khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2019

Hàng Tàu Cộng Và Chính Sách Việt Cộng - Tác giả Mai quốc Ân



Hôm qua, một dự án sản xuất phải tạm dừng toàn bộ. Toàn bộ hội đồng quản trị và giám đốc họp khẩn vì một khái niệm: Thế nào là hàng Việt. Người yêu cầu tổ chức cuộc họp khẩn ấy nói “vì không muốn thành con tin của An ninh kinh tế, Hải quan, Quản lý thị trường và Thuế”.

Chính tôi cũng đi tìm hiểu khái niệm ấy bởi không ít lần nghe những nỗi lo về việc doanh nghiệp rất sợ bị tấn công theo nhiều nghĩa vì làm ăn với Trung Quốc. Câu chuyện biểu tình (có đập phá) ở Đồng Nai, Bình Dương 2014 không đơn giản chỉ là chuyện giàn khoan HD981 kéo vào biển Đông…

Giờ mà kiểm tra toàn bộ các doanh nghiệp nhập hàng Trung Quốc về lắp ráp như Asanzo thì dân chúng há hốc mồm luôn. Nhưng có lẽ những ai “bật đèn xanh” để đưa quy trình của Asanzo ra ánh sáng cũng đã tính đến việc làm lộ nhanh chuỗi hàng Trung Quốc lốt Việt với các Shark Tank tiếp theo nhanh đến vậy. Cả những doanh nghiệp “vỏ Việt, ruột Tàu” khác vốn kiệm lời xưa nay cũng được cư dân mạng nhắc đến rồi.
 
Việt Nam là sân sau, là bãi rác của Trung Quốc ư?
 
Câu hỏi này Chính phủ nên nghiêm túc đánh giá lại vì “cảm xúc thâm căn” của người Việt với các vấn đề liên quan đến Trung Quốc không hề đơn giản. Cuộc biểu tình 2014 là một lời cảnh báo lớn rồi. Tiếp đó là cuộc biểu tình tháng 6/2018 với vấn đề đặc khu cũng có liên quan Trung Quốc.
 
Nhìn nhận thêm các vấn đề khác lớn hơn như nền sản xuất quá yếu, sự phụ thuộc vào công nghệ và hàng hoá Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, cả các yếu tố gây ô nhiễm môi trường từ công nghệ và hàng hoá Trung Quốc; sẽ thấy doanh nghiệp hoang mang ra sao và người tiêu dùng-người dân lo lắng thế nào.
 
Trách nhiệm chính sách thuộc về Nhà nước và cụ thể nhất là hành lang pháp lý. Hôm qua xem một loạt khái niệm liên quan đến hàng Việt thấy quá mơ hồ. Đến nỗi một nông dân kinh doanh ở Đồng Tháp còn ngao ngán: “Ấn coi về các yếu tố trong chỉ dẫn địa lý nè, mấy ông nhà nước lấy chỉ số khoa học và đặc tính thì ít mà cơ sở toàn tính từ thì nhiều…”
 
Tôi không chắc lắm về việc những chính trị gia trong “tam trụ” hiện nay và các Bộ trưởng đương nhiệm có biết việc xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn những sản phẩm thuần Việt khi lấy ý kiến lại bỏ qua những hộ gia đình có lịch sử sản xuất tính bằng trăm năm hay không? Họ bị cán bộ địa phương bắt “nhượng địa” cho những sản phẩm chỉ ra đời hơn chục năm hoặc vài năm gần đây. Thậm chí na ná sản phẩm truyền thống cũng được ngồi “mâm trên”. Nước chấm công nghiệp được gọi là nước mắm cũng theo cách đó.
 
Người dân chưa nhìn thấy “cú hích” của CPTPP và sắp tới là EVFTA (tôi đoán là nhiều người còn mơ hồ về hai Hiệp định này). Nhưng ngay cả những “sân sau” xưa nay quen dựa dẫm, dẫu nắm được thông tin chính sách và “đi trước đón đầu”, cũng sẽ khó khăn triển khai bởi mâu thuẫn cũ và mới của tư duy lẫn dòng tiền. Người Việt luôn thích hình ảnh hơn khái niệm, chọn cảm tính hơn lý tính mà…
 
Đã có người nhìn Asanzo và chỉ đúng vấn đề của họ: khủng hoảng pháp lý. Nhưng nhìn cả quốc gia thì đó không chỉ là khủng hoảng trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
 
Tôi cho rằng chính phủ cũng nhận thấy điều đó nên các điều khoản nhân quyền lẫn kinh tế đã có sự nhượng bộ để đạt thoả thuận ký kết EVFTA vào cuối tháng 6/2019. Nhưng cải cách sâu, rộng từ chính bộ máy hiện nay với quan hệ chằng chịt của rất nhiều “gia tộc” mới nổi từ sau 1975 và mối quan hệ đầy mâu thuẫn với Trung Quốc mới quan trọng.
 
Rất nhiều nỗi lo nhưng tôi lại thấy có ánh sáng hy vọng từ… Châu Âu. Nếu 30/6/2019 ký xong EVFTA thì thị trường khó tính nhất thế giới (bao gồm khó tính với đối tác cả về mặt nhân quyền) sẽ gò “khuôn phép” chính sách của Việt Nam theo hướng có lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.
 
Nhìn xa hơn là một lời cảnh báo dịu dàng nhưng cũng vô cùng dứt khoát: “Chơi” với EU, Nhật, Mỹ, Úc, Ấn nhiều bao nhiêu thì phải bớt lại “16 chữ vàng”, “bốn tốt” bấy nhiêu.
 
Xin chú ý, bài viết này không bài Trung Quốc cực đoan. Xu hướng hàng Trung Quốc chất lượng cao vẫn được các nước nói trên chấp nhận. Nhưng “hàng Tàu chợ” sẽ bị bóp chết không thương tiếc nếu nó vẫn cứ muốn thống trị những “thị trường chư hầu”. Mà giờ muốn làm “chư hầu” cho bên mạnh hơn cũng phải khéo léo với chiêu bài dân tuý. Trong cuộc chiến tranh thương mại thế giới đang diễn ra, bên mạnh hơn chắc chắn 100% không phải là Trung Quốc!
 
Trên con đường lịch sử ấy, ai đi ngược xu hướng thì sẽ đóng vai trò nạn nhân tiêu biểu sau khi biến người dân và những doanh nghiệp tự thân của quốc gia này là nạn nhân như cách mà các doanh nghiệp “vỏ Việt, ruột Tàu” đã làm.
 
Không cải cách thể chế , có cải cách nhưng quyết liệt hay nửa vời thì đành chờ xem tiếp vậy…
 
 
 

Ám ảnh tình dục: Từ LON biến thành LÔN HUYỀN?




Nguyễn Đình Bổn:  “Lon – một từ tiếng Việt rõ ràng, mô tả một vật để đựng, đong vật chất, ví dụ như chất lỏng thì có lon bia, lon nước ngọt, lon sữa… Nói chung đứa bé lên 3 cũng hiểu như vậy, chỉ có bọn ở cái Bộ xưng là văn hóa lại hiểu thành… l** (Xin lỗi vì tôi phải nói cho đúng chứng ám ảnh tính dục của quan chức Việt Nam). Do đó họ đã cho rằng nội dung quảng cáo sản phẩm Coca-Cola Việt Nam trên truyền hình và một số phương tiện hiện nay có sử dụng cụm từ ‘mở lon Việt Nam’ là ‘có dấu hiệu về hành vi quảng cáo thiếu thẩm mỹ, không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam?

Và yêu cầu kiểm tra, chỉnh sửa hoặc tháo dỡ các sản phẩm quảng cáo có sử dụng cụm từ trên và tiến hành xử lý vi phạm (nếu có)! Thua! Đúng là bọn rảnh háng. Đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh chuyện tính dục!”



Dana Winner hát Sealed With The Kiss






Dana Winner hát Sound of Silence, nhạc Simon and Garfunkel







Vingroup- Có gì đằng sau sự phát triển “thần tốc” đó - Nguồn Đài Á Châu Tự Do



Nhiều thông tin về Vingroup trong hai năm gần đây, nhất là khi tập đoàn này trong vòng 650 ngày đã xây dựng và đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất xe ô tô đầu tiên tại Việt nam (2.9.2017 – 14.6.2019) và trình làng hai mẫu xe hơi với thương hiệu Vinfast tại triển lãm Paris Motor Show (10.2018), khiến không chỉ trong nước mà truyền thông và các gã “khổng lồ” khác trong ngành ô tô thế giới đều đặt dấu chấm hỏi về sự phát triển thần tốc của một tập đoàn mà xuất phát điểm rất trễ (2001) nhưng có lẽ đang về đích ngoạn mục…

650 ngày tạo kì tích


Ngày 27.6.2019, bài báo của nhà báo John Reed đăng trên Financial Times với tiêu đề “The rise and rise of a Vietnamese corporate emprire” tạm dịch là sự trỗi dậy của một đế chế Vingroup lại càng làm tăng thêm nghi vấn về sự phát triển thần tốc của tập đoàn này.

Trong bài viết John Reed có nhắc về chiếc xe hơi đầu tiên của Việt Nam chế tạo dưới nhãn hiệu Vinfast và nói rằng ở Việt Nam, Vingroup được mô tả như một tập đoàn đa ngành – một phiên bản chaebol Hàn Quốc.

Không chỉ truyền thông Việt Nam so sánh Vingroup với những tập đoàn khổng lồ khác mà tháng 5.2018, tờ Nikkei của Nhật cũng đã có bài viết nhận định rằng Vingroup đang nhanh chóng trở thành một trong những tập đoàn đa ngành nghề bậc nhất Việt Nam.

Tờ Nikkei cũng liệt ra không thiếu sót những mốc thời gian Vingroup tạo dấu ấn trên thương trường khi trong tháng 4.2018 tập đoàn này tuyên bố gia nhập thị trường dược phẩm với kế hoạch xây dựng một nhà máy. Trước đó một tháng, Vingroup lại tuyên bố mua lại một nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi và kế hoạch thành lập một trường đại học. Trong vòng một năm, Vingroup “vươn vòi” ra tất cả các lĩnh vực từ sản xuất thực phẩm có lợi cho sức khỏe, chuỗi siêu thị Vinmart và Vinmart+. Họ cũng tham gia mảng thức ăn chăn nuôi thông qua chi nhánh VinEco và mở VinUni bước chân vào lĩnh vực giáo dục đại học. Trong khi đó, hệ thống Vinschool- mảng giáo dục từ cấp mẫu giáo lên cấp 2 đã được đưa vào hoạt động từ năm 2013. Trong tháng 4.2019, Vingroup lại mở một khách sạn năm sao có đài quan sát trong tòa cao ốc Landmark 81 tại Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Có phải Vingroup đang muốn làm thay đổi chân trời của thành phố mà trước đây nhiều người gọi là Sài Gòn? (John Reed viết)

Ông Lê Văn Triết, nguyên Bộ trưởng Bộ thương mại Việt Nam trả lời RFA về tầm phát triển của Vingroup: ““Nếu nhìn theo đường lối phát triển đó thì biết là nó sẽ sập đổ chứ không thể phát triển được như nó nói. Lý do có nhiều lý do nhưng tôi thấy có nhiều sai lầm về nhiều thứ từ đường lối phát triển đến chọn lựa đầu tư và đường hướng kinh doanh, tất cả đều chạy theo việc lấy đồng tiền để khuyếch trương danh tiếng, thương hiệu của mình, không phải phục vụ vấn đề phát triển kinh tế xã hội nghiêm túc. Tôi thấy lâu rồi nhưng tôi không muốn đóng góp vì có đóng góp cũng không ai nghe”.

Ông còn phân tích: “…sức đâu mà làm, trí thức đâu mà làm, chỉ thấy là họ có tiền và muốn tung tiền để lấy tiếng, tung tiền để xây dựng cái gì, phục vụ cái gì, mở mang cái gì tất cả đều không rõ ràng, không có mục đích chỉ để được tiếng và xài tiền mà tiền đâu thì mình không biết”

Nhiều người dân Việt Nam hay nói, “Bây giờ cái gì cũng Vin. Ăn có Vinmart, chữa bệnh có Vinmec, học có Vinschool, VinUni và đi xe Vinfast…”.

Số lượng không đi chung chất lượng


Rõ ràng với mốc thành tích đáng nể trong việc vươn vòi bao trùm tất cả các lĩnh vực chỉ trong vòng hơn 10 năm thì Vingroup đã làm được những điều không bình thường.

Chỉ có những tập đoàn “khổng lồ” (nói như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) mới có thể làm được.
Trong ngày khánh thành nhà máy sản xuất xe ô tô Vinfast tại Hải Phòng,  Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu, đây là kì tích của ngành ô tô Việt Nam cũng như trên thế giới. Ông dùng tất cả các mỹ từ để mô tả sự “kì tích” mà Vingroup mang lại: “Vinfast làm điều khổng lồ vì đã dám tìm đến những người khổng lồ, đứng được trên vai của những người khổng lồ trong ngành ô tô” và ông không quên khẳng định Chính phủ Việt Nam luôn đồng hành và ủng hộ những doanh nghiệp, doanh nhân dám làm những điều kì tích như vậy.

Vingroup gia nhập ngành công nghiệp ô tô gặp nhiều sự hoài nghi bởi sự hạn chế của các chuỗi cung ứng trong nước. Tuy nhiên trong bài viết của mình John Reed cho biết đã gặp Lê Thị Thu Thủy, phó chủ tịch Tập đoàn Vingroup và bà Thủy tuyên bố “Với danh tiếng của chúng tôi, bất kỳ sản phẩm nào của Vingroup bán đều rất chạy”.

Riêng về lĩnh vực giáo dục, trong một trả lời trên Zing.vn, bà Lê Mai Lan, Phó chủ tịch Tập đoàn Vingroup cũng khẳng khái tự tin nhận định: “Chúng tôi muốn xây dựng chất lượng đột phá trong giáo dục đại học, đóng góp cho đất nước một trường đại học đẳng cấp thế giới, được kiểm định và xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng xuất sắc trong giảng dạy đồng thời có các nghiên cứu đóng góp cho lĩnh vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam và nền kinh tế tri thức toàn cầu”. Ngày 14.11.2018, đại học VinUni đặt trụ sở tại Hà Nội đã chính thức khởi công xây dựng và Vingroup đặt mục tiêu tuyển sinh khóa đầu tiên vào năm 2020.

Giáo sư Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang cho biết: “Họ có tiền và muốn đầu tư, nói chung đầu tư về giáo dục rất cần thiết nhưng giáo viên ở đâu ra, rồi chắp vá, thỉnh giảng nhiều nơi cuối cùng chất lượng sẽ không có

Ông cho biết trong năm 2018, Vingroup đã đặt hàng 53 trường đại học trong cả nước bằng việc ký kết hợp tác để đưa sinh viên đến thực tập tại các nhà máy, doanh nghiệp của Vingroup nhưng đến nay vẫn chưa sinh viên nào được trải nghiệm thực tập tại tập đoàn này.

Giáo sư Võ Tòng Xuân nói: “Tôi hy vọng gửi sinh viên đến nhà máy ô tô thực tập nhưng họ chưa trả lời mặc dù hợp đồng đã ký kết hơn một năm qua”.

Giáo sư Xuân cho biết thêm “Phải tìm hiểu rõ hơn coi lực lượng của Vingroup có không, hay họ lại moi những đội ngũ giáo viên trong nước sẽ không tốt. Nếu đưa giáo sư quốc tế về sẽ giống trường hợp Trường đại học Tân Tạo đã từng vướng, chỉ có nước bù lỗ thôi”

Cần nói thêm về trường Đại học Tân Tạo của nữ đại gia Đặng Hoàng Yến, người sáng lập và là chủ tịch Hội đồng Quản trị. Năm 2017 Thanh tra Bộ Giáo dục Đào tạo đã kết luận trường Đại học Tân Tạo có hàng loạt sai phạm nghiêm trọng từ tổ chức, tuyển sinh, đào tạo, cấp phát văn bằng, học phí…Ngoài ra, cơ cấu hoạt động của trường chưa đúng theo qui định khi đội ngũ giảng viên thiếu và rất nhiều người chưa có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, thậm chí trường đã bị đình chỉ hoạt động vẫn tuyển sinh.

Tiến sĩ Trần Thị Hồng, Hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ Thông tin cho biết: “Tuy không nằm trong danh sách 54 trường ký kết hợp tác với Vingroup nhưng Vingroup cũng đã đến để mời trường tham gia ký kết Quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ với các đề tài nghiên cứu khoa học”

John nhận định “Sự trỗi dậy của Vingroup phản ánh chính sự trỗi dậy của Việt Nam –một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á và người sáng lập Vingroup là người giàu nhất trong năm tỷ phú của Việt Nam, với giá trị tài sản ròng 7,6 tỷ đô la Mỹ –Theo tạp chí Forbes. Tuy vậy xuyên suốt bài viết của mình, John Reed đều đặt nghi vấn khi biết rằng các tin tức tiêu cực về tập đoàn này thường biến mất một cách kỳ lạ trên các báo điện tử và Facebook (?!)

Đó vẫn luôn là dấu chấm hỏi không chỉ với một nhà báo nước ngoài như John Reed mà vẫn luôn là thắc mắc của giới truyền thông trong nước và cả những báo giới Việt Nam ở nước ngoài….Sau sự “trỗi dậy” kì tích đó liệu sẽ có những scandal chính trị nào tương tự như các tập đoàn lớn Hàn Quốc đã từng vướng vào hay không (?!).

Ông Lê Văn Triết –Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam nói với RFA: “Họ có tiền nhiều họ có quyền làm còn chuyện quản lý hướng dẫn để cho nó đúng hay không đúng đó là chuyện của Nhà nước, của Đảng”



Phóng sự có vẻ điều tra về Vingroup trên báo Anh - Tác giả Nguyễn Hùng



Tờ báo tài chính số một của Anh, Financial Times, vừa có bài dài hơn 4.000 từ về các hoạt động kinh doanh của người giàu nhất Việt Nam, tỷ phú đô la Phạm Nhật Vượng.

Trái với hoàn cảnh éo le của cả hai anh em cựu uỷ viên bộ chính trị Đinh La Thăng, ông Vượng hiện vẫn vững như bàn thạch cho dù em trai ông, nguyên chủ tịch AVG Phạm Nhật Vũ, đã bị bắt vì tội đưa hối lộ.

Phóng sự của Financial Times khá công phu nhưng chỉ là cũ người, mới ta. Người Việt hầu như ai cũng biết những gì được viết ra với số lượng từ chật cứng sáu trang giấy khổ A4.

Nhưng với người nước ngoài, đây có lẽ là lần đầu tiên họ biết tới Vingroup của ông Vượng và giá trị về thông tin đối ngoại quan trọng hơn những gì phóng viên có vẻ cố để cân bằng lại ánh hào quang của Vingroup toả ra từ bài viết.

Hãy đi nhanh tới cuối bài với câu trích dẫn học giả Alexander Vuving từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu: “Hiện giờ tôi nghĩ rằng… Vingroup là một trong những công ty tư nhân được quản lý tốt nhất ở Việt Nam... Vì thành công của bất kỳ công ty tư nhân nào ở đất nước [này] phụ thuộc vào quan hệ của họ với các chính trị gia, số phận của họ phụ thuộc nhiều vào [ganh đua] chính trị nội bộ giữa giới lãnh đạo cấp cao.”

Chuyện Vingroup được quản lý tốt là điều có thể hiểu được vì họ có tiền bỏ ra tuyển dụng những nhân tài hàng đầu ở cả Việt Nam và nước ngoài về làm việc cho họ.

Điều đáng nói ở đây là vế sau của lời trích dẫn. Vingroup của ông Vượng đã dựa vào những mối quan hệ nào để có được những mảnh đất vàng mà ông dùng làm đòn bẩy để gây dựng đế chế kinh doanh? Vingroup đã chăm sóc các mối quan hệ đó ra sao? Tại một đất nước mà các quan chức được coi là “bậc thầy về nhận hối lộ”, người ta có quyền đặt câu hỏi công ty của ông Vượng liệu đã bao giờ đưa hối lộ chưa và nếu có thì đưa cho ai?

Nói tới chuyện đưa hối lộ, tôi xin kể những chuyện tôi nghe được từ thời gian đầu Đổi Mới của Việt Nam và tình trạng này ngày càng tồi tệ.

Chuyện thứ nhất liên quan tới một dự án trúng thầu của Bộ Tài chính. Dĩ nhiên người trúng thầu phải hiểu rằng họ sẽ phải bỏ ra một số phần trăm nhất định của dự án để hối lộ quan chức bộ này. Vậy họ phải làm sao để hợp pháp hoá các khoản chi này trên giấy tờ? Giải pháp là tuyển mấy nhân viên ma, người không có mà lương vẫn nhận đều.

Chuyện thứ hai nhỏ hơn nhưng cũng thể hiện sự láu cá của các công ty nước ngoài. Hồi năm 1999 tôi phụ trách quan hệ đối ngoại cho IBM Việt Nam. IBM tuân thủ luật cấm hối lộ của Hoa Kỳ và tôi không được phép đưa phong bì cho các phóng viên và quà tặng không được có trị giá quá 50 đô la. Nhưng nếu tôi mời phóng viên đi dự hội nghị, hội thảo ở những nơi xa thì tôi có thể trả tiền vé máy bay, khách sạn và chi phí ăn uống cho các nhà báo. Trong khi đó một đối thủ cạnh tranh của IBM đã thuê một công ty làm quan hệ đối ngoại của Việt Nam và nhắm mắt làm ngơ cho công ty này đưa phong bì cho phóng viên.

Tác giả phóng sự về Vingroup trên Financial Times, phóng viên John Reed, kể rằng khi ông tham dự lễ ra mắt thương hiệu điện thoại di động Vsmart của ông Vượng, tập tài liệu dành cho các nhà báo bao gồm cả phong bì trong đó có hai triệu đồng. Phóng viên phương tây không được phép nhận phong bì và ông Reed nói ông đã trả lại phong bì của Vingroup.

Đó là phong bì tại cuộc họp báo đại trà. Không rõ nếu họ cần các nhà báo cho các vụ việc cụ thể thì trong phong bì đó sẽ có bao nhiêu triệu. Câu hỏi tương tự cũng có thể được đặt ra cho các quan chức có liên quan tới Vingroup.

“Để thành công ở Việt Nam, người ta phải vun đắp quan hệ với những người làm trong chính quyền để được họ bảo vệ,” học giả Alexander Vuving được dẫn lời nói tiếp với Financial Times.

“Nhưng một khi người ta có quan hệ gần gũi với những người nhiều quyền lực trong nhà nước độc đoán, [người ta dễ] bị cám dỗ để dùng nó nhằm bịt miệng những người chỉ trích.”

Bài viết cho thấy Vingroup dùng mọi biện pháp để đảm bảo những tin tiêu cực, dù chúng có là sự thật, về tập đoàn này biến mất khỏi ánh mắt dõi theo của công chúng càng nhiều càng tốt. Các cách đó có thể là tiền, là dùng ảnh hưởng của Vingroup với lực lượng công an hay thậm chí là xã hội đen như cáo buộc của một số người được Financial Times phỏng vấn.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc từ chỗ chất vấn ai cho Vingroup xây những toà nhà quá cao ở trung tâm Hà Nội hồi đầu nhiệm kỳ giờ đã coi những gì Vinfast làm được trong ngành ô tô là “kỳ tích”. Dĩ nhiên kỳ tích đó có sự đóng góp của chính phủ với những ưu đãi về chính sách và thuế cao đánh vào xe ngoại nhập để Vinfast có thể bán xe với giá cao gấp hàng chục lần thu nhập bình quân đầu người trong khi giá xe tại các nước giàu chỉ ngang bằng với thu nhập bình quân đầu người. Tại Anh chiếc xe Volkswagen cũ đầu tiên tôi mua chỉ có 400 bảng. Chiếc Ford Mondeo thứ hai hơn 2.000 bảng. Chiếc Renault Megane mua mới giá 14.000 bảng và chiếc Renault Clio thể thao hiện nay chưa tới 10.000 khi mua xe đã dùng được khoảng ba năm và đi chừng 30.000km.

Người viết bài cho Financial Times nói rằng người Việt đang dùng ‘Vin mọi thứ’, từ nhà cửa, trường học, dịch vụ y tế, điện thoại và nay là xe hơi. Điều đáng lo là họ sẽ chịu ảnh hưởng bởi các chính sách của Vin chính phủ cho dù Vin chẳng phải là chính chủ của bất kỳ chính phủ nào.


Vingroup và tỉ phú Phạm Nhật Vượng: ‘Ngưỡng mộ, lo ngại ở Việt Nam’ - Source BBC Vietnamese



Financial Times, đặt trụ sở ở London, hôm 26/6 đăng phóng sự của John Reed, trưởng văn phòng Bangkok của tờ báo này.

Bài báo có được tiếp cận hiếm hoi với bà Lê Thị Thu Thủy, Phó chủ tịch HĐQT Vingroup kiêm Chủ tịch VinFast.

Tác giả nói ông đã phỏng vấn rất nhiều người cho bài, từ các lãnh đạo, cố vấn của Vingroup đến các nhà phân tích, các nhân viên cũ và cả hiện nay, cùng những nhà hoạt động phê phán Vingroup.
Tác giả John Reed mô tả kỹ về lịch sử phát triển của Vingroup và ảnh hưởng hiện nay.

Ông xác nhận sự lớn mạnh của Vingroup cũng phản ánh sự lớn mạnh của Việt Nam, một những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á.

Ông Phạm Nhật Vượng có tài sản được Forbes ước đoán khoảng 7,6 tỉ đôla.

Tuy vậy, tại Việt Nam, sự thiếu vắng báo chí tự do, công dân không được phát biểu tùy ý, đã tạo ra rủi ro là những đại công ty có thể có quá nhiều quyền lực.

Ông Đặng Hoàng Giang, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES), được dẫn lời:

"Một phần công luận ngưỡng mộ họ vì xây các tòa nhà cao tầng, khu nghỉ dưỡng."

"Một phần khác, mà tôi thuộc về, lo ngại sâu sắc về tác động tiêu cực lên môi trường từ một số hoạt động kinh doanh của họ, cách mờ ám để tài sản công biến thành tài sản của họ, và cách họ cố gang tác động truyền thông và bịt miệng người chỉ trích."

Một nhà quan sát chính trị, Alexander Vuving, thừa nhận Vingroup là "một trong những công ty tư nhân được quản trị tốt nhất Việt Nam".

Nhưng ông nói: "Thành công của mọi công ty tư nhân ở Việt Nam đều phụ thuộc vào quan hệ với các chính trị gia, nên số phận của họ rất phụ thuộc vào các dàn xếp chính trị bên trong tầng lớp cầm quyền."

The rise and rise of a Vietnamese corporate empire - Source Financial Times






Báo chí csvn là một bước lùi "vĩ đại" so với tờ Gia Định Báo xuất hiện






Dân Thủ Thiêm lại phải nghe hứa lèo?






Đại diện người dân bị cưỡng chế phi pháp ở Lộc Hưng gặp Bộ Tài Nguyên- Môi Trường







Tự do tôn giáo tại Việt Nam mãi vẫn chưa được cải thiện






Bệnh quai bị






Nước mắm nhà thùng Phú Quốc






Nghề nuôi ong mật ở miền Tây Nam Phần






Vinh danh "Người Thả Bom Kẹo" 70 năm về trước tại Bá Linh, Đức






20 tháng bảy 1954: 65 năm sau, từ khi đất nước chia đôi- Tác giả Vũ Văn Lộc



Ngày 20 tháng 7 năm 2014 ghi dấu 60 năm hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chúng tôi tổ chức kỷ niệm đêm giã từ Hà Nội. Có các chiến binh Việt Nam trong quân đội Mỹ về tham dự. Ca sĩ Ý Lan trình diễn những bài ca quê hương. Chúng tôi có dịp nhắc lại kỷ niệm từ ngày rất xa, khi còn là thiếu niên trong thời kháng chiến đứng sau cột đình làng Bình Hải, huyện Yên Mô nghe cô Thái Thanh rất nhỏ bé hát bài ca cho chương trình Bình Dân Học vụ. Lời ca thánh thót của thời thơ ấu mà vẫn còn nghe vang vọng tuổi hoa niên. Ai về chợ huyện Thanh Vân, Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa,,,?.Trải qua biết bao dâu bể. Ngày nay vẫn còn may mắn ngồi nghe con gái của cô Thái Thanh hát rằng: Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn.

Hôm nay, ngồi đọc lại bài viết cũ về chuyện còn sông Bến Hải đã trở thành câu chuyện 65 năm.

Tuổi cao niên già thêm 5 năm, nhưng lịch sử đất nước chia đôi trên căn bản vẫn không thay đổi. Xin soạn lại gửi đến bằng hữu độc giả như sau.


Viết cho ngày 20 tháng 7 (1954-2019)


Đất nước bị chia cắt 54 quả thực là thảm họa, nhưng thống nhất 75 là còn khốn nạn hơn. Để hoàn thành công cuộc gọi là "Giải phóng miên Nam", Việt Cộng đang phải trả nợ bằng cả núi sông. Vì câu chuyện thời sự hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại chuyện hôm qua. 65 năm trước cũng vào ngày tháng này, người Việt di cư lần thứ nhất.

Tháng 7 năm 2019 có gợi nhớ cho người Việt tỵ nạn chúng ta một chút kỷ niệm nào không? Cách đây 65 năm vào tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Hôm nay, từ hơn nửa thế kỷ và một đại dương xa cách, xin có đôi lời ghi lại. Trước hết là một số sử liệu, nhắc lại một lần vào cuối cuộc đời.

Tháng 9-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, Thế chiến thứ II chấm dứt chính thức trên mặt trận Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh lãnh đạo đảng cộng sản tuyên bố Việt Nam độc lập. Người Pháp trở lại Đông Dương.

Ngày 19 tháng 12-1946, toàn quốc kháng chiến. Vào những ngày của mùa Thu khói lửa năm xưa, tất cả thanh niên Việt Nam đều đứng lên đáp lời sông núi. Phạm Duy đã viết lời ca như sau: Một mùa Thu năm qua, cách mạng tiến ra đất Việt, cùng ngàn vạn thanh niên vung gươm phá xiềng. Bài ca này miền Nam đã dùng mở đầu cho cuốn phim Chúng tôi muốn sống. Vào những ngày đầu kháng chiến tôi mới hơn 13 tuổi. Tuổi măng non thơ dại và hào hứng biết chừng nào. Vào thời gian này, không ai biết gì về Quốc Cộng. Người ta nói rằng: Khi cách mạng mùa Thu, anh 20 tuổi, anh không theo kháng chiến, anh không phải là người yêu nước. Và tôi là cậu bé con của trường Cửa Bắc, Nam Định tản cư về Yên Mô, Ninh Bình cũng bắt đầu bài học yêu nước nồng nàn.

Sau này mới học được những danh ngôn thần diệu khác. Khi chủ nghĩa cộng sản ra đời, anh 20 tuổi, không theo cộng sản, anh không có trái tim. Hai mươi năm sau, anh chưa bỏ cộng sản. Anh không có khối óc.

Hà Nội và Nam Định tản cư, sinh viên học sinh gia nhập tự vệ thành mang dấu hiệu sao vàng tham dự vào trung đoàn thủ đô. Trong Nam các thanh niên tiền phong Sài Gòn cầm gậy tầm vông hợp đoàn chống Pháp.

Cho đến ngày nay, tất cả các vị cao niên 75 và 80 tuổi trở lên chắc hẳn còn nhớ về mùa Thu khói lửa năm xưa của thời kỳ 1946. Rồi tiêu thổ kháng chiến, rồi tản cư, rồi về Tề, còn nhớ biết bao nhiêu ngôn ngữ đặc thù của cả một thời thơ ấu.

Ba năm sau, tháng 3-1949, vua Bảo Đại từ Hương Cảng trở về. Bình minh của phe quốc gia mới bắt đầu nở hoa cay đắng trong vòng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp.

1950: Cuộc chiến vẫn tiếp tục trên toàn thể đất nước cho đến năm 1950. Một năm nhiều dữ kiện. Tháng giêng, Trung Cộng công nhận cộng sản Việt Nam. Tháng 2, Hoa Kỳ công nhận Việt Nam Quốc Gia. Tháng 3, Mỹ bắt đầu viện trợ cho Pháp tại Đông Dương. Tháng 6, toán cố vấn Mỹ đầu tiên đến Việt Nam.

Rồi đến năm 1954 định mệnh. Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, trong số binh sĩ tham chiến có phân nửa là lính quốc gia Việt Nam cùng chịu chung phần số hy sinh và thân phận tù binh. Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc. Tháng 6-1954, ông Ngô Đình Diệm từ Mỹ về nước nhận chức thủ tướng. Tháng 7-1954, Genève quyết định chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, trên con sông Bến Hải giữa nhịp cầu Hiền Lương. Và cái ngày định mệnh của cả dân tộc là ngày 20 tháng 7-1954. Anh, Pháp, Tàu v.v… ký vào hiệp ước cùng với phía cộng sản Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam quốc gia không ký. Thủ tướng Pháp đương thời hứa với quốc dân là hiệp định phải ký xong nội ngày 20 tháng 7-1954. Họp bàn đến nửa đêm chưa xong. Đồng hồ phòng nghị hội cho đứng chết lúc 12 giờ khuya. Tiếp tục họp đến sáng hôm sau. Ký xong rồi cho đồng hồ chạy lại. Ngoại trưởng Việt Nam là cụ Trần Văn Đỗ khóc vì đất nước chia đôi ngay tại hội nghị. Lê Duẩn chỉ huy cộng sản tại miền Nam, đang trên đường ra Bắc chợt nghe tin đình chiến bèn quay trở lại để tiếp tục lãnh đạo công cuộc giải phóng về sau. Từ Hà Nội một số sĩ quan Quốc Gia Việt Nam cùng sĩ quan Pháp tham dự hội nghị Trung Giá để quy định việc đình chiến. Các đơn vị Pháp và tiểu đoàn khinh quân Việt Nam âm thầm rút khỏi Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa, Nam Định để lại sự hoảng loạn đau thương cho nhiều giáo khu Việt Nam tự trị.

Tại miền Bắc, Pháp và phe quốc gia có thời hạn tập trung 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày ở Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng. Tại miền Nam, bộ đội tập kết tại Hàm Tân 80 ngày, Bình Định 100 ngày và Cà Mau 300 ngày.

Ngày nay bao nhiêu người trong chúng ta còn nhớ đến thời kỳ tập kết ở miền Nam và di cư của miền Bắc. Bộ đội miền Nam trước khi ra đi đã phát động chiến dịch gài người ở lại nằm vùng và phong trào lập gia đình ồ ạt để hẹn ngày trở lại hai năm sau hiệp thương và tuyển cử. Trung úy Giao Chỉ tham dự hành quân Tự Do tiếp thu Cà Mau thấy người cộng sản tập kết chào nhau với bàn tay xòe hai ngón hẹn gặp lại sau hai năm, kèm theo khẩu hiệu: Ra đi là chiến thắng, ở lại là vinh quang. Kháng chiến miền Nam ra Bắc để lại những người đàn bà mang bầu trong thôn xóm và súng đạn chôn sau vườn.

Trong khi đó ở miền Bắc cộng sản cố sức cản đường không cho lính quốc gia di tản và ngăn chặn cuộc di cư vĩ đại từ tháng 8-1954. Nhưng phe Quốc Gia vẫn có đủ một triệu người ra đi. Trung úy Vũ Đức Nghiêm, tốt nghiệp khóa 1 Nam Định đã di cư vào Nam cùng đơn vị và gia đình lúc ông hơn 20 tuổi. Từ Phát Diệm, ông đi cùng Tiểu đoàn Khinh quân 711 về Hải Dương rồi rút về miền Nam. Đại úy Lê Kim Ngô di tản trường Công Binh từ Bắc vào Nha Trang và tham dự hành quân tiếp thu Bình Định. Cả hai ông Vũ Đức Nghiêm và Lê Kim Ngô về sau đều có dịp trở về đất Bắc trong lao tù cộng sản trước khi qua định cư tại Hoa Kỳ.
Cũng trong đợt di cư theo gia đình công giáo, thanh niên Phạm Huấn 17 tuổi còn nhớ mãi về Hà Nội của tuổi hoa niên. Sau khi ký hiệp ước Paris, thiếu tá VNCH Phạm Huấn có dịp trở về trong phái đoàn chính thức để viết nên tác phẩm “Một ngày tại Hà Nội” vào năm 1973. Sau đó ông Phạm Huấn lại một lần nữa từ biệt Sài Gòn năm 1975. Ngày 7 tháng 7-2004, tôi và đại tá thiết giáp Hà Mai Việt vào thăm Phạm Huấn tại Nursing Home của bác sĩ Ngãi ở khu Tully, San Jose. Sinh năm 1937, người thiếu niên Hà Nội trở thành sĩ quan trẻ trung của Sài Gòn vẫn còn là vị cao niên trẻ nhất của Nursing Home. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.” Phạm Huấn nói rằng nếu có ngày các ông lấy lại được Sài Gòn thì tôi cũng sẽ chơi một chuyến xe lăn về quê cũ. Ông qua đời tại San Jose và chưa một lần trở lại Việt Nam. Nhưng từ tháng 7-1954 cho tới tháng 7-2019 ngày tháng cũng xa rồi mà mộng ước cũng xa rồi. Phạm Huấn và nhà thơ Hoàng Anh Tuấn đều lần lượt ra đi từ San Jose bỏ cả mưa Sài gòn lẫn mưa Hà Nội. Cuối tháng 5-2014, Hà Mai Việt trở lại San Jose ra mắt tác phẩm Cỗi rễ cuộc chiến Việt Nam, khởi sự từ miền Bắc. Chẳng biết còn ai nhớ được nguồn cơn.

Năm 1954, có cô bé 15 tuổi lên máy bay một mình đi theo gia đình người bạn để vào Nam tìm tự do. Mồ côi mẹ, cha ở lại đi tìm con trai rồi kẹt luôn. Cô bé tên là Nguyễn Thị Chinh và sau này chuyến đi đã đem đến cho miền Nam một đệ nhất minh tinh gọi là Kiều Chinh. Chuyến đi của Kiều Chinh 1954 từ biệt Hà Nội đầy nước mắt chia ly trong tình phụ tử. Năm 1975, Kiều Chinh lại một lần nữa từ biệt Sài Gòn trong một chuyến bay trắc trở vòng thế giới giữa lúc thủ đô miền Nam hấp hối.

Và cũng vào năm 1954, một cô bé 9 tuổi Nguyễn Thị Lệ Mai xuống tàu di cư vào Nam. Sau này cô trở thành ca sĩ tiêu biểu của cuộc chiến lầm than, một đời lưu vong trong một kiếp trầm luân. Tên của người ca sĩ 50 năm hát rong trên khắp địa cầu là Khánh Ly. Năm vừa qua cô về hát lần đầu trên sân khấu Hà Nội. Trải qua 50 năm là biểu tượng chống Cộng bằng ca từ hải ngoại, ngày nay cô đứng hát tình ca cho những khán giả chưa từng quen biết nhưng hết mực yêu thương.

Và cùng với Vũ Đức Nghiêm, Lê Kim Ngô, Phạm Huấn, Kiều Chinh, Lệ Mai còn có Bùi Đức Lạc cũng là thành phần Bắc Kỳ di cư đến tạm trú ở khu Phú Thọ Lều để đến 75 thì trở thành người di tản mang màu áo pháo binh Dù.

Năm 1972 trong nước mắt Hạ Lào, Bùi Đức Lạc nghe Khánh Ly nức nở, đã nói rằng trận liệt mất đường về không phải vì Mỹ bỏ mà tại vì nhạc Trịnh Công Sơn.

Một người khác gốc Phát Diệm đã sớm trở thành dân di cư Hố Nai rồi chuyển qua vượt biên với một vợ 9 con tiếp tục bình tĩnh làm báo hàng ngày tại San Jose. Đó là Ký Còm – Vũ Bình Nghi. Tại sao miền Bắc lại di cư tỵ nạn? Tại sao miền Nam lại di tản vượt biên? Truyền thống của dân Việt là muôn đời sống với lũy tre xanh, với mồ mả tổ tiên, với làng xóm. Vạn bất đắc dĩ phải ra đi mang tiếng tha hương cầu thực nhưng rồi vài năm lại trở về. Quốc văn giáo khoa thư thủa nhỏ đã ghi rằng chỉ có chốn quê hương là đẹp hơn cả.

Trung úy Phan Lạc Tuyên khi tham dự hành quân tiếp thu tại Bình Định đã viết nên bài nhạc bất hủ. Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ. Nhưng chính tại miền quê đơn sơ ở Bồng Sơn này suốt 20 năm chưa bao giờ yên tiếng súng.

Khi người cộng sản nổi dậy với một cuộc chiến toàn diện khốc liệt và quá độ đã triệt tiêu hoàn toàn mọi sự hòa giải trong tình tự dân tộc. Đầu tiên là các dân thành thị, trí thức, tiểu tư sản và tôn giáo phải bỏ Kháng Chiến về thành. Tiếp theo là bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam.

Năm 1954, người Bắc vào Nam đã đánh thức con rồng Sài Gòn tỉnh giấc. Qua những khác biệt ban đầu rồi chuyển đến thời gian hòa hợp. Miền Nam bắt đầu khởi sắc từ ẩm thực đến văn chương báo chí. Từ văn nghệ đến kinh doanh. Và sự hòa hợp không hề có biên giới.

Đại úy Lê Công Danh, gốc công tử Cần Thơ đứng đón di cư ở bến nhà Rồng đã bế luôn cô Bắc Kỳ nho nhỏ tóc demi garson về làm áp trại phu nhân.

Trung úy công binh Nghiêm Kế, dân chơi Hà Nội phải lên tận Biên Hòa xứ Bưởi cưới cô Bé về làm chính thất, sống 20 năm ở các trại gia binh với 8 đứa con lần lượt ra đời.

Trung úy Giao Chỉ đi chiến dịch Đinh Tiên Hoàng phải xuống tận Rạch Giá để rước về người đẹp xứ Kiên Giang. Sau hơn 60 năm tình cũ, chàng mới nhận ra rằng không phải chỉ Đà Lạt mới có hồ than thở, mà ở miền Hậu Giang cũng có khá nhiều.

Những ông sĩ quan trẻ Bắc Kỳ xấp ngửa vào Sài Gòn đều đem về mỗi ông một cái hồ than thở. Qua đến Hoa Kỳ nàng vẫn còn than thở qua Cell Phone…

Sau những đoạn trường 1954, thì tiếp đến câu chuyện tình Bắc duyên Nam trên mọi lãnh vực. Tất cả cùng nhau xây dựng xong 2 nền Cộng Hòa với một đạo quân đẹp đẽ biết chừng nào.

Cho đến năm 1975 và rồi đến tận ngày nay là 2019, người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi. Từ di tản đến vượt biên, vượt biển, đoàn tụ, HO, con lai.

Tại sao chúng ta lại rời bỏ quê hương?

Một lần đi là một lần vĩnh biệt.
Một lần đi là hết lối quay về.

Năm 1954, khi ra đi dân Bắc Kỳ di cư ít có hy vọng trở về chốn cũ. Bài ca “Hướng về Hà Nội” được hát nỉ non suốt ngày đêm trên Radio. Cho đến khi chính phủ sốt ruột phải ra lệnh cấm. Những cánh bưu thiếp liên lạc Bắc Nam rời rạc được một vài tháng rồi cắt đứt sau hai năm xa cách.

Qua thập niên 60, Hà Nội mở đường dây Ông Cụ, đưa cán bộ vào Nam xây dựng hạ tầng cơ sở và dựng nên cuộc chiến mà ngày nay chính cựu đảng viên cộng sản Dương Thu Hương cũng nhận xét là một cuộc chiến sai lầm, hy sinh quá nhiều sinh mạng và tiềm lực của cả hai miền đất nước.

Hôm nay, nhân dịp ghi dấu 65 năm cuộc hiệp định Genève chia đôi đất nước, chúng ta cùng suy ngẫm về dòng sinh mệnh đã đưa đẩy người Việt lưu vong. Sẽ không thể có được câu trả lời coi như là chân lý cho một vấn nạn lịch sử.

Trong cuộc sống hàng ngày, biết bao nhiêu là điều bí ẩn không hề có đáp số. Tại sao có người hạnh phúc và có người đau khổ? Tại sao có người bị hy sinh và có người tồn tại? Tại sao có người thành công và có người thất bại? Những ngày tháng lịch sử như 20 tháng 7, như 30 tháng 4 chỉ là những dấu ấn trong dòng sinh mệnh của một dân tộc, của một cộng đồng. Đó là ngày của cay đắng nở hoa.

Mới đây các quốc gia văn minh nhất của nhân loại Tây phương kể cả Nga, Đức, Anh, Pháp, Canada, Úc, Mỹ và nhiều nước khác cùng dự lễ kỷ niệm 70 năm đổ bộ Normandie. Bây giờ chúng ta cũng là công dân của một xứ sở văn minh là Hoa Kỳ, hãy cùng nhau nhớ về ngày lịch sử 20 tháng 7 của 65 năm về trước, ghi dấu lịch sử là một cách hành xử của con người văn minh.

Một lần nữa xin nhắc lại 20 tháng 7-1954, 65 năm về trước hiệp định Genève chia đôi đất nước. Một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó dành cho quý vị.

Tiếp theo từ 30 tháng 4-1975 cho đến nay, trên hai triệu người Việt lần lượt ra đi. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó cũng dành cho quý vị.

Tại sao quý vị lại ra đi?

Tại sao lại trở về? Tại sao lại không trở về? Trở về quê hương. Câu hỏi cho cả đời người. Câu hỏi cho cả một thế hệ. Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không?

Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết:

Quê hương, mỗi người có một
Như là chỉ một mẹ thôi…

Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không?

Hay là như Vũ Hoàng Chương đã than thở:

Chúng ta là đám người đầu thai nhầm thế kỷ
Quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Có thực sự đau thương như vậy không?

Chúng ta ra đi đem theo quê hương, hay là chúng ta ra đi bỏ lại quê hương? Với con đường an cư lạc nghiệp ở xứ này, phải chăng chúng ta đang sống hạnh phúc với quê hương mới?

Giáo sư Elie Wiesel, người Mỹ gốc Do Thái sinh trưởng ở Romania, nạn nhân của nạn diệt chủng Holocaust được cứu sống lúc 16 tuổi. Nhập tịch Hoa Kỳ năm 1963. Đoạt giải Nobel về Hòa Bình năm 1986, Ông đã nói rằng: Nơi nào tôi sống có tự do và hạnh phúc, nơi đó chính là quê hương.
 
Tái bút: 20 tháng bảy năm 2014 tôi tổ chức 60 năm đêm giã từ Hà Nội có nhạc sĩ Vũ đức Nghiêm và nhiều bạn Hà Nội tham dự. Năm nay tôi tổ chức 65 năm ngày Nhớ về Hà Nội. Các bạn Hà Nội chẳng còn bao nhiêu người. Thay vì nhớ thương thành phố cũ ban đêm thứ bẩy, chúng tôi tổ chức 11 giờ trưa ngày chủ nhật 21 tháng 7 năm 2019 tại nhà hàng Phú Lâm. Không phải chỉ dành riêng cho dân Bắc Kỳ di cư chẳng còn bao nhiêu. Xin mời bằng hữu Trung Nam Bắc một nhà cùng đến với nhau cả thế hệ thứ hai và thứ ba. Nếu ngày quốc hận 30 tháng tư năm 75 còn nhiều thương đau thì ngày quốc hận 20 tháng 7 năm 54 chỉ còn là những kỷ niệm êm đềm của tình Bắc duyên Nam. Xin ghi danh tham dự với chúng tôi. Cùng ôn lại chuyện cũ giữa thế kỷ 20 đem qua thế kỷ 21. Chương trình hết sức đơn giản. Nhưng vô cùng ý nghĩa và chan hòa tình cảm. Chúng ta cùng ôn lại những câu trả lời muôn thủa trên đất Hoa Kỳ. Người Việt là ai, tại sao lại đến đây và đã đến vào thời gian nào. Trên báo San Jose Mercury News tuần qua đăng hình hai ông Nhật già danh tiếng của Hoa Kỳ gặp nhau cũng nhắc lại chuyện hai cậu bé cùng gia đình bị giam vào trại tập trung thời kỳ đệ nhị thế chiến. Về sau một ông trở thành thị trưởng San Jose rồi lên bộ trưởng giao thông thời tổng thống Bush. Một ông trở thành dân biểu liên bang. Để trả lời cho tuổi trẻ của thế hệ tương lai, cả hai ông Nhật đều nói rằng. Làm gì thì làm các bạn phải luôn luôn biết mình là ai.? Như vậy là sau bao nhiêu năm tung hoành trên chính trường Hoa Kỳ, lúc về già ông bộ trưởng Mineta và ông dân biểu Honda mới chợt nhớ mình là Nhật Bản. Với 65 năm nhớ về cuộc di cư 1954. Với 43 năm nhớ về cuộc đổi đời 1975. Chúng ta dù đã trở thành người Mỹ nhưng luôn luôn phải nhớ mình thực sự là ai.

Người Thầy Cũ - Tác giả Nguyễn Xuân Hoàng



Tôi là người có trí nhớ kém, nhưng điều đó không hề làm phai mờ chút nào trong tôi hình ảnh của người thầy ngày xưa. Thầy của tôi. Đó là một người đàn ông gầy, hơi thấp, lặng lẽ bước vào lớp học giảng bài rồi lặng lẽ ra đi, mà không bao giờ để lại cho chúng tôi một nụ cười nào.
 
Thầy có một chiếc xe đạp cũ, không phanh, không chắn bùn, không cả vành che “sên” để khỏi vướng vào ống quần. Mỗi lần băng qua đường tôi thấy thầy luôn luôn xuống xe dắt bộ. Thầy lầm lũi đi, đầu hơi cúi xuống như một người không dính dáng gì đến thế giới đang biến động xung quanh.
 
Chỉ khi nào đứng trên bục gỗ, trước bảng đen cầm viên phấn trên tay, tôi mới thấy sự sống trên khuôn mặt thầy. Thầy dậy cho chúng tôi biết làm cách nào để có thể yêu và hiểu được Alphonse Daudet, Le Petit Chose, Chú Nhóc, Lettres de Mon Moulin, Những Lá Thư Viết Từ Cối Xay Gió Của Tôi, Contes Du Lundi, Truyện Kể Ngày Thứ Hai… Đó là những tác phẩm thầy cứ nhồi mãi trong đầu chúng tôi. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ thầy là nhân vật le petit chose, bị vùi dập giữa cuộc đời.
 
Thầy có một người con trai tên S. , Nguyễn Đức Sơn, học cùng lớp với tôi. Anh là một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với thầy. Phá phách, nghịch ngợm, gây gỗ với tất cả mọi người, S. là hung thần của cả trường. Dù vậy, anh là một học sinh giỏi đặc biệt là môn Pháp văn. Những bài luận của anh luôn luôn đạt điểm cao và được đọc trước lớp như những mẫu mực.
 
S. viết chữ rất đẹp và rất tài hoa. Năm mới mười sáu tuổi, S. đã sáng tác một truyện vừa lấy tên là Ngôi Nhà Bằng Đá. Tôi không nhớ S. lấy đề tài gì, nhưng ở lứa tuổi mười sáu viết được một cuốn sách đầy gần hai trăm trang, dù chỉ là hai trăm trang viết tay, S. đã làm tôi vô cùng khiếp phục. S. không chỉ viết văn, anh còn làm thơ nữa. Đầu tiên là những bài thơ tình. Sau đó là những bài thơ đơn giản hơn, đầy dẫy những hình ảnh giống tính thô mà không tục. Tôi không ngạc nhiên lắm khi, mấy năm sau đó, S. trở thành một trong những người viết truyện và làm thơ đặc biệt có một chỗ đứng rất riêng trong văn học. Nhiều người khen truyện của S. và chê thơ S. và ngược lại có nhiều người khen thơ mà chê truyện. Tôi không có ý kiến.
 
Lớn lên, đổi lớp, đổi trường, chúng tôi chia tay mỗi người một ngả. Thầy tôi trở thành một cái bóng, nhỏ bé và nhòa nhạt. Alphonse Daudet không phải là tác giả tôi ưa thích, mặc dù những truyện ngắn của ông vẫn còn làm tôi xúc động khi đọc lại. Tôi đọc Antoine de Saint Exupery và tôi thích Le Petit Prince. Tôi không giữ trong tủ sách truyện Nhất Linh, Thạch Lam. Tôi chỉ thích Nguyễn Tuân, Thế Lữ tiền chiền, sau đó là Quang Dũng, Hoàng Cầm. Tôi cũng thích Guy de Maupassant, Charles Dickens, Dostoievski và Turgeniev. Đặc biệt sau này tôi khoái Amado với Terras Do Sem Fim mà Claude Plessis dịch là Terre Violente (Đất Dữ) Tôi cũng rất thích thơ Nguyên Sa, truyện Võ Phiến. Tôi ghét nghề dậy học. Tôi biết chắc đó không phải là con đường tôi đi. Tôi không đủ tư cách để làm cái công việc mà người Việt Nam chúng ta vẫn đòi hỏi khi phải làm nghề “giáo dục”. Tôi mà giáo dục ai. Nhưng ghét của nào trời trao của ấy. Tôi từ giã Y Khoa, sau một năm, tôi bỏ Quốc Gia Hành Chánh, sau một tháng. Tôi theo học môn Triết và trở thành người đứng trên bục gỗ, với phấn trắng, bảng đen… Tôi đi trên con đường thầy tôi đã đi, con đường khổ ải và run sợ
 
Hơn mười năm sau, tại Sài Gòn, ở một trường tư thục, tôi gặp lại thầy. Chúng tôi là đồng nghiệp. Vẫn chiếc xe đạp không phanh, không chắn bùn, không vành che sên. Vẫn lầm lũi đi bộ dắt xe khi băng ngang đường… Tôi chào thầy, nhắc thầy nhớ rằng tôi là học trò cũ của thầy, là bạn của S. Thầy nói cám ơn, và gật đầu. Tôi hỏi thăm chỗ ở của thầy, thầy không nói, thầy cũng không buồn hỏi tôi học thầy hồi nào, ở đâu. Tôi có cảm tưởng thầy tránh né tôi. Tôi hỏi thăm S., thầy nói không biết. Và một hôm, văn phòng cho tôi biết thầy không còn cộng tác với nhà trường nữa.
 
Suốt thời gian làm nghề dạy học tôi luôn luôn biết mình chọn sai đường đi, nhưng biết làm sao. Tôi phải xin lỗi người khác về những lầm lỗi của mình và tự xin lỗi mình về sự lầm lẫn của tôi.
 
Tháng Tư, Bảy Lăm mang đến cho Sài Gòn những ngày đen đêm đỏ, nó cũng mang đến cho tôi những ngày U Minh, những đêm Tuy Hòa. Trong cái rủi ro đau thương của một dân tộc, tôi có được cái may mắn là không phải cầm trên tay những viên phấn trắng, tránh được cái bục gỗ và bảng đen. Tôi tự thoát ra khỏi trí tưởng mình cái hình ảnh của thầy tôi.
 
Cuộc sống bắt người ta phải nhớ một vài điều và cần phải quên nhiều điều, nhưng trong lòng tôi cái hình ảnh người thầy giáo tất tả dắt chiếc xe đạp cũ, không thắng, không vành che sên đi băng qua đường, đầu cúi thấp… vẫn còn nguyên vẹn trong tôi như một dấu ấn. Tôi hiểu tại sao tôi thích Le Petit Prince hơn là Le Petit Chose.

 
 

Chăn Gối Với Quân Thù - Tác giả James Webb



Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.
 
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.

Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.

Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.

Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.

Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ  gọi "chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”

Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”
 
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.

Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”

Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.

Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.

Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn..

Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói

”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.
 
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.
Tại sao?

Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.

Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.

Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.

Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.

Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.

Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.

Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.

Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”

Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.