khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

TIẾNG NƯỚC TÔI -- Thi Sĩ Cao Thoại Châu







Do làm nghề dạy học, lại khá chuyên cần đọc người khác nên tôi có nhiều cơ hội tiếp thu và sử dụng tiếng nước tôi một cách …khá vất vả!. Phần nhỏ nào đó của tinh hoa ngôn ngữ qua một số nhà thơ VN đang nằm trong tôi, tôi cám ơn họ cũng như không quên những người thầy đã dạy tôi tiếng Việt trong nhà trường. Cám ơn cả những thế hệ học trò đã vô hình trung bổ sung cho cái vốn này của tôi. Và tôi có những người bạn 4 miền Trung-Nam-Bắc-Hải ngoại, tất nhiên có những người tình, xin cám ơn những trái tim đến với tôi khi rung khi đứng đã để lại trong tôi, chao ôi , tính đa cảm của tiếng Việt.
     
Những gì có được về tiếng Việt đã cho tôi thấy đây là một thứ tiếng hết sức khó học, bởi vì nó quá tinh tế, nhạy bén, phức tạp, tổng hòa của công cụ giao tiếp với khả năng hàm chứa tự thân lòng nhân ái, mềm mại của tâm hồn người Việt.
     NS Phạm Duy viết “ Tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui”. Học giả kiệt hiệt Phạm Quỳnh ở thế kỷ trước có nhắc “…tiếng ta còn, nước ta còn”- còn cả hai , thưa tiền bối!


1. Những người Thầy khai tâm


      Quê tôi là một làng có nền địa chất là cát tân bồi vùng biển tỉnh Nam Định. Khó lòng không nhớ làng thật thanh bình với chùa một nơi, đình một chỗ sạch sẽ khang trang và đầm ấm xanh rờn bóng nước của cây, của ao chùa ao làng sạch sẽ như có ai lau. Làng còn có nhà nghỉ của viên công sứ Tây, một nhà Đoan theo kiểu biệt thự bốn mái ngói với những cây bàng không biết tuổi đã bao lăm mà trèo lên muốn hụt cả hơi. Nhưng dù trầy trật tay chân, vẫn quyết trèo vì sự quyến rũ chịu không thể nào nổi của những trái bàng vàng rụm và thơm trầm hăng hắc mà ngọt dễ chịu. Lượm dưới gốc ăn thì quá dễ nhưng ăn những quả bàng rụng thấy mất ngon vì ăn mà cứ nghĩ là ăn cái nhút nhát, óc trẻ con nghĩ như thế.
     Gia đình giàu có nhất làng nhất huyện. Ngôi đất giờ ước lại có lẽ cả chục ngàn thước, vuông vức bốn bề tre trúc, hai cổng vào cánh nặng như cánh cổng làng. Nhà làm thành 4 dãy theo hình chữ U vuông, hai cạnh chữ U được nối liền bằng một dãy làm theo kiểu khác, quanh năm cửa đóng then cài trừ ngày tết giỗ vì đó là nhà thờ. Nhà có 3 sân, sân tiền rất lớn để kéo đá lúa khi mùa màng tới, hai sân sau dùng trong sinh hoạt gia đình. Những dãy nhà đều lợp ngói vững chắc đủ sức chống bão, có chiều dài thiếu chiều ngang, không chia thành từng phòng mà thông thống hàng vài chục mét mới có tường ngăn, vừa để chứa lúa vừa làm chỗ cho người nhà sinh sống.

Người trong nhà, ngoài vợ chồng con cái chủ nhà, gồm một chú canh điền không vợ con ở với cha tôi là anh họ; là một bà cô họ không chồng ở với anh chị làm việc nấu nướng cho tất cả mấy chục con người. Người nhà là vợ chồng người con nuôi được dành chỗ ở riêng, vợ làm việc đồng áng còn người chồng như một tạp vụ trong nhà. Và người nhà còn là những chị vú em chuyên mang bầu sữa ra nuôi con chủ; bế em là vài thiếu nữ trong họ hàng đến ở như con nuôi…Người nhà mà tôi không thể quên là một ông cụ râu tóc bạc phơ chắc cũng xấp xỉ lục tuần, em út của bà nội tôi. Ông hay đọc Tam Quốc chí, Sấm Trạng Trình… bằng giọng sang sảng và bắt tôi nhổ tóc ngứa. Nhờ vậy tôi biết rất sớm chuyện Đào viên kết nghĩa, Chu Du hộc máu, Lục xuất Kỳ Sơn/ Thất kỳ cầm Mạnh Hoạch- một kiểu học về tình nghĩa ở đời cũng như lẽ thành bại cuả con người khá hấp dẫn. Một đêm thanh vắng, chợt thức giấc nhìn qua cửa sổ thấy ngoài vườn chập chờn những bóng ma, đang chết đi vì sợ hãi thì tôi thấy chị vú ở trong giường ông, bé con nhưng tôi run lên bần bật mường tượng có chuyện gì đó giữa hai người thầy, sợ ăn đòn tôi không dám nói ra.
 
Mười hai tuổi mới bỏ quê lên thành phố cho nên trong ký ức vẫn còn nguyên một gia đình mấy chục người, giàu và nghèo khác nhau dựa vào nhau mà sống, không khi nào to tiếng với ai, không bóng dáng cái ác, thậm chí sự cay nghiệt cũng không. Tuy nhiên, đó là nhà địa chủ, cha không làm gì ác, làng xóm sau này nói lại ai cũng mến thương nhưng đận giảm tô năm 1952 gì đó cha không nhanh chân lên thành phố thì chắc cái giàu đã bị biên chế vào cái ác mất rồi, còn đâu mà sống tới  97 và ra đi chỉ sau một ngày bệnh!
 
Người vú, ông cụ bạc đầu, thiếu nữ bồng em, vợ chồng người anh nuôi, anh chăn trâu, người cô họ trầm lặng mẫn cán…là những người thầy dạy cho tôi những tiếng Việt ngoại khóa nhưng tràn đầy êm ái đầu tiên. Người thanh niên chăn trâu kiêm liên lạc ở trong nhà tên Hưởng sau đi bộ đội lên Điện Biên Phủ còn lén đến thăm chủ cũ ngay vào dịp cải cách ruộng đất cũng là một người thầy nữa vì những năm trước đó, khi tôi mới bắt đầu là đứa thích rong chơi, thích ăn chung, ngủ chung với người làm, tôi hay theo anh đi chăn trâu để bắt cào cào nướng ăn, đi bắt chim, hái trái cây hoang ngòai bờ biển. Anh là người thầy dạy cho tôi sự nhân nghĩa, tôi rất thân với anh, học anh nhiều tiếng, có điều anh rất khéo tay còn học trò anh vụng về lóng ngóng như một con cù lần, thậm chí là cù lần…biển!

Tôi bắt đầu học tiếng Việt từ những con người chất phác, thân thiện này, những tiếng Việt tôi được dạy cho đó là tiếng của yêu thương, nhân ái. Một chị vú kể rằng, cô gái bồng em cho em ăn bột nhưng em - là tôi - chả ngày nào quên hai cữ sữa của chị dù lên 1 tôi đã có em. “ Mầm bú tí ”, là câu tôi hay léo nhéo trong ngày, tiếng “Mầm” tôi học một cách vô thức từ cách xưng hô của chị. Tên tôi hồi ấy là “ Mầm”, chị gọi như thế thay vì gọi “cậu” là tiếng người làm gọi con chủ nhà .   
 
Người nhũ mẫu trẻ gọi tôi như gọi một đứa con và tôi xưng mình như thế, giống chuyện một anh nước ngòai đến Hà Nội thời mở cửa. Bà nội của bạn anh Mỹ hỏi “ Anh khỏe không?”, Mỹ đáp “Anh khoe lam, con …em?”, ấy là do trước đó anh được bạn gái dạy cách xưng hô với cô như thế. Tiếng Anh chỉ có I và You thôi, còn tiếng nước tôi thì nhiều vô kể tiếng để xưng hô.
 
Dân làng tôi hiền lành và có văn vật một miền quê, đủ trí khôn tôi nhận ra họ ăn nói với nhau không kiểu cách nhưng thật thân tình như chỉ sợ làm mất lòng nhau và sợ mang tiếng hàm hồ khổ cho con cháu và mang tiếng cha mẹ ông bà. Thuở đầu đời tôi học được thứ tiếng Việt có gói lễ nghĩa trong đấy. Tiếng nói không phải để khơi hận thù, hủy diệt mà là để đi tới hòa hợp. Trời ơi, "Đêm qua tát nước đầu đình / Để quên cái áo trên cành hoa sen...", có ở nước nào trai tỏ tình với gái mà tinh tế tình tứ như trai quê nước tôi? Cành hoa sen làm sao mang nổi cái áo nhưng thây kệ, chỉ là lung khởi cho người ta hiểu ý mình thôi mà! Và cũng chẳng đâu trên trái đất này nghe được cái não lòng của kiếp người "Trời mưa bong bóng phập phồng/ Mẹ đi lấy chồng con ở với ai", không biết đó là tiếng than của thiếu phụ hay của đứa con thơ dại?
     
Quá trình học tiếng Việt kiểu tự nhiên chủ nghĩa đó của tôi nếu xét theo “lịch sử dân tộc” thì có thể gồm mấy thời kỳ. Từ bập bẹ - 1945 ngấm từ những lời ru truyền thống không phải của bà, của mẹ mà là của chị vú, chị nuôi em; 1945-1950 là thời Việt Minh, những tiếng thằng Tây, Việt gian, dân quân, phụ nữ… con nít không hiểu gì nhưng nghe miết rồi cứ thế mà hót như…chim! Tiếp theo, 1950- 1952 là lúc Tây quay trở lại chiếm vùng quê tôi. Nghe và phải chào ảnh một cái ông mặt bụ bẫm phương phi no đủ mặc đồ Tây tóc chải bóng lộn treo trong lớp là…Đức Quốc trưởng- cũng chỉ chào như máy, nói như sáo mà chẳng thấy ông Bảo Đại là một người gần gũi với làng mình.
      
Trước thì học được những tiếng dân quân, du kích, đồng chí, chủ tịch…sau là tiếng hương dũng, xã trưởng…Đứa bé là tôi mới chút xíu tuổi trời đã trải qua những bài học từ vựng chọi nhau. Lớn lên chút nữa thấy sự chọi nhau của một số tiếng Việt  đã mở ra số phận của dân tộc mình mà tôi lênh đênh theo nó…


2. Đường phố là trường dạy tiếng
 
Năm 1951 bỏ quê lên thành phố Nam Định ở trọ nhà thông gia của bố. Đó là một thành phố đẹp, nhỏ nhắn và văn hiến hao hao như Mỹ Tho ở Nam bộ, vào mùa hè thành phố nhiều hoa phượng cùng tiếng ve ran như một dàn đồng ca một giọng. Sang thu, phảng phất một mùa thu Paris mà cậu bé học được qua những bài lecture trong giờ Pháp văn, ẩn hiện đâu đó trong hồn những chiếc lá vàng và hơi thu vườn Luxembourg. Thành phố không quá nhỏ cho những bước lang thang hết sức tự do của một đứa bé xa nhà không bị câu thúc. Tất nhiên thành phố có bố cục thành những con đường, nhà có số và không biết đó là nhà của ai, khác với dưới làng vốn đã in đậm trong lòng đứa bé. Phố thay cho xóm!
     
Lên đây những ngày đầu tiên tôi hơi ngơ ngác vì là ở nhà thông gia của bố, không có ai quen, không còn được nói, được nghe, được học cách nói năng của dân làng tôi nữa. Tuổi 12 may mà lên thành, bằng không thì gia đình đã hỏi vợ cho tôi rồi, nếu chuyện ấy xảy ra lúc đấy chắc tôi cũng…không từ chối, vì sợ gia đình cũng có mà vì đã thấy con gái làng đang từ hiền lành bỗng hóa… hay hay! Tôi dậy thì sớm lắm. 
      
Quen dần với những tiếng Paul Bert- tên đường phố, Camp Carreau-  phố Cửa Nam, phố Hàng Đồng là thân thiết đáng yêu nhất vì ở đó có tiệm phở ngon số một…Thành phố lúc đó rất nhiều lính Tây, những tấm bảng hiệu  bằng chữ Tây và nhận ra ngay là không còn tiếng gà gáy, tiếng chó tru trong đêm thanh vắng nữa. Chiều ra Bến đò Quan nhìn sang bờ bên kia thấy xóm làng của người ta và bỗng nhiên thấy mình đang khóc, không hu hu nhưng đẫm lệ. Một lần nhìn con tàu hai tầng đưa mũi tách bờ lòng tôi buồn như chết chỉ muốn bỏ mà về nhà ngay nhưng đường xa xôi quá mà từ thành phố về phải qua một lằn ranh có tốp lính Bảo Chính đoàn đứng canh gọi là vành đai trắng.
      
Cái mà tôi nhanh chóng nhận ra đó là quà rong tràn ngập phố xá, cổng trường, quà sang trọng lạ lẫm như kem, bánh Tây, nước đá, những lọai bánh nướng thay dần bánh gói lá ở quê. Chúng mới “phá” bao tử làm sao! Nghe những tiếng rao của người đàn ông Tầu P h á  x a,  L ụ c  t à o  xá, Dầu chắc quẩy …thấy tên ông toàn quyền Đông Dương khó thân hơn là tiếng rao của  người bán hàng rong, nó vừa gần gũi vừa giúp thỏa cơn thèm ăn và đau khổ khi túi không có một xu, nhất là vào những ngày mùa đông. Quà ngon lại lạ mắt cũng giúp nguôi dần chuyện nhớ nhà. Là đứa trẻ suốt đời ham ăn ngon, tên của món ăn rất dễ thuộc và hiểu rõ được tiếng ấy chỉ định cái gì, gợi lên hương vị gì và, dần dần nhận ra tính tinh tế gợi cảm của tiếng Việt. Phở tái nghe thì có vẻ bổ nhưng bổ chưa hẳn đã ngon, ai mê ngon thì học được tiếng nạm, gầu, sách trong họ hàng nhà phở, mỗi tiếng gợi cho tôi một cảm giác riêng điều mà tiếng Pháp ở VN thuở đó chỉ có một từ Soupe chinois để gọi phở, mà dịch sát nghĩa ra thì đó là…súp Tầu hoặc cháo Tầu, là một sự nghèo nàn của tiếng Pháp, nó xúc phạm đến phở, món ăn tinh tế, tổng hòa động thực vật nhiều tính văn hóa và theo thời gian đã chiến thắng vinh quang trước nhiều món ăn quốc túy khác của thế giới!
      
Lên thành phố, học trường đạo thế là muốn hay không cũng phải học lấy những từ Phêro, Gioan, Maria…sau tên mỗi ông thầy là linh mục. Buổi chiều cùng hai thằng bạn cùng lớp trốn nhà ra bờ hồ rửa xe mướn cho lính Tây và đó lại là những người thầy dạy tiếng Pháp thân tình. Vừa học nói, học tiếng lại vừa được trả công bằng bánh kẹo thì quá sướng còn gì. Đồ hộp của Tây không ngon (sau này so với đồ hộp Mỹ mới biết) nhưng ra hồ giành giật mối xe mới là thú vị. Nhờ nói tiếng Pháp kha khá nên luôn có xe để rửa, và ở đây chen chúc giữa những đứa trẻ bụi nên học được tiếng mới là tiếng lóng. Gạch mặt là người Sénégalais ngay khi sinh ra đã bị gạch 6 vạch trên hai má theo phong tục bản xứ, họ là  lính  trong quân đội Tây, những người không quê hương chính hiệu. Gặp những người này bọn chúng tôi được hậu đãi hơn vì hình như họ hào phóng hơn dù đó là “lính lọai 2” trong qưân đội chiếm đóng, trông họ dữ dằn nhưng thật dễ chịu; cột nhà cháy thì khỏi nói , một tút là 10 gói thuốc Gaulois lính Tây trả công…
     
Đời lang thang mới biết đường phố là trường học tiếng thật trứ danh, học nhanh, đa đạng và thực hành cấp kỳ tốt. Quỷnh = nhà quê, tẩn =nện, kê tủ đứng = chặn họng, chớt = ăn hàng, Marie Sến phông ten = người ở gái (vốn gọi là con Sen, ban đêm thường tụ tập quanh vòi nước công cộng [fontaine] gánh nước cho chủ)…gần đây có người giải thích Ma ri Sến xuất hiện khi một cuốn phim trình chiếu ở Sài Gòn năm 60 có diễn viên Maria Shell đóng, rất có lý nhưng Mari Sến như nêu trên, tôi đã nghe và nói từ trước đó cả mười năm. Và tất nhiên học lười hay bát phố thì phải quay phim khi làm bài trong lớp.
       
Một chút éo le, trong lớp toàn con trai nên không khí nghịch  có phần lấn át, thế mà mỗi sáng vào lớp có đạo hay không cũng đều phải đứng lên đọc kinh với đầu cúi xuống mà kinh thì toàn những tiếng người ta viết từ thời nảo thời nào, lủng củng vừa làm sao ấy.
       
Một lần đang đọc kinh, ông cha mắt thì lim dim, đầu cúi xuống trang nghiêm, nhìn xuống sàn lớp tôi thấy chân ông đang nhịp nhịp rất quấy thế là tôi phì cười. Theo nội quy, ông cha trao cho tôi một mảnh giấy ghi “2 consignes + 30 roi”, trong giờ ra chơi kẻ “ báng bổ đấng chăn chiên” phải lên phòng giám thị nằm úp mặt xuống giường thọ phạt, đau chết người mà còn phải khoanh tay nói thưa cha con biết lỗi khi lòng thấy mình chẳng làm gì nên tội.
     
Một lần có ông cậu ruột bị Tây đi càn bắt đem về thành phố, người nhà lên nói Tây thấy ông thì nó bắt chẳng cần biết cậu tôi có là Việt Minh hay không vì hình như dưới mắt Tây cứ ở vùng quê thì ai cũng là Việt Minh cả. Lớn thêm chút nữa tôi hiểu điều đó là có lý! Cậu bị giam ở Nhà Máy chai và gia đình giao cho tôi công việc tiếp tế hàng tháng, đó là nơi kín cổng cao tường và nhiều dây thép gai, chẳng thấy chiếc chai nào như tên gọi, nhà máy thành nhà tù, chiến tranh mà!. Qua chiếc cổng có hai lính canh, tôi hỏi và một lính gạch mặt chỉ cho tôi khu cậu tôi bị giam. 
      
Tấm bảng “Tù mãn chiến tranh” gợi trong tôi rất nhiều thương cảm, vào khu này là những người mà Tây không chứng minh được là du kích nhưng thả ra thì ngại bèn nhốt luôn. Quân viễn chinh trên đất nước người ta làm sao chứng minh được điều này khi hồi còn ở dưới làng tôi đã nghe ai đó bảo Tây thường nói Ma Việt Minh vì có đó rồi biến lúc nào…Tây chẳng rõ! Họ xác xơ và những người đi tiếp tế còn xơ xác hơn.
      
Ra vào khu này vài lần tôi chợt nghĩ những người vào đây không phải Việt Minh cũng sẽ thành người của Việt Minh và cuộc chiến tranh, theo suy nghĩ của tôi lúc ấy, sẽ không bao giờ kết thúc. Tôi bắt đầu nhận ra trong lòng mình có cái gì thật buồn, mỗi lần mang quà bánh vào cho ông cậu càng thấy buồn hơn. Một lần tôi thấy mình bùi ngùi muốn khóc khi mường tượng sẽ không bao giờ còn được bước chân trở lại khu nhà giàu có, xóm làng thanh bình thân thiện nữa. Không giải thích được, chỉ là nghĩ chênh chao vậy thôi. Mấy chữ “Tù mãn chiến tranh” ám ảnh tôi hoài về việc về lại quê nhà, nhất là mỗi khi rửa xe cho lính Tây.
     
Thành phố thành nơi xa lạ, xa lạ mỗi ngày một thêm…Mỗi tối đi qua những con đường có ánh đèn xanh đỏ của các Bar buvette tôi biết thêm tiếng nhà thổ, một thứ làng quê tôi không có, jamais de la vie!

3. Học trên đường  thiên lý!
 
Trong cả tuần lễ liên tục vào đầu tháng 7-1954, có những đám khói bốc lên ở chỗ này chỗ kia trong thành phố Nam Định, nó vẫn yên tĩnh ít ra là cho lứa tuổi tôi, không có không khí lửa bỏng nước sôi nhộn nhạo thất thần như một cuộc “tháo chạy tán loạn” tại Sài Gòn những ngày tháng Tư 1975 sau này.
     
Một buổi sáng ra đường sớm tôi thấy ngoài phố có vẻ gì bất thường, một vài người cảnh binh hớt hải chạy theo những chiếc cam nhông, khói cao hơn và mù mịt khi tôi dừng chân trước tòa tỉnh trưởng; qua vườn hoa  chỉ có vài chiếc lá trên lưng con hổ tượng mà tôi hay cỡi và bị người coi vuờn chỉ tay quát ê ê, những ông già hay ra đấy khi rạng đông sáng nay thưa thớt lắm.
 
Buổi chiều, trong cái ngơ ngác không hiểu gì của tôi, những chiếc xe mà tôi chưa hề thấy bao giờ và những người lính cũng chưa hề quen mắt tiến vào thành phố. Việt Minh vào, thì ra lính Tây bỏ thành phố rút đi, không có đánh nhau. Cờ đỏ sao vàng lác đác trên đường, thông báo của Ủy ban Tiếp quản đọc nơi này nơi kia, thành phố Nam Định thay đổi chủ. Trong lòng tôi không một chút hoang mang, cũng không có chút gì hoảng sợ nhưng nhận ra một cái gì đã thay đổi và mơ hồ thấy mình bị cuốn theo nó. Tôi nhớ nhà.
     
Một ít ngày sau, thấy không còn có thể ở lại nhà thông gia, tin tức của gia đình cũng mất biệt, không biết phải làm gì, xin được ít tiền tôi mua vé ô tô đi Hà Nội theo với người hàng xóm là công chức bị Tây bỏ rơi. Như một cuộc đi trốn, nhìn vẻ mặt của những người trên xe tôi hiểu ra như vậy. Đến Hà Nội vào buổi chiều, đang tháng Bảy thành phố nóng hầm hập vẫn lính Tây đi pa-tui và nhộn nhịp, không ai để tâm đến một đứa bé đang hoang mang không hiểu vì sao lại lên đây, nhất là rồi sẽ đi đâu từ bến xe này.
     
Đi Hải Phòng mấy tháng sau đó. Hải Phòng đặc nghẹt người, trường học, vườn hoa, nhà hát..không còn chỗ cho người tứ xứ đổ về, tạm trú chờ xuống tàu di cư vào Nam. Mười lăm tuổi, tôi đi theo gia đình ông thầy cũ của bố! Quê nhà cùng những người thầy khai tâm cho tôi vĩnh viễn ở lại sau lưng!
     
Đặt chân lên Sài Gòn, chưa biết phải làm gì đã gặp ngay những tiếng Việt lạ cả về chữ cả về cách phát âm, mỗi ngày gặp một nhiều. Lớn dần theo thời gian, hiểu ra cái chiều dài của nước Việt như một trang sách của những phương ngữ, và từ đây phương ngữ Nam bộ là thực phẩm nuôi tôi lớn lên.
   
Tiếng Việt khi vào tới Nam bộ đã trở nên phong phú hơn rất nhiều so với khi còn ở cái gốc của nó. Người miền Nam ít nói những câu nhiều mệnh đề, mà câu thường ngắn, gọn và khi phát âm phải thật thoải mái. Ở đây hiếm có những câu khúc khủyu lắt léo giống tiền đạo đi bóng, như “Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch” ấy là tại cái tính người Nam bộ không ưa câu thúc, tự do phải có, ngay cả trong cách nói thường ngày, trong mọi bối cảnh.
     
Nhưng không hiểu vì sao, khi chỉ tính cách, hành vi, tình cảnh…của một ai đó, người ta thường có những tiếng đôi, trong đó có một hư từ dùng trong nhiều trường hợp. “Cà” và “Ba” là một ví dụ. Cà rịch cà tàng như chiếc xe, cái máy cũ kỹ trông ọp ẹp thiểu não làm sao! Cà chớn, thì chính là một người lông bông, tính tình không nghiêm túc, khó lòng tin tưởng giao phó một việc gì, giao con gái cho thì càng không. Cà giựt cũng một dạng ấy nhưng nhẹ nhàng hơn, chỉ một tính tình hay thay đổi sáng nắng chiều mưa, nhẹ hơn nhưng cũng khó tin tưởng trong công việc cũng như mọi giao dịch khác. Cà rỡn là người hay bông đùa khó biết lúc nào là thật khi nào là dỡn. Người Cà nhõng không chí thú làm việc gì, đi rông là chủ yếu, lang thang chuyện nào cũng ghé, không cái gì ổn định.
      
Ba xạo là một tính cách nặng, thích bốc phét sai sự thật, hay thất hẹn nhưng hình như không có ý lừa gạt ai? Người Ba lơn là người hay bông đùa, có phần vui vẻ quá mà không được đặt nhiều tin tưởng. Ba hồi hình như hơi tưng tửng, lúc vầy lúc khác, như anh chàng chồng khi hay đánh vợ có lúc lại rất ư tử tế. Lai rai ba sợi, Ăn ba hột cơm, Ba cái chuyện lẻ tẻ…cũng lại phải ghép với “Ba” mới thành, nhưng “Ba”, "Cà" có nghĩa là gì? Thật dễ thương nhưng không dễ giải thích. Ngày nọ ra tiệm chạp phô đầu đường mua một ít đồ tôi gặp một người quen, người này hỏi “Ủa, chớ bộ nhà anh ở khu này hả?” Tôi còn chưa kịp mở miệng thì chị chủ quán đã nhanh nhảu nói thay “Thẩy  d z ớ i   tôi  đâu  đít  d z ớ i...  n h a o ”! .Thì ra là gần gũi thân thiết đến vậy, không thân làm sao "đâu đít" được với nhau! Mà chỉ đâu hậu cái nhà chứ cái kia hồn ai nấy giữ, có được "đâu" bao giờ! Có một từ chỉ Nam bộ mới nói mà phải là phụ nữ nói nghe mới "đả" : Nè! Mắc dịch nè! Coi nè! Ngộ chưa nè!...Có khi nhiều lần nè làm thành một lần thương!
        
Thời đi học ở Sài Gòn lại càng “một chân trong nhà, một chân ngoài đường” nên tôi thuộc nhanh một thứ tiếng rất Sài Gòn là Tiếng lóng vốn là tiếng “chợ búa”, mỗi giới một thứ tiếng lóng riêng và có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có tiếng lóng chuyên dùng (chứ không phải không dùng).
        
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa, Ấn, Tây, Mỹ v.v). Chủ yếu là  thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân linh họat, nhiều sắc thái, cá tính  hơi “bốc”,  trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, ăn chơi, khoái hoạt. Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng.
       
Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải có dụng cụ ngay cả lúc nắng đổ lửa là  áo mưa. Và rồi vào năm 1963, khi vị tân đại sứ nước ngoài cạnh chính quyền Sài Gòn là Cabot Lodge thì ngay lập tức áo mưa chuyển thành…ông đại sứ! Là vì Cabot hao hao tiếng Pháp capote, cái áo mưa thực! Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng trai ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ.? Không đâu, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền đến …chuộc đó!
       
Trên đường thiên lý Bắc Nam, tấm bánh chưng đã cách tân thành đòn bánh tét cho dễ mang rồi chăng? Không có câu trả lời làm hài lòng mọi người nhưng lợn thành heo thì đã rõ, lại…nhưng, vì sao người phương Nam kêu là con heo mà lại làm ra bánh da lợn và trong khi người miền Bắc nuôi con lợn mà lại “nói toạc móng heo”?
     
Là hỏi thế, cũng trên đường thiên lý ấy tôi dừng một trạm ở Huế. Thì ra tiếng Việt thật lạ lùng, xuyên qua những dấu giọng rất khác nhau tiếng vẫn là tiếng, có khi rất lạ tai nghe vui vui mà chẳng hề ngơ ngác. Ông Giôn, nghe tưởng một Mỹ nào nhưng hóa ra đấy là ông… chồng! Anh thanh niên Huế chỉ tay về phía một thanh niên đang đi vào quán mà chúng tôi đã hẹn, nói: “Eng nớ đó tề, dân mệ đó…”, hỡi trời Mệ không già chút nào, mệ lại là một đực rựa, chính xác là một nhà thơ, dòng hoàng tộc! Tôi còn nghe một người nọ vào nhà một người kia bị chó của người kia xông ra tiến công, người nọ sợ hết hồn ( đồng bệnh tương lân, tôi rất hiểu những phút hồn xiêu phách tán đó) nhưng người kia không cứu anh ta, chỉ nói “Chó sủa không răng mô!”        
     
Khi miền Nam có chủ mới , thành điểm đến của một dòng người từ ngoài vào, Sài Gòn  làm quen - dĩ nhiên rất nhanh- tiếng lóng mà những đánh quả, con phe, vé , chai, bôi trơn, mắt thứ hai tai thứ bảy, phao v.v. theo đoàn tàu mới chạy vào đã trở nên quen thuộc. Có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm : Cục gạch  cắm miếng giấy lác đác có mặt trên hè phố để tiếp thị xăng lậu và cái..Phong bì, có nên  coi đó cũng là tiếng lóng ?
    
Chỉ biết, sau ngày 30-4 khi “gió đưa cây cải về trời/ rau răm ở lại chịu đời đắng cay”, tôi học được hai tiếng dành ngay cho mình - học tập và nơi ấy không phải vỉa hè, không là đường phố mà là trại cải tạo, một tiếng rất lạ mà tôi “học” suốt 3 năm với một học phí sòng phẳng như một sự trả món nợ mà tôi không vay, không vay nhưng đòi thì trả! Và với một tâm trạng không thù không hận- lịch sử có cách làm riêng của nó, tôi có cách nghĩ của riêng tôi!
 
4. Từ “Sổ” hóa đến “Số” hóa
 
Liếc sang chiếc đồng hồ thấy mới 5 giờ sáng, thế mà đã lọ mọ trên mạng hơn một tiếng và bỗng nhiên nhớ tới bài thơ của 20 năm trước, bài thơ viết trên giấy hẩm trong một tâm trạng nửa muốn sinh ra nó nửa bảo không. Lúc đấy đã 15 năm không có hứng làm thơ và cũng không buồn cầm bút lên, là hết một thời gian đời Kiều bị mang ra làm thí điểm, thấy nhà văn cũng không dễ chịu là bao…
      
Ra khỏi trại cải tạo bước ngay vào một thời “Sổ” hóa. Đầu tiên hết thảy là cuốn sổ hộ khẩu, trong đó thấy không có tên mình và người chủ hộ là bà mẹ của các con. Khái niệm hộ thay thế gia đình! Cảm giác bâng khuâng thôi thế từ nay là hết đời cái cột nhà! Cầm tờ giấy ra trại thấy họ đóng sẵn khung chữ nhật trong có dòng chữ “Khi về không được cư trú tại các thành phố thị trấn thị xã biên giới” bâng khuâng hỏi…vậy sống ở đâu? Nhưng rồi nghe liền là mình được tạm trú (tại nhà mình!) trong tình cảnh bị quản chế. Trước mắt là quen với cách viết lòng thòng không chấm không phết. Một lần đọc báo thấy người ta diễu ông quan chức về bài phát biểu (đánh máy) của ông: “Bọn Pôn Pốt giết đàn bà có thai ông già…”. Trong nhà, người thuộc nhất những tiếng sổ gạo, sổ nhu yếu phẩm, sổ cám là tôi- chồng chủ hộ và là người tạm trú, một chuyên viên tháng tháng mang những thứ sổ ấy đi chầu chực xin mua. Có lúc nhìn những người cùng cảnh trong ánh điện lờ mờ của bóng đêm, sau đó vào lúc trưa khi nhìn lại họ tôi thấy “ khi xếp hàng còn là cô gái, mua xong hóa…bà già”.
     
Tới khi đi dạy lại là vô số những cuốn sổ vây quanh, sổ giáo án, sổ chủ nhiệm, sổ điểm, sổ hội họp…Bắt tay trở lại với nghề, trong chương trình Văn lớp 11 có trích hai câu trong thơ Nguyễn Công Trứ rằng “Nhân sinh tự cổ thùy vô nghệ/ Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (đúng : tử, thay vì nghệ), biết thật nhanh rằng rồi đây còn phải “nói hai thứ tiếng” như vậy nữa.
      
Bể học quả thực mênh mông, càng học càng thấy mình chưa biết gì nhiều. Là cách…làm nghèo tiếng Việt bằng sự “tập trung hóa” một số tiếng. Tranh thủ, xưa vẫn là tiếng chính trị ( Phong trào tranh thủ tự do…) bây giờ bao nhiêu thứ “tập trung” vào nó : tranh thủ cảm tình của sếp, tranh thủ điểm với người khác phái, tranh thủ lúc nghỉ để hút thuốc, đi chợ…Tiếng Việt vốn có khả năng đi sâu vào ngóc ngách tâm tư của con người, mỗi ngách có một phương tiện riêng đặc dụng, sự giàu có của tiếng nước tôi là ở chỗ đó, nhưng  nay thì khác.
    
Một lần đã khá lâu, đi Vũng Tàu đọc được tấm bảng “Trung tâm thu mua giết mổ gia súc gia cầm”. Nghĩ đến sự tốn tiền của tấm bảng! Chi mà “trung tâm” cho lớn lối? Thu mà không mua chẳng lẽ lấy không của người ta? ; giết con bò con heo có lẽ nào không mổ cứ để nguyên con mà bán? Bệnh trùng hai tiếng cùng công dụng, lãng phí thay! Lắp ghép là một ví dụ. Cũng thế, tiệm may một thời là “Cửa hàng may đo”, chao ôi, muốn may áo quần thì đương nhiên phải đo rồi, không đo mà cứ may tràn thì nó thành cái áo choàng tùm hụp của phụ nữ Ả rập! Nếu như thế phải đề là “Cửa hàng may đo cắt khâu vắt xổ...” may ra mới có chỗ cho mọi công đoạn cùng có mặt trong việc làm ra áo quần cho công bằng!
    
Từng ấy năm là một quãng thời gian đi rất nhanh, rất nhanh ứng với quá trình học-mà-không-hỏi cách sử dụng tiếng “chính trị” cho các lĩnh vực khác. Từ khi về nhà chồng cô gái luôn cố gắng làm tròn vai trò người vợ người mẹ người con trong gia đình…, giả định đó là một đọan trích thư của một cô vợ gửi đức anh chồng, nhưng có thời  “sổ hóa” nó đi thành “ Kể từ quá trình bắt tay nhau xây dựng gia đình, em luôn phấn đấu hoàn thành chức năng nhiệm vụ người vợ, người mẹ và người con trong gia đình để anh yên tâm công tác hòan thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao…”. Tình cảm đời thường một khi “chính trị hóa” nghe khô khốc làm sao! Tât nhiên lá thư không có mấy chữ “hôn anh” vì e có phần…hủ hóa!
     
Chuyện có thật .Một lần đâu khoảng năm 80 gì đó, đi dự một đám cưới của anh bạn đồng nghiệp, người trưởng họ nhà gái mặc đồ cán bộ tóc có phần muôi tiêu đứng lên tuyên bố lý do..rồi bất thần ông hô “Nghiêm” để mọi người nhìn lên lá cờ! Lễ tuyên hôn thay vì lễ cưới truyền thống, mới thì có mới nhưng đâu phải cứ mới là không dị ứng.
   
Trong cái tật dài dòng khi nói khi viết dường như có ẩn chứa một sự kỹ lưỡng sợ người nghe không nắm (xưa là nắm một vật hữu hình nay nắm cả cái vô hình) hết ý mình, nên mới có chuyện truyền nhau như vầy. Một cửa hàng bán cá ở mặt tiền một hôm có tấm bảng ghi chữ lớn (may là ghi bằng phấn): Hôm nay cửa hàng có bán cá tươi. Một khách mua nói chẳng lẽ hôm qua? Chủ tiệm nghe có lý bèn xóa hai chữ hôm nay. Lại bảo cửa hàng này rành rành chẳng lẽ là…chỗ khác? Chủ ngớ ra bèn xóa thêm hai chữ cửa hàng! Khách không sợ chậm về cá bị ươn, nói cá để bán không lẽ để biếu không? Bẽn lẽn một chút, chủ bôi thêm hai chữ có bán, tưởng mọi sự đã xong. Nhưng khách là một người ham học tiếng Việt nên trước khi đạp xe đi còn bảo, từ xa đã ngửi mùi tanh, đã nhìn thấy cá trên sạp không lẽ khách lầm với thịt chó? Tấm bảng sạch trơn, chủ định mang vào nhà thì khách ngăn lại nói: Anh quên một thứ rất quan trọng là…bảng giá! Thừa và thiếu là như vậy! Tiếng Việt xem ra cũng khá “nghiệt”, người Việt học nó đâu có dễ!
   
Hội nhập với thế giới ắt là sẽ tiếp nhận nhiều khái niệm, tri thức, khả năng đào sâu vào những cõi xa thẳm của đời, của cộng đồng, của biển học và của những góc khuất, những nỗi éo le, những chuyện tình đẫm lệ, cả khoảng tối dưới chân đèn của con người. Những thứ ấy đến từ thế giới bằng ngôn ngữ vào Việt Nam. Tiếp thu phải giải quyết ổn thỏa, hợp lý và mang tính cách Việt Nam trong một chừng mực có thể. Người Tầu đi trước cho nên một số từ phương Tây du nhập vào đây qua con đường của họ và do các cụ nhà mình vốn thâm nho tiếp nhận. Do thế, London mới thành Luân Đôn, Italie thành Ý Đại Lợi, Montesquieu thành Mạnh Đức Tư Cưu, và một cách vui vui Inspiration thành...Yên Sĩ Phi Lý Thuần hoặc ai đó dịch Laboratoire thành Lã Bố Ra Tòa bị Tản Đà (hay Ngô Tất Tố) chửi cho là...đồ vô lại v.v. Sau một thời kỳ tồn tại , nhiều tiếng nước ngoài đã được điều chỉnh, Montesquieu đọc theo nguyên ngữ mà không theo Tầu nữa.Nhưng rồi có lẽ vì muốn “quần chúng hóa” cao nên lại có kiểu mới phiên âm cả tiếng nước ngoài chỉ tên riêng. Cap Vert ( tên đất, có nghĩa Mũi (đất) Xanh) đem phiên thành Cáp Ve thì vừa mù tịt nếu tìm trên bản đồ vừa dị hợm làm sao ấy. Cap de Bonne Espérance nghe là hiểu liền đất ấy có nghĩa gì và vì sao người ta gọi nó như thế, đem phiên âm thành Cáp Đơ Bon Ets Pê Răng Xơ nghe lủng củng, mù tịt mà cũng không kém phần khôi hài…Sao không dịch là Mũi Hảo Vọng?
   
Muốn cho quần chúng đọc được sao không nâng quần chúng lên mà lại hạ tri thức xuống? Hạ tri thức xuống khác nào gọt chân cho vừa giày? Trước đây nghe đồn nhà bảo sanh nọ gắn tấm bảng “Xưởng đẻ” thay cho “Phòng sanh”, lời đồn mà đúng thì quá tội nghiệp cho tiếng nước tôi vốn là thứ tiếng sang cả thanh lịch chứ đâu có hạ cấp như vậy?
    
Sang thời “Số hóa” phải nói báo chí giữ vai người thầy khá hiệu quả. Đặc biệt là báo trào phúng. Ở đây có lối “Từ điển tra ngược” khá phong phú làm cho nhiều sự việc được gọi đúng tên hoặc đúng bản chất của nó. Trong một bài phản ảnh kỉểu nói cho xong chuyện của  “quan”, nhà báo hạ hai tiếng “Nô tế bồ” (no table = miễn bàn !) là đủ thay một lời bình luận dài dòng mà dễ mếch lòng! Chìm xuồng là hai tiếng có tuổi thọ rất cao, có khi đạt tuổi ông Bành Tổ không chừng. Nói dài nói dai nói thừa nói thiếu là những khuyết tật của “ông thầy” mà người Việt Nam chính cống học tiếng Việt thời nay phải nên lưu ý để…tránh vết xe đổ của…thầy! Và thời “số hóa” còn kiểu…phịa ra tiếng Việt. Một nhà văn viết rằng: Một tin nhắn (chị mua bánh mì cho em nhé) được chuyển thể sang ngôn ngữ 8x như sau: “Chj mua bah' mj cho em nak”  hoặc “C by bak' mj 4e nk”. Nghe đâu người nhận tin phải điện hỏi người nhắn muốn làm gì!
     
Sử dụng tiếng Việt trong văn nói và văn viết đang ngày càng biến tướng thành một ngôn ngữ tiếng Việt không phải, tiếng Anh cũng chẳng giống mà gọi là ký tự thì cũng không đành. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam mới có kiểu pha tạp ngôn ngữ như thế này : “Chị có khỏe không? Bao giờ chị được nghỉ hè thì về nhé. Bố mẹ nhớ chị lắm đấy. Đừng quên mua quà cho em nữa”. Và bản được “mật mã hóa” là “Cj c0' koe? 0? Ba0 gj0 Cj du0c ngj hE, b0^' mE. nk0' Cj lEm' dey'. don't 4get by quA` 4e nUk.”. Đây là đỉnh cao của tiếng Việt thời “số hóa”? Nô tế-bồ!
         
Tuổi đời đã hơi nhiều nhưng có “ăn” của trời tất phải ra công để “học”, mà tiếng nói là báu vật trời cho. Học đến chừng này chưa nói là biết được gì nhiều về tiếng nước tôi, nhưng hiểu vào thời điểm hiện nay, tiếng Việt vừa bị “ lạm phát” lại vừa “ thiểu phát”. Lạm phát ở cấp độ 1 thì có tiếng “chỉ đạo” bởi hễ có chút quyền là ai cũng dùng nó được mà nhiều khi chỉ là…trống rỗng. Một ông hiệu trưởng giao việc cho thầy cũ của mình cũng bảo “Thầy làm đi có gì khó khăn báo cáo để BGH chỉ đạo tiếp”. Sao khi giao không chỉ đạo hết mọi tình huống đi? Lạm phát cấp độ 2 có lẽ là cụm từ  nghe quá quen thuộc nhận khuyết điểm, vì từ một cậu học trò gian lận đến các quan chức làm sai pháp luật nghiêm trọng cũng đặt mấy tiếng này trên môi (chứ không phải trong lòng) thể hiện một thứ pháp luật bao che.
      
Còn ở cấp độ lạm phát phi mã phải chăng là hai tiếng…chìm xuồng?  Bởi biết bao người oan ức trong đó có cả người có công với đất nước đã mất nhiều năm khiếu kiện mà cuối cùng hồ sơ nằm yên  giấc ngàn thu trong hộc của Phủ Khai Phong! Trong những thứ mà tiếng Việt bị “thiểu phát” tức botay.com, nôm na là “hút hàng” thiết nghĩ nên nhớ làm lòng hai tiếng “trách nhiệm” !
                                                     
* Vĩ thanh
     
Tôi rất mê ăn ngon, mê người tình, mê làm thơ và mê tiếng nước tôi, đó là những thứ mê cho đến hơi thở cuối cùng! Và một đời tôi bao lần thấy tiếng nước mình như bờ lau bên sông trước cơn gió xa tới. Tôi tin là khi gió đi qua những ngọn lau sẽ trở lại như nó có, và tôi cũng tin người ta có thể vừa đón gió mới vừa giữ được bờ  lau. Có điều, là người nóng nảy, tôi không muốn đây sẽ là chuyện để dành cho đời con cháu mình!

5-2010


SẮN LÙI ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI




NGU = NEVER GIVE UP
THÀNH CÔNG, ĐẠI THÀNH CÔNG




HANOI DRIVING 2014




làm chủ đường phố + làm chủ tốc độ = làm chủ tập thể




HÀ NỘI SAU 20/7/1954 VÀ TRƯỚC 30/4/1975








Tâm sự của Vũ Hoàng Anh , vợ ca nhạc sĩ Việt Dũng, với nhà báo Giao Chỉ về mối tình cũa hai người



Tôi xin gửi đến các bạn câu chuyện tình hết sức đặc biệt của đôi trẻ. Tôi nói chuyện với “cô quả phụ" Hoàng Anh tới canh khuya đêm chủ nhật, tôi xin viết đầu đuôi chuyện cô kể lại như sau:

"...Thưa Bác, Trong đời con có 1 ngày đáng ghi nhớ. Đó là ngày làm lễ Đạo, thành hôn với anh Dzũng. Ngày đó là 22 tháng 11, 2006. Con qua Mỹ năm 1983 lúc đó mới ngoài 20 tuổi. Từ quê nhà đã nghe tiếng hát Việt Dzũng qua đài VOA và anh đã là thần tượng của con từ dạo ấy. Qua Mỹ đi học Anh Ngữ ESL, trong chương trình có mua nhạc Việt Dzũng viết bằng anh ngữ để học và để nghe. Nhân dịp con tham dự đại hội công giáo ở New Orlean, lần đầu tiên thấy Việt Dzũng trên sân khấu. Con nhìn thần tượng yêu dấu, mà điều đặc biệt là không hề quan tâm đến đôi nạng. Con tưởng như Dzũng là 1 người bình thường. Không hề thấy hình ảnh của người tật nguyền. Một phần là chính anh Dzũng hết sức tự nhiên khi diễn xuất ca hát không có chút mặc cảm. Anh Dzũng không hề cảm thấy phiền phức về đôi nạng. Tất cả khán giả đều không quan tâm đến đôi chân của Dzũng. Con bắt đầu xây dựng tình yêu với thần tượng của con.

Sau đó con về làm thư ký, ký giả, nhiếp ảnh viên và làm quản trị báo chí tại Nam Cali. Một hôm Việt Dzũng gọi điện thoại cho xếp của con là thi sĩ Du Tử Lê. Con trả lời điện thoại, nghe giọng nói trầm ấm của chàng mà lòng hết sức rung động. Còn chàng có cảm thấy gì không con không biết!

Rồi Dzũng đến chơi, rủ Du Tử Lê đi ăn. Con giáp mặt nói chuyện với mối tình đầu. Hết sức xúc động. Nhưng bác cũng biết, con còn trẻ, tự cho mình là xinh đẹp. Và tuy yêu nhưng cũng tự ái, vì mình là con gái.. Mối tình thầm kín cố không để lộ cho chàng biết. Nhưng có thể chàng cũng đoán biết vì Việt Dzũng tinh ma lắm. Và chuyện tình từ đó khởi đi. Con chờ Dzũng mở lời. Cho đến một ngày đẹp trời, Việt Dzũng mở lời thú nhận rằng đã yêu con từ lâu rồi. Thế là con ưng thuận."

Bác hỏi cháu là hai bên đã biết nhau từ thời kỳ 85 hay 86 mà sao đến 2006 mới cưới? Chờ đợi gì lâu thế?.

Cô Hoàng Anh nói ngay."Không, tụi cháu đâu có chờ đợi lâu thế. Biết nhau hơn 1 năm là tụi cháu về đoàn tụ ngay. Em theo chàng về dinh mà bác..." Quả thực lạ lùng, như vậy Việt Dzũng đã có vợ từ thời kỳ 80 mà sao chả ai hay.

Bebe Hoàng Anh nói tiếp:

"Thực vậy, chúng cháu rất tự lập và rất kín đáo. Khi cháu qua Mỹ, năm sau mẹ cháu mất, chỉ còn cha, trong nhà gọi là cậu. Qua đầu thập niên 90, cậu cháu đau yếu. Để vui lòng cha, cháu yêu cầu cha mẹ Việt Dzũng đến gặp cậu cháu để ngỏ lời. Dzũng làm thân với cậu. Cậu cho cây mai, Dzũng đem về chăm sóc. Sau đó cậu cháu và ba Dzũng đều ra đi. Chúng cháu vẫn ở với nhau thủy chung không thay đổi. Dzũng vừa là chồng, là bạn, là người anh, người thầy hướng dẫn cho cháu. Cuộc sống bận rộn nhưng rất êm đềm hạnh phúc. Đời sống riêng tư của chúng cháu bên ngoài chẳng ai biết. Suốt thời gian bên nhau Dzũng luôn ngỏ ý muốn tổ chức hôn lễ, nhưng cháu ngần ngại khước từ. Cho đến năm 2006, Dzũng hết sức thúc dục và cũng nói là bác sĩ cho biết sức khỏe của anh không được tốt. Nếu một mai anh không còn nữa thì sao, cho nên anh muốn có 1 lễ nghi tôn giáo chính thức. Rồi Dzũng chỉ yêu cầu dành cho anh một ngày. Đó là ngày 22 tháng 11-2006. Đến giờ chót con mới biết đó là ngày hôn lễ của chúng con. Hôn lễ hết sức giới hạn, chỉ có gia đình 2 bên. Chú Ngọc Hoài Phương, cô Diễm, chú Du Tử Lê."

"Vậy có Nam Lộc, Trúc Hồ không?" Tôi hỏi.

"Dạ, cũng không có đâu bác". Hoàng Anh trả lời.

"Sao chúng cháu giữ kín vậy. Cô Diễm nào, có phải cô Diễm là em bà Hoa không?" Tôi hỏi tiếp.

"Đúng đấy. Bà Hoa mới mất! bác biết không?". Hoàng Anh thêm vào. Tôi trả lời: "Bác biết quá đi chứ. Bác Hoa là vợ ông Đằng bạn của bác Lộc. Bác Hoa là bạn thân của bác gái mà."

Tôi nói tiếp:"Trở lại chuyện của của cháu bác thấy hết sức lạ lùng. Mối tình thầm kín. Hôn nhân cũng thầm kín. Chung sống với nhau 10 năm mới đám hỏi, rồi 10 năm sau mới đám cưới. Rồi từ lễ cưới 8 năm trước đến nay khi có đám tang thiên hạ mới biết Việt Dzũng có gia đình. Bác tưởng là mới lấy nhau rồi Dzũng ra đi."

Cô quả phụ nhỏ bé buồn bã nói rằng: "Ai cũng tưởng như vậy. Chuyện tình của chúng cháu là thiên tình sử lâu dài nhưng hết sức riêng tư. Bác nói đúng, sống với Dzũng, cháu không bao giờ nghĩ anh Dzũng là người có thương tật. Anh Dzũng của cháu là người chồng rất bình thường. Với đôi nạng gỗ, anh là người nghệ sĩ phi thường."

Người cô phụ năm nay cũng ngoài 50 tuổi, đâu có bé bỏng gì, nhưng khuôn mặt long lanh nước mắt trẻ thơ nhìn tôi như có hình ảnh đầy hãnh diện của người tình thần tượng. Tôi lại nói rằng: "Từ đám cưới vài chục người với đám tang cả chục ngàn người, Dzũng đã để cho con quá nhiều kỷ niệm và gánh nặng quá khứ. Bác mong cho con có đủ khả năng để vượt qua thử thách lớn lao. Thế giới biết bao người, con đã chọn Việt Dzũng. Anh là món quà quê hương để lại cho hải ngoại. Bác mong con có được cặp nạng tinh thần để đứng vững với cuộc đời còn lại."

Bebe đứng lên, nước mắt rơi trên đôi nạng gỗ như những giọt lệ tình yêu.

"Con khổ lắm bác ơi". Hoàng Anh nói.

Chiều thứ bảy Bebe Hoàng Anh, môt mình lái xe từ Nam Cali suốt đêm lên San Francisco dự buổi Tưởng Nhớ Việt Dzũng vào chủ nhật. Chiều thứ hai, lại một mình lái xe về.

Nhà tôi nói: "Con lái xe một mình nên cẩn thận".

Bebe nói: "Con không đi một mình, luôn luôn có anh Dzũng ngồi bên cạnh."

Thực vậy. Vợ lái xe mà như có chồng vẫn ngồi bên cạnh. Suốt 7 giờ rong ruổi đường trường, cô Hòang Anh nhẹ nhàng, nhẩn nha cằn nhằn cậu Việt Dzũng. Anh đốt hết cuộc đời cháy trên đầu ngón tay...Anh nói loanh quanh dối trá em suốt bao năm. Tưởng là lừa được em sao. Em biết hết nhưng em không nói. Anh bay bướm với đàn bà, anh ăn nhậu với đàn ông. Em biết hết. Rồi sau cùng anh vẫn phải trở về, phải không?.

Bây giờ anh còn đi đâu nữa. Cô lái xe và tưởng như Việt Dzũng vẫn ngồi trân mình chịu trận bên cạnh. Chàng không nói được, bây giờ chỉ còn ngồi yên mà nghe nàng nói. Đây không phải là sân khấu Asia. Đây không phải là Radio Bolsa. Đây chỉ có 2 người đối thoại chuyện tình yêu. Dzũng suốt đời nói cho ngàn người nghe. Bây giờ đến lượt Hoàng Anh. Cô nói mà anh chàng không cãi được. Nhưng cô kể lể cho mà nghe vậy thôi. Nói cho mà biết thôi. Cô tha thứ hết. Việt Dzũng của cô, có thể đủ thói hư tật xấu của đàn ông nhưng mãi mãi vẫn là thần tượng của Hoàng Anh.

Vâng thưa Bác, con không lái xe một mình. Mãi mãi vẫn có Dzũng ngồi bên cạnh..."

Nhạc Sĩ Thanh Bình --Nhà văn Nguyễn Đình Toàn




                               


Thanh Bình khởi sự là một người viết văn. Trước cuộc chia đôi đất nước 1954, ông đã có truyện đăng hàng ngày trên các báo ở Hà Nội. Khi đó, chắc Thanh Bình còn mới ở tuổi 20. Các truyện ấy, sau khi di cư vào Nam, hình như ông cũng không cho xuất bản lại thành sách, vì không thấy ai nhắc tới. Mặc dầu vậy, những người quen biết Thanh Bình cho biết, nữ tài tử Thẩm Thúy Hằng và hãng phim của bà, đã nhiều lần điều đình với ông để đưa một vài cuốn sách của ông lên màn bạc. Việc ấy chứng tỏ các truyện của ông đã có nhiều người đọc và còn nhớ.

Sau 54, tại miền Nam, người ta biết đến Thanh Bình như một người viết ca khúc nhiều hơn viết văn.

Các bài hát như “Lá Thư Về Làng”, “Những Nẻo Ðường Việt Nam” của ông đã được hầu hết các ban nhạc cũng như các ca sĩ danh tiếng thời ấy trình diễn. Bài “Mưa Qua Sông” của ông, cả về giai điệu lẫn ca từ, rất được tán thưởng. Thanh Bình cũng có phổ nhạc một số thơ. Bài thơ ông phổ nhạc được nhiều người biết đến nhất là bài “Kẻ Ở” của Quang Dũng.

Song nói chung, các ca khúc của Thanh Bình do chính ông viết cả nhạc lẫn lời vẫn là những bài được yêu thích hơn cả.

Nhạc Thanh Bình giản dị. Lời ca của ông rõ ràng, trong sáng, rất gần gũi với vẻ đẹp và tính trữ tình của ca dao:

Thấy em chẳng nói trông lên mắt hai hàng rơi
Ðã không thì thôi sao em tiếc nhớ chi hoài

“Ðã không thì thôi” lối nói ấy không rất Việt Nam sao?

Trong sinh hoạt âm nhạc của chúng ta, thỉnh thoảng lại thấy xảy ra hiện tượng: Không vì lý do nào cả, bỗng nhiên một ca khúc hay một tác giả nào đó, bị quên lãng, không thấy ai hát hay nhắc tới nữa. Sự việc có thể kéo dài hay chỉ trong một thời gian ngắn.

Thanh Bình không hẳn ở trong trường hợp ấy.

Nhưng, trong số các băng, đĩa nhạc được thu ở hải ngoại trong mấy chục năm rồi, hình như chỉ thấy có một bài, do Khánh Ly hát, đó là bài “Tình Lỡ”.

Nhớ lại những năm sau 54, bài “Lá Thư Về Làng” của Thanh Bình đã gây xúc động trong lòng bao người vừa rời bỏ miền Bắc trong cuộc di cư vào Nam. Càng cảm nhận ra rằng mình được bao dung, yên ổn, trong vùng đất mới, người ta càng xót xa nhớ thương quê cũ.

Chính những tác phẩm nặng tính thời sự như vậy thường lại mang trong nó nỗi oan khiên: Bị thời sự bỏ rơi!

Sự việc gần như tự nhiên.

Chuyện xảy ra sau xóa bỏ những gì xảy ra trước.

Hôm nay xóa bỏ hôm qua.

Cái còn lại là kỷ niệm.

Tác phẩm là những gì thuộc về đời sống được biến thành kỷ niệm, nhờ những tác giả.

Bài “Lá Thư Về Làng” của Thanh Bình bây giờ nghe lại, không phải người ta không còn cảm nhận ra cái hay, cái đẹp của bài hát.

Nhưng biến cố 30 tháng 4/75 đã đẩy nó sâu thêm một tầng nữa vào quá khứ.

Thời thế đã thay đổi.

Cái quê hương người ta đứt ruột bỏ đi năm nào, nay đã có thể trở về, nhìn lại, cái đổi thay, cái thực tế, đã giải hoặc những ước mơ, “áo nâu tươi, gái làng còn che môi cười” [hình như] cũng không còn nữa, hay nến có còn [sót] ở một nơi nào đấy, thì đời sống và chính những con người hiện thực đã cải chính hay xóa bỏ cái hình ảnh người ta mang theo trong kỷ niệm.

Thực tế không còn liên hệ với kỷ niệm là “kỷ niệm mất bóng” đã rất gần với ảo tưởng.
Nếu mọi thứ cứ diễn biến như thế, cuối cùng, chúng ta sẽ còn lại gì đây?


'Lá Thư Về Làng'

Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng
Sắt son gửi trong mấy hàng
Thăm bà con dãi dầu năm tháng
Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang
Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng
Thương những già khuya sớm lang thang
Em thơ ơi có còn học hành sớm tối
Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười
Và đàn bò còn nghe chim hót lưng đồi
Nhớ nhưng rồi thương qua lắm bé thơ ơi!
Ruộng đồng yêu ơi!
Thôn làng ruộng đồng yêu ơi!
Đường về làng tôi
Lúa đồng rạt rào đón mời.
Và người yêu quê
Đau sầu từ ngày anh đi
Có sớm anh về
Mừng mừng ướt má hoen mi.

Nguyễn Ðình Toàn

Thế giới không còn bạch tuộc --- Thận Nhiên







 
 
“Anh...”
 
“Gì?”
 
“Em nói cái này anh đừng cười nghen?”
“Cười cái gì?”
“Anh chưa trả lời em. Anh không được cười chế nhạo em đó...”
“Ừ, không cười...”
“Hứa rồi nha!”
“Ừ, hứa...”
“Em thèm...”
“Thèm gì?”
“Thèm... bạch tuộc.”
“Bạch tuộc?”
“Ừ, bạch tuộc.”
“Bạch tuộc ở ngoài biển?”
“Ừ, bạch tuộc ngoài biển... Ngoài đại dương...”
“Em thèm? Thèm ăn con bạch tuộc ở ngoài biển? Ở trong đại dương?”
“Dạ. Em thèm... Thèm thiệt... Bạch tuộc nướng muối ớt!”
“Anh chưa bao giờ ăn bạch tuộc.”
“Vậy thì đi ăn đi.”
“Làm sao mà ăn? Có đâu mà ăn? Anh không ăn bậy đồ bán ngoài đường đâu, mất vệ sinh. Bị đau bụng thì kẹt lắm.”
“Mình đi mua. Mua về em làm. Em biết làm...”
“Em có biết bạch tuộc là loài kỳ dị không? Nó là thuỷ quái khổng lồ. Có những con to khủng khiếp. Bằng cả toà nhà. Những cái vòi của nó có... có cái gọi là giác tu, có cấu trúc như những cái ống hút, giống kiểu ống giác hơi của mấy tay giác hơi, đấm bóp dạo, để hút lấy, rồi bám chặt lấy con mồi. Ngày xưa, anh xem truyện tranh... Chuyện chữ cũng có kể. Có con bạch tuộc tấn công những chiếc tàu hàng hải ngoài khơi xa. Nó dùng vòi, quấn ngang con tàu, quăng quật, rồi nhấn tàu chìm xuống lòng biển... Có loài bạch tuộc mang chất độc. Nó phun chất độc ra làm con mồi tê liệt, rồi ăn thịt. Khi gặp kẻ thù, nó còn phun chất độc, đen như mực, làm kẻ thù không thể thấy nó, rồi thoát thân...”
“Không... Em không tin. Chuyện người ta viết xạo đó.”
“Thiệt mà. Hồi nhỏ anh đọc được như vậy ở đâu đó, trong cuốn sách nào đó, mà lâu quá rồi nên giờ thì anh quên. Lát nữa sẽ nhớ lại thôi. À, hình như là cuốn ‘15 truyện bí mật dưới đáy biển’ thì phải. Hồi đó người ta hay làm những cuốn sách như vậy cho trẻ con. Đứa nào trong lứa tuổi của anh cũng đọc. 15 truyện rừng, 15 truyện kinh dị, 15 truyện trinh thám, 15 truyện ma quái... Chuyện trên trời dưới biển gì cũng có. Đề tài nào cũng có. Cứ mỗi đề tài là 15 truyện. Bán chạy như tôm tươi.”
“Ngộ ha... Bây giờ người ta không làm thứ sách như vậy cho trẻ con nữa. Mỗi thời một kiểu.”
“Ừ, mỗi thời một kiểu. Thời nào kiểu đó!”
“Ờ, nhưng anh đừng đánh trống lãng nữa. Đi mua bạch tuộc nghen. Chiều em đi mà. Em thèm. Em biết làm. Biết ướp rồi nướng. Ngon lắm.”
“Mua ở đâu ra bạch tuộc? Đâu còn chợ hay siêu thị nào mở cửa giờ này! Đừng nói là phải ra Vũng Tàu hay Phan Thiết à nghen.”
“Không, không cần phải đi xa vậy đâu anh. Ở Sài Gòn cũng có.”
“Anh không ăn thứ bán ngoài đường đâu. Đồ tanh ươn, bẩn lắm. Người ta ướp hàn the hay các loại hoá chất gây ung thư, ghê lắm. Ăn vô là bịnh đó.”
“Không. Em nói rồi. Không ăn đồ ngoài đường. Mình đi mua về nhà em làm.”
“Khó làm lắm. Làm sao em làm được. Nó tanh rình...”
“Không, em xả nó với muối hột cho sạch. Ngâm trong nước muối chừng 20 phút, rồi xả. Nhiều lần, thì thịt nó săn lại. Cho tới khi sạch thì ướp gia vị cho thấm, rồi mới nướng.”
“Có lần anh làm một bài thơ. Lâu rồi, hồi còn ở Mỹ. Có đoạn nhắc tới bạch tuộc. Chắc chắn trong thơ Việt Nam chưa có ai nhắc tới bạch tuộc. Anh là người đầu tiên viết về bạch tuộc... Mà bạch tuộc hoá thạch mới ghê chứ, đâu phải chuyện đùa! Những con bạch tuộc khi trườn lên biển nằm chờ hàng thế kỷ rồi hoá thạch thì cô độc ghê gớm...”
“Xạo. Đọc em nghe đi...”
“Không nhớ. Nhưng em mở Ipad đi. Trong trang Tiền Vệ đó.”
...
“Nè, đoạn này nè. Thấy chưa, anh đâu có xạo.”
...
“ Ha ha ha...! Thơ anh không ầu ơ, nhưng cũng sến bỏ mẹ...”
“Ờ, đồng ý. Sến bỏ mẹ... Cái này có đứa gọi là tân sến.”
“Anh viết về bạch tuộc mà chưa ăn bạch tuộc nên nó mới sến. Giờ ăn bạch tuộc đi, rồi anh viết bài thơ khác, thì con bạch tuộc trong bài thơ sẽ hết sến. Sẽ sang trọng. Nếu có sến thì cũng sến một cách sang trọng. Anh biết vì sao mà nó sẽ sang trọng không?”
“Không. Vì sao?”
“Vì con bạch tuộc mới này đã được em xả sạch bằng muối hột và ướp bằng ngũ vị hương, ớt sa-tế, hình như với sả bằm nữa, rồi nó sẽ nằm trên đĩa men sứ trắng muốt. Có rau răm, các loại rau thơm khác. Có đậu phộng rang giã nhuyễn, và bánh đa, đi kèm. Rồi anh sẽ từ tốn tống tiễn nó vào dạ dày, chung với từng ngụm Jack Daniel’s thơm lừng... Em thấy anh còn một phần tư chai đang uống dở. Vậy là bạch tuộc mồ yên mả đẹp ha. Em sẽ giúp anh đưa mấy con bạch tuộc mà mình sẽ ăn tối nay vào văn học sử.”
“Khoan... Chậm lại nào. Click lại đi. Click cái nữa. Kìa, mẹ kiếp, em thấy vui không kìa...”
“Cái này hả? Có gì đâu mà vui!”
“Vui chứ sao không?”
“Đái thì ai mà không đái được...”
“Đành vậy. Ai cũng đái được. Nhưng mấy cô Ukraine này đái lên mặt thằng cha tổng thống thì vui chứ. Ở Việt Nam có ai dám đái như vậy lên mặt lãnh tụ đâu? Nó đưa vào trại cải tạo, nó giết cổ ngay!”
“Nói thiệt nghen! Anh không quan tâm đến chuyện mấy cô này đái lên mặt thằng tổng thống!”
“Vậy, em nghĩ là anh quan tâm đến cái gì?”
“Anh chỉ ngó vú!”
“Ờ, thì vú mấy cổ cũng đẹp quá mà. Em ngó kỹ coi, cái nào cũng đẹp. Tươi trẻ và xinh xắn. Mà họ vẽ màu lên thân thể cũng rất ngộ.”
“Thứ body art này ở Sài Gòn cũng có người chơi mà. Anh nhớ mấy lần bọn Ngô Lực, Tiến Văn Miếu làm ở khoan cắt bê-tông [1] không?”
“Ờ, đồng ý. Sài Gòn cũng có. Nhưng chưa có ai đái!”
“Đái thì đái. Có người chịu chơi thì sẽ chơi liền thôi. Chơi trò diễn cương đó mà. Nhưng em nghĩ đái lên mặt lãnh tụ thì cũng đâu có hay ho hay sáng tạo gì gọi là đáng kể. Phí nước...”
“Em nói gì?”
“Em nói phí nước. Phí nước... là phí nước đái ấy! Đái lên mặt chúng thì làm bẩn nước đái của mình. Có cha nói là ở Việt Nam mà quý bà đi biểu tình thế này thì chắc toàn bộ quý ông sẽ tranh nhau xuống đường. Vậy là đi ngó hĩm, ngó vú chứ đi biểu tình cái mẹ gì. Tuy nhiên, em đồng ý với chả. Nếu các anh mà chịu xuống đường vừa ngó hĩm, ngó vú, vừa vì biển đảo, thì em xung phong đái lên mặt thằng Tập Cận Bình trước. Em thấy trên Facebook mấy cô ở nước ngoài cũng chịu chơi lắm. Ai chứ mấy mẹ trên Facebook rủ nhau là mấy bả làm cái rẹt liền, xè xè nấm đất bên đàng liền! ”
Sè sè chứ không phải xè xè. Em lẩy Kiều nghe kinh bỏ mẹ! Nhưng vui...”
“Vui gì... Em thì... em chơi tới luôn đó. Mà thấy tụi nó bắn người thấy ghê quá! Em xem trên ti-vi, thấy bọn công an bắn tỉa xuống đám đông biểu tình. Tự nhiên đạn ở đâu đâu bay tới. Trúng. Té cái bịch. Ngay đơ. Máu me xịt tùm lum đầy mặt đất. Rồi, người ta lôi cái xác đi. Ngó kìa, bắn con người giống như những con vật, hay như bắn bọn vịt trời trong trò chơi game.”
“Giờ thì xong rồi. Họ kéo đổ tượng Lenin khắp nơi. Còn thằng tổng thống thì chuồn gấp. Không biết sẽ có nước nào chứa nó không. Chắc chạy qua Nga... Nương nhờ Putin.”
“Vậy là tiêu tùng một chế độ hả anh?”
“Ừ, tiêu tùng một chế độ. Chế độ độc tài!”
“Nghĩa là cách mạng là vậy đó?”
“Ừ, cách mạng là vậy đó. Là thay đổi. Là lật đổ. Trong trường hợp này nó là lật đổ một chế độ.”
“Lật đổ... Rồi làm gì nữa? Cái gì, và ai, những ai... sẽ làm tiếp? Người ta... Em muốn nói là người dân, sẽ sống làm sao?”
“Không có ai tiên đoán được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhưng khi người dân chịu không nổi nữa thì họ sẽ nổi dậy lật đổ cái chế độ tệ hại mà họ đang sống. Chuyện gì xảy ra tiếp theo là chuyện của lịch sử, chứ không còn là chuyện của cá nhân...”
“Em đếch hiểu. Nhưng thấy rõ một điều là trong các cuộc cách mạng thì thân phận những con người chẳng ra cái mẹ gì cả. Anh...”
“Gì em?”
“Đi mua bạch tuộc...”
“Em không thể quên cái món bạch tuộc trong tối nay sao?”
“Không, em thèm mà... Vả lại, biết đâu...”
“Biết đâu... cái gì?”
“Biết đâu... có cách mạng... Rồi có mấy thằng bắn tỉa. Rồi mình bị chúng bắn chết tươi. Chết, mà em chưa hết cơn thèm, chưa thoả mãn được cơn thèm. Còn anh thì chưa nếm món bạch tuộc của em làm.”
“Em tào lao quá! Nhưng giờ này đâu còn chỗ nào bán... Hay em muốn đi tìm trong mấy cái siêu thị. Đồ siêu thị là đồ đông đá. Nó đánh bắt cả tháng, cả tuần rồi mời được mang về. Rồi cả ngày người ta bán không hết nên giờ này mới còn. Đồ đó thì đâu còn tươi nữa, ngon lành gì... ”
“Không. Không mua bạch tuộc ở siêu thị. Mình đi chợ Bình Điền.”
“Chợ gì?”
“Chợ đầu mối Bình Điền. Từ đây tới đó đâu có xa. Nó là chợ đầu mối nên đồ vừa tươi vừa rẻ.”
“Nhưng giờ này...”
“Bình Điền mở suốt mà. Đêm ngày gì cũng mở.”
“Nhưng người ta bán sỉ chứ đâu có bán lẻ cho người mua ít về ăn.”
“Thì mình mua hai ký.”
“Hai ký? Có bán không? Vựa bán sĩ, đâu có ai mà bán chỉ hai ký.”
“Em nghĩ có mà. Mấy quán nhậu nhỏ, người ta cũng mua chừng vài ký về bán cho khách thôi.”
“Nhưng dù cho là chợ đầu mối thì người ta cũng chỉ mua bán vào buổi sáng thôi. Giờ này đã gần nửa khuya...”
“Đâu mà nửa khuya... Mới chín giờ à.”
“Cứ cho là người ta còn bán giờ này đi. Cứ cho là mình mua được đi. Nhưng... mình không có gia vị gì để cho em làm.”
“Thì mình sẽ mua...”
“Em cần những thứ gì nào?”
“Thì vậy đó... Muối hột. Rau răm. Rau thơm. Ngũ vị hương. Sa-tế. Đậu phộng. Bánh đa. Chanh. Nếu có trái quất thì tốt, vì quất thơm hơn chanh. Ngò rí.”
“Làm gì có chợ mà mua mấy thứ đó giờ này?”
“Ở Bình Điền cũng có bán đồ rau trái. Nếu không có bán thì mình đi Giant, hay Lotte [2] mua... À, dưa leo. Anh nhớ nhắc em mua dưa leo nữa nghen. Hai trái...”
“Em có bao giờ làm món bạch tuộc này chưa?”
“Em nấu cho anh ăn nhiều món rồi phải không? Hai năm nay anh thấy có món nào dở hay em làm không được không?”
“Không. À, chưa... Em chưa làm món nào dở cả. Nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Bạch tuộc là món khó làm. Em lại chưa làm lần nào thì làm sao em biết mà làm...”
“Món nào em ăn rồi thì em sẽ làm được!”
“Chắc không?”
“Chắc! Món nào em ăn rồi thì em sẽ làm được! Cái gì em thấy người ta làm, mà em thích làm thì em sẽ làm được!”
“Mọi chuyện...?”
“Mọi chuyện!”
“Đái?”
“Ừ, đái luôn...!”
“Sao em không nói là thay vì đái?”
“Tại sao em phải nói là tè?”
“Vì...”
“Vì sao?”
“Vì tè thì nghe nhẹ nhàng... dịu dàng... và có vẻ hạp với phụ nữ hơn là đái. Đái nghe thô tục, có vẻ như hạp với đàn ông hơn. Chứ em không thấy những bảng kẻ chữ ‘cấm đái bậy’ luôn ở ngay tầm mắt và vị trí ngang dưới thắt lưng người ta hay sao? Đâu có ai để bàng sát rạt dưới đất cho phụ nữ, ngang tầm với phụ nữ?”
“Không, anh sai rồi! Trong trường hợp này thì đái đúng hơn. Vì nó là hành vi biểu lộ sự khinh bỉ, sự căm phẫn... Là hành vi làm nhục. Là... là... phóng uế lên bộ mặt của quyền lực. Lên biểu tượng quyền lực. Thời này, bọn độc tài nào thì cũng ác, gian, và hiểm như bọn mafia. Mafia ngày nay đầy quyền lực chứ không phải như mấy tay găng-tơ buôn ma tuý và xách súng bắn nhau pằng pằng như thời phim Bố Già ở Mỹ.”
“À, em nhắc mafia mới nhớ. Hồi đó có bộ phim về mafia của Ý, có tên là ‘Vòi bạch tuộc’, em có xem không?”
“Có, mà lâu lắm rồi... Bộ phim đó hấp dẫn.”
“Anh nhớ mang máng tay cảnh sát, nhân vật chính, rất đẹp trai. Mặt lạnh, đẹp lạnh lùng... Mà sau rồi thì hắn cũng bị giết thì phải.”
“Ừ, đúng rồi. Bị giết. Mà...”
“Mà gì...”
“Bị giết mà chưa được ăn bạch tuộc!”
“Tối nay em không thể không ăn bạch tuộc à?”
“Dạ... Em biết. Có thể em sẽ không được ăn bạch tuộc tối nay. Nhưng như vậy thì buồn lắm. Bi thảm!”
“Nếu không được ăn bạch tuộc thì em sẽ làm gì?”
“Chưa biết sẽ làm gì. Có thể viết một cái gì đó. Một cái truyện về bạch tuộc chẳng hạn. Nhưng vì sao mà em sẽ không được ăn bạch tuộc?”
“Vì...”
“Vì sao nào? Anh nói ngay cho em nghe đi.”
“Em còn tiền không?”
“Em còn 50 ngàn. Không, hồi chiều đổ xăng 50 ngàn thì em còn 70 ngàn. Xem nào, chính xác là 77 ngàn, tính luôn mớ tiền lẻ.”
“Anh mua gói thuốc lá xong thì hình như còn 80 ngàn.”
“Vậy là cả hai đứa cộng lại được khoảng 150 ngàn?”
“Ừ, khoảng 150 ngàn.”
“Một ký bạch tuộc là trên 100 ngàn, cho là mình mua được bằng giá sỉ đi.”
“Vậy là mua được hơn 1 ký!”
“Chẳng thấm béo đâu vào đâu, 1 ký quá ít. Vì bạch tuộc này là còn nguyên con ướp đá, chưa săn lại. 1 ký mà săn lại là còn chừng vài trăm gram thôi.”
“Rồi còn tiền đâu mà mua gia vị, rau rác?”
“Rồi nướng bằng gì? Bằng bếp gas đâu có được. Cần có bếp than. Nướng bằng bếp than thì mới ngon. Nghĩa là mình cũng cần mua một cái lò và than.”
“Vậy là không đủ tiền. Giờ tính sao?”
“Thôi, dẹp bạch tuộc đi.”
“Tội nghiệp em!”
“Không, tội nghiệp anh mới đúng.”
“Vì sao tội nghiệp anh?”
“Vì con bạch tuộc trong bài thơ sẽ viết của anh sẽ không đi vào văn học sử.”
“Anh đếch cần văn học sử! Nhưng thật sự tội nghiệp em.”
“Vì sao tôi nghiệp em?”
“Đúng ra là tội nghiệp cả hai chúng ta. Vì, thử tưởng tượng nếu cách mạng nổ ra đêm nay, những thằng bắn tỉa khốn nạn sẽ bắn trúng em và trúng anh. Mình chết. Chết, mà chưa ăn bạch tuộc do em nướng...”
“Em không muốn vậy. Em không thể quên được những cái vòi, những giác tu...”
“Anh cũng vậy.”
“Em chiên cơm, mình ăn đỡ cơm chiên, lạp xường, trứng vịt nhé?”
“Không, anh không đói. Anh nghĩ anh uống một ly rồi đi ngủ cũng được.”
“Em cũng làm một ly với anh.”
“Ừ, nhưng anh không muốn câu chuyện bạch tuộc dừng lại ở đây.”
“Anh đừng bắt em phải tưởng tượng về những chuyến tàu hải hành xuyên lục địa, và mình phải chạy trốn bọn bạch tuộc thuỷ quái dưới lòng biển.”
“Có cách gì khác không?”
“Cách gì khác... là sao?”
“Để lấp đầy thời gian trống cho tới khi mình đi ngủ.”
“Em không biết. Xem ti-vi và nghe nhạc hoài cũng chán. Không lẽ lại ôm máy lên Facebook chém gió? Lúc nãy mình có nói tới chuyện làm cách mạng và lật đổ, câu chuyện đang dở dang...”
“Ừ, thì sao?”
“Không sao cả. Em chỉ thấy buồn. Buồn tè. Em muốn đi tè!”
“Ừ, em đi đái đi.”
 
SG,  25/02/2014
 
_________________________
[1]khoan cắt bê-tông: tên của những chương trình nghệ thuật thị giác của một nhóm hoạ sĩ Sài Gòn.
[2]Giant và Lotte là hai siêu thị lớn ở Sài Gòn.