khktmd 2015
Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2016
Phạm Đình Chương phổ nhạc Bài Ngợi Ca Tình Yêu, thơ Thanh Tâm Tuyền. Phạm Thành và Hoài Bắc song ca
1.
Tôi chờ đợi
lớn lên cùng giông bão
hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
tìm cánh tay nước biển
con ngựa buồn
lửa trốn con ngươi
Ðất nước có một lần
tôi ghì đau đớn trong thân thể
những dòng sông những đường cày núi nhọn
những biệt ly rạn nứt lòng đường
hút chặt mười ngón tay ngón chân da thịt
như người yêu từ chối vùng vằng
Tôi chờ đợi
cười lên sặc sỡ
la qua mái ngói
thành phố đồng ruộng
bấu lấy tim tôi
thành nhịp thở
ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng
chảy máu
tiếng kêu
2.
Tôi chờ đợi
phổi đầy lửa cháy
môi đầy thẹn thùng
vục xuống nhục nhằn tổ quốc
nhìn gót giày miệng uống tro than
nghe tiếng ca của một người không quen
của cuộc đời tình nhân
3.
Trang sách khởi đầu viết
mắt người cần ánh sáng
môi người cần mặt trăng
bàn tay đòi mặt trời
và ngực em tự do
của anh của anh tất cả
Em gối đầu sương xuống
chuyện trò bằng bóng hình
Tôi đẹp như hình tôi
như cuộc đời
như mọi người
như chút thôi
anh yêu lấy em
Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát
sớm mai khuya thức nhiều nhớ thương
em là cánh hoa là khói sóng
đêm màu hồng
Vòng tay dĩ vãng và bát ngát
chỗ yên nghỉ cuối cùng
dưới mắt sao dưới bàn chân những đứa con
4.
Tôi chờ đợi
một người không
nhiều người
ở thành phố thiếu thốn
ở làng mạc đọa đày
tôi là tiếng nói là tiếng khóc
những người bỏ đi hẹn trở về
những người mím hơi thừa chịu đựng
tôi chờ đợi
tôi là tiếng thơ là tiếng cười
mai Việt Nam hỡi mai Việt Nam".
Người Lính Già (Portland, Oregon, US) viết về một ca nhạc sĩ nổi tiếng ở hải ngoại
Trong cái đám ca nhạc sĩ bèo nhèo như cái mền rách về chầu chực, quỳ lụy việt cộng nói trên, có một anh chàng thuộc Cộng Đồng Oregon, cùng thành phố tôi đang cư ngụ. Trong bài ‘’Đền Ơn Đáp Nghĩa’’ (báo Phương Đông Times, số ngày 7.12.2012, trang 22), Mục Sư Huỳnh Quốc Bình, cựu Chủ Tịch Cộng Đồng Oregon, đã giới thiệu anh ca nhạc sĩ này, như sau:
‘’[…] Tôi biết ít nhất một ca nhạc sĩ rất nổi tiếng. Tại địa phương ông cư ngụ, chưa ai thấy ông đóng góp một xu cho những công tác ích lợi chung trong cộng đồng.
Ông cũng không hề một lần đóng góp lời ca tiếng hát của ông cho đồng hương địa phương thưởng thức, nếu có thì phải trả thù lao.
Ông chỉ chu du ca hát xứ người. Vậy mà khi cần tiền, ông bèn tổ chức ‘’tạ ơn em’’ tại địa phương nơi ông không buồn quan tâm trong mấy Thập Niên. Điều buồn cười hay khôi hài, là đã có năm bảy trăm người, mỗi người bỏ ra năm bảy chục Mỹ kim, để mua vé danh dự, hoặc thượng hạng, hầu có thể nghe ông hát ‘’tạ ơn em’’ và mua CD nhạc của ông mang về nghe ông ‘’tạ ơn em’’…
Điều phũ phàng hơn hết là khi cộng đồng có những buổi tổ chức có tính cách xã hội, giúp đỡ những ai cần giúp đỡ, hoặc biểu tình lên tiếng tranh đấu cho những người bị việt cộng đàn áp tại Việt Nam, thì ông ca nhạc sĩ này lại biệt tăm và số người tham dự buổi ông tổ chức ‘’tạ ơn em’’ cũng mất dạng […]’’
Ngoài ra, nghe tin anh ta về nước lần thứ hai, nhiều đồng hương đã lên tiếng, và tôi xin chuyển tiếp hai bức thư bình phẩm tiêu biểu:
………..
…………
‘’Ủa! tôi tưởng nó đã chết rồi mà.
Tên này chắc cuối đời vợ cần tiền, cũng như cần Casino như Lệ Thu…cho nên nó về hát phục vụ cán ngố và dân tham nhũng tư bản đỏ for money chứ có con thằng ca sĩ nào hát nào cho dân nghe, dân nghèo nào có tiền 50, 70 đô một vé…mà láo khoét, nếu nó thực sự hát free xin các thái thú cho tổ chức ngoài trời hát cho dân nghe như Việt Nam Cộng Hòa thì sẽ có nhiều người tình nguyện kêu gọi trả tiền cashier cho nó…thật đáng buồn!!! một cái thằng chẳng bao giờ nghĩ đến quân dân Việt Nam Cộng Hòa đã đi trước tầm đạn bảo vệ cho nó sống còn…nó khá hơn Phạm Duy là chưa viết Tục Ca.’’
Anh ca nhạc sĩ này, ngoài sự nghiệp âm nhạc, còn được cả nước, trong và ngoài, biết đến, một cách ồn ào, vì căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối, sau khi bị ung thư màng óc, cách đây hơn một thập niên, và túi mật tin do bạn bè trong Cộng Đồng và trên Mạng chuyển, chính xác hay vịt cồ, tôi không biết chắc nhưng cả ba lần đều thoát chết.
Sau đó, nghe nói anh ta đi lưu diễn ‘’tạ ơn em’’ và ‘’kỷ niệm 50 năm’’ tình ca tại Texas, Portland, California, Úc Châu, tôi thật lòng mừng cho anh ta được tai qua nạn khỏi và mừng cho nhân loại từ nay đã có thuốc chữa trị căn bệnh nan y quái ác kia.
Tuy nhiên, khi đọc tin anh ta trở về Việt Nam trình diễn lần thứ hai và xem hình vợ chồng anh ta tươi rói, tại phi trường, với ‘’vòng hoa chiến thắng’’ trên cổ, tôi phải dằn lòng lắm mới không buột miệng chửi thề, merde, nhưng đồng thời cũng không thể nào không nghĩ đến câu nói trứ danh của Julius Caesar trong vở kịch cùng tên viết bởi Shakespeare:
Cowards die many times before their deaths,
The valiant never taste of death but once.
đã được Mục Sư Huỳnh Quốc Bình, một lần trong một bài viết, dịch ra như sau:
Những kẻ hèn nhát chết nhiều lần trước khi chết thật,
Người dũng cảm chỉ chết một lần thôi.
Anh ta cũng không xa lạ với đa số đồng hương Oregon và cá nhân tôi. Nhưng có hai lý do, ngoài những điều Mục Sư Huỳnh Quốc Bình nêu lên trong bài viết, đã khiến tôi không thể im lặng mãi:
a) Anh ta coi thường Cộng Đồng Oregon và những người hâm mộ tại địa phương mới đây đã đến mua vé tham dự buổi văn nghệ tạ ơn vợ và mừng sự nghiệp 50 năm do anh ta tổ chức, để kiếm tiền. Ai cũng biết, Cộng đồng Oregon không chống Cộng ồn ào, dữ dằn như những Cộng Đồng California, Texas, nhưng vẫn chống, luôn luôn chống, và kịch liệt chống.
Đa số cư dân là những thuyền nhân từ các đảo tỵ nạn đến, hoặc cựu sĩ quan tù nhân cải tạo sang Mỹ theo diện HO, nên chống cộng, tiêu diệt việt cộng có nghĩa thi hành một bổn phận, trách nhiệm đương nhiên đối với tổ quốc.
Cũng như dân bản xứ, người Việt tỵ nạn tại Oregon hiền hòa, lịch sự, dĩ hòa vi quý, nhưng điều đó không có nghĩa họ thờ ơ, thụ động, khờ khạo.
Ai chống cộng, ai quốc gia, ai Việt gian, ai tay sai, ai phải ai trái, ai ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, họ đều biết, và biết đúng, biết rõ, nhưng không nói ra đấy thôi.
Bằng chứng: Cho đến bây giờ, sau nhiều năm nghị quyết 36 được phát động với mưu đồ phá hoại, lủng đoạn các Cộng Đồng Quốc Gia Tỵ Nạn, chưa một thằng tay sai việt cộng nào dám xuất đầu lộ diện tại Oregon. Ló ra là bị chặt đuôi, không sống nổi.
Lần đầu, anh ca nhạc sĩ Portland này về Việt Nam trình diễn, người ta biết được do chính báo chí trong nước (Tuổi Trẻ và Công An Thành Phố Hồ chí Minh) phổ biến, nhưng đã bỏ qua, vì ai cũng thông cảm cho căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối của anh ta được vợ và báo chí hải ngoại loan truyền ầm ĩ, nghĩ rằng biết đâu có thể đó là chuyến đi sau cùng trong đời.
Tuy nhiên, lần này, khỏi bệnh, anh ta chơi cái mửng cũ, lại về nữa, âm thầm, sau khi đã moi gần cạn hầu bao của đồng hương hải ngoại với những màn ‘’tạ ơn em’’ và ‘’kỷ niệm 50 năm’’.
Về, để tái biểu diễn cho những thằng, những con đảng viên, công chức, đại gia, cán bộ, công an và gia đình, đồng bọn, có bạc tiền rũng rĩnh, chứ người dân nghèo, lao động vất vả, đầu tắt mặt tối, buôn thúng bán mẹt, làm gì có cơ hội và điều kiện bước chân vào rạp lớn của thành phố để nghe anh ta cám ơn vợ mình hoặc rên rỉ ‘’bây giờ tháng mấy rồi hỡi em’’ ?
b) Anh ta trở về Việt Nam trình diễn, mặc nhiên thách đố công luận chống cộng, mặc nhiên chấp nhận trở thành một tên phản bội trắng trợn, vô liêm sỉ trước mắt những đồng hương nạn nhân của bọn cộng phỉ trên toàn thế giới và riêng tại Oregon.
Trong khi chúng tôi đang giao chiến với việt cộng trên mặt trận ‘’võ mồm’’, bằng những bài pháo kích ác liệt, và thỉnh thoảng bị phản pháo, trong khi đa số đồng hương tỵ nạn ngày đêm thao thức, lo âu cho vận mệnh đất nước đang có nguy cơ rơi vào tay giặc ngoài Tàu Cộng với sự đồng lõa của lũ lãnh đạo thù trong bất tài, khiếp nhược, tham tàn.
– trong khi bao nhiêu nhân sĩ, thanh niên tại quốc nội, có cả Việt Khang và một số thiếu nữ liễu yếu đào thơ, Huỳnh Thục Vy, Tạ Phong Tần…biết yêu nước thương nòi, quyết tâm tranh đấu cho tự do, nhân quyền, đang bị bạo quyền bắt bớ, giam cầm, đày đọa ở những nhà tù khắp nước,
– trong khi các phụ nữ, bé gái bị ép bán ra ngoại quốc làm điếm, và những bài học đạo đức, luân lý cổ truyền tốt đẹp từ hàng ngàn năm qua bị phá sản một cách thê thảm, tại học đường cũng như ngoài xã hội, bởi nền văn hóa bần cố nông hủy diệt trí thức, lương tri và mọi giá trị tinh thần,
– trong khi những thằng lãnh tụ tự phong tham nhũng, no say, béo tốt đang làm mưa làm gió trên mảnh đất khốn khổ, tội nghiệp,
– trong khi đó thì anh chàng ca nhạc sĩ mặt trơ mày bóng của chúng ta lại lén lút trở về múa hát, mua vui cho những tên đồ tể bán nước hại dân.
Làm sao tôi có thể im lặng mãi.
Tôi đã có một Việt Nam như thế…- Tác giả Ku Búa
Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Ðông. Tuy nó còn thua xa các thành phố ở những nước phát triển khác, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó. Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng Bắc hay Nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.
Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là không moi móc cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng để mà vòi tiền. Tôi đã có những anh cảnh sát giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ mỉm cười nhắc khéo. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.
Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu viện phí cho dù có cao đến mức nào thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính nhưng không bao giờ để y phí cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn. Tôi đã có những bác sĩ-y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.
Ngày xưa tôi đã có những người thầy, người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn trau dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang chất văn hóa Nho Giáo, nhưng luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những người nhân hậu. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.
Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác ra những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.
Ngày xưa tôi đã có những tiệm bán đầy sách, mọi thể loại. Ðó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của các tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.
Ngày xưa tôi đã có những tổng thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng, “That is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế.
Ngày xưa tôi đã có những vị Chỉ Huy khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có những vị Chỉ Huy khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có các vị Chỉ Huy khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục, bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có những vị Chỉ Huy như thế.
Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màng đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh-thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.
Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không hổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói, “I’m a Vietnamese.”
Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam như thế. Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ một nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể bảo tôi hoang tưởng hay mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Ðể làm gì?” Ðơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế.
PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế, (bây giờ) đã không còn nữa.
Trả lời phỏng vấn của Ðài VOA về văn thư bên dưới cua CSVN, Giám Mục Nguyễn Thái Hợp nói rằng, “cũng có một số lần Cha Nam nói cũng hơi mạnh, chúng tôi cũng đã góp ý với Cha Nam. Nhưng chuyện đó là một cách nhìn thôi. Còn về vấn đề này chúng tôi có cái độc lập cũng như cái tự trị của chúng tôi trong vấn đề đó. Cho đến hôm nay khi mà chưa có quyết định nào khác, Cha Nam vẫn phụ trách mục vụ tại Phú Yên, nghĩa là Cha Nam vẫn tiếp tục hoạt động như từ trước đến nay.”
Từ Biệt Thương Xá Tax - Tác giã Cô Tư Saigon
Tuổi của Thương Xá Tax xưa cổ hơn tất cả những người đang còn sống hiện nay. Chính xác, Thương Xá Tax đã hơn 130 tuổi.
Và Thương Xá Tax có nhiều kỷ niệm với dân Sài Gòn. Một thời bạn sinh ra, nhiều phần là được ba mẹ ẵm ra phố chơ, bước vào Thương Xá Tax, cho chạy lăng quăng dọc theo các hành lang thương xá.
Rồi tới thời đi học, những cặp tình nhân hẹn nhau nơi đây. Một lý do dễ hiểu: trời nắng gay gắt, bước vào Thương xá Tax là toàn thân mát rượi, dịu lòng ngày.
Hình ảnh Thương Xá Tax cũng vào văn học sử quê nhà rồi.
Nhà thơ Tô Thùy Yên có bài thơ “Chiều Trên Phá Tam Giang”... bài rất dài và xúc động, về hình ảnh cuộc nội chiến VN. Trong đó, có hình ảnh thương xá Tax, gợi nhớ trong bối cảnh Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, trích:
...Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài Gòn không còn buổi tối nữa)
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi...
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã phổ thơ, ghi lại hình ảnh tuyệt vời khi chàng chiến binh nhớ về tình nhân một thời dẫn nhau đi dạo thương xá:
“… Giờ này thương xá sắp đóng cửa,
người lao công quét dọn hành lang,
giờ này thành phố chợt bừng lên để rồi ta nghỉ sớm.
Ôi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ơi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm,
ôi em ơi Sài gòn không buổi tối…”
Bây giờ, Thương Xá Tax đang bị đập phá.
Báo Người Lao Động kể rằng vào ngày 12-10, các đơn vị thi công đã bắt đầu tháo dỡ Thương xá Tax (quận 1, TP SG) để chuẩn bị xây tòa nhà mới tên gọi Satra Tax Plaza, cao 40 tầng. Tòa nhà sẽ được khởi công vào quý I/2017 và dự kiến hoàn thành vào năm 2020, cùng thời điểm tuyến metro số 1 của TP được đưa vào sử dụng.
Bản tin NLĐ ghi rằng Satra Tax Plaza là tòa nhà có lối vào kết nối với nhà ga của tuyến metro số 1; 2 tầng hầm dành cho trung tâm thương mại, siêu thị, dịch vụ, giải trí; 4 tầng hầm làm bãi đậu xe và có sân bay trực thăng. Theo Phó Tổng Giám đốc Công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) Đoàn Hoài Minh, các giải pháp kiến trúc gần như giữ lại nhiều hình ảnh Thương xá Tax trước đây. Tất cả gạch mosaic ở các sảnh vào sẽ được gắn trở lại đúng vị trí cũ nhằm giữ nguyên vẹn hình ảnh trung tâm thương mại 130 năm tuổi này trong ký ức của người dân TP SG.
Cùng ngày, TP cũng bắt đầu di dời, đốn hạ, bứng dưỡng 51 cây xanh trong khu vực 1 gồm Công viên 23-9 và đường Phạm Ngũ Lão. Dự kiến tháng 5-2017 sẽ đốn hạ, bứng dưỡng 24 cây trong khu vực 2 gồm đường Lê Lợi và đường Hàm Nghi để kịp bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành - Suối Tiên (metro số 1).
Cũng nên nhắc rằng, Tự điển Bách khoa Mở ghi rằng, trích:
“Công trình kiến trúc nguyên thủy được xây từ năm 1880 thời Pháp thuộc ở trung tâm Sài Gòn tại góc đại lộ Charner và đại lộ Bonnard, gần tòa thị chính (hôtel de ville). Năm 1914 công ty Société Coloniale des Grands Magasins mở Grands Magasins Charner de Saigon (viết tắt là SGMC) đến năm 1924 thì khu nhà này được tái thiết và khuếch trương theo phong cách Art Deco đón tiếp khách hàng thượng lưu của đô thị lớn nhất Liên bang Đông Dương. Ngày 27 Tháng 11, 1924 khi tiệm bách hóa khai trương là một sự kiện nhộn nhịp đáng ghi nhớ của Sài Gòn được báo chí loan tin rộng rãi.
Tháng 10 năm 1925 tiệm bách hóa gắn thêm một hệ thống còi điện để kêu lên mỗi khi có tin mới từ chính quốc báo sang. Năm 1942 xây thêm lầu bốn, đập bỏ tháp đồng hồ và thay vào đó là bảng gắn dòng chữ GMC.
Sang thời Việt Nam Cộng hòa, Đại lộ Bonnard thay tên là đại lộ Lê Lợi và Đại lộ Charner biến thành đại lộ Nguyễn Huệ còn Grands Magasins Charner mãi tới năm 1960 mới chính thức sang tên là Thương xá TAX, với địa chỉ 135 đại lộ Nguyễn Huệ. Thập niên 1960, Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục ủy quyền cho Viện Đại học Đà Lạt mua lại Thương xá này, từ đó trở thành bất động sản của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Sau Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963, chính quyền mới tịch thu thương xá này vì cho rằng nó liên quan đến Dòng họ Ngô. Khu thương xá từ đó không còn thuộc một công ty mà do thương nhân mướn lại làm nơi buôn bán.
Sau năm 1975 với chính sách tập trung kinh tế, cấm tiểu thương, Thương xá TAX bị giải thể. Tòa nhà được giao về cho Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quản lý, không còn là địa điểm kinh doanh sầm uất, mặt bằng thỉnh thoảng được tận dụng làm không gian trưng bày các mặt hàng, máy móc công nghiệp do các đơn vị quốc doanh của thành phố sản xuất.
Đến năm 1978, trong bối cảnh thời bao cấp, Thương xá TAX trở thành một công ty quốc doanh mang tên "Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố", người bán hàng được gọi là mậu dịch viên, có thắt khăn quàng đỏ như thiếu nhi để bán mặt hàng chính là đồ chơi cho trẻ em. Đến năm 1981, khu nhà này đổi tên thành "Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố" do Sở Thương Nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh sở hữu. Từ năm 1997, tòa nhà đổi tên thành "Công ty Bán lẻ Tổng hợp Sài Gòn" do Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA) quản lý.
Năm 1998 tên TAX được phục hồi nhưng vào năm 2014 thì có lệnh giải tán Thương xá TAX với kế hoạch phá tòa nhà này đi để xây một cao ốc 40 tầng ở địa điểm trung tâm này. Ngày 12 tháng 10, 2016, quá trình đập bỏ khu Thương xá được bắt đầu tiến hành.”(ngưng trích)
Biết bao nhiêu là nước chảy qua cầu, bạn nhỉ...
Trân trọng từ biệt Thương Xá Tax, một thời của quá nhiều kỷ niệm.
Ngày Giỗ - Tác giã Nguyễn thị Hương Minh
Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi tự mình chuẩn bị làm giỗ. Chẳng phải tôi may mắn hơn người khác trong gia đình không ai mất. Có muôn vàn lý do để tôi không cúng giỗ.
Tôi là con thứ trong gia đình lại là con gái, bà chị tôi mất khi còn bé. “Không là con trưởng, nhưng là con trưởng” câu viết nửa vời trong lá số tử vi của tôi, khi lớn lên tôi hiểu theo một cách có lợi....là trưởng nữ kế nghiệp như kiểu trong triều đình hoàng tộc, trở thành đứa con gái độc nhất trong gia đình sếp 4 thằng em trai. Nghĩa là tha hồ đòi hỏi, mọi người cứ thế mà chìu theo những điều vô lý, ngang bướng của tôi.
Chồng tôi là con thứ trong nhà nên tôi không có bất kỳ một lý do gì để dành quyền cúng giỗ các bậc trưởng thượng đã khuất. Ngày chồng tôi đi tù “cải tạo” tôi bụng mang dạ chửa về ở với mẹ và các em.
Thật ra thì khi chồng vắng nha, tôi đã về ở với gia đình chồng trong ngôi nhà ở gần chợ Bà Chiểu "Lấy chồng phải gánh giang san nhà chồng." Nhưng rồi cuộc xung đột về “giai cấp” đã xảy ra. Gia đình chồng tôi như thùng thuốc nổ chỉ đợi châm ngòi, chính xác là tôi, là con “ngụy quyền”, vợ “ngụy quân” với bà chị ruột của chồng tôi đã bỏ nhà theo Việt Minh ngày còn trẻ, sau 30 tháng 4 năm 75 trở về với vị trí của “người chiến thắng.”
Đứng giữa trận chiến ngầm giữa người con gái ruột -sau hơn 30 năm mới gặp lại- luôn nói ra những lời không tưởng, và cô con dâu sẵn sàng thốt ra những lời mỉa mai kẻ đối diện, bố mẹ chồng tôi chỉ còn biết thở dài. Tôi chờ đợi chồng về với lời hứa hẹn mị dân -chỉ đi tập trung có 10 ngày, nhưng ngày về càng mù mờ, vời vợi xa nên đành nhắn cho cậu em lên xin phép cho tôi chở tôi về thăm mẹ vài hôm rồi ở hẳn nhà mình, tránh cho những cơn tức giận làm ảnh hưởng đến đứa con trong bụng. Thôi thì "Chợ phiên còn lỡ, giang san còn gì."
Con tôi ra đời không có cha hay người thân bên cạnh. Ngày tôi đau bụng sinh, mẹ tôi ốm liệt gường đã lâu, mấy cậu em trai chẳng biết gì; thế là bà mợ dâu đưa đi đập bầu. Kiến thức thực tế của tôi thì lờ mờ về việc sinh nở, chỉ biết lý thuyết theo sách vở trong các giờ sinh vât học. Mợ tôi tuy đã là mẹ của 2 đứa con nhưng đâu có bất kỳ kinh nghiệm nào với bệnh viện của chế độ mới, bà đưa tôi vào xong đứng ngoài cổng bệnh viện đợi, rồi bị đuổi thế là bà...về nhà đợi tin tôi. Cũng may ngày ấy trong các bệnh viện vẫn còn nhiều bác sĩ và y tá “ngụy” nên tôi tuy “chèo chống, vựơt cạn" một mình, hai mẹ con cũng qua đò.
Ý thức hệ xảy ra tuy không quá gay gắt trong gia đình tôi nhưng cũng làm khổ con tôi không ít. Thằng bé bắt đầu lên 6 tuổi đi học lớp 1 tuy bị bắt buộc đeo khăn quàng đỏ đã biết tháo ra, dấu vào cặp trước khi bước vào nhà nếu không muốn bị các cậu mắng. Bà ngoại dù nói không ra hơi vẫn cố bênh cháu là “đã biết gì đâu, nhà trường bắt thì phải theo thôi...” tôi cũng không có ý định làm dịu bớt nỗi nóng giận của các em tôi. Lúc ấy tôi chỉ biết thở dài “Nuôi dạy con như thế nào... tương lai con sẽ ra sao...!”
Tôi ra trường xin về dạy ở Trung Học Vũng Tàu. Học sinh của tôi phần lớn là người sống và lớn lên tại đấy, nên không nhiều thì ít cũng dính dáng đến Mỹ-Ngụy. Tôi và vài người bạn từ Sài Gòn về dạy được phân cho ở chung trong ngôi biệt thự của một gia đình đã ra đi. Sáng sáng đi dọc qua hành lang trên lầu để đến lớp, thấy anh chàng bí thư đoàn trường ngồi đánh răng, rửa mặt tôi thú thật ước mơ với bạn mình là chỉ muốn đá cho ngã xuống lầu! Anh ta là người chuyên báo cáo việc chúng tôi nghe, hát “nhạc đồi trụy”, hơn thế nữa là tội ăn cắp...sách trong thư viện nhà trường, những sách Anh, Pháp, Việt đủ thể loại bị dồn vào một góc chuẩn bị đem đốt; chúng tôi tiếc tìm cách lấy cắp đem về nhà.
Niềm mơ ước thuở ấy của tôi được bạn tôi nhắc lại khi chúng tôi cũng ngồi ăn trưa. Từ sớm tôi chạy xe lên chùa Cao Đài mua các món chay về cúng. Tôi chỉ mời một cô bạn sống gần đã từng chia xẻ với nhau qua thời hàn vi -lý do bày cỗ cúng xong nhiều quá nên phải mời người ăn chay trường đến ăn giùm. Chúng tôi cùng nhắc lại thời khốn khó của những đứa mà cha, chồng "được đi cải tạo”.
Đó là những câu chuyện cười ra nước mắt. Một đứa học trò của tôi mếu máo thưa vì bị các bạn khác xô ngã. Tôi hỏi lý do và được câu trả lời thật ngắn gọn -Tại bố nó dạy toán dở! "Bố nó” đây là ông hiệu phó bộ đội phục viên từ miền bắc vào, và các em học sinh của tôi cũng thuộc những gia đình có cha, chú, anh đi tù cải tạo. Và “nó” là đứa bé lớn lên ở xã hội miền bắc nhưng rất thích và thèm thuồng được chạy theo chơi với lũ con “Ngụỵ”.
Trình độ hiểu biết về toán học của ông này cũng vài lần cho chúng tôi dở khóc dở cười. Trong một kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học, tương đương với tú tài toàn phần ngày xưa, ông ta được cử làm chủ tịch hội đồng giám thị, mở đề toán ra chưa đến 5 phút, một anh cũng dạy toán thốt lên “Chết rồi toán khó quá!” Chúng tôi ngạc nhiên đưa mắt hỏi, anh ra dấu cho chúng tôi nhìn -ông chủ tịch hội đồng đưa đề toán sát mặt và rặn ra từng chữ, từng ký hiệu toán học như người tập đọc vỡ lòng cho toàn thể các giám thi nghe trước khi đưa xuống phòng phát cho các thí sinh! Chúng tôi nghĩ mà thương cho cả một thế hệ trẻ tương lai. Thầy dạy toán mà đọc không nổi đề thi toán thì chắc là toán quá....khó! Chuyện các em học sinh không hiểu ông giảng gì chắc đúng. Nhóm thầy, cô giáo thời Mỹ-Ngụy còn sót lại vẫn nói với nhau, ông ta không hiểu sao giảng cho học sinh hiểu!
Phải nói học sinh của chúng tôi có cách riễu cợt chế độ thật phong phú. Thuở ấy bên cạnh những người có tiền mua ghe tàu vượt biển tìm tự do, một số dân không có tiền cũng tìm cách len lỏi đi theo, được gọi là “đi canh me”. Và bài thơ “Đi thuyền trên sông Đáy” được học sinh định nghĩa “bác Hồ đi canh me” hay “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” lập tức có tiếng học sinh nói thật to “Bác Hồ... số mấy..?” Ai đã từng ở Việt Nam lúc ấy đều nghe hoặc biết đến phong trào đánh số đề, mỗi một vật tượng trưng cho một con số, đêm nằm mơ thấy gì, sáng đi mua số đó... chưa mua số bác Hồ, cửa nhà, đất nước đã tan nát!
Sau khi “mất dạy” vì không chịu nổi cách o ép phải dạy học trò theo giáo án, nghĩa là bài giảng đựơc viết sẵn theo chỉ đạo, dù ca dao, tục ngữ thậm chí "nàng Kiều" của cụ Nguyễn Du cũng được "ánh sáng Marx-lenin" soi rọi, tôi đành phải bỏ dạy, về Sài Gòn kiếm việc khác nuôi con.
Bố tôi mất ở trại tù Vĩnh Phú, tôi ra thăm mộ thắp đựơc những nén hương cho ông và những người đồng đội cùng hoàn cảnh như ông. Vậy là tôi biết được ông đã mất.
Mẹ tôi mất ở nhà sau cơn bệnh kéo dài. Chính tay tôi thay quần áo tẩm niệm cho bà. Mẹ tôi đã rời xa chúng tôi. Sau này các em tôi đã tìm cách đưa bố tôi về, cho mộ bố mẹ tôi gần nhau. Ngày còn ở Việt Nam các em tôi cúng giỗ cho bố mẹ của tôi.
Gia đình tôi nhận giấy báo chồng tôi đựơc thả khỏi trại giam, nhưng chưa bao giờ thấy trở về nhà. Tôi nghe đồn chồng tôi bị bắn chết lúc trốn trại tù cải tạo. Tôi hỏi tin tức từ bạn bè cùng tù không ai xác nhận đúng hay sai. Tôi không thấy chính mắt, Không thể cho rằng chồng tôi đã chết. Con trai tôi biết mẹ mình hay xem phim Đại Hàn nên trêu tôi - chắc là bố trốn vào rừng băng qua biên giới Campuchia bị trúng đạn vào đầu (!?) nên quên, không chừng bây giờ là tỉ phú ở đó. Mẹ ráng chờ đi, có ngày bố tỉnh trí về tìm mẹ.
Thôi thì cứ cố tin theo lời của con tạo ra dramas cho chính cuộc đời. Vậy tôi không có lý do để giỗ cho người chưa thấy...xác!
Cậu em kế tôi là người cuối cùng trong gia đình rời Việt Nam. Nó bị một đợt cảm sốt quá cao khi mới sinh ra được vài tháng nên sức khoẻ không được tốt. Bà ngoại tôi lúc còn sinh tiền thường nói "Nó gánh tội cho chúng mày", "Nhà đông con phải có đứa này đứa nọ!" Chân lý của các ông bà cụ Việt Nam thật đáng nể!
Đối với tôi cậu em tôi có giá hơn tôi về mặt địa vị trong gia tộc là...thằng trưởng nam "Trưởng nam nào có gì đâu, một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam." Bây giờ em sống cùng với tôi, chẳng phải phong tục từ ngàn xưa là - góp vui, chia buồn. Các cụ dậy sao cứ theo vậy. Tôi chia ngày cúng giỗ bố mẹ cùng với em của mình là theo đúng phong tục. Cậu em trưởng nam của tôi bị bệnh không lo được, mặc kệ tôi là...thứ nữ cứ thế mà nhận....quyền trưởng nam mà chuẩn bị ngày giỗ cho bố mẹ. Cậu em khác từ Texas gọi phone nhắc đặt thêm 1 chén cơm cúng cho chồng tôi - xem như anh đã mất, cúng dư còn hơn thiếu! Chị đã từng ở Việt Nam mà quên hả, thà lầm còn hơn sót!
Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi tự chuẩn bị cho bữa giỗ!
Năm Anh Hai Mươi Bảy, Em Mới Sinh Ra Đời - Tác giã Nguyễn thị Cỏ May
.... Khi em còn trong nôi anh đã lo việc đời,...! (Y Vân)
Bài hát của Y Vân gợi nhớ tới chuyện tình của Cố Tổng thống Pháp François Mitterrand với người yêu Anne Pingeot.
Đấu năm 1960, Mitterrand tới nhà ông bà Pingeot chơi theo lời mời của chủ nhà, gặp Anne lúc đó 18 tuổi. Ông bị ngay cú sét đánh tuy năm đó ông đã 46 tuổi, có gia đình với bà Danielle, đám cưới năm 1944, và có 2 con trai Christophe và Gilbert. Hai năm sau, ông hướng dẫn Anne lên Paris để theo học Mỹ Nghệ, môn học mà bà say mê. Từ đây họ có dịp lui tới nhau thường xuyên. Và không có gì ngăn cấm để họ trở thành cặp tình nhơn tuyệt vời. Suốt 35 năm dài sống kín đáo với người yêu, Anne Pingeot hưởng hạnh phúc tràn đầy nhưng đôi lúc cũng lắm chua cay. Trước sau, Bà vẫn giữ tình yêu và sự chung thủy trọn vẹn với Mitterrand. Nay bà quyết định công bố cuộc tình của Bà với Mitterrand bằng cách cho ấn hành quyển “Nhựt ký tặng Anne” (1964-1970, 496 trang) và “Thư gởi Anne” (1962 – 1995, 1296 trang). Phải chăng đây là một quyết định phục hận khi bà đã thất thập? Cho mọi người thấy bà không phải là Đệ Nhứt Phu nhơn nhưng mới là người yêu thật sự say đắm của Tổng thống Mitterrand.
Thư gởi Anne gồm 1218 bức thư tình của Mitterrand viết cho người yêu trong 33 năm. Ngoài chuyện yêu đương, “Thư tinh gởi Anne” còn là một tác phẩm văn chương giá trị vì tác giả xử dụng lão luyện ngòi bút, tiếng Pháp của ông chuẩn xác, từ từ ngữ tới văn phạm, nhứt là cách dùng các cách (modes) và thi (temps) trong động từ. Hai tác phẩm này sẽ được nhà xuất bản Gallimard phát hành trong tuần này. Giá bán khá mắc. Quả thật Gallimard trúng số độc đắc!
Người đẹp cao nguyên Clermont-Ferrand
Bà Anne là con gái trong một gia đình lớn ở Clermont-Ferrand, có họ xa với nhà kỷ nghệ Michelin. Bên ngoại của bà có người làm tướng lãnh trong quân đội Pháp. Trong Đệ II Thế chiến, theo Chánh phủ Pétain. Cũng như Mitterrand cũng từng theo Chánh phủ Pétain. Tới khi thấy phe Đồng Minh thắng thế, ông vội ngã theo kháng chiến. Khi De Gaulle nắm chánh quyền, ông gặp De Gaulle và De Gaulle buông một câu “Lại cũng ông nữa à” (Et encore vous). Và ông thù ghét De Gaulle từ đó.
Cũng như Tướng Nguyễn Cao Kỳ của Chánh phủ Sài gòn, lúc làm cố vấn Phái đoàn Hòa đàm ở Paris, được Kissinger giới thiệu với De Gaulle. Tướng De Gaulle chào tướng Kỳ “Qui est-ce Kỳ?” (Kỳ là ai vậy?). Không biết tới khi chết, ông Kỳ có qưên được hận De Gaulle không?
Năm 1963, Anne được 20 tuổi. Bà kính trọng sự hiểu biết văn học của Mitterrand. Hai người có chung niềm đam mê văn chương và nghệ thuật. Ở Paris, sau nhiều tháng tiếp xúc nhau, những cái hẹn kín đáo, những lúc bên nhau say đắm dưới bóng cây marron của vườn Tuileries, Mitterrand và Anne từng bước, bước tới với nhau thật sự. Ông tỏ thiệt là ông không thể ly dị bà vợ Danielle. Anne chấp thuận.
Anne ảnh hưởng gia đình, tánh tình kín đáo. Ít khi nào bắt gặp bà bày tỏ những sôi nổi trong lòng. Phải chăng vì vậy mà bà âm thầm chia sẻ đời sống lứa đôi với Mitterrand suốt 35 năm dài. Năm 1974, bà sanh cô con gái Mazarine ở Avignon. Bà ẩm về nuôi ở nhà bà cố ngoại và nói vói mọi người bà cần thêm ít tiền nên nhận trẻ con về giữ.
Lúc Mitterrand đang làm Tổng thống, hai người dẩn nhau về Hossegor nghỉ ngơi vài hôm trong ngôi nhà gia đình. Bổng xảy ra cuộc cải nhau gay gắt. Anne tức giận, bỏ ra xe của người anh, bảo anh chạy đi. Nhưng Mitterrand chạy theo sau xe, kêu gọi hảy ngừng lại. Người anh lúng túng không biết phải nghe lới ai. Không vâng lời Tổng thống sao? Anne thúc “Anh đừng ngừng lại”. Mitterrand nổi giận hét lớn lên “Mấy người hảy ngừng lại ngay”. Và Tổng thống chạy tới đeo theo cửa xe, bị xe lôi đi lết bết khá xa.
Ông Mitterrand đắc cử Tổng thống ngày 10 tháng 5 năm 1981. Anne than thở với bà bạn Elisabeth Normand “Hôm đó thật là một ngày bi đát của đời tôi. Buổi tối, lúc 20 giờ, khi gương mặt của người thắng cử xuất hiện trên màn ảnh TV, Anne đang ở trong nhà, bé Mazarine lên 6 ngổi trên đầu gối của bà và bà đang khóc trước TV nhỏ trong phòng”.
Những bức thư tình
Lúc gặp và say đắm Anne, Mitterrand đã tùng nhiều lần Tổng trưởng và đang làm Thượng Nghị sĩ Nièvre. Trước mặt ông, một tương lai chánh trị đang chờ đợi ông. Khi De Gaulle không còn trên chánh trường thì quyền lực tối cao sẽ tới tay ông.
Bức thư đầu tiên gới người yêu trẻ, ông viết ngày 19 tháng 10 năm 1962, từ Luxembourg, trụ sở Thượng Viện. Trong thư, ông hứa sẽ tìm cho Anne quyển sách về Socrate mà hai người có dịp nói chuyện đêm cùng ở Hossegor. Sau đó, ông viết tiếp thêm 1217 bức thư nữa. Và bức thư sau cùng, ngày 22 tháng 9 năm 1995, lúc ông đang chờ ở ngưởng cửa để bước qua bên kia thế giới, với những lời vẫn chứa chan tình yêu như lúc ban đầu “Anne, em là sự may mắn của đời anh. Làm thế nào mà không được thương em nhiều hơn nữa?”.
Trong bức thư đề ngày 15 thánh 11 năm 1964, ông viết với những lời như gợi ở ông một viển ảnh ông sẽ thanh thản từ giả Anne trong lúc bà hảy còn trẻ và sẽ sống cô đơn “Khi anh gặp em và ngay lúc đó, anh đã đoán là anh sẽ đi vào một cuộc hành trình lớn. Nơi anh đì ở đó anh ít ra cũng biết em sẽ luôn luôn vững mạnh. Anh tôn thờ gương mặt này, nguồn ánh sáng của anh. Sẽ không bao giờ có đêm tuyệt đối đến với anh. Cô đơn của cái chết sẽ ít cô đơn hơn. Anne, người yêu của anh”.
Trong những bức thư viết gởi Anne, ông mô tả quang cảnh và nền trời xứ Pháp một cách tuyệt vời mà Anne là hiện thân lý tưởng, không phải chỉ để quyến rủ Anne, để thuyết phục Anne, mà còn để ghi dấu thời gian bên lề lịch sử chánh thức, nhựt ký định mạng của ông. Với độc giả, đây còn là bằng chứng cụ thể về Mitterrand, một con người đây tham vọng. Biết nuôi tham vọng. Chờ cơ hội thực hiện.
Khi có Mazarine, Mitterrand đưa Anne và em bé về ở trong một căn nhà rộng 250 m2 bên cạnh Dinh Elysée để cùng ông sống trọn vẹn đời sống gia đình. Tuy không chánh thức. Dỉ nhiên mọi chi phí thuộc ngân sách của Elysée.
Điều đáng chú ý là trong tập “Thư gởi Anne” thấy hầu như không có thư của Anne viết cho Mitterrand. Mải tới khi ông đắc cử, mới thấy xuất hiện vài bức thư ngắn, với lời lẽ đầy yêu thương “Người tạo niềm vui của em” hoặc “Cưng, cưng của em” …
Với Mitterrand, mặc dầu chức vụ ở Elysée bận rộn, mặc dầu cơn bịnh ác nghiệt ung thư tiền liệt tuyến hành hạ, vẫn không thể ngăn cản ông tỏ tình yêu cuồng nhiệt với người yêu. Trong thư gởi Anne tháng 7 năm 1967, ông viết “ Yêu em, tự nó,chính đó là một tác phẩm say đắm rồi”. Và tháng 8 năm 1969, ông viết với ngụ ý tình yêu là thiêng liêng “Tình yêu của chúng ta đem lại cho anh tình cảm của vỉnh cửu”.
Còn Bà Danielle Mitterrand?
Nói theo Việt nam “ông ăn chả, bà ăn nem”. Cả hai người, kẻ có chả ngon, người có nem quí. Ông Bà đều hài lòng vì đều có bồ nhí.
Bồ của Bà Danielle là thầy dạy thể dục cho bà, trẻ hơn bà 12 tuổi. Về đới sống riêng tư, hai người thoả thuận nhau, mạnh ai, cách riêng của ai, cứ nấy sống. Bà Danielle đưa bồ nhí về ở ngay trong appartement của hai ông bà, đường Bièvre, Quận V Paris. Căn phòng của ông bồ Jean Balenci bên cạnh phòng của bà,ở dưới căn phòng của ông Mitterrand.
Họ sống như vậy cho tới khi ông Mitterrand làm Tổng thống, lính tới canh gác trước nhà, hai đầu đường Bièvre, không cho xe cộ vào, ngoại trừ người ở con đường này, thì ông Jean Balenci mới dọn đi nơi khác.
Ông Mitterrand theo xã hội chủ nghĩa nhưng có xu hướng dân chủ tự do của thứ dân chủ xã hội. Còn bà Danielle thì kiên quyết con đường mác-lê, chọn sống giản dị, tranh đấu cho giai cắp nghèo khó, bị bất công. Bà lập Nghĩa hội France-Libertés.
Sau chuyến viếng thăm Việt nam tháp tùng theo Mitterrand về, bà can thiệp với Hà nội để cho nhà văn Dương Thu Hương được qua Pháp tỵ nạn. Thật ra bà đã mua Hà nội cho sự tự do của bà Dương Thu Hương với già 95 triệu quan, qua quỉ Pháp thoại.
Về quan niệm sống giản dị của người tranh đấu, bà muốn khi chết hảy đem thân xác của bà chôn vùi xuống lòng đât, không hòm rương gì hết để như vậy, bà có thể tiếp tục phục vụ cho sinh vật nào có nhu cầu. Nhưng luật pháp cấm.
Bà chỉ có hòm bằng gổ rẻ tiền hạng bét. Không nghi lễ, không vào nhà thờ, …Con người xã hội chủ nghĩa chuyên chính và thế tục ròng, có khác!
Tổng thống Pháp và các bà bồ
Trong lịch sử nước Pháp, Tổng thống và bồ là cặp bài trùng không thể thiếu. Có người giấu kỷ, có kẻ khoe ra như thêm một thành tích.
Ngoài Anne Pingeot, ông Mitterrand có thêm, theo báo chí, lối 20 bà bồ nữa trong số đó, có 2 người khà bền: nữ ca sĩ Dalida và nữ ký giả Hravn Forsne người Thụy điển. Bà ký giả công khai có một đứa con trai với ông. Và hôm 8/8/2016, người con của bà tự giới thiệu trong cuộc vận động bầu cử địa phuơng mình là con trai của Cố Tổng thống Mitterrand. Nhưng tin này đã bị đính chánh bởi người tài xế và cả Bác sĩ riêng của ông Mitterrand.
Chính bà Danielle có tiết lộ Bà Ségolène Royal cũng là bồ nhí của ông “…trong một quan hệ đầy tính âm mưu với chồng của bà. Nếu không có âm mưu, thì không có chuyện thành cặp đôi được” (….dans une grande complicité avec mon mari. Sil ny a pas de complicité, il ny a pas de couple).
Nhà vua, Tổng thống, những người chức quyền, đều lợi dụng địa vị của mình mê hoặc nữ giới. Vị Tổng thống đầu tiên thừa hưởng truyền thống này là Napoléon III. Hiện nay, Tổng thống xã hội thứ nhì Hollande chỉ mới có 4 bà bồ. Ông chủ trương không làm đám cưới. Còn Sarkozy quơ là cưới liền. Với ông, đám cưới chỉ cần một nồi chè là đủ.
Riêng Tổng thống Félix Faure nổi tiếng về số bồ đông đảo. Ông phải cho làm con đường hầm dẩn vào Elysée để các bà bồ kéo nhau vào kín đáo hơn. Ông còn nổi tiếng là “hiệp sĩ chết trên lưng ngựa”. Cái chết của ông đã một thời làm sôi nổi báo chí Pháp.
Tổng thống Chirac nổi tiếng hào hoa. Mà ông hào hoa thiệt. Bồ của ông gồm ký giả, nghệ sĩ, dân biểu, Tổng trưởng, … Những người này dành cho ông biệt danh “Người 5 phút, cả tắm luôn” (5 minutes, la douche comprise)!
Điện Elysée, con tim và khối óc của nước Pháp, dưới các trào Tổng thống từ Đệ II Cộng Hòa ở thế kỷ XIX cho tới nay Đệ V Cộng Hòa, bị biến thành một nơi đầy ấp chuyện tình.
Chỉ có chuyện tình của ông Mitterrand là lâm ly, thấm thía hơn hết, vừa kết tinh thành 2 tác phẩm văn chương tình yêu chung thủy đầy lãng mạn.
Đẹp lắm!
Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016
Nation-Building in War: The Experience of Republican Vietnam, 1955-1975
Trùng Dương: Chuyện trò với Giáo sư Vũ Tường về cuộc hội thảo ‘Kinh nghiệm kiến quốc trong thời chiến của Việt Nam Cộng hoà, 1955-1975’ tại UC Berkeley, CA, US
Trùng Dương: Xin chào Giáo sư Vũ Tường. Trước hết, xin giáo sư vui lòng cho biết qua về thân thế? Sinh ra và lớn lên tại đâu? Học tiểu học và trung học tại đâu? Giáo sư sang định cư tại Hoa Kỳ năm nào, theo diện gì? Theo học đại học nào, ngành gì? Tại sao chọn ngành học đó? Hiện giữ chức vụ gì?
Giáo sư Vũ Tường: Tôi sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn và sang Mỹ năm 1990 theo chương trình “HO” (Ba tôi ở tù “cải tạo” gần tám năm). Học “Đại học Tổng Hợp” ở Sài Gòn khoa Anh trước khi sang Mỹ. Sau đó học thêm ngành chính trị học ở Đại học Minnesota, cao học ở Đại học Princeton, và tiến sĩ cùng ngành ở Đại học California, Berkeley. Tôi chọn ngành chính trị học vì thấy đây là một lãnh vực cực kỳ lý thú và ở Việt Nam chưa từng nghe đến. Hiện tôi là giáo sư khoa Chính trị học và giám đốc chương trình Á châu học của Đại học Oregon (University of Oregon).
TD: Động lực nào đã khiến giáo sư và các bạn đồng nghiệp đứng ra tổ chức cuộc hội thảo này, và lại tại chính nơi vào thập niên 1960 đã được mệnh danh là “cái nôi” của phong trào phản chiến Mỹ - đây là một sự cố ý hay tình cờ?
GS.VT: Tôi nghiên cứu về chính trị và chiến tranh Việt Nam và đang in một công trình nghiên cứu tựa đề “Cách mạng Cộng sản ở Việt nam: Quyền năng và giới hạn của ý thức hệ” (Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology). Trong quá trình nghiên cứu đó, tôi cảm nhận giới học giả thế giới hiểu rất ít và thiên lệch về Việt Nam Cộng Hòa. Họ có xu hướng nhấn mạnh tính lệ thuộc ngoại bang và những vấn đề khó khăn của nó như tham nhũng và không dân chủ. Những điều này không sai, nhưng sẽ rất thô thiển nếu chỉ biết những điều này. Không khó để chỉ ra lý do của xu hướng trên: tư tưởng bài Mỹ và chống đế quốc của nhiều học giả khuynh tả, phong trào phản chiến ủng hộ Hà Nội rất thịnh hành ở các trường đại học phương Tây trong chiến tranh Việt Nam, tâm lý xu phụ kẻ thắng trận và dè bỉu người thua trận của đám đông, sự tự do và cởi mở của xã hội miền Nam (do bị áp lực của đồng minh hay do bản chất chế độ) cho phép các yếu kém được phơi bày khá trần trụi (so với bức màn sắt ở miền Bắc), v.v... Những lý do trên làm cho một thời kỳ lịch sử của Việt Nam bị che giấu trong khi nó có thể có nhiều bài học có giá trị cho người Việt vào lúc này, khi họ muốn từ bỏ chế độ cộng sản
Trong môi trường tự do học thuật,ở đâu có những hạn chế về tri thức, ở đó có những nỗ lực tìm tòi khám phá để đẩy rộng biên giới của sự hiểu biết. Trong nhiều thập kỷ, việc nghiên cứu về VNCH bị giới hạn vì chính trị và những khó khăn khác. Ngày nay điều kiện đã cởi mở hơn, cho phép các học giả trẻ không vướng mắc định kiến và do đấy có những khám phá mới. Ở Mỹ, giáo sư Keith Taylor của Đại học Cornell đã tổ chức thành công một Hội thảo về VNCH năm 2012. Mặc dù tôi chỉ đóng vai trò người tham dự, Hội thảo Cornell đã giúp tôi tạo lập mối quan hệ với một số nhân vật lãnh đạo của VNCH và khuyến khích tôi tổ chức một cuộc gặp mặt tương tự.
Lý do tại sao tổ chức ở Berkeley: Mặc dù Berkeley nổi tiếng là trung tâm phản chiến thời chiến tranh Việt Nam, trường Đại học Berkeley đã thay đổi nhiều. Các thế hệ thứ hai trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt có mặt ở đây rất đông. Giáo sư Peter Zinoman1ở Berkeley là một sử gia hàng đầu về Việt Nam; ông là người đã đóng vai trò rất lớn trong thập niên vừa qua trong việc đào tạo và hướng dẫn những sinh viên tiến sĩ nghiên cứu về Việt Nam. Giáo sư Zinoman lớn lên sau chiến tranh như tôi, và ông ta không bị các định kiến của giới học giả phản chiến chi phối. Ông là một trong những giáo sư tôi gặp đầu tiên ở Berkeley, và tôi đã lấy lớp của ông cũng như được ông huấn luyện cách nghiên cứu của sử học (chuyên môn của tôi là khoa học chính trị, không phải sử). Việc tổ chức Hội thảo này chỉ là một phần nhỏ trong những quan hệ hợp tác giữa hai chúng tôi. Những lý do khác là Berkeley có khả năng đóng góp về tài chính, Hội thảo có ích cho những sinh viên của giáo sư Zinoman nghiên cứu về VNCH, và địa điểm ở California đơn giản và ít tốn kém cho việc đi lại của đa số diễn giả của VNCH.
TD: Về Hội thảo tại Berkeley tới đây, xin giáo sư cho biết mục đích, nội dung và dự kiến về những thành quả hy vọng đạt được qua hai ngày hội thảo là những gì? Giáo sư có gặp những trở ngại gì trong việc phối hợp tổ chức?
GS.VT: Hội thảo nhằm mục đích tìm hiểu thêm về kinh nghiệm xây dựng quốc gia dưới thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam, cả những ưu điểm và những yếu kém, thành công hay thất bại. Tôi tin rằng Hội thảo sẽ giúp mở rộng hiểu biết về VNCH mà hiện nay còn rất hạn hẹp và thiên lệch như tôi đã nói ở trên. Hội thảo cũng có thể gợi ra vài bài học bổ ích cho việc xây dựng một thể chế dân chủ, kinh tế tư nhân phát triển, và xã hội tự do ở Việt Nam vào thời điểm này và trong tương lai. Đường hướng phát triển này đã hiện hữu trong cơ cấu chính trị, kinh tế, và xã hội của VNCH, nhưng bị khuynh đảo bởi cuộc chiến tàn bạo và bị chôn vùi trong bốn thập niên qua sau khi đất nước thống nhất bởi những người cộng sản. Mục đích của Hội thảo trước nhất là vì học thuật. Chúng tôi không có mục đích chính trị, không phục vụ ý đồ của bất kỳ phe nhóm chính trị nào trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, càng không nhằm phê phán, tôn vinh, hay khôi phục chế độ VNCH.
Hội thảo gồm bẩy nhóm bài viết: năm nhóm bài viết của các nhân vật lịch sử thời VNCH và hai nhóm bài viết của các học giả nghiên cứu về giai đoạn đó. Trong số các nhân vật lịch sử, có các bộ trưởng, chính khách đối lập, sĩ quan cao cấp, văn nghệ sĩ, và các nhà giáo dục. Các vị này sẽ trình bày dựa trên kinh nghiệm bản thân và công tác của họ về chính sách của chính quyền, các hoạt động và phong trào chính trị, quân sự, văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục. Những bài viết của học giả dựa trên nghiên cứu những tài liệu lưu trữ và phỏng vấn.
TD: Được biết nhóm diễn giả thứ hai gồm những vị đã từng sinh hoạt, do đấy đã đóng vai trò nhân chứng, trong các cơ quan chính quyền Việt Nam Cộng Hoà thuộc các ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, và quân đội, và trong các ngành nghề liên quan đến kinh tế, giáo dục, văn hoá, và văn học, kể cả truyền thông, và nghệ thuật. Xin giáo sư cho biết thành phần thuyết trình viên này gồm những ai, và đề tài thuyết trình của họ là những gì?
Trong khi tổ chức Hội thảo, chúng tôi được sự ủng hộ nhiệt tình của Giáo sư Zinoman và Tiến sĩ Sarah Maxim (bà là Phó Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á của Berkeley), và sự tin cậy cũng như ủng hộ của rất nhiều nhân vật lịch sử của VNCH. Nếu không có sự nhiệt tình giúp đỡ, giới thiệu, vận động, và đóng góp kiến thức, thời gian, và tài chính của các ông Nguyễn Đức Cường, Hoàng Đức Nhã, Trần Văn Minh, Phan Công Tâm, Trần Văn Sơn (đã quá vãng năm ngoái) và những cộng sự của họ, Hội thảo sẽ không thể ra đời.
Trở ngại chính là số nhân vật lịch sử thời VNCH không còn nhiều, phần lớn sức khỏe yếu do tuổi tác cao và tù đày nhiều năm dưới chế độ cộng sản, nhiều người e ngại nói trước công chúng nhất là bằng tiếng Anh, và cũng có vài vị nghi ngờ thiện chí của chúng tôi. Hai tháng trước ngày Hội thảo, hai nhân vật lịch sử đã nhận lời tham gia nhưng, tiếc thay, đột ngột quá vãng do tuổi cao và bệnh tật. Đó là Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, cựu Thứ trưởng Giáo dục, và ông Võ Long Triều, cựu Bộ trưởng Thanh Niên và chủ nhiệm báo Đại Dân Tộc, cũng là chính khách đối lập.
TD: Được biết thành phần diễn giả gồm hai loại, một là các học giả/giáo sư đại học, họ gồm những ai và các đề tài tham khảo là gì?
GS.VT: Các học giả bao gồm ba người là giáo sư Đại học, một nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ, và bốn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Phần lớn họ đến từ các trường đại học lớn của Mỹ (Berkeley, Cornell, Dartmouth, Columbia). Có một người đến từ Canada. Có hai người gốc Việt. Đề tài của họ bao gồm chính trị, kinh tế và xã hội dân sự dưới thời VNCH. Ngoài diễn giả ra, có ba người trong Ban Tổ chức cũng là gốc Việt.
Đặc biệt trong ngày thứ hai của Hội thảo vào giờ ăn trưa có buổi ra mắt sách mới của Giáo sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn từ Đại học Monash của Úc đến. Giáo Sư Nguyễn là người Úc gốc Việt và tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về cộng đồng người Việt hải ngoại. Tác phẩm mới nhất của bà sẽ được giới thiệu tại Hội thảo là “Quân nhân miền Nam Việt nam: Ký ức về chiến tranh Việt Nam và thời hậu chiến” (South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After).
GS.VT: Các thuyết trình viên của nhóm sau này gồm các diễn giả, nói về các đề tài chính trị, quân sự, kinh tế, kể cả nông nghiệp, thì có: Luật sư Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng Nội vụ thời Đệ nhất Cộng Hòa, sẽ nói qua hệ thống Skype, về “Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đệ nhất Cộng Hoà (1954-1963); Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bộ trưởng Bộ Dân vận và Chiêu hồi, về “Nỗ lực hướng tới một nền hoà bình vững bền để tiếp tục kiến quốc: Thỏa hiệp Hoà bình tại Việt Nam và Hậu quả”; Giáo sư Vũ Quốc Thúc bàn về “Sự Ra đời của Hệ thống Ngân hàng Trung Ương,” cũng qua Skype, từ Pháp; Luật sư Cao Văn Thân, cựu Bộ trưởng Bộ Cải cách và Phát triển Nông nghiệp thời Đệ nhị Cộng Hoà, thuyết trình về “Cải cách Ruộng đất, Phát triển Nông thôn và Nông Nghiệp”; Ông Phạm Kim Ngọc, cựu Bộ trưởng kinh tế thời Đệ nhị Cộng Hoà, bàn về “Cải cách hoặc Tan rã”; và Ông Nguyễn Đức Cường, cựu Bộ trưởng Thương mại và Kỹ nghệ, nói về “Nền móng của Tự lực và Phát triển.” Về quân sự, có cựu Đại tá Trần Minh Công, chỉ huy trưởng Học Viện Cảnh sát Quốc gia nói về những thách thức đối với ngành Cảnh sát dưới một chế độ có định hướng dân chủ và trong thời chiến; và cựu Trung tá Bùi Quyền, Lữ Đoàn phó Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, trình bày cách nhìn của ông đối với cuộc chiến với tư cách một sĩ quan vào sinh ra tử ngoài mặt trận.
Riêng về các đề tài văn hoá, giáo dục, và văn học nghệ thuật thì có nữ Tiến sĩ Võ Kim Sơn, nguyên giảng sư Đại học Sư Phạm Saigòn, nói về “Việc điều hành hệ thống giáo dục công lập tại Nam Việt Nam”; Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước, nguyên Viện trưởng Phân khoa Đào tạo Giáo viên Tiểu học tại Saigon, đóng góp về đề tài “Triết lý Giáo dục và Phát triển Hệ thống Trường Kiểu mẫu của Việt Nam Cộng Hoà”; Nhà báo Phạm Trần, với trên 50 năm kinh nghiệm trong báo giới từ cả trước và sau 1975, nói về đề tài “Sống và làm việc trong vai trò ký giả dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà”; Nhà báo Vũ Thanh Thủy, cựu phóng viên chiến trường trước 1975 và hiện là giám đốc Đài Phát thanh Saigon Houston, nói về “Chiến tranh Việt Nam qua cái Nhìn của các Phóng viên Chiến trường người Việt”; Ông Huỳnh Văn Lang, giám đốc Viện Hối Đoái và bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Đảng Cần Lao Nhân Vị thời Đệ nhất Cộng Hoà, sáng lập viên Hội Văn hoá Bình dân và tạp chí Bách Khoa, và là một nhà kinh doanh thành công thời Đệ nhị Cộng Hoà, qua Skype, nói về “Xã hội của Những Kẻ Tự nguyện Lưu vong Muôn thuở”; Nhà văn Nhã Ca, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết và đặc biệt cuốn hồi ký lịch sử “Giải Khăn Sô Cho Huế,” mà ấn bản Anh ngữ do Bà Olga Dror dịch được phát hành cách đây hai năm, kể về kinh nghiệm viết văn tại Miền Nam; và cuối cùng, nữ diễn viên Kiều Chinh trình bầy về “Nghệ thuật Điện ảnh Việt Nam Cộng Hoà, 1954-1975.”
TD: Được biết trong nhóm thuyết trình viên thứ hai vừa kể trên có ông Võ Long Triều vừa mới ra đi. Xin thành thật chia buồn cùng gia quyến của ông Triều và với riêng ban tổ chức hội thảo về sự ra đi bất ngờ này. Xin giáo sư cho biết qua về thân thế và đề tài mà ông Triều sẽ thuyết trình và ban tổ chức có định cho người trình bầy đại ý nội dung phần nói chuyện này của người quá cố?
GS.VT: Ông Võ Long Triều là người Bến Tre du học ở Pháp trong thập niên 1950 và tốt nghiệp ngành kỹ sư canh nông tại Đại học Paris-Grignon. Sau khi về nước, ông Triều làm việc ở Bộ Cải tiến Nông thôn và dạy học ở trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Ông nhận chức Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao trong Nội các chiến tranh của tướng Nguyễn Cao Kỳ năm 1966, nhưng từ chức một năm sau để phản đối việc lạm quyền của tướng Cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan. Ông bị động viên nhập ngũ sau đó và tốt nghiệp trường Sĩ quan Bộ binh Thủ Đức. Mặc dù chịu nhiều cản trở từ phía chính quyền, ông được bầu làm Dân biểu Quốc Hội của tỉnh Bến Tre khóa 1971-1975. Ông sáng lập, điều hành, và phụ trách mục bình luận trên nhật báo Đại Dân Tộc để tranh đấu cho lập trường chính trị của ông. Ông đi tù 11 năm dưới chế độ cộng sản, sau đó đi định cư ở Pháp và Mỹ. Ông tiếp tục hoạt động mạnh trên lãnh vực truyền thông ở hải ngoại trước khi qua đời vào tháng trước do bệnh tật..
Ban Tổ chức Hội thảo yêu cầu ông Triều trình bày về hai vấn đề. Một là phân tích đánh giá nền dân chủ đa nguyên của Đệ nhị Cộng Hòa qua kinh nghiệm dân biểu đối lập và chủ báo Đại Dân Tộc -- cụ thể là những tiến bộ và hạn chế, cũng như lý do của hạn chế; vai trò và tổ chức của đối lập chính trị thời Đệ nhị Cộng Hòa; và bài học để xây dựng Việt Nam dân chủ trong tương lai. Hai là phân tích, đánh giá khả năng và hạn chế của chính quyền VNCH từ thời chuyển tiếp (1963-67) cho đến Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-75) -- bao gồm khả năng kiểm soát và cai quản quốc gia về các mặt quân sự, kinh tế, chính trị, lý do thiếu khả năng hay có tham nhũng, lý do của thành tựu và yếu kém. Tiếc là ông Triều không còn nữa, và bài viết của ông hãy còn dở dang không thể đưa ra trình bày.
TD: Thề còn Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm cũng vừa qua đời – Xin thành kính phân ưu cùng gia đình GS về mất mát lớn lao này. Xin Giáo sư Tường cho biết về GS Liêm và phần thuyết trình của ông được không ạ?
GS.VT: Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm sinh ở Mỹ Tho, tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo dục ở Đại học Iowa State University, là cựu hiệu trưởng trường Petrus Ký và thứ trưởng Bộ Văn Hóa, Giáo dục và Thanh Niên dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa. Chúng tôi đặt hàng ông viết về sự phát triển và quan điểm chi phối việc tổ chức giáo dục đại học và chuyên nghiệp dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, bao gồm: triết lý giáo dục, tổ chức đào tạo, quản trị đại học, ảnh hưởng của Pháp và Mỹ, những nỗ lực cải cách nếu có, sự phát triển của khu vực tư và khu vực công trong giáo dục và quan hệ giữa hai khu vực, và bài học cho tương lai. Trước khi mất, Giáo sư Liêm giới thiệu Tiến sĩ Võ Kim Sơn và Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước thay ông phụ trách bài viết về lãnh vực giáo dục.
TD: Trong thông báo về cuộc hội thảo này, ban tổ chức có nói là hy vọng thu thập tài liệu và phân tích những nỗ lực của Miền Nam về cả quân sự lẫn những khía cạnh khác của công trình xây dựng đất nước, đồng thời giúp cho giới học giả hiểu biết về các kinh nghiệm kiến quốc trong thời chiến, không chỉ ở Việt Nam và với sự trợ giúp từ bên ngoài. Ngoài ra, đáng kể hơn cả là việc ban tổ chức nhấn mạnh là, “Một cách đáng kể là kinh nghiệm thời Cộng Hoà về chính trị, kinh tế xã hội, và một sự phát triển văn hoá sinh động rất phùng thời cho Việt Nam hôm nay khi người dân trong nước đã bác bỏ chủ nghĩa cộng sản nhưng còn đang cố gắng xây dựng một chính quyền dân chủ, một xã hội công bằng, một nền văn hoá sinh động và một nền kinh tế phồn thịnh dựa trên nền tảng tư doanh.” Xin giáo sư khai triển thêm: có phải giáo sư đang nhìn thấy những đổi thay chính trị không thể không xẩy ra ở Việt Nam trong một tương lai gần, đặc biệt trong bối cảnh thảm họa môi trường đang diễn ra từ mấy tháng nay với vụ cá chết, biển độc, dân chài mất nguồn sinh sống, và dân chúng biểu tình khắp nơi, đặc biệt tại Miền Trung là nơi chịu nạn nặng hơn cả?
GS.VT: Ở Việt nam hiện nay, tôi cho rằng thay đổi chính trị theo chiều hướng dân chủ hóa là không thể tránh khỏi. Giới trí thức và rất đông dân chúng ủng hộ việc này, và càng ngày phong trào càng mạnh. Vấn đề là khi nào sẽ chuyển hóa (trong vòng năm năm hay lâu hơn), và theo kiểu nào (ít hay nhiều bạo lực, thay đổi tạo động lực chuyển biến nhanh hay phải qua nhiều trắc trở). Câu trả lời dĩ nhiên tùy thuộc vào người trong cuộc và một phần vào tình hình quốc tế.
TD: Cũng trong giòng suy nghĩ trên, gần đây có hiện tượng đáng chú ý, đó là việc một số người trẻ trong nước có khuynh hướng vọng tưởng về thời Việt Nam Cộng Hòa với nhiều tiếc nuối. Có người tự xưng là hậu duệ của VNCH. Có người ngang nhiên treo cờ vàng ba gạch đỏ của thời VNCH trước nhà, như trường hợp của cậu Nguyễn Viết Dũng (đã đi tù về tội “phá rối trật tự” khi đi biểu tình chống đốn cây xanh ở Hà Nội và bị bắt), hoặc như cô Hồng Thái bất chấp hậu quả công khai lên YouTube bầy tỏ niềm tiếc nuối về một thời Cộng Hoà nhân bản và khai phóng mà thế hệ của cô đã không được hưởng. Trên YouTube ta được thấy một số clip thu hình các em vào Nghĩa trang Biên Hoà thắp nhang nến khấn vái với các anh linh của tử sĩ VNCH. Gần đây tôi được đọc một tài liệu dài trên một trang Web, có lẽ là của một người trong nước, viết về nền giáo dục dưới thời VNCH, với tựa đề mà thú thật tôi đọc không khỏi thấy sót xa: “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến.” Thực ra thì nhiều người trẻ sinh sau 1975 và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản đã từ lâu tìm đọc sách vở VNCH và biết tới những công trình văn hoá nghệ thuật của giai đoạn này. Tôi nhớ có một lần trao đổi e-mail với một em trong nước, hỏi tại sao cậu ta lại quan tâm tới văn học của thời Cộng Hoà thì cậu cho trả lời rất ngắn gọn, “Vì ở đó có sự thật.” Xin phép đã nói lan man …
Trở lại đề tài kiến quốc, theo giáo sư công trình cấp thiết nhất trong việc xây dựng đất nước là gì? Giáo sư đã có những suy tư gì có thể chia sẻ được với độc giả?
GS.VT: Một quốc gia tồn tại trong 20 năm với đầy đủ chính quyền và được công nhận bởi hàng chục nước khác dĩ nhiên phải để lại di sản nào đó. Có thể là di sản vật chất, ví dụ như Dinh Độc Lập hay Xa lộ Biên Hòa. Có thể là di sản tinh thần, ví dụ như thơ Bùi Giáng, nhạc Phạm Duy, hay tiểu thuyết Bình Nguyên Lộc. Có những di sản tinh thần khó thấy hơn, ví dụ thái độ yêu tự do, tinh thần trọng tri thức và tranh luận, tâm lý cởi mở với thế giới bên ngoài, thói quen lễ phép của trẻ em, hay tư duy mạo hiểm của nhà sản xuất kinh doanh.
Không phải di sản nào cũng hay và tốt: đâu phải bản nhạc nào của Phạm Duy cũng hay? Cũng không phải mọi di sản tồn tại bất biến với thời gian: những di sản vật chất sẽ bị hủy hoại dần dần, và nhiều di sản tinh thần có thể còn trong ký ức những người lớn tuổi. Nhận diện và đánh giá những di sản của VNCH là việc làm có giá trị: trước mắt là về mặt lịch sử, sau đó là những bài học cụ thể (cả bài học tốt lẫn xấu) trong xây dựng dân chủ (ví dụ Hiến pháp Đệ nhị Cộng Hòa và cơ chế lưỡng viện), trong phát triển kinh tế (ví dụ chính sách phát triển nông thôn), và trong việc tổ chức một xã hội tự do phóng khoáng (ví dụ nền báo chí tư nhân hay các hiệp hội chuyên môn).
Tôi nghiên cứu về chính trị, và dĩ nhiên có xu hướng xem chính trị có vai trò chủ chốt. Theo tôi, việc cấp thiết nhất với Việt Nam hiện nay là cải tổ chính trị sâu sắc và rộng lớn theo hướng dân chủ hóa. Giải quyết được điều này có thể giải phóng được rất lớn trí tuệ và năng lực người Việt Nam. Nếu sợ dân chủ sẽ dẫn đến hỗn loạn, hãy có lộ trình, nhưng không được lấy cớ hỗn loạn để trì hoãn. Bi (hài) kịch là nhiều vị lãnh đạo Việt Nam tự đắc là chính quyền của họ dân chủ nhất thế giới. Nếu thế thì còn gì để nói nữa?
TD: Như Giáo sư đã nói qua ở trên thì đây không phải là cuộc hội thảo đầu tiên về kinh nghiệm kiến quốc của VNCH? Giáo sư và các bạn đồng nghiệp đã từng tổ chức một cuộc hội thảo tương tự nhưng thu hẹp hơn vào khuôn khổ thời Đệ nhị Cộng Hoà từ 1967 tới 1975 tại Đại học Cornell vào năm 2012? Xin giáo sư cho biết về cuộc hội thảo này? Chủ đề là gì? Nội dung gồm những gì? Thành phần tham dự gồm những ai? Thành quả ra sao? Phản ứng của giới học giả về những gì thu thập được từ cuộc hội thảo này thế nào? Ai muốn tìm hiểu và tham khảo các tài liệu đã thu thập được từ cuộc hội thảo này thì phải làm gì?
GS.VT: Hội thảo ở Cornell năm 2012 nhằm mục đích tạo cơ hội cho những nhân vật lãnh đạo và giới tinh hoa của VNCH có dịp nói lên quan điểm của họ mà trước nay người Mỹ ít được nghe. Trong Hội thảo đó, có phần trình bày của những vị như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Trung tướng Lữ Lan, Thẩm phán Phan Quang Tuệ, ông Trang Sĩ Tấn, ông Trần Văn Sơn, ông Hoàng Đức Nhã, v.v... Hội thảo chỉ chuyên về chính trị và quân sự nên không có sự hiện diện của các nhà giáo dục và văn nghệ sĩ như Hội thảo lần này ở Berkeley. Hội thảo rất thành công với sự có mặt trong cử tọa của nhiều nhà nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam ở miền Đông Hoa Kỳ cũng như các giáo sư và sinh viên của Cornell. Phần lớn các bài trình bày đã được xuất bản trong quyển “Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)”.
TD: Xin phép tiếp lời Giáo sư Tường để chia sẻ thêm với độc giả, và cũng cám ơn Giáo sư đã có nhã ý gửi cho đọc cuốn sách “Voices” kể trên. Thú thực, đọc qua các bài thuyết trình đã được khai triển thêm và chú thích trong tập sách gần 200 trang này, tôi đã học hỏi thêm nhiều điều và cũng không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: là tại sao suốt thời gian lớn lên tại Miền Nam (tôi chỉ thực sự bước vào tuổi 20 vào giữa thập niên 1960), và mặc dù sinh hoạt trong giới văn học và báo chí mà tôi thực tình không biết một cách sâu xa những gì đề cập tới trong tập sách tuy mỏng mà đầy ắp thông tin đó. Những bài viết về từ công trình xây dựng và củng cố (sau một thời gian bị gián đọan vì khủng hoảng chính trị từ sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị xụp đổ, từ 1963 tới 1967) các cơ chế chính trị, đảng phái, kinh tế, các chương trình quân sự bình định và phát triển nông thôn, đặc biệt chương trình Người Cầy Có Ruộng phải nói là tương đối thành công dưới thời Đệ nhị Cộng Hoà, trong bối cảnh cuộc chiến ngày một gia tăng, khốc liệt, cùng với sự thâm nhập đánh phá, kể cả khủng bố, hàng ngũ quốc gia của cán bộ cộng sản. Một trong những bài tôi đặc biệt thích thú, và cũng sót xa nữa, là bài “Từ việc trực diện các nhóm phản chiến tới công cuộc kiến quốc” của cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, kể lại những đối phó của VNCH với bên ngoài, đặc biệt là trong bầu không khí vô cùng tiêu cực do ảnh hưởng của phong trào phản chiến từ Mỹ đối với cuộc chiến tại Việt Nam đã làm mờ nhạt chính nghĩa tranh đấu bảo vệ nền tự do và dân chủ còn rất non yếu của VNCH. Tôi cũng cảm nhận được sự chân thực, không khoe khoang, tô hồng qua những lời trần tình của các tác giả trong “Voices” khi kể lại kinh nghiệm kiến quốc của họ. Và tôi hy vọng độc giả tiếng Việt sẽ có dịp đọc bản dịch Việt ngữ của cuốn sách tài liệu này trong một tương lai không xa.2
Xin thành thật cám ơn GS Tường đã bỏ thì giờ chia sẻ qua buổi nói chuyện hôm nay. Tôi cũng muốn nhân cơ hội này gửi lời cám ơn nhà văn Bùi Văn Phú là người đã giới thiệu chúng ta với nhau và do đấy cho tôi dịp biết đến những công trình giáo sư và các bạn đồng nghiệp đang theo đuổi, để chia sẻ với độc giả Việt hôm nay. Xin chúc cuộc hội thảo tới tại Đại học Berkeley thành công tốt đẹp.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)