khktmd 2015
Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021
Hoa Đào Năm Ấy - Tác giả Nguyễn Duy
Cuộc chiến tranh đi qua… Thế là xong ! Tôi thở phào nhẹ nhõm khi trút bộ quân phục để chuyển ngành về làm biên tập viên cho tờ Văn nghệ Giải phóng. Lúc đó là đầu năm 1976. Năm 1977 tờ Văn nghệ Giải phóng lại nhập vào tờ Văn Nghệ (toàn quốc), tôi trở thành biên tập viên thường trú tại các tỉnh phía Nam của tờ báo vốn có nhiều kỷ niệm sâu sắc với mình. Cứ ngỡ rằng đã “ vĩnh biệt vũ khí ”. Nào ngờ, tháng 6 năm 1978, tôi ¬ phóng viên báo Văn Nghệ, lại lặn lội trong chiến hào ở Tây Ninh cùng với các bạn lính trẻ của Quân đoàn 4. Chiến dịch biên giới phía Tây-Nam Tổ quốc đang thời kỳ ác liệt nhất. Quân Pôn Pốt tràn sang dọc biên giới Việt Nam – Campuchia, tàn sát rất dã man đồng bào ta, từ Tây Ninh qua Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Quân ta đánh chặn và chuẩn bị tổng công kích… Lại những bài thơ chiến trận gửi về tòa soạn báo Văn Nghệ.
Qua mấy năm im tiếng súng, nhìn lại quãng đường bom đạn và đèo dốc dài dằng dặc phía sau lưng mình mà ngại ngùng. Cứ ngỡ rằng, đã quen hơi phố phường rồi, nếu phải đi trở ại con đường chiến tranh vừa qua, chắc là không đi nổi. Nhưng khi việc đã tới, giặc đã ở trước mặt, thật lạ, có một nguồn sức lực từ đâu đó trong con người mình bỗng khởi phát, xốc mình đi, những bước đi mạnh mẽ nguyên vẹn của người lính năm nào…
Nguồn sức lực ấy lại khởi phát một lần nữa trong tôi vào đầu xuân năm 1979. Sau chiến dịch biên giới phía Tây-Nam tôi tự thưởng cho mình một chuyến nghỉ phép, về ăn Tết ở quê nhà ¬ thị xã Thanh Hóa, ngày 15 tháng 2 năm 1979, tôi ra Hà Nội để chờ máy bay trở lại miền Nam. Sáng 17 tháng 2, chiến tranh bùng nổ trên toàn tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Nhóm phóng viên xung kích của báo Văn Nghệ, gồm năm người vốn xuất thân từ lính, được cử lên mặt trận. Lái xe Đào Ngọc Chi cũng vốn là lính chiến. Chiếc xe Rumani tòng tọc của chúng tôi hòa vào đoàn xe chở lính lên phía Bắc. Tới thị trấn Đồng Mỏ chúng tôi bắt đầu làm việc, với trạm phẫu, với thương binh với đồng bào các dân tộc chạy giặc từ mấy huyện biên giới về. Ga Đồng Mỏ đặc kín người. Đường số Một tắc nghẽn. Hầm Núi Đá (do quân Trung Quốc đào, hồi họ sang “giúp” ta chống Mỹ) thì dành cho người bị thương nặng. Đêm ấy, chúng tôi ngủ ở chợ Đồng Mỏ cùng với đồng bào chạy giặc. Tôi và Phạm Tiến Duật nằm chung cái bạt võng, trước vỉa hè nhà bưu điện. Anh Hoài An ngủ trên xe với Đào Ngọc Chi. Anh Hồng Phi cùng với Đỗ Chu leo lên cái bàn bán thịt trong lều chợ không có mái. Tiếng đại pháo từ Lạng Sơn vọng về ùng ình suốt đêm. Những trang viết về mặt trận của nhóm chúng tôi bắt đầu từ đêm đó.
Lạng Sơn, 18-2. Thị xã vắng ngắt. Trời se lạnh. Hoa đào phai thấp thoáng trong sương mù. Đại pháo đội sang từ phía Bằng Tường, tiếng đạn rít veo véo, tiếng nổ lộng óc. Xe chúng tôi băng qua cầu Kỳ Lừa, lao về hướng Đồng Đăng.
Theo giới thiệu của ban chỉ huy sư đoàn Sao vàng, chúng tôi sẽ tới trung đoàn An Lão đang chặn giặc ở nam Đồng Đăng. Có một chiến sĩ liên lạc của trung đoàn An Lão dẫn đường. Ga Tam Lung hiện ra trước mặt. Chiếc xe hồng thập tự của bệnh viện Lạng Sơn vừa bị bắn lật, nữ bác sĩ Thủy tử thương. Tiếp theo, chiếc xe của xưởng phim Quân Đội trúng đạn, chiến sĩ Như Đạt, quay phim, hy sinh tại chỗ. Cối 81 của địch nhằm vào xe chúng tôi. Nhanh như cắt, Đào Ngọc Chi quặt xe vào con đường rẽ. Quân Trung Quốc từ các cao điểm gần đó nã cối theo tới tấp…
Hầm chỉ huy trung đoàn An Lão nằm trên sườn cao điểm 417. Vừa gặp chúng tôi, chính ủy trung đoàn đã đề nghị “ các nhà văn trở về Lạng Sơn ngay cho. Chiến sự đang ác liệt, đơn vị không thể bảo đảm an toàn cho các anh được…”.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Cái bề ngoài của mỗi người quả là xa lạ với thực tế trận mạc. Tôi mặc chiếc áo trắng có hoa đen, quần loe, kính cận, máy ảnh toòng teeng trên vai. Anh Hồng Phi, râu tóc bờm xờm, áo len, quần dạ, đôi dép sambô cao đế. Phạm Tiến Duật và Đỗ Chu thì đúng là bạch diện thư sinh, mảnh khà mảnh khảnh.
¬ Xin các anh cứ yên lòng ¬ Hồng Phi nói với chính ủy trung đoàn, chúng tôi đều con nhà lính, quen thuộc súng đạn cả. Chúng tôi sẽ ở đây theo dõi các trận đánh, và nếu có thể, xin các anh phát vũ khí…
Chính ủy Biền, nói vắn tắt về tình hình chiến sự. Căn hầm thỉnh thoảng lại rung lên, đạn cối của địch vẫn rơi xuống quanh đấy, tiếng nổ nhức tai, và khói, bụi sặc sụa.
Những ngày ở Tam Lung, chúng tôi đã viết các bài in trên báo Văn Nghệ dạo đó. Quân ta chiến đấu rất anh dũng đánh chặn đạo quân xâm lược đông hơn và mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Quân Trung Quốc, tuy bị thương vong nặng nề, vẫn thí mạng hết đơn vị này đến đơn vị khác, lấn chiếm ta từng cao điểm một.
Trước khi xuôi về thị xã Lạng Sơn, từ trên đỉnh đồi 417, tôi dùng ống nhòm quan sát trận đánh bên cao điểm 611. Quân địch bò lên, đen kín cả sườn đồi, có súng cối và pháo tầm gần yểm trợ. Trên chốt, quân ta chỉ có chưa đầy ba chục chiến sĩ, trung đoàn An Lão vừa bàn giao trận địa cho quân địa phương tối hôm trước. Đúng giữa trưa trận đánh kết thúc. Giặc chiếm được ngọn đồi. Chúng dồn hàng đống xác chết lại, rải lên từng lớp chất cháy (sau này tôi mới thấy, đó là xăng đặc, giống như thứ nhựa vá xe đạp, đựng trong bình vải sơn, mỗi bình bốn lít) và đốt. Trời im ắng, cái im ắng ghê rợn sau trận đánh. Không một gợn gió. Ngọn lửa đốt xác đỏ lòm. Từ đỉnh cao 611, cột khói dựng thẳng đứng lên trời, tỏa ra thành hình cái nấm khổng lồ, đen kịt giữa bầu trời trắng bạc.
Nhóm phóng viên chúng tôi xuôi về thị xã Lạng Sơn. Cột khói đốt xác của quân Trung Quốc vẫn đen ngòm, dựng thẳng đứng phía sau lưng. Tôi đã bị ám ảnh mãi về cột khói đó, về những linh hồn vần vụ trong cột khói đó…
Phố xá hoang vu. Thị xã Lạng Sơn vẫn tươi thắm màu hoa đào. Tôi chưa bao giờ thấy vườn hoa đào nào rộ đều và đẹp như vườn đào Nhà khách tỉnh ủy Lạng Sơn. Đào bạch, đào phai, đào đỏ nở dọc theo các lối đi lát gạch. Hoa đào vô tư nào có biết rằng chúng sắp bị tàn sát. (Sau khi quân Trung Quốc rút đi, tôi đã trở lại thị xã Lạng Sơn, ngơ ngẩn trước cảnh đổ nát. Cả vườn đào cũng bị đánh bằng thuốc nổ, không còn một nhánh, những cục nhựa đào đông lại nơi gốc đào cụt trông như những cục máu bầm chưa khô hẳn. Các khu nhà sang trọng chỉ còn là các đống gạch vụn. Vô vàn mảnh thủy tinh ruột phích nước rải lấp lánh dưới mặt đất. Vòm hang đá núi Phai Vệ sập hẳn, có lẽ quân giặc đã phải dùng nhiều tấn thuốc nổ. Động Tam Thanh nổi tiếng bao đời nay cũng đen ngòm khói thuốc bộc phá, một cái hố rộng hoác, khét lẹt choán hết cả lòng động… Phố, nhà, vườn tược, cỏ hoa cho đến cả hang động đều chung một số phận thảm sát). Còn lúc này, chúng tôi đang ở giữa vườn đào thị xã, hoa đào cứ nở vô tư. Nhóm phóng viên báo Văn Nghệ tụ lại đây, nghỉ đêm trong nhà khách tỉnh ủy đã bỏ trống, cùng với tổ tự vệ của giáo viên trường Đông Kinh Phố. Trang thơ về mặt trận của tôi được hoàn chỉnh trong đêm này. Chúng tôi chụm đầu đọc thơ cho nhau nghe, rồi hát trắng đêm. Đêm chia tay, đêm vĩnh biệt những cây đào nở muộn. Tiếng súng bộ binh đã nổ rát ngoài rìa thị xã.
Mờ sáng hôm sau, tổ công an vũ trang bảo vệ khu nhà khách tới giục chúng tôi dời đi, họ nhận được lệnh phải rút ngay ra khỏi thị xã. Chúng tôi thong thả chụp vài tấm ảnh cuối cùng với vườn đào rồi chặt những cánh đẹp nhất cắm đầy chung quanh xe. Chiếc xe Rumani của tuần báo Văn Nghệ lần đầu tiên được ngụy trang hoàn toàn bằng hoa đào. Lái xe Đào Ngọc Chi phải yêu cầu bỏ bớt hai cành cắm phía trước để còn trông thấy đường.
Trên chiếc xe hoa đào ấy, chúng tôi ngoái nhìn thị xã. Chào Lạng Sơn. Chào chợ Kỳ Lừa và dòng sông Kỳ Cùng. Chào thành Tiên Xây và núi Vọng Phu… Thị xã đẹp mê hồn trong sương mù. Không một bóng người. Chỉ có cây với nhà, và hoa đào. Mấy con chó tìm chủ chạy lững thững dọc những phố nhỏ lặng ngắt. Pháo từ phía Bằng Tường bất chợt gầm lên, súng bộ binh đồng loạt nổ rền bên kia cầu Kỳ Lừa…
Chúng tôi đã mang về tòa soạn những trang viết chưa ráo mực cùng những cánh đào còn ướt nhựa nơi vết cắt. Cành đào phai lớn nhất được cắm trong cái bình đất nung đặt ở phòng khách tòa báo. Những cành nhỏ hơn, chúng tôi chia ra, phân phát cho bạn bè. Bài viết của chúng tôi dồn dập in trên báo Văn Nghệ, những nụ đào muộn mằn dồn dập nở. Cho tới ngày Trung Quốc bị đánh bật ra khỏi biên giới nước ta, những cành đào Lạng Sơn vẫn còn tươi thắm giữa lòng Hà Nội. Và, mãi mãi thắm trong tôi cái màu hồng kỳ diệu của hoa đào năm ấy…
Nị Ăm Cơm Chưa? - Tác giả STTD Tưởng Năng Tiến
Năm 1986, tôi được gặp nhà văn Bình Nguyên Lộc (đôi lần) ở một thành phố nhỏ – phía cực Bắc của tiểu bang California. Lần nào tác giả Đò Dọc cũng tế nhị kéo tôi ra cái quán ăn của người Hồ Nam, Hunan Restaurant, và nói rất ân cần: “Chỉ có tiệm này họ mới bán cơm thôi em à.”
Sau này, sau khi đọc một đoạn ngắn trong tuyển tập truyện ngắn (Ký Thác) của Bình Nguyên Lộc, tôi mới hiểu ra sự ân cần và tế nhị của ông : “Cơm là ác mộng của người Trung Hoa, cho đến nỗi họ gặp nhau, chào nhau bằng câu: “Ăn cơm chưa?”
Té ra ông anh thấy tôi họ Tưởng nên tưởng (lầm) rằng thằng nhỏ này nó người Tầu, hoặc rẻ ra thì cũng gốc Tầu. Nói nào ngay : tôi hoàn toàn, và tuyệt đối, không Tầu xíu xiu nào hết trơn hết trọi nhưng bà vợ (nhỏ) thì Tầu thiệt và Tầu lắm.
Dòng họ bên bả đông hết biết luôn. Tôi tiếp xúc với họ hàng ngày nhưng không còn nghe ai chào theo kiểu (“ăn cơm chưa”) như thời trước nữa. Cách họ thăm hỏi nhau nghe đã khác rồi :
– Nị ăn mì chưa ?
Nói vậy dám có người không tin lắm à nha. Muốn biết (chắc) cứ thử leo lên một cái phản lực cơ của công ty AirAsia hay China Airline mà coi. Thực đơn trên mọi tuyến bay đến Ma Cao, Trùng Khánh, Quảng Châu, Côn Minh, Quảng Đông, Thượng Hải … đều có ghi đủ loại mì ly (hay mì tô) cùng hình ảnh đi kèm.
Ở phi trường Thượng Hải hành khách còn được cung cấp nước sôi luôn nữa. Vòi nước này luôn đặt cạnh cái máy bán mì ăn liền. Bỏ tiền, bấm nút, lấy cái tô ra, xé nắp, rồi chế nước vô là … sực thôi.
Giản tiện và tân kỳ dễ sợ chưa?
Chưa đâu! Kiểu đó đã xưa rồi, cha nội. Trang mạng Shangaiist vừa mới hớn hở loan tin là những máy bán mì đầu tiên của thế giới đã xuất hiện ở thành phố Thượng Hải. Chỉ cần bấm nút một cái là nguyên tô mì (bốc khói) tới miệng cấp kỳ.
Sau la bàn, thuốc súng, chữ in thì có lẽ đây là phát kiến quan trọng … thứ tư của dân tộc Trung Hoa! Từ nay các đấng con trời có quyền ngẩng mặt nhìn đời với niềm hãnh diện là họ (cũng) vừa phát minh ra một thứ gì đó hoàn toàn mới lạ, chớ không còn cứ tiếp tục chỉ làm hàng nhái hay chôm chỉa phát kiến của thiên hạ nữa.
Ủa? Mà sao người Ấn, người Thái, người Miên, người Miến, người Lào, người Nhật, người Việt, người Mã Lai, người Nam Dương, người Đại Hàn, người Miến Điện … cũng đều ăn mì (lia lịa) nhưng chỉ có người Tầu mới phát minh ra được cái máy bán mì ăn liền thôi – vậy cà?
Lý do, theo tôi, có lẽ vì “văn hoá ăn liền” hợp với tạng của người Tầu hiện nay hơn nhiều dân tộc khác. Nhân loại đâu có ai nghĩ ra được những cú Đại Nhẩy Vọt (Great Leaps Forward) lẹ cấp kỳ như Chủ Tịch Mao Trạch Đông, hồi cuối thập niên 1950.
Tác giả cuốn Bia Mộ, nhà báo Dương Kế Thằng, tính gọn là mấy cú nhẩy ngoạn mục này đã khiến cho ba mươi sáu triệu người dân Trung Hoa biến thành những con ma đói. Tuy tất cả các nạn nhân đều đã mồ yên mả đẹp từ lâu nhưng có lẽ cái “gene” nóng vội vẫn còn thôi thúc trong giòng máu của những thế hệ sau. Nhờ vậy, hậu duệ của họ mới phát minh ra được cái máy bán mì ăn liền tại chỗ.
Những người Cầm Lái Vỹ Đại kế tiếp của nước Trung Hoa cũng đều nóng như hơ, đều nhấp nhổm muốn nhẩy vọt (và nhẩy đại) bất cần thân thể. Sau khi hô hào “mèo trắng mèo đen gì miễn bắt chuột là được”, họ còn tiến xa hơn khi khuyến khích toàn dân xẻ núi lấp sông để nâng cao sản xuất.
Ngó cái cách người Trung Hoa lấp sông bằng xe đổ rác cũng đã đủ cho thiên hạ “ấn tượng” lắm rồi nhưng nghe bác Nguyễn Gia Kiểng kể chuyện đi Tầu thì mới thiệt là hết hồn hết vía:
“Trên máy bay từ Tây An về Côn Minh, tôi đọc trên tờ China Daily, tờ nhật báo duy nhất bằng ngoại ngữ tại Trung Quốc, dĩ nhiên là báo nhà nước và cũng chỉ tìm thấy trên máy bay: 278 thành phố, 5.000 thị xã và 20.000 thị trấn hoàn toàn không có hệ thống xử lý nước thải.”
Những nhà máy sản xuất trên toàn quốc, tất nhiên, cũng khỏi cần cài đặt hệ thống xử lý nước thải làm chi (cho má nó khi) cứ tuồn mẹ nó hết xuống sông cho nó khoẻ. Thiệt là gọn gàng và lẹ làng hết biết luôn.
Hèn chi mà hàng hoá Trung Quốc tuy bán rẻ (như cho) nhưng kinh tế của họ vẫn tăng trưởng đều đều khiến toàn thể nhân loại đều phải suýt xoa ngưỡng mộ, trừ mấy ông Việt Nam có máu … bài Tầu, trong cũng như ngoài nước:
– Nguyễn Xuân Nghĩa: “Đây là chuyện bình thường của các nước ‘tân tòng’ mới áp dụng quy luật thị trường để điều hành kinh tế, như Nhật Bản sau Thế chiến II và nhiều nước Đông Á kể từ thập niên 60-70 của thế kỷ 20. Nhờ đi sau, khởi lên từ một nền móng tan hoang vì sai lầm chánh sách trước đấy, và học các xã hội đi trước, các nước tân tòng đều có một giai đoạn ‘khởi phát’ … Trong những năm tới, Trung Quốc sẽ tụt hậu so với đà tiến đã qua. Sẽ mất vị trí cường quốc kinh tế họ vừa thấy trong tầm tay và chưa nắm được thì đã tuột.”
– Ngô Nhân Dụng: “Cả nền kinh tế Trung Quốc trong mấy năm qua dựa trên ‘phép lạ’ đầu tư chỉ để tiếp tục đầu tư thêm, nhờ thế vẫn chưa sụp đổ… Ai cũng thấy tình trạng này không thể kéo dài được… Cho nên, chúng ta không nên ngộ nhận rằng nền kinh tế Trung Quốc cứ thế mà lên, đè bẹp các nước khác. Bên trong cơ cấu kinh tế của Trung Quốc không có động cơ tạo sức phát triển bền vững mà trái lại còn chứa những trái bom nổ chậm không biết lúc nào.”
– Lê Phú Khải: “TQ là đất nước của một chế độ tuyệt vọng.”
– Nguyễn Gia Kiểng: “Thực ra chính quyền Bắc Kinh chỉ làm một điều rất giản dị là bóc lột công nhân tối đa và tàn phá môi trường để sản xuất thật nhiều với giá thật rẻ. Nói cách khác chính quyền cộng sản Trung Quốc xuất khẩu sự nghèo khổ mà chính họ là nguyên nhân đồng thời phá hoại đất nước theo nghĩa đen, làm cho đất khô cằn, nước và không khí bẩn và độc. Chính sách tệ hại đó dù nhất thời có thể gây ấn tượng nhưng sau cùng chỉ làm Trung Quốc kiệt quệ lâu dài, như những kim tự tháp tại Ai Cập và Vạn Lý Trường Thành tại chính Trung Quốc trước đây.”
Tui không đủ kiến thức, cũng như chữ nghĩa, để có thể đưa ra những nhận định cùng với những kiểu ví von xa xôi (Đông/Tây –Kim/Cổ) như quí vị thức giả thượng dẫn. Cứ theo cách nghĩ của một thường dân cỡ tôi thì kiểu làm ăn của người Trung Hoa, trong mấy thập niên qua, từa tựa như những kẻ sống bằng … nghề bán máu để ăn (liền) vậy. Tất nhiên, họ sẽ không sống được lâu.
Nói vậy nghe hơi ác miệng, và cũng rất dễ mích lòng nên tôi email bài viết này cho bà vợ (nhỏ) đọc trước – cho nó chắc ăn – trước khi đi ngủ. Dù gì thì mình cũng đang sống chung với Tầu mà.
Sở dĩ có cái vụ “email” và “reply” qua lại vì vợ chồng chúng tôi giận nhau hơn cả tuần rồi. Người Việt cũng như người Tầu đều rất giầu tự ái nên không đứa nào chịu mở lời (trước) cả. Tôi không nằm chung giường với kẻ thù đã gần chục đêm nay.
Sáng hôm sau, có hồi âm ngay :
“Nị viết quá hay và quá đúng. Không chỉ đúng với dân Tầu mà còn đúng luôn với dân Việt nữa. Bởi vậy chỉ cần thay hai chữ “Trung Hoa” bằng “Việt Nam,” và đổi lại cái tựa (“Mày Ăn Cơm Chưa?”) là coi như sẽ có thêm một bài viết mới. Nói cách khác là đêm qua nị chỉ viết một bài thôi nhưng lại có thể biến thành hai nên có thể nhận được hai lần tiền nhuận bút. Nhớ là số tiền dư này phải dùng để mua thêm thuốc bổ gan, chớ đừng có mang đi nhậu hết (mang tội chết) đó nha – cha nội.”
P.S: I love you. Dù có giận, nị vẫn ái ngộ. Ngộ đừng ái ngại.
Lý Thừa Vãn, Tổng Thống Nam Hàn Đầu Tiên, Mang Dòng Dõi Viêt Nam - Tác giả Nguyễn Chương MT
Nhớ lại có một lúc báo chí VN trong nước làm rần rộ về một nghiệp chủ người Hàn cùng bà con trong họ về thăm quê cha đất tổ ở Bắc Ninh – vì họ thuộc hậu duệ của Nhà Lý nước Việt xa xưa. NHƯNG, còn rỡ ràng hơn nhiều, cũng người Hàn, là hậu duệ đời thứ 26 của vua Lý Anh Tông thì … báo chí VN không nhắc gì cho lắm (ngại nhắc đến?).
Ta nói Đại Hàn dân quốc (Dae Han min guk), còn gọi là Hàn Quốc (Han guk), bây giờ đã trở thành một quốc gia thăng tiến rỡ ràng, nằm trong khối G20.
Không thể không ngược dòng thời gian, trở lại với buổi đầu xây đắp nền móng cho quốc gia Đại Hàn – với vị Tổng thống đầu tiên: ông Lý Thừa Vãn (李 承 晩). Người Hàn gọi là Lee Sung Man (còn gọi Rhee Syng Man).
Hồi năm 1958, trong chuyến công du chính thức tới thăm Sài Gòn, Tổng thống Lý Thừa Vãn đã hội kiến với TT Ngô Đình Diệm của nền Đệ Nhứt Cộng Hòa của Miền Nam VN. Lúc đó, TT Đại Hàn đã tuyên bố: TỔ TIÊN CỦA ÔNG LÀ NGƯỜI VIỆT.
Sau đó, đại sứ quán của Đại Hàn tại Sài Gòn đã cho biết:
“Tổng thống Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình Vương Lý Long Tường – con của vua Lý Anh Tông nước Đại Việt (tức TT Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 26 của vua Lý Anh Tông).
Lý Long Tường cùng gia quyến vượt biển sang tới Cao Ly vào đầu thế kỷ thứ 13 để tránh quốc nạn”.
(khi lật đổ nhà Lý, Trần Thủ Độ đã ra tay tàn sát rất nhiều người thuộc dòng dõi vua Lý)
Trong gia phả của dòng họ Lý bên xứ Hàn (gọi là “Lý Hoa sơn”: Lee Hwa-san) cũng đã xác nhận rõ rành.
LÝ THỪA VÃN, ông là tiến sĩ chánh trị học tại ĐH Princeton và ĐH Havard, trở thành vị Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn. Vâng, người khởi đầu xây dựng nền Cộng hòa tại xứ sở kim chi lại thuộc dòng dõi Việt tộc!
TT Lý Thừa Vãn rất muốn về thăm quê cha đất tổ của các vua Lý ở Bắc Ninh. Nhưng không thể, vì hồi đó chính quyền Đại Hàn dân quốc chỉ đặt bang giao với chính quyền miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) chớ không bang giao với miền Bắc (Việt Nam dân chủ cộng hòa).
[mời quí bạn đọc tỉ mỉ về quá trình tìm hiểu gia phả của TT Lý Thừa Vãn: http://www.sugia.vn/…/di-tim-con-chau-thuyen-nhan-849… ]
* Mấy dòng về LÝ LONG TƯỜNG:
1) Hoàng tử Lý Long Tường (李龍祥, tiếng Hàn đọc là Lee Yong-sang) sinh năm 1174, con thứ bảy của vua Lý Anh Tông.
… Năm 1226 (lúc này nhà Lý đã bị lật đổ), Lý Long Tường đã bí mật về Kinh Bắc, vái lạy tạ biệt lăng miếu Đình Bảng, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn. Hoàng tử đã cùng 6.000 gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội.
Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé vào Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì con trai là Lý Long Hiền ốm nặng nên phải ở lại cùng 200 gia thuộc (theo một nguồn tin thì Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy là thuộc dòng dõi Lý Long Hiền người Việt, tuy nhiên giả thuyết này còn cần kiểm chứng kỹ lưỡng hơn trước khi kết luận).
Trên đường đi tiếp đoàn thuyền bị bão, dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly.
2) … Vào năm 1231 Mông Cổ tiến đánh Cao Ly qua hai đường thủy bộ. Về đường thủy quân Mông Thát tiến vào tỉnh Hoàng Hải, nơi gia tộc của Lý Long Tường sinh sống.
Bấy giờ Lý Long Tường lãnh đạo gia thuộc, dân binh sát cánh cùng quân triều đình chặn đứng quân Mông Thát tại nơi đây. Ông thường cưỡi ngựa trắng đôn đốc binh sĩ, nên người dân địa phương thường gọi ông là “Bạch Mã tướng quân”.
* Đến năm 1253, Mông Cổ lại tiến đánh Cao Ly lần nữa. Chiến thuyền và bộ binh Mông Cổ thắng lợi khắp nơi, nhiều tướng Cao Ly tử trận.
Trước tình hình bi đát, Kiến Bình vương Lý Long Tường đến yết kiến người nắm binh quyền cao nhứt tại Cao Ly (Thái úy Vi Hiển Khoan), để dâng kế sách “Binh pháp Đại Việt” cho ông.
Lý Long Tường đã dùng binh pháp Đại Việt để huấn luyện cho binh sĩ và dân chúng Cao Ly. Cuộc chiến chống Mông Cổ tại Hoàng Hải diễn ra suốt 5 tháng ròng rã, quân Mông Cổ rốt cuộc phải thoái lui, mưu đồ xâm lược Cao Ly bất thành.
Vua Cao Ly tưởng thưởng hoàng tử Lý Long Tường, và phong cho ông là “Hoa Sơn tướng quân” (Hwasan Sanggun), tên “Hoa Sơn” dựa theo tên núi nơi ông cư ngụ.
Ở Hoa Sơn, Lý Long Tường thường hay ngồi trên đỉnh núi nhìn về phương Nam mà khóc. Nơi ấy sau này được gọi là “Vọng quốc đàn”.
* Sự nghiệp rỡ ràng của hoàng tử Lý Long Tường người Việt, tức Hoa Sơn tướng quân của Cao Ly, đã được tiếp nối và lên chót đỉnh với hậu duệ đời thứ 25 – đó là Lý Thừa Vãn, Tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa tại Hàn Quốc!
Những kẻ lạ mặt trong ngôn ngữ - Tác giả Lê Hữu
Một mặt trận hai kẻ thù
Việt cộng bán nước, Tàu phù xâm lăng
- Ai phụ trách khâu ẩm thực?
Câu ấy nghe được trong cuộc họp của các thầy cô giáo ở một trường dạy tiếng Việt cho trẻ em, bàn về việc tổ chức buổi picnic cho thầy cô và phụ huynh học sinh. Xin mạn phép có một hai ý như thế này:
Thứ nhất, câu ấy có sáu chữ thì hết bốn chữ là tiếng Hán-Việt (“phụ trách”, “ ẩm thực”). Thứ hai, ba chữ cuối ở trong câu (“khâu”, “ẩm thực”) là những chữ “mới”, du nhập “từ Bắc vô Nam” sau năm 1975.
Giá dụ học sinh nghe được câu ấy bèn giơ tay hỏi cô giáo ở trong lớp:
- “Ẩm thực” là gì thưa Cô?
- “Ẩm” là uống, “thực” là ăn. “Ẩm thực” là tiếng Hán-Việt, có nghĩa là “ăn uống”.
- Tiếng Hán-Việt là tiếng gì vậy Cô?
- Là tiếng Hán, tức là tiếng Trung quốc, đọc theo âm Việt.
- Vậy sao mình không nói “ăn uống”, là tiếng của mình, mà lại nói “ẩm thực” thưa Cô?
- . . .
Cô giáo chắc cũng hơi bối rối, và cũng hơi khó trả lời, không lẽ lại nói là “Cô cũng không rõ, nhưng nhiều người đều… nói vậy”. Em học sinh ấy nói đúng. Tại sao người Việt ở trong nước, và cả ở ngoài nước, vẫn thích nói “ẩm thực” mà không chịu nói “ăn uống”? Có phải vì nói “ăn uống” nghe phàm tục, nói “ẩm thực” nghe thanh tao và “trí tuệ” (1) hơn chăng? Trước năm 1975, người Việt ở miền Nam Việt Nam không nói “Ai phụ trách khâu ẩm thực?” mà có nhiều cách nói đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, chẳng hạn: “Ai lo vụ ăn uống?”, hoặc “Chuyện ăn uống ai lo?”, hoặc “Thức ăn, thức uống ai lo?”…
Nếu cứ phải vay mượn tiếng Hán-Việt hoặc tiếng nước ngoài trong sinh hoạt hàng ngày, trong lúc kho tàng tiếng Việt của chúng ta không hề thiếu thốn những chữ ấy thì thật khó mà thuyết phục các em tin được rằng “tiếng Việt giàu và đẹp” như chúng ta vẫn tự hào. (Đã gọi là “giàu” thì tại sao lại phải đi vay, đi mượn?!?). Những tiếng Hán-Việt nặng nề và tối tăm ấy hoàn toàn không giúp gì được cho việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” mà những người làm công tác giáo dục ở trong nước vẫn hô hào, như là một khẩu hiệu trong số rất nhiều khẩu hiệu thuộc loại “nói mà không làm”, hoặc “nói một đàng làm một nẻo”, hoặc… “nói vậy mà không phải vậy”.
Những chữ nghĩa kiểu ấy khá phổ biến đến mức xâm nhập cả vào các trường dạy tiếng Việt, là nơi dạy học trò nói đúng, viết đúng trong tinh thần “bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc”. Bên dưới là một ít ví dụ, và các đề nghị nói thế nào cho đúng, rõ nghĩa, dễ hiểu và “Việt ngữ” hơn (chỉ là câu mẫu, người đọc có thể cho những câu khác tốt hơn):
- Thay vì nói: “Cô giáo Mỹ Linh đứng lớp Năm”, nên nói: “Cô giáo Mỹ Linh dạy lớp Năm” (không có… đứng, ngồi, nằm, quỳ chi cả).
- Thay vì nói: “Giáo viên cần soạn giáo án trước khi lên lớp”, nên nói: “Thầy cô cần soạn bài giảng trước giờ dạy” (không có… lên, xuống, ra, vào chi cả).
- Thay vì nói: “Phụ huynh đăng ký cho con em học Việt ngữ”, nên nói: “Phụ huynh ghi tên (hay ghi danh) cho con em học tiếng Việt”.
- Thay vì nói: “Các em tiếp thu tương đối chậm”, nên nói: “Các em hiểu chậm”.
- Thay vì nói: “Học sinh đi tham quan một xí nghiệp”, nên nói: “Học sinh đi thăm một nhà máy”.
- Thay vì nói: “Ban văn nghệ sẽ tham gia biểu diễn (2) một tiết mục”, nên nói: “Ban văn nghệ sẽ đóng góp một màn diễn (hay trình diễn)”.
- Thay vì nói: “Ban giảng huấn sẽ dự giờ đột xuất các lớp học của giáo viên”, nên nói: “Ban giảng huấn sẽ bất ngờ vào lớp xem thầy cô giảng dạy”.
- Thay vì nói: “Lớp Vỡ Lòng chủ yếu tập trung vào khâu đánh vần”, nên nói: “Lớp Vỡ Lòng cần nhất là dạy các em biết đánh vần”.
- Thay vì nói: “Cô giáo phát hiện em Nga có năng khiếu về môn Văn”, nên nói: “Cô giáo nhận thấy em Nga có khiếu về môn Văn”.
- Thay vì nói: “Học sinh tranh thủ ôn tập trước giờ thi”, nên nói: “Học sinh cố gắng ôn bài trước giờ thi”.
- Thay vì nói: “Tuyệt đại đa số các em tiếp thu tốt”, nên nói: “Hầu hết các em hiểu bài”.
- Thay vì nói: “Cần nâng cao chất lượng (3) trong công tác giảng dạy”, nên nói: “Cần phẩm hơn là lượng trong việc giảng dạy”, hoặc “Cần dạy sao cho có kết quả”.
Trên đây chỉ là một ít trong số khá nhiều câu cú, chữ nghĩa nghe “lạ tai”, từ miền Bắc “xâm nhập” vào miền Nam Việt Nam, và “bành trướng” ra tới hải ngoại.
“Tiếng Việt còn, nước Việt còn”, ở đâu ta cũng nghe câu ấy, nhưng chắc không phải là thứ tiếng Việt kỳ quái hoặc “nửa Hán nửa Việt”, chẳng thấy “giàu” cũng chẳng thấy “đẹp”, chẳng thấy “trong” cũng chẳng thấy “sáng” (chỉ thấy… tối mò mò), và chắc cũng không phải là “Tiếng Việt mến yêu” mà chúng ta muốn “bảo tồn và phát huy” cho thế hệ con em mình.
Nói cho ngay, tiếng Việt chắc chắn là phải còn, chứ đâu có dễ gì mất được. Có điều là, đến một lúc nào đó, “tuyệt đại đa số” (1) (hay “tuyệt đại bộ phận” (1)) tiếng Việt đều có “chất lượng tối ưu” (1) như thế cả thì cái “còn” ấy kể cũng… ngậm ngùi.
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”, mỗi lần nghe câu hát ấy là mỗi lần tôi lại phân vân tự hỏi, “Những ‘kẻ lạ mặt trong ngôn ngữ’ ấy có phải là ‘tiếng nước tôi’ (và những đứa cháu của tôi có phải ‘yêu’ chúng ‘từ khi mới ra đời’)?” Nếu không, thì chúng phải có một cái tên gì chứ? Tự điển tiếng Việt gần đây vừa có thêm một từ ngữ mới: “tàu lạ”, được định nghĩa là “tàu Trung quốc”. Để cho dễ gọi, tôi cũng muốn đặt tên cho những “kẻ lạ mặt” ấy là “từ lạ”. Tương tự các biện pháp nhằm đối phó với các tàu lạ, chúng ta cần đề cao cảnh giác để “phát hiện” (1) kịp thời những từ lạ ngấm ngầm lẩn lút, trà trộn, xâm nhập vào phần đất của “Tiếng Việt mến yêu”. Chỉ khi nào tống khứ được những “từ lạ” thổ tả này đi chỗ khác chơi, chúng ta mới mong trả lại sự “trong sáng” cho tiếng Việt.
Tàu lạ, hay từ lạ, hay những kẻ lạ mặt, đều là những đối tượng cần truy đuổi.
1)Từ ngữ phổ biến ở trong nước.
(2) Biểu diễn: màn trình diễn của diễn viên có tay nghề, ví dụ “biểu diễn khiêu vũ trên băng”.
(3) Ý muốn nói “Cần nâng cao ‘phẩm’ (quality)…”, nhưng nói sai thành… ‘lượng’ (quantity).
Cái hôn có đắt lắm không? - Tác giả Nguyễn thị Cỏ May
Cấm ra đường vì đề phòng lây nhiễm corona vũ hán làm xáo trộn tận gốc đời sống xã hội pháp. Chỉ riêng giới sinh viên từ một năm nay thất điên bát đảo vì chỗ ăn chỗ ở : ký túc xá đóng cửa, căn-tin đóng cửa, việc làm thêm không có !
Những nét văn hóa đẹp của pháp từ lâu đời nay cũng không còn giữ được. Đơn giản như cử chỉ quen thuộc khi người thân gặp nhau : bá cổ nhau hay hôn nhau bị cấm tới nay được một năm. Người ta tự hỏi rồi đây, khi dịch vũ hán hết, cách chào nhau thân tình đó liệu còn tồn tại hay không ? Hay nó lại ôm cổ « nàng vũ hán » đi luôn ?
Đặc thù văn hóa pháp
Người ta đang nghĩ tới thời hậu-vũ hán, lúc đó, khi gặp nhau, người ta vẫn lao vào nhau, ôm chặt nhau và hôn nhau trên má như trước đây chăng ?
Sự thắc mắc này cũng đang chia dư luận Tây làm hay phe : chống và ủng hộ. Xin đừng ai ngạc nhiên tại sao chuyện chẳng có gì mà cũng chia rẽ được người pháp ? Nên nhớ ở Pháp, và chỉ có ở xứ Pháp hay xứ Tây, mới có hơn ba trăm thứ phô-mác mà thôi. Anh cũng nuôi bò, dê, cừu, cũng lấy sữa, cũng làm phô mác. Đức, Áo, Thụy Sĩ, Áo, Ý, Hòa Lan, ...cũng cùng nền văn minh ẩm thực, nhưng tuyệt đối không có nước nào có nhiều thứ phô-mác như Pháp. Đó là đặc thù văn hóa pháp. Nó rất Tây ! Và nó phức tạp vô cùng. Hơn người ta tưởng ! Do đó mà không có dân nào như dân pháp là không bao giờ biết cùng nhau đồng ý một điều gì, dù lớn hay nhỏ. Nên lúc nào dân chúng cũng biểu tình chống đối chánh phủ. Tả cũng bị chống. Hữu cũng bị chống. Trung, tức không tả, không hũu, cũng bị chống. Và xuống đường rầm rộ cả lúc đang có lệnh chánh phủ « cấm cửa » vì bệnh dịch.
Nên không phải ngạc nhiên khi chỉ muốn biết sau dịch vũ hán người ta còn giữ cách chào nhau « ôm và hôn má » nữa hay không lại lập tức sanh ra hai phe chống và đồng ý giữ. Hai phe với quan điểm đối nghịch nhau quyết liệt. Như trên chánh trường, phe tả và phe hũu chống nhau vậy.
Cái hôn chào nhau sẽ tồn tại không ?
Một phụ nữ pháp coi TV, bị thu hút mạnh cảnh những người hôn nhau, bá cổ nhau trong phim thời trước đây khi gặp nhau và chào nhau. Bà ấy cho biết thật là cảm động khi trông thấy lại nét đẹp của nền văn minh pháp (Tuần báo Le Point, 28/02/21) .
Từ lúc bị dịch vũ hán, lệnh ban hành cấm gần nhau dưới 2 m, trên báo, thường có những bài ngắn chế giễu nay còn đâu nét văn minh phổ cặp lâu đời của pháp, với cái « hôn nhau » lúc gặp và lúc từ giả . Giữa người thân gia đình và bạn bè.
Không riêng báo tây châm biếm người pháp bị cấm hôn nhau, mà cả báo ngoại quốc nữa. Chính báo ngoại quốc chấm biếm mới chua. Họ hỏi liệu người pháp khi chào nhau mà không hôn nhau có thể chịu nổi về mặt tâm lý hay không : « Làm thế nào người pháp sẽ có thể sống được nếu gặp nhau mà không hôn nhau ? »
Từ tháng 3/2020, cách chào nhau của người pháp bắt đầu xáo trộn sâu xa. Một, hai, ba, bốn cái hôn má bổng một sớm, một chiều, không còn nữa. Bị cấm. Vả lại, không chỉ bị cấm, mà không ít người cũng không dám nữa. Sợ con xẩm vũ hán 19 tuổi, nó bóp mũi bắt đi !
Hôn 1 cái, 2 cái, ...phải biết ứng sử đúng cách và đúng nơi. Chớ không tự ý muốn làm mấy cái cũng được. Vùng Bretagne, phía Tây-Bắc Paris, người ta chỉ hôn một cái lên má thôi. Dân phía cực Bắc, vùng biển Manche, bên kia là Anh, chào nhau bằng 2 cái hôn. Dân phía cực Nam, họ có tập quá hôn nhau 3 cái. Còn dân phía Đông lại hôn nhau 4 cái.
Nói hôn lên má chớ thật ra chỉ là « má kề má » hay « tai kề tai » mà thôi, nhưng phải đánh « tróc » một tiếng cho thanh, cho dòn, mới đúng điệu .
Nhưng cử chỉ này, tuy đơn giản như vậy, lại là một phần quan trọng của lịch sử văn mình pháp. Thành thật hay bắt buộc, theo nghi lễ hay tùy nghi, có ý nghĩa hay tào lao, thì cái « hôn chào nhau » cũng là một phần di sản quốc gia pháp.
Nhà nhơn chủng học David Le Breton nhận định cách chào nhau « bắt tay giữa những người đàn ông sẽ tồn tại bình thường trong lúc đó, ôm hôn, cách chào nhau mang tính phụ nữ, quá thân mật, riêng tư và cố ý, có thể sẽ khó được tiếp tục tồn tại ». Bởi trong thời buổi mọi người cảm thấy cái thân của mình dường như cồng kềnh dễ bị nguy hiểm. Ai cũng muốn thu mình lại cho thât nhỏ để an toàn hơn.
Cái hôn là một thứ « tiền giữa hai người »
Một năm sau khi corona vũ hán tới, người ta thấy ở đời không có gì còn đúng nữa, còn tin là chắc chắn nữa. Nhiều nhà phân tâm học cho rằng mọi người đang sống thiếu vắng sự quan hệ xã hội. Vì thế, giữa nghi lễ hay sự cấm đoán và thực tế, mọi thứ sẽ không đơn giản. Khoảng cách mà thân thể của chúng ta phải giữ đối với thân thể khác liên hệ mật thiết với tính thân mật. Như chúng ta sẽ khó chịu khi một thân thể xa lạ lại quá gần chúng ta. Trái lại rất dễ chịu khi một thân thể quen thuộc, thân mật cạnh kề. Nên cái hôn vẫn là khoảng cách gần nhứt với nhau ! (Theo nhà tâm lý học Dominique Picard) .
Bà nói thêm « Khi một cử chỉ bị ràng buộc bởi nghi lễ quá nặng thì nó sẽ mất đi tình cảm thân thiện và sự xúc động. Hôn để chào nhau là không nên đặt miệng lên má, mà làm như có sự đụng chạm nhau mà kỳ thật là không. Đó là cách lập lại khoảng cách tâm lý : người ta vẫn giữ khoảng cách cá nhơn, ngay cả hôn nhau để chào nhau ».
Theo triết gia Gerald Cahen (Hôn . Những bài học tình yêu đầu tiên, Paris), « cái hôn, trước nhứt, là một thứ tiền giữa con người với nhau. Bởi người ta luôn luôn trả giá, tính toán cách để hôn nhau ».
Nhìn lại lịch sử thì « cái hôn » chiếm một địa vị quan trọng nhưng vẫn không tránh khỏi vận thăng trầm theo lớp sóng phế hưng của thời cuộc. Không chỉ riêng vì đại dịch vũ hán hiện nay mà nó bị cấm kỵ. Từ thời văn minh la-mã, hôn chào nhau đã bị Hội đồng Carthage năm 397 cho là xấu, khiếm nhã nhưng qua thời Trung cổ thì được nhìn nhận là cử chỉ lịch sự, văn minh, dành cho hiệp sĩ quí tộc và cho giới tăng lữ. Nhưng lại cấm vào thế kỷ XIV vì đại dịch đen (la peste noire). Như ngày nay trên khắp thế giới vì corona vũ hán.
Qua thời Phục Hưng, hôn chào nhau trở lại nhưng mang tính nghi lễ trưởng giả « nịnh đầm ». Đàn ông hôn tay các bà nhưng chỉ bên ngoài bao tay, và môi chỉ phớt qua nhẹ nhàng. Còn hôn chào nhau nơi công cộng thì bị đưa vào sổ bìa đen. Nhưng nó lại phổ biến trong gia đình, họ hàng với nhau. Mãi cho tới cuộc nổi loạn tháng 5/68 ở Paris, nó mới thoát ra bên ngoài rộng rãi.
Điều lạ là cuộc nổi loạn tháng 5/68 làm đảo lộn giá trị xã hội, xóa bỏ những nấc thang giá trị xã hội đang có, như cả trong nhà trường, không cần cho điểm bài vở học sinh vì cho điểm là phân biệt đối xử, đánh mất tính mất bình đẳng.
Kiss bùng nổ những năm 80
Trong hạ bán thế kỷ XX, hôn chào nhau dần dần được tái khẳng định. Nhưng phải đợi tới những năm 80, nó mới thật sự bùng phát cho đến khi nó được định chế hóa trong giới xí nghiệp, giữa những đồng nghiệp với nhau. Và khi phát triển mạnh thì khó tránh bị lạm phát.
Hôn chào nhau nay bắt đầu bị chống đối
Vậy nay, sau đại dịch vũ hán, chào nhau sẽ giữ cách hôn nhau như cũ chăng ? Người ta giữ hay bỏ cái tập quán đẹp đã có từ ngàn năm ?
Nhưng qua thời gian dài bị đại dịch, cách chào nhau hằng ngày đã thay đổi và nay gần như mọi người đã bắt đầu quen. Cả người thân trong gia đình. Theo kết quả thăm do dư luận của hảng YouGov hôm tháng 6/2020, sau đợt cấm cửa lần thứ nhứt, có 26% người Pháp cho biết họ chủ trương hôn trở lại khi chào nhau. Qua tháng 2/2021, con số này không thay đổi. Cho nên giữa « ủng hộ và chống » hôn chào nhau vẫn có một khoảng cách.
Trong trường học, học sinh bị ngăn cách nghiêm ngặt hơn. Cung cách ứng xử của trẻ con cũng thay đổi và thích nghi. Gặp nhau, ôm vai, bá cổ vẫn là cử chỉ quen thuộc biểu hiện sự thân thiện với nhau thì nay tự chúng nó thấy không hẳn cần thiết nữa. Chúng nó cho rằng nay Café là nơi và cơ hội biểu lộ bồ bịch với nhau. Sự thân thiện thể hiện qua cái nhìn cũng đủ.
Còn phe « no-kiss », hôn chào nhau có giữ hay không không phải là vấn đề thật. Vì cứ nhìn lại coi từ cả năm nay, người ta chào nhau hằng ngày mà không phải hôn nhau có gì thay đổi trong cuộc sống ? Đời sống không đáng sống nữa chăng ?
Không hôn nhau nữa nay sẽ không chỉ vì tôn trọng khoảng cách y tế, mà nó là một quan niệm mới trong quan hệ xã hội xuất hiện và đang định hình.
Theo Dominique Picard, tâm lý học, thì « hôn chào nhau vì là nét đẹp của văn minh lâu đời pháp sẽ tái lập một khi hết nạn dịch. Đó là điều chắc chắn ». Nhưng tới chừng nào ? Trong 6 tháng nữa hay trong một hai năm nữa ? Chờ coi.
Nhưng hiện tại, hôn là bị phạt 135 euros tại chỗ. Tuần rồi, ở Paris, hai người bạn từ lúc trẻ tình cờ gặp nhau sau hơn mười năm không có dịp gặp lại. Họ đều vui mừng khôn xiết, liền lao vào nhau, ôm nhau, hôn nhau. Vừa buông nhau ra, hai chú cảnh sát tiến tới, lễ phép chào cô cậu, chìa sổ phạt, hạ bút biên ngay 135 euros, xé ra, chìa cho hai người.
Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021
Vũ Khắc Khoan Và Tôi - Tác giả Nguyễn sỹ Tế
Đối với tôi, Vũ Khắc Khoan bao giờ cũng là “người đi bước trước”. Trước từ lúc ra đời, đi những bước trên đường đời và cuối cùng từ giã cõi đời. Người sinh năm Tỵ, tôi năm Tuất.
Đọc Kinh, Như Lai Vô Sở Thuyết - Tác giả Vũ Khắc Khoan