khktmd 2015
Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2023
Việt Nam Ngày Hôm Nay: Đi Đến Đâu Cũng Gặp Toàn Gian Dối - Tác giả Lâm Vĩnh Thế
Từ khi chiếm được cả nước vào ngày 30-4-1975, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) luôn luôn rêu rao là đã làm cho đất nước giàu mạnh, đẹp đẽ, được cả thế giới ngưỡng mộ và ca ngợi. Gần đây nhứt, trong dịp mừng Xuân Quý Mão (2023) và kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trong đã phát biểu như sau: “Đưa đất nước ngày càng phát triển, hùng cường, thịnh vượng.” [1] Kết quả xây dựng của họ ra sao chúng ta đâu còn lạ gì nữa. Bên dưới cái hào nhoáng của những công trình xây dựng vật chất vô cùng “hoành tráng” (tỉnh từ này đã trở nên thời thượng ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam từ hơn 20 năm nay) với hàng loạt nhà cao tầng, xa lộ cao tốc, đường hầm Thủ Thiêm, và, sắp tới đây, là xe điện ngầm, nhưng hạ tầng cơ sở của Thành phố Hồ Chí Minh “hoành tráng” đó thì thế nào? Ai cũng biết rõ là hể cứ có mưa lớn là rất nhiều khu vực ngay tại trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh, đường xá sẽ bị ngập kinh khủng, gây trở ngại giao thông và việc đi lại của người dân lao động (mà chính quyền cứ luôn luôn giải thích là do “triều cường”?), như chúng ta có thể thấy rất rõ trong các tấm ảnh bên dưới đây:
Đường phố T/P Hồ Chí Minh Bị Ngập Khi Mưa Lớn – Xin lưu ý cái tiêu đề của tấm ảnh này.
Khi mưa lớn, gần như toàn T/P Hồ Chí Minh đều bị ngập: tại tất cả 66 điểm
Tất cả những xây dựng vật chất đó, mà một số khá lớn có thể coi là không cần thiết, đã được thực hiện chỉ vì “có làm mới có ăn,” câu nói mỉa mai của người dân ám chỉ căn bệnh tham nhũng, ăn xới, ăn bớt trong tất cả các dự án xây dựng trong nước đã nhập vào xương tủy của cán bộ, đảng viên ở tất cả mọi cấp. Và câu nói chính thức của Bà Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch nước tại phiên họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội vào ngày 11-9-2013 là như sau: “Người ta ăn của dân không từ cái gì nữa, từ liều vacxin con con đến tiền chữa bệnh bảo hiểm.” [2]
Tất cả mọi chuyện xảy ra trong nước, từ cấp trung ương xuống cho tới cấp xã ấp, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, ngay cả những chuyện liên quan đến tính mạng của người dân, đều được các cấp đảng viên và cán bộ xem là cơ hội để kiếm tiền, để làm giàu cho bản thân và gia đình họ, bất chấp pháp luật và đạo đức. Chắc chắn mọi người đều chưa quên những chuyện này:
- Vụ Đại Án Việt Á: xảy ra trong thời gian vụ Dịch COVID-19 bùng nổ, đưa đến việc “ông Phan Quốc Việt, Tổng giám đốc công ty cổ phần Công nghệ Việt Á đã bị bắt để điều tra về hành vi nâng khống giá kit test COVID-19, chi tiền hối lộ cho lãnh đạo Bệnh viện, CDC các tỉnh thành để bán kit với giá cao hơn so với giá thành sản xuất.” [3]
- Vụ các chuyến bay giải cứu hơn 200.000 đồng bào đang bị kẹt lại tại các nước trong vụ Dịch COVID-19, “cơ quan điều tra đã làm rõ một loạt sai phạm trong việc thực hiện với những cái tên được nhắc đến trong các quyết định khởi tố bị can như: Chử Xuân Dũng (Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội), Tô Anh Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao), Phạm Trung Kiên (Thư ký Thứ trưởng Bộ Y tế), Nguyễn Quang Linh (Thư ký Phó Thủ tướng), Nguyễn Thị Hương Lan (Cục trưởng Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao), Nguyễn Hồng Hà (Tổng lãnh sự Việt Nam tại Osaka, Nhật Bản)…” [4]
- Chủ tịch UBND Xã Quảng Vinh, Ông Hồ Quang Hóa tham ô gần 1 tỉ đồng tiền cứu trợ bảo lụt [5]
Tất cả những tên tội phạm này đều là đảng viên, và một số lại là đảng viên cao cấp của ĐCSVN đã từng được ban khen bao nhiêu lần là cán bộ tốt, trong sạch, nhưng hành động phạm tội, tham ô của chúng cho thấy rõ ràng, không thể chối cãi được. là những thành tích được kể ra trong các bảng khen đó toàn là Gian Dối và Gian Dối, không có một chút nào là sự thật cả.
Hiện nay, có thể nói mà không sợ sai lầm là toàn ĐCSVN, từ trung ương cho tới xã ấp, từ Tổng Bí Thư, Bộ Chính Trị cho đến các xã ủy, huyện ủy, không còn một người nào tin vào Chủ Nghĩa Mác-Lênin nữa cả, tất cả mọi cơ cấu tổ chức, chương trình, dự án đều đã là sản phẩm của chủ nghĩa, chế độ tư bản hết rồi, vậy mà Triết học Mác-Lênin vẫn tiếp tục được giảng dạy và là một bộ phần bắt buộc phải có trong chương trình học của tất cả các trường đại học trên toàn quốc. Sự gian dối đã thật sự và dứt khoát được đặt lên hàng quốc sách của Đảng và Nhà nước.
ĐCSVN lúc nào cũng tuyên truyền láo khoét một cách trắng trợn không biết ngượng là “ở Việt Nam, ra ngõ là gặp anh hùng.” Anh hùng ở đâu không thấy, nhưng thấy rõ ràng là ra ngõ là gặp toàn những hiện tượng xã hội xấu xa, như trong phần nhận định sau đây của một bài viết trên Trang Web rfa của Đài Á Châu Tự Do: [6]
Hồi đầu tháng Bảy này, tác giả Trần Thị Huyền Trang cũng cảnh báo về “Sự dối trá đang bao trùm trong đời sống xã hội VN”, lưu ý:
Chưa bao giờ chất lượng giá trị của cuộc sống lại xuống thấp như hiện nay ở Việt Nam, vì xã hội đã coi sự dối trá là một việc bình thường, niềm tin giữa con người với nhau đã bị lung lay, đi tới đâu ta cũng nghe bàn tán tới sự lừa đảo giựt dọc nhau, trong làm ăn, trong giao tiếp, trong mua bán với nhau ngoài xã hội, đọc báo chí ta cũng biết đầy dẫy sự lừa đảo nhau ở mọi cấp độ trong xã hội…
Gần đây, sự gian dối đã lây lan sang cả một lãnh vực mà sự lượng thiện trí thức tuyệt đối cần phải có và phải được tôn trọng: đó lãnh vực giáo dục, đặc biệt là giáo dục ở bậc đại học nơi đào tạo những cán bộ, chuyên viên tương lai cho đất nước. Mới đây nhứt là trường hợp sử dụng bằng cấp giả của một giảng viên ở một trường đại học ngay tại Thành phố mang tên Bác. [7]
Thay Lời Kết:
Trong một đất nước mà sự gian dối đã được Chính quyền đưa lên hàng quốc sách thì làm sao mà người dân còn có được sự tin tưởng vào bất cứ đường lối, chính sách, chương trình gì của Nhà Nước được nữa. Thanh thiếu niên, những công dân tương lai của Việt Nam, bị ảnh hưởng tiêu cực rất nặng từ sự dối trá trong toàn xã hội hiện nay như trong nhận định sau đây của Trang Web Zun.vn: “Đặc biệt trong những năm gần đây, xã hội xuất hiện nguy cơ khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn giá trị – niềm tin và lối sống ở thế hệ trẻ… Thói đạo đức giả với những biểu hiện của nó trong lối sống, lời nói không đi đôi với làm ở những người lớn, trong gia đình, nhà trường, cơ quan, công sở, và ở ngoài xã hội đã gây ra những phản cảm nặng nề đối với lớp trẻ, làm cho họ mất niềm tin, mất phương hướng trong cuộc sống.” [8] Hiện trạng Việt Nam Ngày Hôm Nay: Đi Đến Đâu Cũng Gặp Toàn Gian Dối là một chuyện đương nhiên, không thể nào tránh được. Hết sức đau buồn cho đất nước !
GHI CHÚ:
- Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng: Đưa đất nước ngày càng phát triển, hùng cường, thịnh vượng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đưa đất nước ngày càng phát triển, hùng cường, thịnh vượng – Báo Người Lao Động (baomoi.com)
- Phó Chủ tịch nước nói: “Người ta “ăn” của dân không từ cái gì, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Phó Chủ tịch nước: “Người ta “ăn” của dân không từ cái gì” | Báo Dân trí (dantri.com.vn)
- Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á – Wikipedia tiếng Việt
- Vụ “chuyến bay giải cứu” và những mức án, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Vụ ‘chuyến bay giải cứu’ và những mức án (vietnamnet.vn)
- Chủ tịch xã tham ô gần 1 tì đồng tiền cứu trợ bảo lụt bị bắt giữ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: [TT] Chủ tịch xã tham ô gần 1 tỉ đồng tiền cứu trợ bão lụt bị bắt giữ | Diễn đàn GVN
- Thanh Quang. Đạo đức xã hội hôm nay, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Đạo đức xã hội hôm nay — Tiếng Việt (rfa.org)\
- Vụ giảng viên dùng bằng tiến sĩ giả: Cần khắc phục lỗ hổng tra cứu văn bằng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Vụ giảng viên dùng bằng tiến sĩ giả: Cần khắc phục lỗ hổng tra cứu văn bằng – Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)
- Việt Nam ngày nay, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Thực trạng đạo đức trong xã hội Việt Nam ngày nay – Tài liệu, ebook, giáo trình (zun.vn)
Nguyễn Bắc Sơn, một nẻo đời khác- Tác giả Cung Tích Biền
Đôi dòng tiểu sử: Nguyễn Bắc Sơn, tên khai sinh Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1944 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Theo lời những người gần gũi với Sơn, anh bị khủng hoảng tinh thần rất sớm, Năm 15 tuổi, đã đến nghĩa địa, cắt gân tay nằm chờ chết. Có người tìm thấy, cứu cậu bé thoát chết. Sau này nhảy lầu tự tử “nhiều lần”, nhưng không chết. Thân phụ Nguyễn Bắc Sơn là cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết năm 1954, sau 30/4/1975 về đoàn tụ gia đình, cấp bậc Đại tá Quân đội nhân dân. Nguyễn Bắc Sơn là lính Việt Nam Cộng Hoà, nhập ngũ năm 1962. Trong quân ngũ, có thời gian làm thông ngôn cho cố vấn Mỹ’. Vắng mặt trên trái đất tháng 8 năm 2015, tại quê nhà.
1
Kể lạ, ở “nước non mình”, bút hiệu của các nhà sáng tác qua nhiều lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, nghiên cứu phê bình, truyền hình, báo chí, diễn viên, có bút hiệu/danh, là Sơn [không kể Sơn ở đầu như Sơn Nam, Sơn Tùng, Sơn Vương, Sơn Bắc, Sơn Hà…], là đông vô số kể. Thiếu Sơn, Triều Sơn, Trúc Sơn, Phạm văn Sơn, Trịnh Công Sơn, Mai Sơn, Phong Sơn, Vân Sơn, Trần văn Sơn, Linh Sơn, Trần Áng Sơn, Từ Sơn, Vinh Sơn, Hoàng Xuân Sơn, Tiến Sơn, Cao Sơn, Ngô văn Sơn, Lê Thái Sơn, Nguyễn Lê La Sơn, Lê Tây Sơn. Chu Sơn, Tùng Sơn, Hoài Sơn, Đào Bá Sơn… Trong đó hai ông Sơn thi sĩ là… đáng yêu nhất. Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Bắc Sơn. Đáng yêu, vì hai ông này đều có tài, đều có cái lạ trong thơ, lẫn ngất ngư, ngất ngưỡng, ngất ngây trong đời sống.
Nguyễn Đức Sơn, thuở kia ở đồng bằng phố thị – Bình Dương, Sàigòn. Sau tháng Tư 1975 ông đưa vợ con lên lập Phương Bối am, vùng rừng núi Lâm Đồng, nên có Biệt danh Sơn Núi. Sống đời hoang dã, cách biệt với thế gian.
Nguyễn Bắc Sơn ở Phan Thiết, hiền hòa, lãng du, nhưng lúc 15 tuổi Sơn đã biết cắt gân tay, nhảy lầu tự diệt.
Lưỡng Sơn này mần thơ rất dễ dàng như lỗ mũi hít vào thở ra, dung dị như thiếu nữ làng quê đi chân đất, hoa rừng tự nhiên, nắng và gió không hề kiểu cách.
Sơn Núi, Kỳ Sĩ Phương Bối Am, lồng lộng một nỗi đời:
Ngại chưa xuất kịp chút hồn thiết tha
Cái gì cha nói chưa ra
Biết đâu còn sót trong da máu này.
Sơn Trung Du, Phan Thiết phố thị, một anh lính Cộng Hòa, thời Nam-Bắc phân tranh:
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui.
2
Bài viết này từ đây trở đi, chỉ nói về Sơn Trung Du. Thử đọc vài ý nghĩ sơ khởi của Sơn:
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi
… Dù mỗi ngày ta xé đi năm mười tờ lịch
Nhưng thời gian đâu có chịu trôi nhanh
Dù đen bạc là nơi cố xứ
Nhưng đi biền biệt cũng không đành
[Mai Sau Dù Có Bao Giờ].
Có một thời, miệt Phan Rang Phan Thiết, nơi có Bà Mẹ đẻ ra Người con Thi sĩ, với tôi là trời hoang đường. Từ thuở lên tám, tôi ở Xứ Quảng Nam, dân cả nước chỉ “25 triệu đồng bào”, làng xóm chen lấn với rừng là rừng bao quanh. Bà con truyền tụng, “Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận”. Những làng xóm người Chàm cô quạnh, những dãi cát mênh mông. Những hồn đi trong nắng. Phan Rang, Phan Rí Lầu…
Quê tôi đi đâu cũng gặp tháp Chàm. Vào hướng nam bốn cây số đã thấy tháp Bà Rầu Con Nghê, tháp Khương Mỹ trên cánh đồng lạnh, con dơi bay, tiếng chim hoang đỉnh tháp, chiều chết trong nắng vàng. Đi ra phía Bắc một buổi đường đã gặp quần thể Tháp Đồng Dương, kinh đô của người Chàm. Lịch sử đã chết. Thời gian nơi này không đi thêm bước nào. Xa hơn về phương bắc, vùng Duy Xuyên, là quần tháp Mỹ Sơn, hàng chục ngôi tháp lẫn quất trong rừng xanh, sau này là Di Sản Thế Giới.
Tôi sống ở một khu chợ quê. Mỗi đầu tháng Giêng, thấy từng đoàn người Chăm “về” tới. Người quê tôi, gọi là “Họ về”, không phải “tới”. Xưa kia đất này là quê hương của họ, tổ tiên còn sâu đậm dấu tích, di chỉ trên vùng Đất Quảng này.
Mỗi lần đọc thơ Sơn, một nhà thơ rất cách biệt thế giới Chàm, nhưng tôi bị huyễn hoặc bởi “Đoàn người du Xuân ấy”. Y phục nhiều sắc màu đẹp đẽ. Bọn nhỏ chúng tôi chạy lon ton theo xem. Họ đi thẳng người, thong dong hai tay buông thòng, khi đang đội trên đầu một cái giỏ bự, trong đó đủ thứ hàng hóa. Họ bày bán những loại thuốc nam, bùa ngải, sừng nai hươu, nanh voi, mật gấu. Buổi tối quần tụ trong lồng chợ người Việt, người Chàm – Chăm, thức thâu đêm, âm thầm trò chuyện, những tình nước tình đời. Tôi mê nhất là bên ánh lửa khuya, với cây đàn ghi-ta và tiếng hát. Lời Chăm. Giọng buồn. Một kể lể. Những lời bọn nhỏ chúng tôi chẳng hiểu gì, nhưng chẳng rời xa họ được.
Cha tôi bảo, trong xa hút về xưa, quân nước Việt vào Đất Quảng Nam, từng sống chung với người Chăm bản xứ, hòa trộn trên một trăm năm người Chăm cuối cùng mới biến hẳn đi. Sự giao hòa ấy, có khi một đàn con có cha Việt mẹ Chăm ra đời. Chúng tôi có một họ ngoại dân tộc Chăm. Tình ấy huyền hoặc. Một thiêng liêng rung chuyển tận máu me.
Đi ra từ những ấn tượng mờ hoang ấy, sau này mỗi lần gặp một người trong phương nam, lòng tôi rờn rợn, như thấy bóng mà không gặp người. Thật ra họ rất thân thiết hiền từ, những người bạn quý, có quê nhà Phan Rang Phan Thiết, như Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Từ Công Phụng, Trần Thiện Hiệp, Nguyễn Bắc Sơn…
Y Uyên, người sĩ quan trẻ, một nhà văn tài năng, tử trận đồn Nora. Y Uyên lại dẫn tôi tới Phan Thiết xa xăm, những địa danh rất đỗi mơ màng. Phù My, động Thái An, Hòn Hồng, Hòn Rơm, Bầu Ông, Bầu Bà, Ma Lâm, Phan Rí Chàm, Tà Dôn, Suối Hồng… Cõi hoang huyền ấy giúp gì cho hồn thơ của Sơn?
3
Tôi đọc thơ Sơn, qua một mối giao cảm khá lạ lùng. Một cõi hoang mạc lại rực rỡ màu sắc tuyệt cùng.
Còn ngại hành quân động Thái An
Cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu nước lính hoang mang
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắt-cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoáng đã ở phương Tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ thành mây bay
Linh hồn ta sẽ thành đom đóm
Vơ vẩn trong rừng động Thái An
Miền Bắc sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm những đám xương tàn.
[Mật Khu Lê Hồng Phong]
Đọc thơ Nguyễn Bắc Sơn, trong tôi, có tiếng vang dội lại từ những khoảng trống, nơi chiến chinh bày ra cho những giấc mơ lẻ loi:
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời…
Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
Hãy tránh xa ra ta xin tí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hoả châu
Những cột khói giả rừng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang
[Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi]
Nguyễn Bắc Sơn, một đơn vị người tuồng là vô nhiễm, giữa một môi trường ô uế lý tưởng, ồn ào đạn bom, huyên náo chợ đời.
Có thật, “Lũ chúng ta sống một đời vô vị / Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”, Phải chăng, “Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước / Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi” Ai đã đặt khối chất nổ nơi nhà hàng, rạp chiếu bóng, đêm khiêu vũ? một con mắt người ướt máu dán trên vách tường ám khói? một cẳng chân của một ai, lủng lẳng treo trên trần nhà, quán rượu? Ai đốt cả xóm làng, em bé quê trần truồng hoảng chạy chiều lửa khói? Ai rải cái màu da cam vào bụng mẹ, đứa con thân yêu con mắt chỗ vành tai, lỗ mũi phía cần cổ? Có thời thế sáng mắt. Lại thời thế đui mù.
4
Có thật, “Lũ chúng ta sống một đời vô vị”?
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương, bậc tiền nhân, xưa kia vào đời mà bất phùng thời, buổi non sông dưới ách nô lệ của người Pháp, sống mà không “được sống”, đã tỏ nỗi lòng:
Bị quê hương rùn bỏ giống nòi khinh
Bể sâu rộng sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền xuôi gió hãy lênh đênh
Hai cái “Lũ chúng ta” của hai thời thế, hai thế hệ, là hai phương trời cách biệt. Vũ Hoàng Chương có cái cô đơn, sầu muộn, nhẹ tênh phiêu họat Xuân Diệu, “Hôm nay trời nhẹ lên cao / tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”; cách lạc loài thảnh thơi Huy Cận, “Người về nước cũ sầu trăm ngã / Củi một cành khô lạc mấy giòng”. Đi trong thanh bình mà đau đớn “Phận thanh bình”. Nhưng đau đớn ấy là cõi tịch lặng những trầm tư.
“Lũ chúng ta” thế hệ Nguyễn Bắc Sơn, là đầy sức nóng của lửa đạn, trong áp suất của hy vọng hòa máu, hỏa mù của cay nghiệt lý tưởng. Nhưng Nguyễn Bắc Sơn, giàu trò quên lãng, hay thầm đau mà quên lãng, đã phù thủy hóa cái trần gian ma quỷ này ra chỗ / nơi / cuộc đùa chơi. Những dòng máu tuôn chảy, nóng hổi, xao xác dưới ánh sáng mặt trời, đã đau đớn được vùi chôn trong tịch mịch, đêm đen của Cõi lòng. Chỉ là bồng bồng phi lý. Lửa khói, điêu linh, đã trú ẩn trong cái thế giới thơ, vừa đùa vừa âm u ấy. Ngôn ngữ ấy chính là trò ảo dụ của Nhà ảo thuật Nguyễn Bắc Sơn.
5
Kể từ tháng Tư 1975, Miền Nam bị loại thuốc tẩy hạng nặng tẩy rửa sạch trơn, không còn cả cái tên Nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trên cái nền nhà tang chế ấy, hãy còn một khoàng trống sau khi thi hài vừa chuyển đi. Một khoảng trống buồn hoang. Và, những dấu vết quen thuộc bắt đầu biến dạng.
Tô Thùy Yên, dáng dấp một thi hào, đã nói về quê hương cũ của mình, nơi ông đã giã từ để tìm Miền Đất Mới:
Dân gian thay đổi những truyền kỳ
Đất trời ủ lửa chiêm bao khác
Dâu biển làm mưa nắng lạ đi
Khó thể có một truyện nào mô tả đầy đủ mà gọn gàng, chẳng thể có bức họa nào vẽ ra cái Nơi Chốn Cũ, nơi chiếc áo quan vừa chuyển đi, ma quỷ đã nhanh chóng ngồi vào chỗ Đất Chết ấy, mọi sự đời đã thay đổi cả, trùng trùng biến dạng bãi bể với nương dâu, mà rõ nét lại kín đáo, mơ màng, mà trời rộng biển xa, như bốn câu thơ trên, tuyệt cú của Tô Thùy Yên.
Đọc thơ Tô Thùy Yên, không cần khen hay, mà cần phải hiểu. Muốn hiểu, phải tự giải thích được nó, rồi mới hiểu. Muốn giải thích, phải tự hiểu được nó rồi mới giải thích. Nó, là cái gì? Là nghệ thuật thượng thừa sử dụng ngôn ngữ Tô Thùy Yên.
Đọc thơ mà phải hiểu, phải giải thích thì mệt và vô duyên lắm. Nhưng người đọc hôm nay đâu còn cái tâm thái an nhiên, để lay động với “dây tơ”. Thơ đã là chiếc búa. Thơ sống với những trái tim vỡ máu nằm ngoài lồng ngực.
Trong cái buổi giao thời sau tháng Tư ấy, tôi lại gặp Sơn. Chiếc bàn đầy bụi đường, cà phê vỉa hè đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn hoàng hôn đỏ hoét ráng chiều. Những đỏ hoét mông lung ấy phủ trên thân cây, bờ tường, đường phố, tưởng như cỏ cây, gạch đá kia cũng nhiều máu, quê nhà tỏa hương máu.
Nguyễn Bắc Sơn bỗng mất đi cái bình thản, trong ánh mắt, nụ cười, giọng nói biểu hiện một trạng thái tâm thần không ổn định. Anh nói lơ mơ, hoang tưởng nhiều điều. Tôi hiểu, “Cha tôi đã trở về”. Với người lính Miền Nam, “Cha tôi đã trở về”, có nghĩa là “Tôi nên chết đi”.
Một người đàn ông mang quân hàm Đại Tá, chân dép râu, đầu nón cối, áo bạc màu chàm, hớn hở bước vào nhà. Năm 1954, từ Miền Nam, ông ra xứ Bắc bằng đường biển, tàu thủy nước Ba Lan, nay trở về từ núi sâu Trường Sơn, bằng vũ khí Liên Xô, lương khô Trung Quốc. Ông nói vui, “Tôi mang súng, đã phải chạy rất nhanh trên đồng bằng, quân Ngụy bỏ trống đồn lũy nhiều quá”. Nguyễn Bắc Sơn tâm sự, “Hôm ấy em nhậu oát cần câu, khuya quên đường vào nhà, ngủ công viên”.
Người cha ấy ra đi từ Mùa Thu 1945, lên đường kháng chiến chống Pháp, bảo vệ quyền độc lập tự do, danh dự giống nòi, sẵn trớn chống Mỹ cứu nước luôn một thể, mất ba mươi năm đời người.
Nguyễn Bắc Sơn đã mô tả lẫn xiển dương sự nghiệp lớn lao của cha mình như vầy:
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông càng làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu
Tạc tượng người cha xong, Sơn tự thán:
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy
Bi kịch của bố con tôi
Là bi kịch của hai thằng tây đen
Cùng đi kiếm con mèo đen
Trong đêm đen mù mịt
Các vị thánh hiền thời xưa
Bảo thế giới loài người
Giống như chiếc đuôi cong
Của loài chó
Chúng ta là những đứa trẻ con
Chổng khu vuốt chiếc đuôi này cho thẳng
Vuốt cho thẳng rồi
Thả tay ra là nó cong trở lại
Nếu mỗi chúng ta có làm điều gì tốt đẹp
Chẳng qua là để thêm một tấm lòng son
Còn trái đất cứ ngày đêm sáng tối
Thịnh đã rồi suy
Suy rồi lại thịnh
Bố ơi bố đã ra về
Con ở lại làm thơ và chữa bệnh
Chúng ta đến nơi này để phát huy một tấm lòng son
Thành hay bại chỉ là chuyện vặt
Sơn đã tài tình vẽ ra một thảm kịch thời đại. Mỗi con người, chúng ta đang có mỗi não thùy rỉ máu. Mỗi chúng ta, mỗi con người đều có / ở hai vị trí cùng lúc, một con chim trên cành, cùng lúc cũng là anh thợ săn nhắm đích, bắn bùm con chim. Lý tưởng trọng thương, dãy đành đạch.
Có rất nhiều người đã khuyên tôi, “Hãy tự tay băng bó vết thương chính mình. Không ai đâu. Đừng mong đợi ai.”
Sơn rất cô đơn.
6
Nguyễn Bắc Sơn là nhà thơ gây ấn tượng nhanh, và lan rộng đối với giới yêu thơ tại Miền Nam, trước 1975. Điểm đặc biệt là anh không, hoặc rất ít khi dùng từ Hán-Việt, mà thông thường văn thơ có loại từ ngữ này nhiều, được gọi là “hàn lâm”. Trong thơ Sơn rặt từ thuần nôm, dân dã, văn là văn nói thông thường, chỗ đường sá, chợ búa, quán nhậu. Nhưng, khi mớ ngôn ngữ này nằm trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, chúng nó như được thoát xác, bỗng dưng bay bổng, thanh thoát, khoác chiếc áo thi ca; đích thực là hư ảo, đa tầng ngữ nghĩa.
Trong cõi thơ viết về chiến tranh trước 1945, hiếm có ai viết tài tình, sâu sắc và khiến người đọc giật mình, về chỗ nghênh ngang bất cần, khinh bạc, mà trầm thống nỗi đời, mà lạnh cơn u hàn những hoang mạc phận người, như Sơn.
Bất cứ một thể tài nào, cả chuyện vặt, qua Sơn, đã hiện ra thơ. Sớm mai vợ cho tiền đi hớt tóc, sa đà vào những câu chuyện thời cuộc vớ vẩn, vài bàn cờ tướng, thua độ, hết ngày, tóc mái đầu còn nguyên. Mà thơ hay, cực hay.
Trích vài đoạn:
Vô tình ngang một quán cà-phê
Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
Mải mê tán dóc chẳng cho về.
Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ
Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
Ba nghìn thế giới cũng chưa to.
[…] Tháng giêng có kẻ đi tìm cúc
Nhưng cõi đời không có Cúc Hoa
Thấy đám phù bình trên mặt nước
Biết mình đi lộn nẻo bao la.
[…] Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua.
[Một Ngày Nhàn Rỗi]
Hãy đọc thêm, Nguyễn Bắc Sơn chuẩn bị “vũ khí” trước lúc ra trận:
Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
Chúng mình nhậu để trừ hao
Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng
Mùa này gió núi mưa bưng
Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan
Mùa này gió bãi mưa ngàn
Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà
Những thằng lính trẻ hào hoa
Lưu đày trong cõi rừng già núi xanh
Lao mình vào cuộc phân tranh
Tiếc thương xương máu sinh thành được ư.
Phải thành thật nhận rằng anh hùng cũng có lúc nhát gan. Đời vội quá. Hãy nhàn nhã một đôi khi.
Thứ Năm, 14 tháng 12, 2023
Cho Tôi Ngồi Một Toa Tàu Lãng Quên, Nguyễn Tất Nhiên - Tác giả Phạm Hiền Mây
Nguyễn Tất Nhiên làm thơ từ năm mười
bốn tuổi, và cũng chính năm đó, ông cùng người bạn, ra tập thơ đầu tiên, mang
tên Nàng Thơ Trong Mắt với bút hiệu là Hoài Thi Yên Thi.
Nhưng phải đợi đến khi, ông được Phạm
Duy phổ một loạt thơ mang bút danh Nguyễn Tất Nhiên, và được ca sĩ Duy Quang
hát với chất giọng trẻ trung, trong trẻo của tuổi học trò, tuổi vừa bước vào
đường yêu, tình yêu, tuổi của hoang sơ, hoa mộng, tươi mới và không toan tính,
thì thơ của ông mới chót vót đứng ở đầu bảng được giới trẻ yêu thích.
Cũng hệt Vũ Hữu Định, Nguyễn Tất Nhiên
vắn số. Ông nằm yên ngủ vĩnh viễn trên một chiếc xe hơi cũ dưới bóng mát của
sân chùa năm một ngàn chín trăm chín mươi hai, lúc vừa tròn bốn mươi tuổi.
Ông có khoảng hai mươi bài thơ được
phổ nhạc, trong đó, có sáu bài do Phạm Duy phổ, gồm: “thà như giọt mưa (khúc
tình buồn), cô bắc kỳ nho nhỏ (đám đông), hai năm tình lận đận, em hiền như
masoeur (masoeur) anh vái trời (cô bắc kỳ nho nhỏ), hãy yêu chàng (oanh), một
bài do Nguyễn Đức Quang phổ: “vì tôi là linh mục”, một bài do Anh Bằng phổ:
“trúc đào” (ngọn trúc đào).
******
Dưới đây là một trong những bài thơ,
được Phạm Duy phổ thành ca khúc, mang tên “cô bắc kỳ nho nhỏ”:
Đám Đông
1
cô bắc kỳ nho nhỏ
tóc demi-garcon
chiều vui thương đón gió
có thương thầm anh không
cô bắc kỳ nho nhỏ
tóc demi-garcon
cười ngây thơ hết nụ
tình cờ thấy anh trông
khi không đường nín gió
bụi hết thời bay rong
khi không đường nín gió
anh lấy gì lang thang?
cô bắc kỳ nho nhỏ
tóc demi-garcon
chiều đạp xe vô chợ
mắt như trời bao dung
anh vì mê mải ngó
nên quên thù đám đông
2
đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan
cửa chùa tuy rộng mở
tà đạo khó nương thân
anh đành xưng quỷ sứ
lãnh đủ ngọn dao trần
qua giáo đường kiếm Chúa
xin được làm chiên ngoan
Chúa cười rung thánh giá
bảo: đầu ngươi có sừng!
đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan
cô bắc kỳ nho nhỏ
mắt như trời bao dung
hãy nhìn anh thật rõ
trước khi nhìn đám đông
hãy nhìn sâu chút nữa
trước khi vào đám đông
Nếu mà vào thời này, bảo đảm, anh
chàng Nguyễn Tất Nhiên sẽ bị thiên hạ kiện không biết bao nhiêu lần cho vừa, vì
cái tội kỳ thị, suốt ngày cứ bắc kỳ, nam kỳ, này nọ.
Nhưng nói đi rồi cũng phải nói lại,
hồi xưa, tức là hồi trước năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm ấy mà, nói chuyện
với nhau, người ta cũng cứ bắc kỳ này bắc kỳ nọ suốt, hoặc nam kỳ này nam kỳ
kia, nhưng không ác ý, chỉ là quen miệng, cũng đôi khi có chút châm chọc, có
chút trêu ghẹo, nhưng không vì vậy mà thù oán nhau.
Còn bây giờ, xem chừng người ta phân
biệt kịch liệt hơn với chuyện vùng miền, đã không ưa là mỉa mai, châm chọc đến
nơi đến chốn, miệt thị, rủa sả nhau bằng mọi từ ngữ ghê rợn nhứt.
Cũng chẳng hiểu vì sao, mọi chuyện, về
văn hóa, về lối sống, theo tháng ngày chẳng hề tốt hơn lên, mà dường như, còn
thụt lùi về sau dữ tợn.
Ông Nguyễn Tất Nhiên, là ổng khen, ổng
gọi bắc kỳ với hàm ý đặc biệt, cô là bắc kỳ, không như tui, nam kỳ, mà cô rất
dễ thương.
Cô dễ thương nhờ cô có vóc người nho
nhỏ. Cô dễ thương nhờ mái tóc cắt kiểu demi-garcon. Tóc demi-garcon là mái tóc
ngắn, cắt theo kiểu chiếc lá cho ôm lấy khuôn mặt, là mái tóc thịnh hành ngày
xưa, trông rất dễ cưng, không quá bánh bèo, mà cũng không quá ngỗ ngược. Cô dễ
thương là vì cô có nụ cười hết sức ngây thơ. Cô dễ thương là vì cô có đôi mắt
rất hiền.
Rồi cái ảnh tán, cô dễ thương như
dzậy, thì cô có thương thầm tui hôn. Tán này, rất là dzô dziên luôn. Anh theo
người ta, anh cua người ta, mà hỏi người ta có thương thầm anh không.
Rồi than than thở thở: khi không đường
nín gió / bụi hết thời bay rong / khi không đường nín gió / anh lấy gì lang
thang?
Thiệt đúng là phiền toái. Cái tình yêu
ấy mà, khi nhen nhóm, khi bắt đầu, thiệt đúng là phiền toái.
Mà đâu phải chỉ bắt đầu, ngay cả khi
nó tới khúc giữa, hay đã đến cái khúc tận cùng rồi, nó vẫn mang lại những rắc
rối, muộn phiền, khôn nguôi.
Bởi người ta nói không sai mà. Yêu thì
khổ. Mà không yêu thì lỗ. Lỗ đây, có nghĩa là, nếu không yêu thì làm sao mà
biết với người ta, biết yêu nó mang hình thù gì, biết yêu nó có mùi vị gì.
Sợ thua người ta, sợ hổng bằng người
ta, nên lỗ là vậy đó.
Tán không được, ảnh than khổ. Rồi ảnh
lôi cả Phật và Chúa vào. Đương không, ảnh chê cửa Phật, người tà đạo như ảnh,
khó mà nương thân. Cái ảnh nói, ảnh chạy qua nhà thờ kiếm Chúa, xin làm chiên
ngoan, khiến ông Chúa ổng cười rung cả thánh giá, vừa lắc đầu vừa xua tay, thôi
thôi, đầu ngươi có sừng, là đích thị quỷ sứ, ta không nhận, không nhận:
đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan
cửa chùa tuy rộng mở
tà đạo khó nương thân
anh đành xưng quỷ sứ
lãnh đủ ngọn dao trần
qua giáo đường kiếm Chúa
xin được làm chiên ngoan
Chúa cười rung thánh giá
bảo: đầu ngươi có sừng!
đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan
Nói nào ngay, thơ ở những đoạn này,
Nguyễn Tất Nhiên viết rất thật. Thật của những anh chàng, những cô nàng ở lứa
tuổi mười sáu đến hai mươi. Táo tợn nhưng có mức độ. Nghịch phá nhưng bản chất
hiền lành. Nói hung nói hăng vậy thôi chớ thực chất, đều con nhà ngoan ngoãn.
Giữa một xã hội với nhiều âu lo về một
cuộc nội chiến, không biết ngày mai ra sao, thì thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã đưa
giới trẻ tới một chốn yên lành. Ở đó, chỉ có thơ. Ở đó, chỉ có tình yêu. Ở đó,
chỉ có người với người, thương nhau.
Nó yên ả, nó nhẹ nhàng, và, ngây thơ,
đơn giản.
******
Bài thơ kế tiếp đây cũng được Phạm Duy
phổ nhạc, được các ca sĩ hát, được khán thính giả nghe, suốt mấy mươi năm qua:
Hai Năm Tình Lận Đận
1
hai năm tình lận đận
hai đứa cùng xanh xao
mùa đông, hai đứa lạnh
cùng thở dài như nhau
hai năm tình lận đận
hai đứa cùng hư hao
(em không còn thắt bím
nuôi dưỡng thời ngây thơ
anh không còn lính quýnh
giữa sân trường trao thư)
hai năm tình lận đận
hai đứa đành xa nhau
em vẫn còn mắt liếc
anh vẫn còn nôn nao
ngoài đường em bước chậm
trong quán chiều anh ngóng cổ cao
2
em bây giờ có lẽ
toan tính chuyện lọc lừa
anh bây giờ có lẽ
xin làm người tình thua
chuông nhà thờ đổ mệt
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
rơi xuống trần gian mưa
(dù sao thì Chúa cũng
một thời làm trai tơ
dù sao thì Chúa cũng
là đàn ông dại khờ)
anh bây giờ có lẽ
thiết tha hơn tín đồ
nguyện làm cây thánh giá
trên chót đỉnh nhà thờ
cô đơn nhìn bụi bặm
làm phân bón rêu xanh
(dù sao cây thánh giá
cũng được người nhân danh)
3
hai năm tình lận đận
em đã già hơn xưa
Thú thật, giờ đây, đọc lại những bài
thơ như thế này, tôi thấy, miền nam, trước một ngàn chín trăm bảy mươi lăm,
người ta tự do ghê, nhất là trong lĩnh vực sáng tác.
Một bài thơ như vậy, được xuất bản
bình thường. Một ca khúc, hát lên những câu như vậy, bình thường. Những câu như
là: tượng Chúa gầy hơn xưa / Chúa bây giờ có lẽ / rơi xuống trần gian mưa / (dù
sao thì Chúa cũng / một thời làm trai tơ / dù sao thì Chúa cũng / là đàn ông
dại khờ).
Nguyễn Tất Nhiên cho Chúa rơi xuống,
rồi biến Chúa thành trai tơ, rồi gán cho Chúa sự dại khờ. Có sao đâu?
Viết như thế, thì có sao đâu?
Có bất kính gì với Chúa đâu. Chẳng
qua, con chiên của ngài, đôi lúc, cũng rất cô đơn, đôi lúc, cũng rất lo sợ,
nhất là khi bước vào đường yêu. Biết cầu cứu ai bây giờ trong lúc tâm trạng con
đang rối bời, biết ai là người có thể sẻ chia cùng con những ưu tư nặng trĩu.
Quay đi quay lại, con chỉ có Chúa thôi, con chỉ còn mỗi Chúa thôi.
Phải thế không Chúa, phải Chúa đã từng
đau khổ như con, Chúa đã từng tuyệt vọng như con, Chúa đã từng cùng khốn như
con.
Phải thế không Chúa ơi.
Phải có con mắt nhìn đời bao dung,
phải có tấm lòng tử tế nhận ra người giỏi và cảm hiểu họ, thì mới có thể trân
trọng, mới có thể tìm kiếm ra những tài năng kiệt xuất. Chớ mà ke re cắc rắc
quá, chuyện gì cũng nhìn qua đủ loại lăng kính, thì ai mà còn dám viết lời
thật, thì sao mà thỏa sức sáng tác, sao mà văn chương, mà thi ca có thể phát
triển huy hoàng, rực rỡ được.
Còn nếu như, sáng tác, mà cứ theo kiểu
dè chừng, cẩn trọng, sợ phạm húy, sợ này sợ kia, thì đương nhiên rồi, nền văn
chương đó cũng chỉ là một nền văn chương dè chừng, lửng lửng lơ lơ, không ra
con bay lượn mà cũng chẳng ra con bơi dưới nước.
Mới có hai năm buồn đau thôi, mà cái
ông Nguyễn Tất Nhiên này, ổng than quá là than. Người ta còn buồn đau cả đời
kia kìa. Ai nói nhỉ, ai nói, yêu là bể khổ, tình là dây oan. Yêu với chả đương.
Tình với chả ái. Đút đầu vô rồi lại kêu khổ kêu đau.
Nhưng nói là nói vậy thôi. Chớ cái lúc
mười tám, hai mươi, chưa trải đời, sức chịu đựng có hạn, cũng phải khen Nguyễn
Tất Nhiên, lúc ấy, còn trẻ thế mà đã diễn tả được nỗi đau rất hay, rất thơ. Tài
lắm đó, chớ không dễ chi đâu: hai năm tình lận đận / hai đứa cùng xanh xao /
mùa đông hai đứa lạnh / cùng thở dài như nhau / hai năm tình lận đận / hai đứa
cùng hư hao.
Tả cuộc tình buồn, tả cuộc tình đau
bằng những từ như lận đận, xanh xao, mùa đông lạnh, cùng thở dài, hư hao - tính
ra, là cũng giỏi lắm lắm.
Và cũng chính vì ở cái tuổi còn non
nớt, nên chàng xem ra, khi tình đau, chỉ thấy toàn cay đắng, và đôi lúc, như sự
hơn thua trẻ con, nên mới cuối bài thơ là: hai năm tình lận đận / em đã già hơn
xưa.
Kiểu như, phải mà còn yêu anh, phải mà
đừng tính toán nọ kia, thì em bây giờ, đâu già như thế.
Thật ra, trong cuộc tình ấy mà, ai
cũng chỉ đứng một chiều để ngó, để nhìn về người đối diện. Ít ai đủ bình tĩnh,
đủ hiểu ra, đủ nhân hậu, để thử đặt mình vào người khác, để có hiểu được người
khác như mình đang hiểu chính mình.
Thì tình yêu, đã không phải chịu nhiều
nỗi oan ức đến thế.
******
Bài này, cũng được Phạm Duy phổ, hát
theo điệu valse, hồi tụi tôi còn thơ, tối tối, tụ tập dăm bảy đứa, không khi
nào thiếu bản “em hiền như ma soeur”:
Ma Soeur
đưa em về dưới mưa
nói năng chi cũng thừa
phất phơ đời sương gió
hồn mình gần nhau chưa?
tay ta từng ngón tay
vuốt lưng em tóc dài
những trưa ngồi quán vắng
chia nhau tình phôi thai
xa nhau mà không hay
(hỡi em cười vô tội
đeo thánh giá huy hoàng
hỡi ta nhiều sám hối
tính nết vẫn hoang đàng!)
em hiền như ma soeur
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
ma soeur này ma soeur
có dịu dàng ánh mắt
có êm đềm cánh môi
ru ta người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời
(cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!)
đưa em về dưới mưa
xe lăn đều lên dốc
chở tình nhau mệt nhọc!
đưa em về dưới mưa
áo dài sầu hai vạt
khi chấm bùn lưa thưa
đưa em về dưới mưa
hỡi em còn nít nhỏ
chuyện tình nào không xưa?
vai em tròn dưới mưa
ướt bao nhiêu cũng vừa
cũng chưa hơn tình rụng
thấm linh hồn ma soeur
Rất hay.
Hay ở chỗ nào ư. Các bạn đọc cùng tôi
nhé, khổ thơ này: vuốt lưng em tóc dài / những trưa ngồi quán vắng / chia nhau
tình phôi thai / xa nhau mà không hay.
Tình mới vừa phôi thai. Phôi thai có
nghĩa là mới đậu, mới bám, mới bắt đầu, mà nào hay, ta, chính lúc ấy, là lúc xa
nhau.
Cuộc tình mới vừa chớm bắt đầu, mà đã:
đưa em về dưới mưa / xe lăn đều lên dốc / chở tình nhau mệt nhọc.
Một báo hiệu cho một kết cục chẳng
vui.
Nguyễn Tất Nhiên có những ý tưởng thơ,
có những câu thơ, rất thơ, ví dụ: đưa em về dưới mưa / áo dài sầu hai vạt / khi
chấm bùn lưa thưa.
Ngày xưa, nữ sinh đi học, mặc áo dài
trắng tinh. Trời mưa, chở nhau bằng xe đạp, khó mà tránh lắm những vũng nước
trên đường. Xe sụp vào, nước dưới đường, bắn lên, lấm tấm hột đen, tài nào mà
không buột miệng xuýt xoa, lo lắng.
Nhưng xuýt xoa thì xuýt xoa, lo lắng
thì lo lắng, sợ giặt không ra, sợ mẹ mắng. Nhưng làm gì mà phải đến nỗi sầu?
Chỉ có thể là, cuộc tình không vui, nên tình mới sầu như thế.
Một nỗi sầu rất dài, chia đôi, đều,
hai đứa.
Và cái câu hỏi được đặt ra gần cuối
bài: chuyện tình nào không xưa? - của chàng trai đôi mươi, đã khiến tôi thảng
thốt, anh hoa phát tiết thế này, tâm tính khinh bạc thế này, thân thể yếu đuối
thế này, làm sao mà không yểu mệnh cho được.
******
Có người nói, thơ Nguyễn Tất Nhiên,
quanh đi quẩn lại chỉ là chuyện tình yêu thời học trò, hoặc thất tình, hoặc
buồn rầu, hoặc đau khổ, chớ không nói được, không chạm được, không đưa mọi
người tới được những điều lớn lao hơn, cần thiết hơn cho nhân sinh, cho loài
người.
Nói như vậy là nói đúng chớ không sai.
Tôi không bênh vực Nguyễn Tất Nhiên, nhưng tôi nghe đâu, hoàn cảnh riêng của
ổng cũng không mấy thuận lợi, cũng không mấy được vui. Ổng lại mất sớm quá.
Tuổi bốn mươi, với các nhà văn, nhà thơ, mới chính là độ tuổi viết sung mãn
nhất.
Thì, ổng lại ra người thiên cổ rồi,
lấy đâu thời gian để tiếp tục cống hiến, cống hiến tài mình, cống hiến sức viết
mình cho những điều lớn lao hơn mà mọi người đặt ra, trông đợi.
Mỗi người chỉ có thể hoàn thành theo
khả năng của mình. Ở độ tuổi ấy, viết được những câu thơ trong trẻo, những buồn
giận vu vơ, những hờn ghen hết sức ngộ nghĩnh, dễ thương, đúng và thật với tuổi
học trò cùng với những suy tư già dặn đến thế, nếu có xem đó là thành công của
đời thơ ông, thì cũng chẳng có gì quá đáng.
Nguyễn Tất Nhiên, một tài hoa bạc
mệnh, đã sớm dự báo ngày ra đi của mình trong nỗi buồn hắt hiu và cô đơn, lạnh
lẽo:
biệt ly dù ở ga nào
cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên
(Hôm Nay)