành phố buồn, Đêm nghe tiếng đại bác, Giải khăn sô cho Huế. Truyện của Nguyễn Thị Hoàng rất lạ với tôi như: Vòng tay học trò, Tuổi Sài Gòn. Còn Nguyễn Thụy Long hay nhất là Loan mắt nhung. Đặc biệt là Mùa hè đỏ lửa của tác giả Phan Nhật Nam hay bộ ba tập “Đường đi không đến” của nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ... Tôi đặc biệt thích Bình Nguyên Lộc với các công trình biên khảo công phu của ông và những trang tản văn, tùy bút đẹp đến nao lòng...
Tuy nhiên, cái hấp dẫn tôi nhất chính là mỗi tác giả có phong cách riêng, dễ nhận biết qua chủ đề, cốt truyện và ngôn ngữ. Nhà văn Nam bộ hóm hỉnh, giản dị câu chữ, nhà văn miền Bắc sắc sảo, bóng bẩy, nhà văn và cũng là nhà báo thì sinh động, trực diện... Ngôn ngữ vùng miền, phương ngữ được sử dụng phổ biến. Cả một xã hội phân hóa sâu sắc, phong phú, đa dạng và cũng khắc nghiệt, tàn nhẫn như cuộc sống hiện ra, thôi thúc tôi tò mò tìm đọc và luôn ngạc nhiên mỗi khi bước vào “khu rừng” văn học miền Nam khi ấy.
Đặc biệt sách văn học cho tuổi thanh thiếu niên rất nhiều, có lẽ nổi bật nhất là Tủ sách Tuổi Hoa. Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Tôi còn nhớ sách Hoa Đỏ là loại trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình yêu giữa nam nữ một cách trong sáng. Dấu hiệu thân thuộc của tủ sách là bông hoa tám cánh giản dị và xinh xắn.
Cũng phải nói đến những tiệm cho thuê sách và cửa hàng sách cũ luôn là nơi hấp dẫn với tôi chứ không phải là cửa hàng thời trang hay mỹ phẩm. Tôi còn nhớ hoài có bạn học người Sài Gòn khá kỳ thị tôi bởi cái giọng Hà Nội 75 và trang phục giản dị có phần “hổng giống ai”. Một lần không biết có việc gì bạn đến nhà tôi, nhìn thấy tủ sách bạn rất ngạc nhiên vì bên cạnh những cuốn sách tôi mang vào từ Hà Nội là rất nhiều sách xuất bản tại Sài Gòn. “Nhà Việt Cộng mà cũng có sách như nhà ‘Ngụy’ à?!” nhưng từ đó thái độ của bạn với tôi khác hẳn. Đặc biệt bạn bắt đầu đọc và rồi cũng thích nhiều tác phẩm văn học của miền Bắc.
Văn học miền Nam trước 1975 đa dạng và phong phú về tác giả, thể loại, khuynh hướng, trường phái… Đó là nhờ sự khai phóng của môi trường xã hội nói chung và môi trường sáng tác nói riêng, sự cởi mở của giới cầm bút chấp nhận những thử nghiệm, sáng tạo, tinh thần tự do dân chủ của giáo dục – nhất là giáo dục đại học. Những tác phẩm văn học tôi đọc tuy còn ít ỏi nhưng đủ để nhận biết giá trị nhân văn của một nền văn học, qua đó hiểu biết về xã hội và con người miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Điều đó góp phần giúp tôi thoát khỏi định kiến mặc cảm về “bên này – bên kia, thắng – thua, ta – địch” mà nhiều người cùng thời với tôi còn đang mang nặng trong lòng.”

Quyền làm chủ của người dân dưới góc nhìn một lá cờ- Tác giả Đông Phong


Những ngày cuối tháng 4 người dân Việt Nam thường hay bàn luận nhiều đến 2 thể chế Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong cuộc nội chiến kéo dài mấy mươi năm. Trong những câu chuyện luận bàn ấy luôn hiện hữu vấn đề màu cờ, tuy chiến tranh đã chấm dứt nhưng quan điểm về màu cờ đại diện cho 2 thể chế ấy đến nay vẫn chưa bao giờ lặng sóng.

Tôi nhớ có một lần tôi và một anh bạn tranh luận về vấn đề lá cờ nào mới thật sự đại diện cho Việt Nam. Theo bạn ấy Hoàng Kỳ (lá cờ nền vàng ba sọc đỏ) mới xứng đáng làm đại diện cho quốc gia, dân tộc.

Khi ấy tôi đã thử đặt ra một giả thuyết, nếu sau này Việt Nam có tự do dân chủ thật sự, nhưng lúc đó sau khi trưng cầu dân ý thì 51% dân chúng (hoặc thậm chí nhiều hơn) vẫn chọn Hồng Kỳ (lá cờ nền đỏ sao vàng) thì sao?

Bạn ấy đã không do dự và trả lời tôi rằng bạn và 49% còn lại sẽ tiếp tục đấu tranh cho Hoàng Kỳ, bạn ấy cũng không ngại phán rằng 51% người dân kia đầu óc đều có vấn đề và cần phải khai dân trí cho họ.


Chuyện tưởng chừng đơn giản

Những lời của bạn ấy đã khiến tôi phải giật mình, tôi không thể hiểu sao bạn ấy lại có suy nghĩ như vậy, vì câu chuyện màu cờ tưởng chừng như đơn giản ấy lại làm rất ít người có thể hiểu đúng với bản chất dân chủ vốn dĩ của nó.

Bởi lẽ khi người dân đã có quyền làm chủ thật sự thì hãy để họ dùng lá phiếu tự quyết định những vấn đề của quốc gia theo tâm tư và nguyện vọng của họ. Sao lại có thể bảo họ có vấn đề và cần khai dân trí khi họ đã tự chọn lá cờ cho mình nhưng chỉ vì trái với ý chí của bạn kia?

Bạn ấy có thể cùng 49% người dân còn lại tiếp tục tranh đấu cho Hoàng Kỳ, vì đó là quyền và khát vọng của bạn, tôi rất luôn tôn trọng. Nhưng không vì điều đó mà bảo 51% người dân kia là đầu óc có vấn đề, khi giả thuyết mà tôi đã đặt ra trong bối cảnh như vậy.

Lá cờ cũng chỉ là một vật thể vật chất, mang tính hình thức bên ngoài, được chọn để làm đại diện cho một quốc gia, dân tộc vào một thời kỳ nào đó. Nó không thể mang tính quyết định hoàn toàn cho việc quốc gia đó thuộc thể chế gì, độc tài hay dân chủ, phong kiến hay tư bản.

Nếu Việt Nam thật sự có được tự do, dân chủ, thì lá cờ màu gì do chính người dân tự chọn lựa theo tôi đã không còn là quan trọng nữa rồi.


Màu cờ theo dòng người xuống đường

Có thể nhìn lại những dòng sự kiện đã diễn ra tại Việt Nam trong gần mười năm qua để cảm nhận phần nào về tâm tư và tình cảm của một số lượng rất lớn người dân dành cho lá cờ nền đỏ sao vàng.

Vào năm 2011, khi tàu Bình Minh 2 của Việt Nam bị các tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò, khoảng hơn 200 người bất bình đã xuống đường phản đối trước hành động ngang ngược, bá quyền của Trung Quốc. Khi ấy rất nhiều người mặc áo đỏ, một số người trên tay còn cầm lá cờ nền đỏ sao vàng để tuần hành.

Mấy năm sau, hình ảnh chiếc áo và lá cờ đỏ ấy đã thưa dần trong các sự kiện xuống đường của người dân như: Phản đối vụ hạ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vào năm 2014; Phản đối việc Chủ tịch của Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam và Phong trào bảo vệ cây xanh tại Hà Nội và Sài Gòn cùng năm 2015.

Đến năm 2016, khi những dòng người khổng lồ xuống đường tại Hà Nội và Sài Gòn, để phản đối Formosa đầu độc biển (sự kiện cá chết), thì người ta đã không còn trông thấy bóng dáng của những chiếc áo đỏ hay lá cờ đỏ ấy đâu nữa.
Cũng như hai năm sau đó, trong dòng người bất bình tiếp tục xuống đường kia, để yêu cầu nhà cầm quyền chấm dứt Luật đặc khu, với quy mô từ Bắc đến Nam chưa từng có tiền lệ, thì hình ảnh lá cờ đỏ ấy đã trở nên mất hút - tâm tư của người dân trong sự kiện hôm ấy đã định.

Nhưng không vì vậy mà có thể quơ đũa cả nắm rằng người Việt Nam hiện nay đã chán chường, không muốn nhìn nhận lá cờ đỏ nền vàng kia là quốc kỳ, bởi các con số trong những sự kiện ấy chưa thể nói lên hết tâm tư, nguyện vọng của hơn 90 triệu dân Việt Nam được.


Quyết định thuộc về số đông

Tuy cái khát khao về một Việt Nam được dân chủ, hùng cường, cái mong muốn bài trừ tham nhũng, bạo quyền, xóa bỏ bất công, xã hội được thay đổi tốt đẹp vẫn luôn cháy bỏng trong lòng mỗi người đang tranh đấu.

Song, sự khập khiễng của đa số họ hiện nay là quên rằng quyền làm chủ của người dân mới thật sự là cái cốt lõi mà họ phải hướng đến, đấu tranh là để trả quyền làm chủ về cho người dân. Chứ không phải đấu tranh để lật đổ hay tiêu diệt ai, để có cơ chế chính trị gì, đưa ai lên làm lãnh đạo hay cho lá cờ màu gì.

Đấu tranh mà cuối cùng người dân phải tuân theo ý chí của một ai đó trong việc lựa chọn mọi thứ, nếu không thì những người dân đó đều có vấn đề, cần được uốn nắn lại. Như vậy thì khác nào độc tài?

Tôi là tôi, hôm nay tôi mặc áo đỏ, ngày mai tôi mặc áo vàng thì cũng là tôi, hoặc hôm nay mẹ tôi gọi tôi tên Tèo, ngày mai bạn tôi gọi tên Tí thì cũng chỉ chính tôi.

Chúng ta quan trọng chi cái hình thức bên ngoài để rồi hục hặc, tranh cãi mãi "Màu cờ gì, tên gọi gì?". Mà quên đi việc cốt yếu là làm thế nào quyền làm chủ về tay người dân, để họ tự quyết mọi vấn đề của quốc gia, và ta cũng chỉ là một trong hơn 90 triệu lá phiếu ấy để quyết định điều đó cùng với họ.

Chỉ mới từ góc nhìn của màu một lá cờ mà đã có quá nhiều tranh cãi, chụp mũ và thậm chí bài xích nhau khi ai đó khác với cái mong muốn của mình.

Đó tưởng chừng là một vấn đề nhỏ nhưng nó lại là căn nguyên lớn để hiểu về quyền làm chủ đất nước của người dân, một khi chúng ta chưa thể thấu đáo thì ắc luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn.

Bởi từng màu cờ ấy đã được chạm khắc sâu vào cảm xúc của nhiều người, thế hệ đi trước, thế hệ đi sau, những người đàng trong, những người đàng ngoài, trong nước và cả hải ngoại.

Nếu cứ tiếp tục như thế thì đến bao giờ người Việt mới có thể nắm chặt tay lại với nhau, bước đi trên một con đường để đưa đất nước thoát cảnh bể dâu? Đến khi nào con cháu ta mới được thấy một ngày mai sáng trời tự do, khi mà hôm nay thế hệ ông, bà, cha, mẹ của chúng cứ mãi loay hoay tranh cãi nhau trong cái mâu thuẫn truyền kiếp ấy - câu chuyện màu cờ gì sẽ đại diện cho quốc gia.

Người Việt trẻ hải ngoại và hành trình tìm bản sắc- Tác giả Lê Viết Thọ


Ba nhân vật trong bài là những người sinh sau năm 1975, thuộc thế hệ thứ hai hay một rưỡi của những người tị nạn Việt Nam.
Họ trải lòng với BBC News Tiếng Việt về sự kiện 30/4/1975 đã tác động như thế nào đến gia đình họ và hành trình tìm kiếm bản sắc của họ giữa những va chạm của hai nền văn hóa, sự đứt gãy và con đường mà họ đang đi ngõ hầu hàn gắn những đứt gãy ấy với sợi dây nguồn cội.

Một đoạn sử buồn

Adrienne Minh-Châu Lê hiện là nghiên cứu sinh khoa Lịch sử, Đại học Columbia, Hoa Kỳ, vừa nhận học bổng Paul & Daisy Soros cho những người Mỹ mới (The Paul & Daisy Soros Fellowships for New Americans). Adrienne tốt nghiệp cử nhân lịch sử tại Đại học Yale và từng có bốn năm tham gia tư vấn chiến lược và vận động kỹ thuật số ở New York.
Với Adrienne, sự kiện 30/4/1975 đã thay đổi hoàn toàn gia đình cô và ảnh hưởng đến cô - với tư cách là thế hệ thứ hai của những người Việt Nam tị nạn tại Mỹ.
"30/4 là ngày Sài Gòn thất thủ, sự kiện mà nhiều người Việt Nam trên thế giới vẫn gọi là "ngày mất nước". Sự kiện này đã thay đổi hoàn toàn gia đình tôi, khiến mọi thứ gần như đảo lộn. Sau sự kiện đó, ông tôi và các chú trong gia đình tôi bị đưa đi cải tạo. Cuộc sống của cả nhà, như những gì tôi được ba mẹ kể lại, trở nên vô cùng khó khăn, đến nỗi gia đình tôi không còn con đường chọn lựa nào khác ngoài việc phải trốn chạy khỏi Việt Nam".
Vài năm trước, Adrienne đã viết về những gì mà mẹ của cô đã trải qua trên hành trình trốn chạy của một thuyền nhân. Bài viết xuất hiện trên trang OnBying.org vào đúng ngày 30/4. Viết bài báo đó, cô có dịp hiểu sâu hơn về một thời đoạn trong lịch sử gia đình, "đó là lần đầu tiên tôi ghi chép và tôn vinh lịch sử gia đình tôi," Adrienne nói với BBC News Tiếng Việt.
Còn Georgina Quach - một nhà báo người Anh gốc Việt, năm nay 22 tuổi - thì nói rằng, cô không thấy sự liên hệ giữa cá nhân cô với ngày 30/4/1975, dẫu cô có thể thấu hiểu những khó khăn của các thành viên gia đình của cô sau sự kiện đó "từ một độ gián cách".
Trong một bài viết trên tạp chí văn chương Anh TLS, Georgina viện dẫn một thành ngữ mà ông bà cô vẫn nói, "Dò đá qua sông" liên hệ đến hành trình của những người tị nạn từ lúc bỏ nước ra đi dến khi tạo dựng môi trường thuận lợi để thế hệ tiếp nối gặt hái thành công trên quê mới. Nhưng, mỗi khi thế hệ sau tiến xa hơn một chút so với thế hệ đi trước trong sự hội nhập trên đất mới, họ lại rời thêm chút nữa khỏi một chốn quê hương - nơi mà với họ, từng là nhà.
"Ba mẹ tôi đến đây mà không có gì trong tay cả, nhưng giờ đã tạo lập một môi trường để nuôi dạy chúng tôi trưởng thành. Tất nhiên, với thế hệ thứ hai như chúng tôi, đạt được điều đó cũng không dễ chút nào. Chúng tôi bị kéo theo hai hướng. Một mặt, chúng tôi muốn hội nhập vào cộng đồng sở tại, nhưng đồng thời, chúng tôi nhận ra rằng, phải trả giá cho điều này.
Georgina lý giải cụ thể hơn:
"Khi ông bà tôi quyết định rời bỏ khỏi quê hương, họ mong mỏi kiếm tìm một cuộc sống tốt hơn cho các thế hệ tương lai. Tuy nhiên, để ưu tiên cho sự thành công của con cháu họ, họ buộc phải từ bỏ cơ hội của chính mình.''
"Nhưng thế hệ thứ hai đang ngày càng trở nên xa cách với nguồn cội và đặc thù văn hóa Việt. Và dẫu chúng ta hiếm khi nghe về hệ luỵ phụ của việc hội nhập vào một nền văn hóa mới, nhưng theo thời gian, cuộc hành trình dấn bước vào tương lai vô định và bất trắc của gia đình tôi năm 1979, vẫn là một sự biến sẽ tạo ra một khoảng cách biệt khó xóa nhòa giữa các thế hệ, Georgina nói với BBC News Tiếng Việt qua phỏng vấn bằng email.
Tiến sĩ Alex Thái sinh ra ở Quảng Ngãi, cùng gia đình sang định cư tại California, Hoa Kỳ, vào năm 1990 và hiện là nghiên cứu viên hậu tiến sĩ (Postdoctoral Fellow) tại Đại học Oregon, Hoa Kỳ. Anh tâm sự rằng, anh theo đuổi môn lịch sử về chiến tranh Việt Nam là vì trách nhiệm và đam mê.
Alex Thái thố lộ với BBC News Tiếng Việt qua email:
"Trách nhiệm xuất phát từ những kinh nghiệm cá nhân, tuy nhỏ bé nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và lựa chọn của mình.
"Trong đời tôi có bốn sự việc ảnh hưởng quyết định này.
"Một là là vào năm tôi khoảng 6-7 tuổi, bị người trong xóm gọi là "con Nguỵ", tôi không hiểu vì sao mình bị gọi vậy. Khi tôi về hỏi ba, ba bảo đừng nhắc đến hai từ đó. Nhưng cũng từ đó, hai từ "con Ngụy" với tôi đã như một ám ảnh.
"Hai là khi chứng kiến cảnh người anh đau buồn đến vô vọng vì không được vào đại học dù điểm thi cao hơn điểm chuẩn, chỉ vì lý lịch gia đình.
"Ba là khi học lớp 7 ở Mỹ, tôi bị một cậu bạn hỏi: "Gia đình mày là từ phía nào?" Tôi trả lời: "Miền Nam". Ngay lập tức cậu ấy la lên: "A! Vậy gia đình mày thua là xứng đáng".
"Lần thứ tư, ở Đại học Berkeley, khi bị một giáo sư cho điểm "F-" cho một bài luận về chiến tranh Viết Nam, trong đó tôi có góp ý với giáo sư về những thành kiến và thiên lệch ông trong cách ông giảng dạy và đưa ra chứng cứ về chiến tranh Việt Nam. Ông trả lời rằng, nguyên do tôi có những góp ý vậy là vì tôi không thoát được những cay đắng, xuất phát từ việc gia đình tôi thuộc bên thua cuộc".
"Bốn sự kiện ấy làm tôi nghĩ về lịch sử, về bản thân và về những gì mình có thể làm để hiểu rõ hơn về lịch sử, nhất là lịch sử cuộc chiến Việt Nam và những ảnh hưởng của nó, mà không bị ảnh hưởng bởi những định kiến thiên lệch.
'Có nghĩa là, dù bị ảnh hưởng bởi những sự việc trên, nhưng tôi không ghét, không thù hận, không trách móc ai. Cái tôi quan tâm là việc tìm tòi, nghiên cứu, và lưu truyền lại những câu chuyện lịch sử và xem đó như một trách nhiệm của mình.
'Trách nhiệm đó dần trở thành đam mê", Alex Thái nói.

Giữa hai nền văn hóa

Với thế hệ thứ hai, truyền thống gia đình của một người tị nạn vừa là một di sản, nhưng cũng để lại không ít những áp lực, mà bản thân họ luôn phải tìm cách vượt qua và khám phá bản sắc di sản của minh.
Như Georgina tâm sự: "Lớn lên trong một khu phố gồm toàn người da trắng, tôi luôn cảm thấy áp lực phải cố gắng và hòa nhập với những bạn đồng trang lứa. Tôi nhận ra sự khác biệt của mình ngay cả từ những bữa trưa tôi mang đến trường, ngôn ngữ mà tôi nghe được ở nhà, văn hóa làm việc chăm chỉ của các thành viên trong gia đình và dĩ nhiên, cách nhìn của tôi cũng khác so với chúng bạn".
Georgina kể rằng ngày nhỏ, mỗi sáng Chủ nhật, cô vẫn theo học tiếng quan thoại ở trường dạy tiếng Trung. Khi ấy, cô có cảm giác như thể trong cô có hai thế giới đang va đập vào nhau. Một mặt, cô không thấy mình thuộc môi trường của ngôi tiếng Anh, nhưng cô cũng không thực sự cảm thấy mình thuộc về ngôi trường Trung Quốc.
Cứ vậy, Georgina lớn lên với những cảm xúc của sự phân đôi như vậy. Cô đã phải chịu đựng những nhận xét phân biệt chủng tộc trên đường đến trường tiếng Anh, điều mà cô cho hay rằng, mãi dến gần đây, cô vẫn gặp phải. "Và điều này vẫn thường khiến tôi cảm thấy khó chịu về nguồn gốc chủng tộc của mình", cô nói.
Georgina tin rằng, điều này một phần là do cô lớn lên mà không biết nhiều về nguồn cội của mình, và bản thân cô cũng chưa biết đặt ra những câu hỏi phù hợp để khám phá di sản ấy.
"Tôi không biết nhiều hành trình của cha mẹ tôi. Sau khi theo học Đại học Oxford, nơi tôi học đại học về Văn học Anh, tôi bắt đầu cảm thấy sự khác biệt. Oxford là một môi trường mà những sinh viên da trắng chiếm đa số, hầu hết họ thuộc tầng lớp trung lưu, đến từ các trường tư.
"Tôi không bao giờ cảm thấy có sự khác biệt nhiều đến như vậy. Nhưng điều đó càng khiến tôi cảm thấy cấp bách hơn nhu cầu tiếp cận với di sản Việt của mình, cần phải trân trọng những gì khiến tôi trở nên riêng biệt. Tôi bắt đầu khám phá phần di sản của riêng mình. Tôi đặt những câu hỏi về gia đình mình, tôi bắt đầu viết về câu chuyện của gia đình tôi, nền văn hóa mà tôi thuộc về. Dẫu vậy, nhìn chung, tôi coi mình là người rất Tây, ngay cả bây giờ - tôi không nói tiếng Việt ở nhà rất nhiều", Georgina tâm sự.
Với Adrienne, học và nghiên cứu lịch sử lại là con đường để cô khám phá ra lịch sử và bản sắc của mình.
Adrienne kể, ngay từ những năm đầu học tiểu học, cô đã nhận thấy mình khác với các bạn cùng lứa. Ở tuổi đó, cô chỉ mong được hòa nhập cũng những bạn bè người Mỹ khác. Nhưng khi lớn lên, cô học và hiểu thêm về di sản và văn hóa Việt Nam, nhưng thông qua một nhịp cầu đặc biệt - Phật giáo.
Adrienne cho hay, ở quê cô - Raleigh, North Carolina - có một ngôi chùa Việt Nam mà mỗi Chủ nhật, gia đình cô vẫn hay lên chùa. Còn cô, ngay năm 7 hay 8 tuổi gì dó, đã tham gia Gia đình Phật tử.
Và những ngày hè của Adrienne gắn với những mái chùa mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh tạo lập nên ở Mỹ và Pháp. Dưới mái chùa, cô học thiền và thực hành chánh niệm. Bản thân cô đã thọ giới theo dòng Tiếp hiện.
"Chính Phật giáo đã giúp tôi kết nối với gốc rễ và hiểu được một điều rằng, cuộc sống của tôi không chỉ được hoài sinh từ chiến tranh và áp bức, mà còn bằng sự màu nhiệm của sự sống sót và khởi đầu mới", Adrienne nói.

Tị nạn - di sản hay gánh nặng?

Georgina nói rằng, di sản là người tị nạn đã định hình toàn bộ cuộc đời cô.
Là những người tị nạn, gia đình cô đã làm việc rất chăm chỉ để xây dựng một cuộc sống mới, tốt hơn cho hai anh em cô.
Điều đó đã dạy cho cô bài học về sự kiên cường và ý chí.
Và nay, bên cạnh viết báo, cô đang thâu nhặt những câu chuyện về người Việt tị nạn, những người mà số phận từng cá nhân khuất lấp đi sau một định danh chung chung - 'thuyền nhân':
"Không có câu chuyện điển hình nào của người nhập cư hay người tị nạn có thể bao hàm được tất cả các lý do vì sao mọi người phải trốn chạy khỏi quê hương mình hay tất cả những gì họ đã gặp phải và trải qua trên vùng đất định cư mới".
Georgina nói rằng, từ đó, cô nhận ra tầm quan trọng của việc kể lại những câu chuyện của chúng tôi, vì sợ phần lịch sử này trở nên lạc lõng hoặc bị xuyên tạc. Và cô đã khởi sự việc ghi lại những câu chuyện về người Việt tị nạn.
"Tôi nhận được nhiều tin nhắn từ những người Việt Nam sống ở khắp nơi trên thế giới, muốn kết nối với công việc của tôi. Điều này khiến công việc của tôi - một nhà báo - trở nên hữu ích hơn rất nhiều. Mọi người nói với tôi rằng tôi đang cho người phương Tây biết sự thật về người Việt Nam", Georgina nói với BBC News Tiếng Việt qua phỏng vấn bằng email.
Với Adrienne, di sản của chiến tranh Việt Nam và những người tị nạn là rất quan trọng đối với cuộc sống và quyết định việc nghiên cứu của cô.
Ở Đại học Yale, luận văn của Adrienne nghiên cứu về cách những người phụ nữ Việt Nam định hình và phản ứng lại trước những tư tưởng mới về nữ tính, đạo đức và tinh thần yêu nước trong thời kỳ thực dân Pháp.
Tại Đại học Columbia, luận án Tiến sĩ của Adrienne tập trung vào xã hội dân sự trong chiến tranh Việt Nam, các phong trào chống thực dân và di cư toàn cầu.
Adrienne lý giải thêm về về sự lựa chọn của cô:
"Có rất nhiều điều chúng ta chưa biết về xã hội Việt Nam trong chiến tranh. Hầu hết các nhà sử học về chiến tranh Việt Nam đã viết về các khía cạnh quân sự và chính trị của cuộc chiến. Trong khi đó, trải nghiệm của những người bình dân hàng ngày đã và đang bị đánh giá thấp và bị hiểu lầm. Trong khi với tôi, một phần quan trọng của sử học là trả lời câu hỏi: Người dân thường sống như thế nào, họ tin vào điều gì và họ muốn gì cho đất nước của họ? Tôi muốn những người bình dân Việt Nam cũng có cơ hội kể về lịch sử của chính họ".
Adrienne nói thêm:
"Ba mẹ tôi đến Mỹ từ Việt Nam và phải tập trung làm việc chăm chỉ để bắt đầu một cuộc sống mới tại đây. Sự hy sinh của họ khi rời khỏi Việt Nam và xây dựng một cuộc sống mới ở Mỹ cho phép tôi lớn lên và thoải mái theo đuổi ước mơ của mình. Thông qua nghiên cứu và viết, tôi hy vọng sẽ góp phần bắc một nhịp cầu, để các thế hệ người Việt trẻ trên thế giới có thể hiểu thêm về lịch sử của mình, kết nối lại với nhau bằng sự sẻ chia từ chính những nỗi đau và vẻ đẹp của nó, và hiểu, họ là ai, và họ đến từ đâu".
Alex Thái đang tham gia dự án Di sản Việt Nam Cộng hòa và lịch sử người Mỹ gốc Việt, thực hiện với sự hợp tác giữa Viện Nghiên cứu toàn cầu, Đại học Oregon và Hội Bảo tồn lịch sử văn hóa người Mỹ gốc Việt.
Là một người Mỹ gốc Việt, ưu tư về lịch sử và con người, nên anh nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc viết và lưu truyền lịch sử về Việt Nam Cộng hòa và về người Mỹ gốc Việt.
"Những trang sử về hai chủ đề ấy hiện đang rất trống, mà những người đã từng sống qua những giai đoạn lịch sử ấy đã dần qua đời hoặc cũng rất lớn tuổi. Tôi hợp tác vì muốn tận dụng cơ hội này và thời gian tới để duy trì lại lịch sử Việt Nam Cộng hòa cũng như lịch sử người Mỹ gốc Việt", Alex Thái nói.
Dự án mà Alex Thái tham gia đặt mục tiêu đào tạo và khuyến khích thế hệ sử gia trẻ học, nghiên cứu và viết về Việt Nam Cộng hòa và lịch sử người Mỹ gốc Việt.
Nhưng để thu hút những người trẻ quan tâm đến việc này hẳn không đơn giản. Nhưng không hẳn bởi lý do là người trẻ ít quan tâm đến lịch sử.
Theo Alex Thái, công bằng mà nói, anh không tin giới trẻ ít quan tâm và thờ ơ với lịch sử, mà đúng hơn, có lẽ là do họ mất lòng tin với lịch sử, cụ thể là mất lòng tin với giới trí thức làm sử và những bài học trong giảng đường, cũng như những sản phẩm sử học được xuất bản hàng loạt mà họ biết là một chiều, áp đặt, thiếu tính khách quan và sự trung thực".
Alex Thái phân tích:
"Không phải ai cũng cần phải trở thành sử gia hay người viết lịch sử, nhưng điều đáng cần ở mọi người là việc quan tâm đến sử và sự cố gắng, góp tay với nhau để duy trì lịch sử. Trách nhiệm này là tất cả chúng ta. Người đi trước và những người làm sử cần tự hỏi, là liệu họ đã làm những gì để tạo cơ hội, động lực và lòng tin khiến giới trẻ quan tâm hay không? Ngược lại, người trẻ cũng cần phải hỏi mình hiểu biết gì về chính mình, về cha mẹ, ông bà mình, cũng như về đất nước, con người và những diễn biến lịch sử đã đưa đẩy ta đến cái hiện tại mà ta đang có - ở hải ngoại và cả ở Việt Nam".
Anh dẫn chứng: "Trong năm, mười năm trở lại đây, cụ thể hơn, nếu nhìn danh sách hơn 30 diễn gỉa có bài tham luận tại hội thảo vừa qua về Việt Nam Cộng hòa ở Đại học Oregon, chúng ta có thể thấy hơn một nửa là những bạn trẻ, đa số sinh ra hoặc lớn lên ở Hoa Kỳ, có bạn mới trên hai mươi tuổi; ngoài ra có nhiều bạn trẻ từ Việt Nam, Úc.
"Đọc những bài tham luận của họ có thể thấy năng lực, sự sáng tạo và tính đa dạng trong các chủ đề nghiên cứu. Họ là những người trẻ, nhưng họ quan tâm đến Trần Trọng Kim, đến những vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá, nghệ thuật.
"Chẳng hạn, một bạn trẻ vừa nhận bằng cử nhân, đã bỏ tiền riêng để mưa vế máy bay từ Los Angeles lên Eugene, thuê khách sạn để dự hội thảo với mong muốn học hỏi và theo con đường nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Còn trẻ nhưng bạn ấy quân tâm, lắng nghe và đặt ra nhiều câu hỏi nhiều vấn đề rất thú vị và quan trọng.
"Hay một người trẻ khác lại có những nổ lực đáng kể nhằm duy trì lịch sử và tiếng nói người Việt. Sinh năm 1987 ở Hà Nội nhưng cô lại nghiên cứu về cuộc sống người dân miền Nam trong thời chiến, một chủ đề ít người để ý nhưng không thiếu tầm quan trọng để có thể hiểu thêm về lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử cuộc chiến...
"Thấy được sự đam mê của những người trẻ ấy là một niềm vui vộ tận"- nhà nghiên cứu lịch sử trẻ tuổi này nói.
Còn với chúng ta, thấy được sự quan tâm đến gốc rễ và những băn khoăn về nguồn côi và bản sắc của những người trẻ gốc Việt, cũng lại là một niềm vui.