khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2020

Lisbon





Amália Rodrigues - Fado Português





ORA VIRA VIRA VIRA





Portugal..best Portuguese song.





Cảnh sát Thái Lan giải tán hàng chục ngàn người biểu tình ôn hòa





Bầu cử Mỹ 2020: Vì sao Joe Biden khiến Bắc Kinh lo sợ ?





"Bùa mê" của Donald Trump





Thời trang Chanel : Sức hấp dẫn vượt thời gian





Adele - Họa mi đứng trước gương





Những Người Lính Bị Bỏ Rơi





Trích: Cicero & tiểu luận De Senectute Về Tuổi Già - Tác giả Người Lính Già Ỏegon

 

Cicero viết tiểu luận Về Tuổi già lúc tuổi 62 (như vậy là già rồi vào thời đại của ông), giữa những xâu xé chính trị của nền Cộng Hòa Rome và sự lo âu cho chính bản thân. Ông gửi tặng người bạn thân thiết nhất, Titus Pomponius Atticus, lớn hơn ông ba tuổi (109-32BC), một “đại gia”, một đồ đệ của Khoái Lạc chủ nghĩa –chủ nghĩa mà Cicero không mặn mà với– để nâng đỡ tinh thần bạn mình trước tuổi già và cái chết, nghĩa là qua đó tự an ủi chính mình. Ngoài ra, chính trong thời gian sống khủng hoảng và sợ hãi này, Cicero đã viết đa số những tác phẩm triết lý với tinh thần tự do, phóng khoáng, tao nhã và cao thượng.


De Senectute là tiểu luận được viết, cũng như De Amicitia, dưới thể đối thoại –mà văn chương thời đó, tại Athènes hay Rome, rất ưa chuộng cùng với kịch nghệ. Ba nhân vật trong cuộc đối thoại tưởng tượng này, về tuổi già, là hai người bạn trẻ tên Lélius và Scipion, và Cato Maior (Marcus Porcius Cato, còn gọi là Caton l’Ancien, 234-149BC), lúc ấy 84 tuổi, đã biết thế nào là kiếp già. Xin trích và dịch một đoạn nhỏ trong phần mở đầu:

I. "O Tite, si quid ego adiuero curamue leuasso, quae nunc te coquit et uersat in pectore fixa, ecquid erit praemi? [...] Et tamen te suspicor eisdem rebus quibus me ipsum interdum grauius commoueri, quarum consolatio et maior est et in aliud tempus differenda. Nunc autem uisum est mihi de senectute aliquid ad te conscribere. Hoc enim onere, quod mihi commune tecum est, aut iam urgentis aut certe aduentantis senectutis et te et me etiam ipsum leuari uolo; etsi te quidem id modice ac sapienter, sicut omnia, et ferre et laturum esse certo scio. Sed mihi, cum de senectute uellem aliquid scribere, tu occurrebas dignus eo munere, quo uterque nostrum communiter uteretur. Mihi quidem ita iucunda huius libri confecto fuit, ut non modo omnis absterserit senectutis molestias, sed effecerit mollem etiam et iucundam senectutem. Numquam igitur satis digne laudari philosophia poterit, cui qui pareat, omne tempus aetatis sine molestia possit degere. Sed de ceteris et diximus multa et saepe dicemus; hunc librum ad te de senectute misimus” [...]
“Titus ơi, nếu tôi đến giúp bạn và đánh tan những lo âu đang làm lòng bạn giao động, bạn sẽ thưởng công tôi như thế nào? [...]Tuy nhiên có những điều buồn mà tôi tưởng tượng cũng làm bạn thở than như tôi; hàn gắn những vết thương như thế không phải là một việc dễ mà tôi muốn nhận làm hôm nay. Bây giờ tôi chỉ tự nguyện bàn với bạn về tuổi già thôi. Tôi muốn cả hai chúng ta trút đi gánh nặng chung của tuổi già đang đe dọa hoặc đã thúc bách chúng ta; mặc dù tôi biết bạn chịu đựng gánh nặng đó, giống như tất cả những người khác, một cách khoáng đạt và không buồn phiền, và bạn luôn luôn có sự khôn ngoan đó: nhưng vì tự nguyện viết về tuổi già và tìm xem ai là người xứng đáng để tặng một công trình mà chúng ta có thể hưởng được kết quả chung, thì chính hình ảnh bạn đã hiện ra trong trí tôi. Bố cục của quyển sách này đối với tôi là điều thích thú đến nỗi không những nó làm tan biến trước mắt tôi những phiền toái của tuổi già mà còn cho tôi thấy tuổi già dễ thương và dịu dàng. Không bao giờ người ta có thể ca ngợi đủ một triết lý nào mà, đối với người nghe, chịu bỏ đi tất cả những cay đắng của mọi tuổi trong đời. Tôi đã nói nhiều và sẽ còn nói nhiều hơn nữa khi có dịp về những tuổi khác: tuổi già là đề tài của quyển sách tôi gửi cho bạn [...]”

Dĩ nhiên, trong một bài điểm sách ngắn ngủi, tiện nhân không thể dịch hết một tiểu luận dài 40 trang gồm 23 đoạn (sẽ mất cả hơn một tháng ròng), mà chỉ xin tóm lược ý chính. Thực ra, đây không hẳn là một cuộc đối thoại, mà đúng hơn, là mẩu độc thoại của Cato  –những người khác chỉ được dùng như cái cớ, hoặc bệ phóng, để Cato, và qua Cato, chính tác giả Cicero, có dịp trình bày quan niệm của mình về tuổi già. Cato l’Ancien là một nhân vật lịch sử của Rome được giới trẻ ngưỡng mộ và tin cậy như thần tượng.

Tựu trung, đối với nhân vật Cato, tức Cicero, có bốn vấn đề mà cổ nhân đã và sẽ luôn luôn trách cứ và than phiền về tuổi già –điều mà Cato cho là tầm bậy, vô căn cứ, và phản bác lại, dựa trên kinh nghiệm cá nhân và những bài học triết lý, phong tục của Rome và đời sống của nhiều người Romains trước đó, bắt đầu với Appius Claudius, và kết thúc với hai triết gia Hy Lạp Socrate và Platon.

1) Tuổi già làm con người xa lánh công việc (VI, A rebus gerendis senectus abstrahit): Về lời trách cứ này, Cato trả lời ngay: Nếu không đủ sức đảm đang công việc của người trẻ thì người già cũng có thể nhận nhiệm vụ khác, có khi quan trọng hơn. Gia đình và chính quyền cần sự thận trọng, khôn ngoan của tuổi già. Tất cả mọi việc cần được giải quyết bởi những lời khuyên bảo đúng đắn, và cái gì làm một người già trở thành cố vấn tốt, nếu không phải là sự chín chắn của tuổi? Vả lại, ngay cả khi không tham gia việc công, một ông / bà già cũng không thiếu cơ hội hoạt động tích cực, đó là học hỏi cho cá nhân và bắt trí óc làm việc, như Solon [NLGO ghi chú: một luật gia Hy Lạp đã sửa đổi hiến pháp Athènes để chính quyền có căn bản rộng rãi và công bằng hơn]  ‒là một người yêu thích học thêm mỗi ngày trong tuổi già.

Lời bàn của NLGO: Người già nên hoạt động bằng trí óc. Chí lý thay! Làm thơ, viết văn, hoặc thiện nguyện giúp đỡ cộng đồng, nhà thờ, nhà chùa, học đường v.v..., hoặc mỗi ngày mở emails, đọc và làm ơn trả lời, dù chỉ một lời không đáng chi. Tất cả, để khỏi bị sa vào tay hung thần thời đại, có tên là Alzheimer, tức bệnh lú lẫn. Cũng vậy, những văn nhân, thi sĩ nổi tiếng thường viết sách, làm thơ trong thời gian rời khỏi thế sự. Lấy ví dụ tiêu biểu: Montaigne (1533-1592), văn sĩ Pháp thời Phục Hưng, tác giả ba tập Les Essais, trong đó ông ghi chép những cảm nghĩ cá nhân sau khi đọc những tác phẩm của nhiều văn gia, đặc biệt của Cicero, Platon, Socrate. Trong những lúc tuyệt vọng và cô đơn tại lâu đài, nơi ông lui về ở ẩn, ông nhận thấy viết là một nhu cầu cấp bách và lấy đề tài, nhân vật từ chính ông (cf. Essais, II, 8). Cùng thời với Montaigne, bên ta, có Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với Bạch Vân am tập, gồm những bài thơ Nôm, ca tụng chữ nhàn và phong hoa tuyết nguyệt: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ / Người khôn người đến chốn lao xao là vì vậy. Còn hàng trăm văn thi nhân khác trên thế giới, ở mỗi thời đại, cũng vui thú hưởng tuổi già như thế. Trong số phải kể Victor Hugo (1802-1885), nhà văn, nhà thơ vĩ đại của nền văn chương Pháp, cho đến gần cuối đời vẫn yêu, vẫn viết, vẫn hoạt động chính trị.                  

Về sự khôn ngoan của tuổi già, điều đó hiển nhiên, không chối cãi. Bây giờ, ở các cộng đồng, người trẻ thường tình nguyện đứng ra gánh vác việc chung, ăn cơm nhà vác ngà voi, thay cho người già yếu sức. Rất tốt. Tuy nhiên cũng có một số người trẻ, mắc bệnh tự phụ, đôi khi coi thường, rẻ rúng người già, cho là lỗi thời, cố chấp, thủ cựu, lẩm cẩm, thậm chí nhà quê, và ngược lại, một số người già cho người trẻ là kiêu căng, hỗn láo, thiếu kinh nghiệm. Mâu thuẫn giữa già và trẻ, che giấu hay công khai, trong các cộng đồng hải ngoại là có, ta đừng lẩn tránh sự thật. Ví dụ, Ban Chấp Hành lựa vài ông già làm cố vấn cho có lệ, nhưng lờ đi ý kiến của họ, khiến họ thấy bất mãn, buông xuôi, âm thầm chịu đựng vì sợ nói ra, người trẻ buồn bỏ việc, sẽ không kiếm ai lo cho cộng đồng. Ví dụ nữa, ở một vài cộng đồng khác, các ông già, đa số là cựu quân nhân, đề nghị nên lấy danh xưng Cộng đồng người Việt tỵ nạn (Vietnamese Refugees), thay cho Cộng đồng người Việt gốc Mỹ (Vietnamese-Americans), để tuyên dương lý tưởng quốc gia cao cả, lòng yêu chuộng tự do của người Việt tỵ nạn, khác với những cộng đồng thiểu số khác đến Mỹ vì muốn tìm miếng cơm manh áo. Nhưng khi biều quyết, những người trẻ, sinh trưởng hoặc lớn lên tại ngoại quốc, không chịu hiểu như vậy, không cho điều đó quan trọng, đã bác bỏ. Vân vân...

2) Tuổi già lấy mất sức lực của một người (IX, Ne nunc quidem uires desidero adulescentis...): Cato trả lời rằng, đúng thế, tuổi già làm giảm đi sức lực thể xác, nhưng ông không bao giờ thấy nó làm hư hại sức lực tinh thần. Tập thể dục không thích hợp với các cụ ông, cụ bà, và luật pháp cũng như phong tục không bắt họ biểu dương sức mạnh thể xác. Nhưng nếu khi còn trẻ ta không làm hao mòn sức khoẻ do trụy lạc, thì vào tuổi xế bóng ta vẫn còn tìm thấy đủ nghị lực để góp ý kiến, lo cho việc nhà, việc nước, và nhất là soi sáng và hướng dẫn những người trẻ –là một việc tốt đẹp nhất của một lão gia. Không ai chối cãi thời gian cuối đời là một sự tàn suy về thể xác cũng như tinh thần; nhưng phải chiến đấu với nó để khỏi bị đè bẹp bởi điều mà người ta cứ tưởng là gánh nặng thời gian –chỉ thấy trên đôi vai gầy của những kẻ yếu đuối.

Lời bàn: Lặp lại một phần ý #1 trên. Vào thời Cicero, dĩ nhiên, không có những trung tâm thể dục, La Fitness hay Cascade, với những máy đi bộ, xe đạp tại chỗ, treadmill, v.v... như bây giờ. Không có bác sĩ bắt bệnh nhân tập thể dục cho hạ cholesterol, hạ đường, tiêu mỡ, không có những bệnh gây nên bởi thực phẩm “văn minh” đầy hóa chất, đặc biệt ma-dzê in China, mà ai cũng kinh sợ. Mà chỉ có những nơi tập luyện cho cơ thể cứng cáp, cường tráng, vai u thịt bắp, thích hợp với thanh niên, lính tráng, nhất là ở Rome, một đế quốc chuyên đi chinh phục thiên hạ và rất mê đấu trường (harena) và những trận giác đấu (gladiatores). Cho nên, Cicero mới có lời khuyên các cụ không nên tập thể dục trong nghĩa trên, sợ bị tẩu hỏa nhập ma. Chứ nếu tập cho khỏe, tùy theo sức lực, tuổi tác thì có sao đâu?

3) Tuổi già tước đoạt sự khoái lạc (XII, Sequitur tertia uituperatio senectutis, quod eam carere dicunt uoluptatibus): Nếu đó là khoái lạc thể xác (uoluptatem corporis), thì chúng ta, Cato nói, nên cám ơn tuổi già, thay vì kết án nó. Vì sao?  Vì nó giải phóng ta khỏi ách độc tài tàn ác của đam mê  –làm tàn suy tâm hồn, đui chột tinh thần, ném ta vào những dày vò khổ nhục. Để thay thế, còn có những cách hưởng (khoái) lạc một cách yên tĩnh, nhẹ nhàng, tuyệt diệu mà tuổi già có thể tìm thấy. Cato không sống như một lão gia buồn khổ trên đất đai miền Sabine của ông. Ông hưởng niềm vui và tự tạo những lạc thú mà dân dã đã biết trước khi có nền văn minh tinh tế, mà người ta gọi là lạc thú đơn giản của thời xưa. Vả lại, ông khẳng định vẻ quê mùa của ông không phải là cổ lỗ, thiếu lịch sự. Nhưng đối với ông, còn có những khoái lạc cao hơn tất cả những khoái lạc, mà tuổi trẻ quan tâm, và thuộc về mọi lứa tuổi. Đó là khoái lạc tinh thần, càng gây thú vị hơn khi càng được hưởng nhiều hơn. Chúng ta, ông nói, cũng đừng quên số đông dân quê đang sống trên đồng nội và sự hấp dẫn của một cuộc sống xa rời vòng danh lợi ồn ào, để chiêm ngưỡng những kỳ quan của thiên nhiên, bận rộn và chu đáo, tâm hồn bình an, không bị chi phối bởi nỗi phiền lo nào.

Lời bàn:  Ta nên hiểu “khoái lạc” mà Cicero nói người già bị “tước đoạt” trong nghĩa xác thịt, tức nhục dục. Montaigne, tự về hưu và cho mình già lúc mới 37 tuổi, vào năm 1570, còn sung sức, đã phản đối mạnh mẽ ý kiến của Cicero, theo nghĩa xác thịt ấy, thì cũng dễ hiểu thôi. Montaigne viết: “C’est injustice d’excuser la jeunesse de suivre ses plaisirs et défendre à la vieillesse d’en chercher” (Essais, II, 9: "Thật là bất công khi dung thứ cho tuổi trẻ theo đuổi khoái lạc nhưng lại cấm tuổi già đi tìm nó”). Tuy nhiên, Cicero rất đúng khi cho rằng “tuổi già tước đoạt sự khoái lạc”, vào thời của ông. Nghĩa là, ông hàm ý, theo định luật sinh lý tự nhiên, tình yêu và đòi hỏi xác thịt giữa đôi nam nữ rất cao khi còn trẻ, vì có vậy, loài người mới được tồn tại. Về già, ham muốn nhục dục giảm đi, teo dần, cho đến khi không còn gì hết. Lão ông nào cũng than phiền về vấn đề “trên bảo dưới không nghe”, trơ gan cùng tuế nguyệt, còn lão bà thì sợ chuyện ấy như sợ... chuột cống.

Đến đây thì Cicero không đúng nữa. Vì vào thời hiện đại, có thần dược Viagra, cứu tinh của hàng triệu cụ ông. Tuy nhiên, theo các bác sĩ, người ta thường hiểu lầm về công dụng của Viagra và dòng họ cường dương của nó. Thuốc này không có tác dụng kích thích sự ham muốn nơi đàn ông từ tuổi sồn sồn, mà chỉ làm sự ham muốn kích thích ấy, nếu có, khi đã tiến lên “thời kỳ quá độ” như xã hội chủ nghĩa, được bền bỉ, theo tên gọi của nó. Thế thôi. Kích thích hay không cũng còn “tùy người đối diện”. Đàn ông, già hay trẻ, luôn thèm cái mới, do “vũ khí” được thiết kế riêng, hướng ngoại, lúc nào cũng trong thế biểu dương lực lượng, rất “hoành tráng”, sẵn sàng tấn công, nhất là đối với “tàu lạ” (cf. ca dao bình dân: “Trai [hay ông già] thấy [tàu / của] lạ như quạ thấy gà con”). Cho nên, cổ nhân ta có câu châm ngôn để đời: “Văn mình, vợ người”. Diễn nôm: ai cũng tự khen thơ văn của mình, dù dở ẹc, tự mê, tự sướng, tự phong là số một. Còn vợ mình, trẻ đẹp không cần biết, nhưng bởi cái tội quá quen đường xưa lối cũ, như ngựa, quá nhàm như cơm bữa, luôn luôn thua vợ của thằng cha hàng xóm. Ông chồng nào mà bỗng dưng đem vợ mình ra khen nức nở, thề sống thề chết rằng dù mưa, dù nắng, dù bão tố, “anh vẫn chỉ yêu em” là xạo, là có “ý đồ” gì đó, hoặc something wrong trong não bộ. Các cụ ta nói gì ít khi, hoặc không bao giờ, sai. Chả thế mà trong Thánh Kinh, quyển Exodus (và phim The Ten Commandments, 1956, do Cecil B. DeMille đạo diễn với tài tử Charlton Heston và Yul Brynner), kể việc dân Do Thái sau khi thoát khỏi gông cùm nô lệ từ Ai Cập được Moïse dẫn về miến đất hứa, Chúa đã hiện ra trên núi Sinaï, ban bố cho dân Mười Điều Răn phải giữ, và điều thứ 9 là: “You shall not covet your neighbor’s wife” (dịch nguyên văn: “Ngươi không được ham muốn vợ của người hàng xóm”, không phải câu “Chớ muốn vợ chồng người”, như lời kinh của những ông cố đạo Tây dịch ẩu dành cho bổn đạo An Nam đọc thường ngày). Rõ ràng, Chúa chỉ cảnh cáo đám đực rựa, mà lờ đi các bà các cô. Vì sao? Do hệ thống tâm sinh lý có tính cách phòng thủ, kín đáo, phụ nữ có chồng nói chung –dĩ nhiên, trừ những luật trừ– thường xem tình yêu, tình nghĩa là quan trọng và hấp dẫn hơn nhu cầu thể xác, và không dễ gì mê và muốn ngả vào vòng tay của anh hàng xóm, dù đẹp trai, giàu có cách mấy, đừng tưởng bở. Theo lời của một số phụ nữ quen với tiện nhân, nếu có một thằng chồng tốt mã, nhưng thô bạo, thất học, say xỉn, lười biếng, thì các bà cũng chỉ tủi thân, so sánh với anh chồng hiền lành, chịu làm ăn, lịch sự, chân chỉ hạt bột của chị hàng xóm tốt phước mà thôi, và điều đó không hẳn là có ý ngoại tình, dù là trong tư tưởng. Lục trong kho tàng cách ngôn, châm ngôn Việt Nam ta, không có câu nào dính líu đến cái vụ “chồng người” với nghĩa thèm muốn tình dục. Chỉ có câu: Ông ăn chả bà ăn nem, nhưng trong cảnh huống khác (tại ông “gây sự” trước). Ngoài ra, thì: Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc người, hoặc: Không thương dù có đeo vàng / Bằng thương chiếc áo vá quàng cũng thương.

Cách đây vài năm, tiện nhân được đọc trên Mạng bài của một ông tu-bíp, có lẽ ế khách, hoặc về hưu, rảnh quá, ngồi kể chuyện hai vợ chồng già trên tám bó mà vẫn làm yêu dài dài, và khỏi cần thuốc Minh Mạng, hay Viag-ra, Viag-vô gì ráo trọi. Lúc ấy và ngay bây giờ, tiện nhân không tin, không phải vì ông cụ mất khả năng tác xạ, trái lại thế, nhưng không tin vì địch quân không phải “tàu lạ”, mà chính là bà cụ, tàu quen, đã sống với nhau bao năm qua rồi mà bây giờ vẫn đêm bảy ngày ba, vô ra không kể, như hồi còn mơn mởn đào tơ, thì quả là quá xạo, hoặc họ là một cặp vợ chồng già over-heat hay over hot, một cách bệnh hoạn, pathologiquement, chăng ?

Nhân việc này, tôi nhớ một ông bạn chuyên nghiên cứu về khả năng tình dục của các cụ khứa lão, có kể chuyện dùng thuốc Viagra của hai người quen, một ông cỡ tuổi 78 của Joe Bi Đen: một hôm, Trời thương cho vớ được một tàu lạ, một em bò lạc trẻ đẹp tựa Thúy Kiều, bèn nốc vào 2 viên cho chắc ăn. Ba phút sau, ông ta nằm ngay đơ cán cuốc và ngáy ầm ĩ, lại còn mớ nữa. Cũng vậy, một ông khác, già hơn Bi Đen 2 tuổi, chỉ mới nuốt vào một viên thôi, mà đã sùi bóp mép, mắt trợn ngược, hai tay bắt chuồn chuồn, khiến tàu lạ hốt hoảng gọi 911, và thành thật khai báo với một nhân viên cứu thương, người An Nam: “Dạ, em chưa làm gì gáo (ráo), mà lão ta đã lăn đùng ra, sùi bọt mép, làm em gun (run) quá...”  

Trở lại với các cụ ta ngày xưa. Cũng như những văn nhân tài tử về già khác, cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) trên bảy bó vẫn còn đi hát ả đào. Và còn cưới vợ lúc 73 (cf. giai thoại: khi bị vợ hỏi tuổi, cụ trả lời ỡm ờ, bằng câu thơ chữ Hán: “Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam”, nghĩa là “năm mươi năm trước, anh hai mươi ba”). Hoặc trước đó, cụ Nguyễn Trãi (1380-1442) về hưu rồi, còn cưới nàng Thị Lộ “xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ” làm thiếp. Bây giờ, thấy chung quanh, qua sách báo và trên thực tế, nhan nhản biết bao cụ Việt Kiều lãnh tiền già, tiền bệnh, tiền khùng giả, welfare, food stamps, hùng dũng hồi hương, viện cớ thèm chùm khế ngọt quê hương, hoặc xây mộ cho cha mẹ, ông bà, nhưng thực ra chỉ muốn trả thù dân tộc (mà Phạm Duy là một, đã thú nhận sáng tác bài Thiên Duyên Tiền Định, khi nằm trong khách sạn với một em chân dài), nghĩa là cặp kè, ôm ấp những cô đáng tuổi con tuổi cháu, khiến thiên hạ đàm tiếu, chế nhạo, không sai, là “trâu già gặm cỏ non”. Về kỹ thuật, chuyện “gặm cỏ non” ấy có thể thực hiện (trừ những cụ máy móc hư hại nặng, vô phương recycle) và một lần nữa chứng minh lời của tiện nhân: đàn ông già mà còn ham muốn xác thịt hay không, làm yêu có “chất lượng” hay không, là tùy “người đối diện”. Về mặt đạo lý, chê bỏ “cỏ già”, tìm gặm “cỏ non” lại là một chuyện khác.

Ngoài ra, lời cảnh cáo của Cicero có lý lắm: thú vui nhục dục có tác hại trên sức khỏe của đàn ông nói chung, bất kể hạng tuổi, và đặc biệt các cụ ông nói riêng. Kìa xem, các vua chúa ngày xưa ham mê sắc dục quá độ, ông nào không chết sớm thì cũng trở thành “ngọa triều”, dù được hỗ trợ bởi thần dược. Thú vui, triết gia Latin gợi ý, mà tuổi già cần tận hưởng, đó là hưởng nhàn, thú vui tao nhã, sống đời bình dị của dân quê, viết văn, làm thơ, vui cùng trăng nước. Như hầu hết các cụ của ta ngày xưa đã làm theo.

4) Tuổi già là dấu hiệu tiên phong của cái chết (XIX, Quarta restat causa, quae maxime angere atque sollicitam habere nostram aetatem uidetur, adpropinquatio mortis, quae certe a senectute non potest esse longe): Cuối cùng, tuổi già không phải sợ cái chết, nhưng đó là lúc phải nhìn và thấy nó gần hơn, và nếu được đánh giá đúng, cái chết sẽ là chặng cuối cùng mơ ước của một cuộc hành trình lâu dài và khổ sở. Ở tuổi hoa niên, người ta không có điều gì chắc về cuộc đời cho bằng khi bước vào thời kỳ xế bóng: Cái chết của một người già sẽ tự nhiên hơn và êm đềm hơn [i.e. hơn cái chết của một người trẻ]: tuổi già như một trái cây chín rụng, rất nhẹ nhàng, thanh thản. Phải chăng tất cả mọi sự đều đi đến kết thúc đó ư và có phải chết là một điều tốt đẹp khi sự no đầy, chín muồi đã đến? Tuy nhiên điều đã tăng nghị lực cho con người để trực diện cái chết mà không sợ hãi, đó là hy vọng vào sự bất tử [ở đời sau]. Cato cho những bạn trẻ của mình thấy rằng tất cả những tâm hồn cao thượng đều đã linh cảm về sự bất tử và gặp được nó bên trên những nấm mồ; ông nhắc lại những lập luận của những triết gia phái Socrate và tất cả những chứng cớ hay nhất mà trong thời cổ đại người ta đưa ra để chứng minh chân lý cao cả –đưọc dạy bởi Platon và ông thầy siêu việt của mình. Cato nói: “Ôi đẹp thay cái ngày mà tôi sẽ được đi dự buổi gặp gỡ nơi thiên đình, buổi họp thần linh của các tâm hồn, sẽ được giải thoát khỏi sự chung đụng bẩn thỉu với đám người hèn hạ. Tôi sẽ được sum họp với tất cả những vĩ nhân mà tôi đã nói đến, và giữa họ, đứa con trai yêu quý của tôi, là người tốt nhất, nhân đức nhất trên đời.” (O praeclarum diem, cum in illud diuinum animorum concilium coetumque proficiscar cumque ex hac turba et conluuione discedam! Proficiscar enim non ad eos solum uiros, de quibus ante dixi, uerum etiam ad Catonem meum, quo nemo uir melior natus est, nemo pietate praestantior...) Tuổi già là gì, nếu không phải là bình minh của một ngày vĩnh cửu?

Lời bàn: Khác với Cicero, Montaigne đã dành nhiều đoạn dài để bàn về sự chết. Điều làm ông quan tâm không phải là tranh luận về câu hỏi chúng ta sẽ ra sao sau khi chết, mà là thái độ ta phải có trước khi cái chết xảy đến. Như vậy ông sống trong trạng thái phi thời gian: sống từng ngày và đợi cái chết từng ngày, biết chắc rằng mình không bất tử. Ông viết: “Le plus long de mes desseins n’a pas un an d’étendue: je ne pense désormais qu’à finir; je me défais de toutes nouvelles espérances et entreprises; je prends mon dernier congé de tous les lieux que je laisse, et me dépossède tous les jours de ce que j’ai” (Essais, II, 28, 29 “Kế hoạch dài nhất của tôi sẽ không đầy một năm: từ nay tôi sẽ chỉ nghĩ thực hiện nó cho xong; tôi cởi bỏ những hy vọng mới và công việc mới; tôi từ giã lần cuối những nơi tôi bỏ lại, và mỗi ngày tôi tự tháo gỡ những gì tôi đang có”).

Montaigne chống quan niệm của phái Khắc Kỷ, mà triết gia Latin Sénèque (4BC-AD65, thầy dạy của Néron, sau bị hôn quân ép tự tử) là một tín đồ trung thành, rất thịnh hành vào cuối thời Trung Cổ, theo đó công việc duy nhất của một người già là cam phận, chuẩn bị chết như thế nào (Essais III, 12). Cũng như Cicero, Montaigne không sợ chết, trái lại xem cái chết như một biến cố tự nhiên. Điều làm ông sợ nhất là cái mà ông gọi “le masque de la mort” (Essais, I, 20, “mặt nạ của sự chết”), tức là những nghi thức, lễ lạt chung quanh người chết, tiếng gào khóc của mẹ, vợ, con cái, sự thăm viếng của bạn bè, người thân, một căn phòng thiếu ánh sáng, hàng nến thắp, bác sĩ và những vị tu hành; “Somme toute horreur et tout effroi autour de nous. Nous voilà déjà ensevelis et enterrés” (cf sđd. “Tóm lại, thật là khiếp sợ và kinh khủng chung quanh chúng ta. Xem kìa, chúng ta đã bị tẩm liệm và chôn cất rồi”).

Thời Montaigne chưa có vụ phủ cờ. Đây là một vấn đề “thời sự” vô cùng tế nhị, nhậy cảm. Trên Mạng và báo giấy, có nhiều tranh cãi gay gắt về việc này, và tiện nhân thấy bên nào cũng có lý. Phủ, hay không phủ cờ, là sự quyết định tối hậu, lúc nào cũng đúng, của người sắp lìa đời hoặc tang gia, mà ta phải tôn trọng. Riêng tiện nhân, tự nhận mình không bao giờ xứng đáng với vinh dự cao quý ấy mà tổ quốc dành cho, càng không xứng đáng khi đã không làm tròn nhiệm vụ đối với đất nước (như hai câu thơ não lòng của thi sĩ Hà Huyền Chi: “Mẹ ơi con mẹ đã già / Giữ quê quê mất giữ nhà nhà tan”), dù có biện minh cách nào chăng nữa. Và nếu muốn (như một cô còn trẻ chưa bao giờ là quân nhân phát biểu trên diễn đàn) có một lá cờ trên hoặc trong quan tài để biểu lộ lý tưởng quốc gia và tình yêu đất nước, tiện nhân sẽ yêu cầu gia đình tự tay thực hiện điều ấy trong vòng riêng tư, không dám làm phiền toán chung sự hải ngoại, gồm những đồng đội sĩ quan rất oai hùng trước đây.
 
B. Tiểu luận được kết thúc, phần XXIII, bởi những câu như sau mà tiện nhân xin trích dịch nguyên văn:

“Quod si non sumus inmortales futuri, tamen exstingui homini suo tempore optabile est. Nam habet natura, ut aliarum omnium rerum, sic uiuendi modum. Senectus autem aetatis est peractio tamquam fabulae, cuius defatigationem fugere debemus, praesertim adiuncta satietate. Haec habui, de senectute quae dicerem, ad quam utinam perueniatis, ut ea, quae ex me audistis, re experti probare possitis”.

(“Cho dù chúng ta không bất tử, nhưng đó luôn luôn sẽ là một ân huệ cho con người được an nghỉ đúng thời điểm. Tất cả do sự tính toán bởi thiên nhiên, tất cả phải kết thúc, ngày tháng của con người cũng như tất cả những cái khác. Tuổi già là hồi kết của tuổi đời cũng như của một vở kịch, mà nếu kéo quá dài sẽ làm ta mệt, phải bỏ sân khấu, đi trốn sự chán chê. Đó là điều mà tôi muốn nói với các bạn về tuổi già. Cầu mong các bạn một ngày sẽ đến giai đoạn đó và kinh nghiệm của các bạn sẽ chứng minh điều tôi mới nói”).

Lời bàn: Cicero đã nói quá rõ, và quá đúng, về tuổi già cũng như cái chết. Những triết gia thời cổ đại Hy Lạp và sau này các nhà thần học Công giáo từ Trung Cổ thường ví đời sống là một cuộc hành trình, không hơn không kém, trên cõi trần gian tạm bợ. Triết lý của Cicero không khác gì, chỉ thêm ẩn dụ độc đáo của một nhà hùng biện: đời là một vở kịch lớn, mà tuổi già là màn kết thúc, cần phải được chấm dứt bằng sự rút lui khỏi sân khấu hoặc cái chết, đúng thời điểm, của nhân vật trước khi khán giả bắt đầu thấy chán ngán, hoặc trước khi những em-xi đám cưới chuyên nghiệp vô duyên lải nhải “xin quý vị cho hai họ nhà trai nhà gái một tràng pháo tay thật lớn ạ...”.

Dĩ Dật Đãi Lao







John Paul Mac Isaac, người thợ sửa các máy tính của Hunter Biden tại Wilmington, Delaware

 


FBI nói: "Hãy giữ im lặng”: Thợ sửa máy tính của Hunter Biden lo sợ bị thủ tiêu.
Chủ cửa hàng máy tính Mac là John Paul Mac Isaac cho biết anh là người đã chuyển email của Hunter Biden cho FBI và luật sư Rudy Giuliani của Tổng thống Trump. Nhưng trước khi giao máy tính, anh đã “tự vệ” bằng cách giữ một bản sao vì lo sợ mình sẽ bị thủ tiêu bởi đã nắm giữ những tình tiết mờ ám động trời của gia đình nhà Biden...
Anh John Paul Mac Isaac (44 tuổi) ở Wilmington, Delaware cho biết ban đầu anh không nhận ra khách hàng của mình là ai. Nhưng khi anh ấy nhập tên vào máy tính, Paul Mac Isaac hiểu rằng anh đã trở nên 'nổi tiếng' theo cách không mong muốn.
Tháng 4/2019, có một người đàn ông đến cửa hàng của John Paul MacIsaac và yêu cầu sửa máy tính xách tay. Chủ cửa hàng máy tính cho biết anh đã rất sợ hãi khi thấy tên Hunter xuất hiện dày đặc trên truyền thông vào mùa hè năm 2019.
Hunter Biden đã để lại ba chiếc máy tính xách tay Apple bị hỏng tại cửa hàng sửa chữa nhưng đã không đến để lấy lại máy tính, cũng như thanh toán hóa đơn 85 đô la để khôi phục dữ liệu trong máy tính. Hai chiếc máy tính trong tình trạng bị ngấm nước và một chiếc bị hỏng bàn phím. Người sửa máy tính Paul Mac Isaac cho biết 'thông tin cá nhân' ở trong máy tính khá 'lộn xộn'.
Paul Mac Isaac xác nhận rằng anh đã giao máy tính xách tay cho FBI vào tháng 12/2019, khi tuyên bố rằng Hunter Biden “chỉ là một khách hàng bình thường muốn để sửa máy tính”, nhưng sau đó MacIsaac đã nhận ra anh ta có người cha là ứng cử viên Tổng thống Đảng Dân chủ.
Trong suốt mùa hè, Paul Mac Isaac bắt đầu quan tâm đến ổ cứng với những bí mật của Hunter Biden đang vô tình “nằm” trong cửa hàng của anh. Trước khi giao cho FBI, Paul Mac Isaac đã tạo một bản sao, truy xuất dữ liệu và hình ảnh nội dung trong máy tính vào một ổ cứng riêng biệt để “bảo vệ bản thân”.
Anh cũng cho biết đã cố gắng liên lạc với Hunter Biden “nhiều lần, nhưng không có kết quả”.
Khi Hunter Biden không quay lại cửa hàng để trả chi phí mà Paul Mac Isaac đã sửa chữa thiết bị, đương nhiên chủ cửa hàng máy tính đã trở thành chủ tài sản hợp pháp của 3 chiếc máy tính Mac theo các điều khoản của thỏa thuận sửa chữa với Hunter Biden. Điều này trái ngược với thông tin sai lệch từ Twitter và những người theo chủ nghĩa tự do cho rằng, nội dung của máy tính xách tay đã bị "tấn công".
Paul Mac Isaac đã tiết lộ các giao dịch email của Hunter và Joe Biden với một giám đốc điều hành của Công ty Burisma và nói với các phóng viên rằng, FBI đã yêu cầu anh giữ im lặng về việc sở hữu những chiếc máy tính xách tay của Hunter Biden sau khi họ thu hồi chúng thông qua trát đòi hầu tòa liên bang.
Paul Mac Isaac tiết lộ: "Giữa mùa hè, tôi bắt đầu lo lắng vì thấy những tin tức trên các tờ báo và mạng trực tuyến, và tôi nghĩ rằng tôi đã nhận ra cái tên đó". Anh nhắc đến Hunter Biden khi đọc các nghi vấn về mối liên kết của Hunter Biden với vụ Ukraine.
Trong tâm trạng bất an, Paul Mac Isaac kể rằng anh đã tìm đến một người bạn đáng tin cậy để xin lời khuyên.
Ngày 9/12/2019, hai đặc vụ của FBI - có thể là từ văn phòng ở Baltimore - đã đến nhận máy tính xách tay kèm theo trát đòi hầu tòa. Paul Mac Isaac kể rằng ngày hôm sau, FBI đã gọi điện cho anh để yêu cầu giúp máy tính khởi động.
Mac Isaac kể rằng lần tiếp theo anh lại nhận được một cú gọi từ FBI: “Một trong những nhân viên đã gọi cho tôi ba tuần sau đó và nói rằng người đại diện đã cảnh báo không được nói chuyện với bất kỳ ai đến hỏi về chiếc máy tính xách tay”. Thay vào đó, FBI bảo chủ cửa hiệu máy tính giữ im lặng về việc anh ta phát hiện ra nội dung của chiếc máy tính xách tay.
Khi được hỏi “Đó sẽ là ai?”, Paul Mac Isaac thuật lại rằng FBI nói: 'Biden, bất kỳ ai đại diện cho Hunter'.
Paul Mac Isaac cho biết anh đã chuyển máy tính xách tay cho luật sư Rudy Giuliani vì lo sợ bị thủ tiêu vì những thứ quan trọng anh đang sở hữu: 'Tôi khá mạnh miệng về việc không muốn bị sát hại.'
Mac Isaac đặt câu hỏi: “Bạn có thực sự nghĩ rằng Joe Biden sẽ khiến cuộc sống của bạn gặp nguy hiểm không? Chắc chắn là những người làm việc cho ông ấy".
Anh đề cập đến vụ sát hại Seth Rich, một cộng sự chính trị của đảng Dân chủ đã chết một cách bí ẩn ở Washington DC vào năm 2016, và cho đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Có nguồn tin cho rằng, Seth Rich bị thủ tiêu vì ông này đã đóng một vai trò trong việc làm rò rỉ email của Hillary Clinton.
Khi được hỏi anh nghĩ ai sẽ giết anh, Paul Mac Isaac nói: “Epstein không thực sự treo cổ tự tử, anh chàng này bị bắn khi chạy bộ. 'Tôi nghĩ rằng đó không phải là toàn bộ do chính phủ, nhưng tôi nghĩ có một phần của những người có động cơ chính trị ở đất nước này đã làm những điều khủng khiếp. Tôi không muốn chịu kết cục giống như vậy”.
Mac Isaac nói thêm: “Họ có thể biết tôi có một bản sao bởi vì tôi đã lên tiếng về việc không muốn bị sát hại”.
Khi có những nghi vấn về các vụ “giết người diệt khẩu” có liên quan tới gia đình Clinton được phổ biến rộng rãi trên các kênh tin tức và mạng xã hội, Mac Isaac cũng lo sợ mình sẽ bị thêm vào danh sách khá dài những kẻ thù chính trị của Đảng Dân chủ, những người đột ngột qua đời trong những hoàn cảnh bí ẩn.
“Tôi sợ, tôi đã liên hệ với một số người mà tôi tin tưởng, điều đó có thể giúp tôi liên lạc với FBI,” Mac Issac nói với Daily Beast. "Sau đó, họ (FBI) xuất hiện".
Ngoài việc Pau Mac Issac báo cáo việc sở hữu máy tính xách tay của mình cho FBI, anh cũng đã đưa thông tin có trong máy tính xách tay cho Thượng nghị sĩ Mike Lee của bang Utah và cựu Thị trưởng Thành phố New York, luật sư Rudy Giuliani. Luật sư Rudy Giuliani đã cung cấp một số thông tin nội dung cho tờ New York Post, và dẫn đến vụ scandal động trời này.

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2020

Sông yêu sóng ngàn thước…- Tác giả Bs Trần Xuân Ninh

 



Bồ Đề Đạt Ma sáng tổ của Thiền Tông Trung quốc nói rằng “Phù nhập đạo đa đồ, yếu nhi ngôn chi bất xuất nhị chủng. Nhất thị lý nhập. Nhị thị hành nhập”. Nghĩa là Phàm đi vào đạo có nhiều đường nhưng nói tóm lại không ra ngoài hai loại. Một là vào bằng lý. Hai là vào bằng hành.

Vào đạo bằng lý, thì cần nghe, suy nghĩ để hiểu và thấy đúng rồi thực hành tu sửa. Tức là theo đúng tiến trình của ba chữ văn tư tu Phật dặn lại trước khi nhập diệt. Theo kinh Đại bát niết bàn, trước giờ đức Phật nhập diệt sau khi đã giảng đạo 45 năm, chúng Phật tử van vỉ cầu xin Phật nán lại hướng dẫn, vì cảm thấy vẫn là chưa đủ, bơ vơ không biết dựa vào đâu được. Thì Phật nói rằng ta đi rồi thì còn Pháp. Nhưng cũng đừng có nhắm mắt tin nghe vì thương yêu ta, hay vì rằng ta là thầy. Mà phải nghe (văn) rồi suy nghĩ cho kỹ để thấy đúng sai (tư). Thấy đúng sai rồi thì mới biết là tu thế nào. Đi theo đường lý như vậy là rất khó, phải thực sự là một con người có trí óc để mà nhận thức theo tiến trình thọ, tưởng, hành, thức như kinh Phật nói.

Vào đạo bằng hành, thì chỉ cần tin mà tụng kinh niệm Phật, cũng vào được đạo. Tức là kết quả cũng vẫn là thân tâm an lạc. Theo đường hành nói chung dễ hơn. Đây là đường lối của pháp môn Tịnh độ.

Thực thế có bài kệ rằng

“Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba, Dục thoát luân hồi khổ, tảo cấp niệm di đà”. Nghĩa là Sông yêu sóng ngàn thước, Bể khổ sóng muôn trùng; Muốn thoát khỏi nỗi khổ luân hồi thì hãy sớm niệm Di Đà. Di đà là phật A Di Đà. Câu hỏi nẩy ra là tại sao niệm A di đà Phật mà lại thoát được khổ não. Và có thực như thế không? Nói đến tình yêu thì ai cũng nghĩ tới sự say mê, hoan lạc ở những mức độ khác nhau. Nhưng thực tế không hẳn là như thế. Cho nên Hồ Dzếnh mới viết trong bài thơ Ngập ngừng rằng “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”. Tôi lần đầu tiên nghe hai câu thơ này từ một chú em họ ngây thơ 17 tuổi thốt ra trong lúc say vì chai bia 33 uống lần đầu tiên trong đời, ngày người yêu thầm kín đi lấy chồng. Nhẹ nhàng đằm thắm thì như bài thơ Khóc Bằng Phi của vua Tự Đức, cực tả bởi hai câu “Đập cố kính ra tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại để dành hơi”. Ước ao chờ đợi ngoài sương lạnh thì như Vũ Hoàng Chương:

“Ngoài hiên vắng gió đưa vàng rụng đến
Ngọn tường vi xuống mãi chiếc liềm cong
Đêm gần khuya, sương đổ,
Anh thấy ướt vai áo
Anh thấy lạnh trong lòng”

Những lời thơ này là diễn tả tình trạng yêu mà không được đáp ứng, không trọn vẹn hay là yêu rồi bị mất. Cho nên yêu mà thành khổ. Còn có những trường hợp có yêu, được yêu mà cũng vẫn khổ. Là bởi vì ai cũng biết rằng yêu quá thành cuồng, thành ghen mà khổ. Như Nguyễn Bính đã viết trong bài “Hỡi cô nhân tình bé của tôi ơi”:

“Tôi muốn cô đừng nghĩ tới ai
Đừng hôn dù thấy đóa hoa tươi
Đừng ôm gối chiếc đêm nằm ngủ
Đừng tắm chiều nay bể lắm người

Tôi muốn mùi thơm của nước hoa
Mà cô thường xức chẳng bay xa
Chẳng làm ngây ngất người qua lại
Dẫu chỉ qua rồi khách lại qua”

Rõ ràng là con sông tình ái sóng cao ngàn thước. Ngồi trên sóng lướt đi đó mà rồi trồi lên trụt xuống cả đời. Như Vũ Hoàng Chương là một trường hợp.

Luân hồi, vòng xoay là như thế. Ngay trong một đời. Cột mốc luân hồi chẳng phải là cái chết như nhiều người tưởng. Luân hồi là vòng xoay thất tình lục dục: Hỉ nộ ai lạc ái ố dục trong cuộc đời, trong một đời. Bởi vì Vũ Hoàng Chương qua được trận 12 tháng 6 với “Kiều Thu hề, Tố hỡi em”… thì lại đến chuyện khác viết ra trong mấy câu:

“Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai.”

Và chuyện khác nữa, năm 1959 khi Vũ hoàng Chương 33 tuổi được chính phủ VNCH cử đi dự hội nghị đệ tứ Quốc tế Thi ca lưỡng niên tại Knockke-le Zoute (Bỉ quốc). Trong hội nghị này Vũ Hoàng Chương gặp nữ thi sĩ Ysabel Baes tuổi mới 15. Hai người đã làm thơ đối đáp, và Ysabel đã dịch một số bài thơ sang tiếng Anh in thành sách.

Thơ Vũ Hoàng Chương, Ysabel Baes dĩch

Thơ Vũ Hoàng Chương, Ysabel Baes dĩch

Chia tay, là xong. Không bao giờ gặp lại hay nghe tin gì về Ysabel Baes dẫu bỏ công tìm.

Cho nên, muốn thoát khỏi vòng “khổ hải vạn trùng ba”, thì đơn giản như trong bài kệ dạy là “tảo cấp niệm di đà”. Nhưng mà liệu có nhiều người muốn thoát vòng tục lụy như mô tả trong những thơ văn Việt nam lược dẫn ở trên hay không? Hay đa số thích chìm trong cái “thú đau thương” của cuộc sống? Và nếu Niệm di đà thì có thực hiệu nghiệm hay không? Những tín đồ Phật giáo Việt nam phần nào có tin như thế. Cho nên trong chính điện các chùa thường là có bàn thờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở giữa, hai bên là bàn thờ Quán Thế Âm bồ tát (cứu khổ hiện tiền) và A di Đà Phật (cứu khổ khi chết). Nhưng không “niệm sớm” tức là tảo cấp mà thường là chỉ khi nào đến bước đường cùng, tuyệt vọng. Thực vậy, đó là trường hợp những nguời đi lương, nghĩa là Việt nam truyền thống theo tinh thần tam giáo Khổng Lão Phật. Không thực sự là những Phật tử thuần thành đi chùa thường xuyên, không thực sự tuyệt đối tin vào một sức mạnh siêu nhiên có thể cứu khổ, cụ thể tác động lên cuộc sống của mình.  Nghĩa là không cầu mong hoàn toàn ở tha lực giúp đỡ. Cho nên không có  câu trả lời dứt khoát. Nhưng có những người vượt biển kể rằng trong lúc lương thực hết, thuyền hỏng máy trôi nổi giữa biển sóng lớn tưởng chìm thì nhiều người đã niệm Quan Thế Âm Bồ tát, rồi sau đó có tầu ngoại quốc cứu. Mặc dầu trước đó đã có nhiều tầu ngoại quốc đi qua nhưng chẳng hề đoái hoài. Lại có người nói rằng vì cái chết kể là 100% không thể nào tránh khỏi, cho nên chỉ niệm Nam mô A di Đà Phật để được đón về cõi Tây phương cực lạc, và trở thành bình tĩnh an nhiên lạ lùng. Sự bình tĩnh an nhiên này đã được đề cập đến trong cuốn Sông lửa Sông nước (River of fire, River of Water) của giáo sư tiến sĩ Taitetsu Unno tín đồ Tịnh độ tông Nhật bản.  Unno là trưởng  khoa tôn giáo ở Smith College, Northampton, Massachussetts, dậy về Văn hóa, Thần đạo và Phật giáo Nhật bản. Unno nói rõ rằng chỉ bằng sự tụng lên mấy tiếng Nam mô A di đà Phật thường xuyên thì đã có sức mạnh giữ gìn sức khỏe, chống trả bệnh tật, ý thức được đúng mức sự sống giới hạn nhỏ bé của con người trong giòng sống vô tận không dứt.

Lòng tin trong Tịnh độ tông nói chung không khác mấy lòng tin nơi những người Thiên Chúa giáo, dựa trên tha lực cứu vớt.

Nỗi lo từ cây xanh đô thị





15 Dân biểu Hoa Kỳ thúc giục Bộ Ngoại giao Mỹ có báo cáo về vụ Đồng Tâm





Hồi sinh sông Tô Lịch theo cách nào?





Đồng Lầy, thơ Nguyễn Chí Thiện, đọc thơ Lê Tuấn





Ngục Ca, nhạc Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Chí Thiện





CD Hoa Địa Ngục, thơ Nguyễn chí Thiện, ngâm thơ Hoàng Oanh





CD Trả Ta Sông Núi





Nhớ Năm Thìn - Tác giả Sơn Nam

 

Gió lạnh, mưa lê thê. Tôi hay tin nạn bão lụt miền Trung quá trễ. Những con số 7000 người chết, hàng triệu người không nhà cửa đã vượt ngoài sự tưởng tượng của tôi. Từ hồi lớn khôn đến giờ, tôi chưa từng thấy hàng trăm người chết - thấy tản mát, lần nào cả. Trong nghĩa địa, có hàng ngàn ngôi mộ nhưng là những ngôi mộ sạch sẽ, xác chết nằm yên ấm trong quan tài và trước khi hạ huyệt, người thiện có được an ủi bằng nước mắt của thân nhân bạn hữu, vài cục đất, vài cánh hoa ném xuống... Đi viếng một nghĩa đĩa có 7000 ngôi mộ, có lẽ tôi chỉ buồn buồn cho kiếp sống, thế thôi. Tôi nghĩ đến bảy ngàn - và hơn bảy ngàn xác chết của đồng bào miền Trung, ở một vùng mà từ thuở bé đến giờ tôi chưa từng đặt chân tới. Cớ sao dãy núi Trường Sơn lại giận dữ, trở thành một hung thần? Và biển Thái Bình lại trở chứng đột ngột? Nhưng trách chi núi, trách chi biển! Nếu suy luận miền Nam như thế, tôi sẽ trở thành một người lẩm cẩm, đóng cửa rút cầu, xa thực tế. Ngày xưa, đã nhiều người làm văn tế suông với những câu rất sáo lập đi lập lại. Lại còn những nhà hiền triết ngồi yên ấm bên chén trà nhìn qua cửa sổ để cảm thông với băng giá bên ngoài. Và những thi sĩ đốt lò hương trầm, uống rượu nồng, thả hồn đến tận chốn sa trường than khóc giùm các chiến sĩ đang chinh Đông chinh Tây. Rồi thương tiếc cho những nàng chinh phụ ở nhà đang ôm gối mộng nhìn trăng.
Không co bài văn tế nào nói hết nỗi đau khổ của kẻ chết, người sống trong trường hợp đặc biệt này. Bảy ngàn xác chết, nếu chất thành đống, ắt vun lên như quả núi. Oan ức biết là bao. Suốt 20 năm chiến tranh, họ đã sống, đã đau khổ, đã yêu nước, đã cày ruộng cuốc đất, để rồi chết vì một lý do tức tưởi như vậy, trong khoảnh khắc. Lại còn hàng triệu người không nhà. Một triệu tức là phân nửa dân số Sài-gòn, Chợ-lớn. Tôi chưa hình dung nổi một rừng người đông đảo như thế. Mấy năm nay, tôi chỉ thấy vài chục người ngủ ngoài lề phố, chung quanh nhà chú Hỏa Sài-gòn. Vài chục người không nhà, cảnh tượng ấy cũng đủ làm cho tôi chạnh lòng rồi. Một triệu là bao nhiêu! Nếu họ ngồi đâu lưng với nhau hoặc nằm gần nhau thì sẽ chiếm bao nhiêu cây số bề dài? Lố bịch quá! Giờ phút này những con người có lương tâm không được quyền "giải trí" hoặc tò mò "tìm hiểu" theo lối đó, lối tìm hiểu, giải trí của những kẻ sống ngoại cuộc, thủ lợi, ích kỷ tột độ và thông minh lặt vặt.
Tôi cúi đầu, cầm viết. Viết hiệu triệu chăng? Tôi chưa đủ thẩm quyền để hiệu triệu: "Hỡi đồng bào, chúng ta nên...". Bấy lâu nay, tôi mang chứng bệnh "suy cổ nghiệm kim". Tôi sực nhớ đến bài vè về Bão lụt năm Thìn, đăng trong Revue Indochinoise năm 1904, một loại tạp chí ít ai còn giữ được và xưa kia chỉ lưu hành trong một số người được thực dân ưu đãi. Sáu mươi năm về trước. Hơn nửa thế kỷ. Vào thư viện để lục lạo mớ giấy đầy bụi bặm ấy chăng? Để giải trí, để hoài cổ theo lối quí tộc, sang trọng! Tôi thiếu can đảm để làm chuyện ấy. Ra ngoài Trung để chứng kiến thảm họa, tìm đề tài chăng? Tốn tiền, vô ích. Tình thế cấp bách lắm rồi. Sự thật đang diễn biến thiên hình vạn trạng. Nhiều người chết, không được người sống đếm số - vì xác họ đã mất, mất trước khi người làm "công việc đếm" chú ý tìm họ. Nhiều người không nhà đang sắp sửa xuống ngủ dưới lòng đất vì bệnh, vì đói. Nhiều người mạnh khỏe đang trở thành phế nhân. Nhiều gia đình không còn là gia đình và người gia trưởng đang chết hoặc đã chết. Vợ con của họ sắp tung ra tám hướng trời; từ buổi này phải xa nhau, tan tác để mạnh ai nấy tìm sanh kế.
°
Tôi ra đường thở dài. Sở trường của tôi là cầm bút. Cái sở trường ấy nên sử dụng như thế nào cho có hiệu quả? Viết một bài để cho người còn sống đọc lên. Những người sống ở xa trung tâm bão lụt, đủ tiền mua báo hoặc đủ thời giờ mượn báo của người láng giềng mà đọc qua loa. Trời lạnh lắm. Chưa chắc thiên hạ đọc báo. Tôi tìm một đề tài về bão lụt. Thứ lụt thường niên ở Hậu Giang, vùng làm lúa xạ, tôi đã thấy rồi. Nó khác hẳn với nạn lụt ở miền Trung. Đài khí tượng cho biết: Bão có thể thổi qua Sài-gòn nhưng vào giờ chót, bão lại di chuyển ra miền Trung một lần nữa. Sài-gòn không bao giờ gặp bão to.
Tôi bước lầm lũi, lần hồi đến một ngõ hẻm ở đường T. B. T. để gặp lão Tư Nê. Lão ở một quê xứ với tôi. Tôi nhớ rõ: vào những năm "thái bình thịnh vượng" hễ đến đâu lão cũng bàn tới bàn lui chuyện bão lụt năm Thìn, tại Gò Công. Lão khoe khoang:
- Tôi sống trong cảnh đó mà.
Có người chất vấn:
- Năm Giáp Thìn, đời vua Thành Thái, lão mấy tuổi?
Lão đáp:
- Mười lăm tuổi.
- Bốn năm chục năm trôi qua, làm sao lão nhớ được chuyện hồi thuở mười lăm?
- Sao không nhớ! Chuyện thiên tai, người ta nhớ đến già, đến chết, truyền tụng cho con cháu, đâu phải để quên hoặc nhớ lai rai như chuyện trai gái, chuyện thua cờ bạc. Thảm thiết lắm.
Hồi mấy năm xưa đó, lão phổ biến hai câu hát về bão lụt năm Thìn:
- Gặp mặt em đây, mới biết em còn,
Hồi năm Thìn bão lụt, anh khóc mòn con ngươi.
và:
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc,
Gió nào độc bằng gió Gò Công...
Lão nói tiếp:
- Hồi trước, người ta hát: "... Đèn Châu Đốc, Đất nào dốc bằng dốc cho Nam Vang. Một tiếng em than, hai hàng lụy nhỏ. Có một mẹ già, biết bỏ cho ai." Sau trận lụt Gò Công hồi năm Thìn, câu hát sửa lại rằng: "... Gió nào độc bằng gió Gò Công. Một trận Đông Phong, xiêu vợ lạc chồng. Em ngồi đây mà nhớ lại, nước mắt hồng tuôn rơi."
Từ hồi tạm biệt với lão Tư Nê, tôi lên Sài-gòn, thỉnh thoảng lúc túng đề tài "Chuyện xưa tích cũ", tôi gợi lại hình ảnh bão lụt Gò Công gọi là để mua vui một vài trống canh cho thiên hạ. Tư Nê lên Sài-gòn, trễ hơn tôi; hơn bảy mươi tuổi rồi còn làm ăn gì được nữa. Lão sống nhờ sự "hiểu biết" của đứa con trai út chạy xich lô máy. Thời buổi loạn lạc, còn hy sinh nuôi cha, còn sống gần cha là điều hiếm có. Nhà lão khá đông, thêm năm bảy đứa cháu nội; đứa con trai út có sức xoay trở, giành giựt từng thanh củi quế, từng nắm gạo châu. Mưa gió bấc năm ngoái, lão Tư Nê trở bệnh ho lao ho tốn gì, tưởng đâu sẽ nằm yên giấc trên nghĩa địa Chí Hòa. Ai dè trời còn bắt lão sống, sống để mà thông cảm với nạn bão lụt Giáp Thìn, sáu mươi năm đáo lại. Lần Giáp Thìn này, chắc chắn là lần Giáp Thìn cuối cùng của đời lão. Tuy ở xa trận bão, lão hãy tin rất sớm nhờ cái ra-dô Transistor, nhờ hình ảnh trên báo hàng ngày, hàng chục thứ báo. Thanh niên bây giờ mê "xi-nê-ma" như hồi thuở nọ, lứa thanh niên mười lăm tuổi của lão mê hát bội. Máy bay bay rền trời, ngày như đêm, nhiều hơn tiếng sáo diều. Và chung quanh lão, xe hơi nhiều hơn trâu bò ở xóm nhỏ, thuộc tỉnh Gò Công thời xa lơ xa lắc.
°
- Cháu muốn hỏi thêm về bão lụt Gò Công để đăng báo hả? Xưa lắm rồi. Đúng sáu mươi cuốn lịch trên nóc nhà.
Tôi hỏi:
- Thưa bác có phải là mấy cuốn lịch Tàu mỗi quyển xem trọn năm, trong đó nào là tử vi, ngày tốt tháng xấu...
- Âm lịch... nói bậy bạ vậy mà đúng. Bây giờ, thứ lịch đó còn bán lai rai ở Chợ-lớn, ghi rõ thời tiết từng ngày, phương hướng xuất hành... Mỗi năm, mình mua một cuốn, xem xong thì treo nó lên nóc nhà. Đúng sáu mươi năm, tức là sáu mươi cuốn, nếu mình treo đúng thứ tự. Giáp Thìn và Ất Tỵ, Bính Ngọ... thì cứ sao y bổn cũ mà xài, khỏi cần mua thêm cuốn nào khác. Hồi đó, bác để dành đâu được bốn chục cuốn rồi chạy giặc liên miên.
- Bây giờ, người ta xài thứ lịch khác...
Tôi nói lẩm bẩm như vậy. Trên nóc nhà lão Tư Nê, có đến hai tấm lịch gỡ từng ngày nhưng dường như mấy ngày rày con cháu của lão quên gỡ. Tấm lịch này, ba mươi tháng mười. Tấm kia, ba mươi tháng mười một, có lẽ vì con nít xé quá nhiều. Lại còn tấm lịch xài mãn năm, dán trên vách, sắp tróc vì keo rã hồ tan khi mưa bay gió tạt. Tặng phẩm bất ngờ của nhật báo nào đó, phục vụ bạn đọc. Thanh Nga, Thanh Thúy gì đó cười mơ hồ bên cạnh núi Phú Sĩ Sơn và đảo Hạ Uy Di. Suốt năm cười mãi.
Lão Tư Nê vụt đứng dậy, chạy ra cửa, quát to:
- Hai, Ba, Hùng... vô đây. Kiếm cái áo khác bận vô. Sổ mũi đó.
Rồi lão day lại phía tôi:
- Mấy đứa cháu nội. Nó liến khỉ, chịu không nổi.
Tôi tìm cách gợi lại chuyện bão lụt Năm Thìn.
- Thưa bác...
- À! Để tôi nói tiếp. Bây giờ khác rồi.
- Thưa bác, nhưng người ta chết ngộp, mất xác như hồi xưa. Nhờ bác nói lại vài chi tiết... để viết lên báo. Chẳng lẽ cháu ra tận ngoài miền Trung.
- Thì năm đó, cuối tháng Tư chớ không phải tháng Mười. Đầu mùa mưa, ai cũng tưởng là không có sao. Dè đâu, gió trở ngọn thổi mạnh, từ 10 giờ sáng đến 10 giờ đêm. Nước dâng lên. Người ta hơi lo nhưng an ủi: "Bất quá thì nó ngập tới bộ ván. Mình lên bộ ván mà ngồi". Lát sau, người ta nói: "Bất quá thì nước ngập... tới mái nhà". Trễ quá rồi. Trời tối đen như mực, vào giờ ngọ, ngửa bàn tay cung không thấy. Sóng đánh ầm ầm, bể vách nhà, vách bằng lá. Thôi thì chỉ còn cách lên xuồng ghe mà tản cư, kiếm mấy chỗ có giồng đất cao. Ghe chìm thì chết. Nếu ghe không chìm thì mình tới một chòm tre ở xa xa. Nhà nơi đó bắt đầu ngập. Thiên hạ chạy loi ngoi ra ngoài. Gió thổi mạnh, mưa quá lạnh. Họ kiếm gốc cây to hoặc vách nhà ngói nào đó mà núp. Cây ngã, vách sập. Chỉ còn một cách trốn tránh sau cùng là nhảy xuống mương, theo kiểu xuống "tăng xê". Nằm dưới mương, ít gió, không bị cây đè. Nhiều người mang theo cái nồi, cái chảo bằng gang mà đội cho chắc chắn. Nhưng nước ngập ao, ngập mương... Con nít, đàn bà, ông già thì chết tự hồi nào rồi. Mấy người đau ốm thì khỏi cần nhắc tới. Nãy giờ, tôi nói tới bọn đàn ông trai tráng, vai u thịt bắp...
- Thưa bác, họ lội hoặc tìm khúc cây, miếng ván mà nương tựa...
Lão Tư Nê lắc đầu:
- Tay chân họ tê cóng rồi. Nãy giờ ngồi đây, xa trận bão hàng ngàn cây số, cháu thấy không? Bão đã tan, bão đã đi xa mà mình hãy còn lạnh huống gì ở tại chỗ. Thí dụ như bây giờ, cháu nhảy vô lu nước mà ngâm mình, chừng vài phút đồng hồ thôi. Bụng đói, người ta chịu lạnh dở lắm. Người ta van vái Trời Phật, ông bà đất nước. Nhưng giữa ban ngày, trời tối mù mịt. Người ta đâu phải là vật vô tri vô giác, kẻ tán tận lương tâm nhứt cũng nhớ tới vợ, tôi con, tới cha mẹ. Cha mẹ chết từ nãy giờ rồi. Họ mất tinh thần. Ngoài ra, đồng ruộng ngập nước. Trâu bò là giống vật mạnh mẽ, lội giỏi nhưng không thấy con nào nổi trên mặt nước. Tụi nó chìm hết rồi. Chỉ còn vài người cuối cùng, trên biển, thứ biển đầy sóng gió, lạnh như nước đá, thứ nước đá màu đen. Họ chưa lội, chưa quơ tay quơ chân là đã chết chìm rơi xuống đáy nước như cái thây ma. Chẳng một ai nghe tiếng than khóc của ai. Lạnh tê môi, làm sao khóc ra tiếng? Vài người còn sống sót, nhờ họ cỡi trâu lúc trận bão vừa mới tới. Trâu chạy rồi trâu lội qua phía Mỹ Tho. Còn những người sống sót khác... họ có phước vì hôm đó không có mặt tại vùng biển Gò Công. Họ đi thăm bà con từ hôm trước. Lại có nhiều người từ xứ khác tới Gò Công để... lãnh đủ, một thuyền một hội.. Giáp Thìn mà! Tôi tin rằng lịch của ông bà để lại ít khi sai chạy...
Tôi im lặng, chẳng biết hỏi lão Tư Nê điều gì nữa. Gió lại thổi, mưa rơi lắc rắc, không thêm không bớt. Mưa còn dai dẳng tới bao giờ? Lão nói to giọng, như muốn bước qua giai đoạn xã giao khác, đuổi khách:
- Hết rồi.
- Thưa bác, sau trận lụt đó, thiên hạ làm sao mà sống?
- Thì tạm vui mà sống. Năm đó, nhà nước Tây cai trị. Tây nghèo lắm. Từ Mỹ Tho, dường như chỉ có một chiếc tàu đò chạy qua Gò Công. Ở Mỹ Tho, thiên hạ cũng đói rách. Xuồng ghe đều bị quăng lên bờ. Nước rút lần hồi. Mùa màng sạch bách. Thôi thì móc củ co, câu cá, nấu canh bông súng mà ăn trừ cơm. Cá nhiều lắm. Nhiều thứ cá lạ, lội từng bầy. Nghe đâu mấy bầy cá đó từ Biển Hồ lội xuống. Đất bỏ hoang. Nhiều làng không còn một người, không còn một căn nhà. Ruộng đất vườn tược đều vắng chủ. Nhà nước Tây ra lịnh: "Ai muốn khẩn thì khẩn, ghi tên vô bộ mới, làm chủ, miễn là đóng thuế cho nhà nước". Nhưng ai thèm. Đau xót nhứt là mấy người còn sống. Họ phải sống để thấy cảnh bọn... bất lương. Họ vớt thây ma để lột vòng vàng bán ăn, khỏe thân hơn làm ruộng. Thời xưa, mấy người khá giả luôn luôn đeo vàng trong mình. Hết vòng vàng thì họ vác búa mà bủa mấy cái tủ kính, tủ cẩn trôi lều bều. Trong tủ đó, có thể còn quần áo thứ mắc tiền và tiền bạc. Nhưng trách ai bây giờ? Nhiều người lương thiện bỗng trở nên bất lương. Và nhiều người bất lương nhưng trở thành lương thiện, đâm ra tay cứu vớt... mấy xác chết đem chôn cất, suốt ngày đêm. Chôn người rồi lại chôn trâu bò. Trâu bò chết, sình hôi thúi nực nồng, quạ ăn không hết vì quạ chết trong cơn bão. Thôi! Chuyện xưa nói bao nhiêu đó cho cháu nghe, nhiều rồi. Thời nay, khác hơn. Xứ mình có giặc.
°
Tôi ra về cứ ngậm ngùi nghĩ mãi về lời nói của lão Tư Nê. Bão lụt ngày xưa và ngày nay có khác gì nhau không? Có khác chăng thì chỉ khác về chi tiết, chứ cảnh chết chóc thì cũng giống như nhau. Trời cứ mưa và cứ lạnh. Xe cộ qua lại ầm ầm. Những người ấm áp. Những người lạnh lẽo. Mỗi người một số phận. Thời nay, khác hơn. Hoài cổ là vô ích và lắm khi đưa chúng ta đến một nhận định sai sự thật. Thân xác con người cũng mới, với những đòi hỏi mới, những đau khổ mới - những đòi hỏi những đau khổ thật sự hoặc giả tạo "khôn sống bống chết, mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ". Cái phương châm xử thế ấy lại hiện ra trong tâm trí tôi. Nó dã man, vô nhân đạo nhưng lắm khi nó được... đề cao, trở thành một nguyên tắc của kẻ muốn thành công trên đường đời! Tôi tin rằng giờ phút này người Việt Nam đã "xét lại" phương châm "sang trọng, khôn ngoan ấy". Nhưng chẳng lẽ mọi người đều... treo cờ tang, ngồi nhà mà mặc niệm. Lại một hình thức dối lòng, dối mà không biết rằng mình dối. Khóc lóc, rên rỉ là vô ích. Làm sao khóc được khi tình cờ trong những ngày này, có người gặp chuyện may mắn lặt vặt. Cuộc sống là cuộc sống. Tân nhạc, cổ nhạc... cứ hát lên đi! Báo hàng tuần, báo hàng ngày, cứ cạnh tranh sanh tử với nhau đi! Ai thèm rượu thì cứ uống. Ai có mền ấm thì cứ đắp! Vấn đề không phải là khóc lóc mà là một sự tổ chức khoa học. Người đang uống rượu, người đang hát, người đang đắp mền, người đang thất nghiệp đều muốn giúp đồng bào. Chỉ cần tổ chức đừng câu nệ hình thức. Kẻ hoang phí đang muốn mua giấy số.
Gió cứ thổi. Tôi về đến nhà. Viết xong chuyện bão lụt rồi. Viết qua chuyện ma, không bao giờ có. Viết qua chuyện tâm tình gỡ rối. Tâm tư bị xé ra muôn mảnh. Và bài này có đủ năng lực hấp dẫn ai không? Tôi hy vọng nó chỉ là nén hương ngắn ngủi, đốt quá muộn, không an ủi được kẻ chết nhưng họa chăng nó nhắc nhở cho một đời người còn sống lưỡng lự khô khan... chờ đợi. Một đôi người không phải ở miền Trung, nhưng đương sống ích kỷ tại Sài-gòn. Như tôi chẳng hạn.