khktmd 2015
Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2019
Tàu Cộng ngày nay qua cái nhìn của một người Tàu - Tác giả Nguyễn thị Cỏ May
Thật may mắn – thật tình phải nói như vậy – còn không ít người Việt Nam nơm nớp lo sợ nước Việt Nam rồi đây sẽ mất để trở thành một nước Tàu. Thế giới đang lo đối phó nạn bành trướng hết tốc lực và toàn diện của Tàu nhằm làm chủ thế giới. Vụ bắt bà Meng Wanzhou, Giám đốc tài chánh của Công ty Huawei, đúng là một cú đá giò lái quá nặng của Mỹ đối với Tàu trong chánh sách chạy đua thực hiện bá quyền của Tàu.
Tựa quyển sách của 2 nhà nghiên cúu người pháp chuyên về chánh trị tàu, Sophie Boisseau du Rocher và Emmanuel Dubois de Prisque (Odile Jacob, Paris, 2019) được tác giả trình bày dưới dạng chơi chữ “Tàu v(L)à thế giới” (La Chine e(S)t le monde – La Chine ET=VÀ nhưng có thêm S, đọc nguyên chữ EST=LÀ, động từ).
Nếu có người Việt Nam muốn viết một cuốn sách về đất nước của mình sẽ mất trọn cho Tàu do ý chí của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản, tưởng cuốn sách đó cũng nên có cái tựa viết giống như vậy, cùng cách chơi chữ, là “Việt Nam v(L)à Tàu” để báo động cho những người chưa thấy, chưa biết quốc nạn, có không đọc sách mà chỉ thấy cái tựa thì cũng đủ hiểu chuyện . Hiểu số phận Việt Nam đã được Nguyễn Phứ Trọng và cả đảng cộng sản đang kín đáo từng bước thực hiện ..
Tàu dưới con mắt thế giới
Huawei không chỉ là nhà sản xuất thứ hai trên thế giới về trang thiết bị viễn thông và spartphone mà đó thật sự là võ khí hàng đầu của chiến lược bá quyền của tàu. Huawei nuôi tham vọng sẽ thay thế công nghệ mỹ và, với tất cà phương tiện, sẽ nắm giữ vai trò chủ đạo của ngành này. Và đang tập trung vào 5G, không chỉ chiếm thị trường, mà nhằm chủ động và kiểm soát được thông tin về kỹ nghệ, về hoạt động của chánh phủ các nước, các thành phố, giao thông, các dịch vụ, ngân hàng, … Và nhứt là vũ khí . Tóm lại, kẻ thắng sẽ làm chủ thế giới. Giữa Mỹ và Huawei là cuộc chiến sanh tử. Nhưng với Bắc kinh không chỉ có 5G phải đạt cho được mà là quyết tâm làm chủ trọn vẹn thế giới.
Sách lược tấn công thế giới của Tàu thật sự đã bắt đầu từ mươi năm qua. Trước đây, Bắc kinh còn giữ lời dạy của Đặng Tiểu-bình «Từ từ và giừ thế khiêm tốn» nhưng cuôc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã làm cho Tây phương chao đảo, Bắc kinh vội nắm ngay thời cơ, leo lên ngôi vị bá chủ .
Năm 2012, Xi Jinping nắm quyền, thay đổi chiến lược. Xi muốn kết hợp 2 nền độc tài – ngàn năm quân chủ và triều đại cộng sản – tiến lên tuyên bố nay là thời điểm «phục hưng nước tàu», một chánh sách xâm chiếm không giới hạn: chiếm biển đông, bắc cực, kiểm soát mươi hải cảng có khả năng đón tiếp hải quân tàu, tạo mươi quốc gia chư hầu do ràng buộc về thương mãi như thời đế quốc tàu.
Trên mặt trận ngoại giao và đối với những cơ chế quốc tế, Tàu đã thoát khỏi cách ứng xử cũ, sai khiến những chánh phủ chịu ảnh hưởng của mình để lũng đoạn những nguyên tắc nền tảng của Liên Hiệp quốc, xâm nhập vào khối Liên Âu, mua chuộc một số quốc gia nhỏ bị kinh tế khủng hoảng để phá thế đoàn kết của Liên Âu, bảo vệ quyền lợi của Tàu, chống lại những tấn công nhơn quyền, …
Để thực hiện kỷ niệm 100 năm ngày lập đảng cộng sản và 100 năm ngày khai sanh nước Công hòa Nhơn dân trung hoa, Bắc kinh bắt đầu bằng cách tỏ ra mình là một cường quốc hào phóng, có một hệ thống quyền lực vượt trội hơn những chế độ dân chủ tây phương, có khả năng đem lại sự tăng trưởng và sự ổn định .
Tàu sẵn sàng mời những nhà lãnh đạo chánh trị các nước tới tu nghiệp, đều được hậu đãi, thanh niên uu tú, ký giả, tới làm việc, tu nghiệp, được thù lao rộng rãi . Đồng thời, họ còn tài trợ cho hàng ngàn trung tâm nghiên cúu (think tank) trên thế giới . Hiện tại, Tàu có 350 000 sinh viên học ở Huê kỳ và 35 000 ở Pháp, số tiền sinh viên đóng cho các Đại học sẽ có khả năng làm cho các Đại học ấy phải bỏ những môn mà Xi Jinping không hài lòng .
Một người tàu nhìn Trung quốc
Dưới cái nhìn của thế giới, Tàu không còn là một thách thức mà là mối nguy đang thật sự hăm dọa an ninh thế giới, nhứt là đối với Tây Âu và những giá trị của nó. Thế mà trong lúc đó, Tàu khoe khoang sự phát triển của họ hoàn toàn hòa bình và nhứt là trong ADN của họ không có chứa mầm chiến tranh . Nhưng ngân sách quốc phòng của tàu tăng trưởng mau hơn sản lượng nội địa (PIB) .
«Một người tàu» nhìn Trung quốc, như nói trên đây, là nhà văn Dai Sijie hiện ở bên Tàu để vận động tài chánh thực hiện bộ phim của ông, đồng thời ông cũng cho ấn hành ở Paris quyển truyện nói về cuộc đời của Ông Nội của ông .
Trong cách mạng văn hóa, ông là cậu bé mươi tuổi và đã bị mọi người ghét, coi ông là người tội hình sự vì có ông nội là mục sư tin lành. Năm 1949, khi cộng sản chiếm trọn nước tàu, ông nội của ông làm mục sư đang điều hành một cô nhi viện. Đó là trọng tội.
Sau năm 2011, Dai biến mất khỏi Pháp . Ông trở về Tàu nơi ông mô tả như một nước dễ thương một cách trung bình. Nhận xét nổi bật của ông là ở Tàu có lối «1% những người sống không sống chỉ vì tiền. Ngày nay, tiền trở thành cái đạo của người tàu . Ông thấy một tỷ người tàu thay đổi: trước kia, mọi người đều là cách mạng và ông đã sống trong xấu hổ vì ông thuộc gia đình một mục sư trong lúc những người khác thuộc gia đình thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, …Nhưng ngày nay, nếu ai không kiếm được tiền mới là người đáng lấy làm xấu hổ».Thật ra đây là giá trị qui chiếu chung của các chế độ cộng sản .
Ở Tàu, Dai có thể chạy ra tiền để làm phim nhưng ông không thể xin được giấy phép để in và phổ biến những tác phẩm của ông ở đó. Từ nhỏ đã mang đức tin thiên chúa giáo, ông cứ nghị tới đời sống của Christ và ông nội của ông, người giúp đở rất nhiều cho người nghèo khổ và bản thân cũng bị đau khổ nhiều. Vậy phải chăng cái đau khổ là hai điều song song với nhau ở hai người? Ông nhớ lại cảnh bị đấu tố, người trong gia đình tố nhau với Hồng Vệ binh, …Ông nhớ lại cha mẹ của ông, nguyên là y sĩ, bị cách mạng giam ở một nơi khác. Cảnh tịch thâu nhà cửa, của cải, khám xét, vô cùng khủng khiếp.
Một hôm vừa đi học về, Dai nghe những tiếng hò hét lớn, sỉ vả ông nội của ông là một tên nô lệ Tây phương, tên phản quốc, một tên gián điệp. Ông còn nhớ ông nội của ông quì trên một bục cao, rồi có một Hồng Vệ binh đá ông nội của ông té nhào xuống đất. Ông ngất liệm đi như chết. Mọi người chỉ đứng nhìn, không ai tới giúp đỡ. Rồi bỏ đi.
Cơn ác mộng hết sau khi Mao chết. Ngày nay, ở Tàu, Dai nhận thấy một điều lạ, không biết có phải là sự nghiệp của Mao để lại hay không, đó là ở Tàu có cả 100 triệu người thiên chúa giáo. Không phải như ở Pháp, mà đó là những giáo dân thuần thành, thật sự hành đạo, sống đời sống đạo nghiêm túc.
Trước kia, dưới thời Mao, ông nội của Dai câu nguyện, đọc kinh, phải núp trong bớng tối vì không dám đốt đèn. Ngày nay, tín đồ đi nhà thờ, nhà nguyện. Nhưng vẫn còn điều bị chế độ, tuy không còn Mao, cấm kỵ, đó là không được phép truyền đạo.
Dai không xin được phép in sách của ông ở Tàu vì sách viết bằng tiếng tàu và trong sách, nhắc lại ông nội là một mục sư . Như vậy là phạm tội tuyên truyên tôn giáo.
Truyện của Dai đem thực hiện phim . Nhờ nhiều bạn bè làm điện ảnh, tài tử nổi tiếng vận động xin phép . Việc xin phép có thể được chấp thuận nhưng với điều kiện nhơn vật là mục sư phải thay đổi, như làm giáo viên, cán bộ, đảng viên…
Ngày nay, nước tàu phát triển, là cường quốc thừ nhì của thế giới . Dân tàu đông đảo đi ra nước ngoài . Nhưng những thứ cộng sản đặc sệt vẫn còn nguyên và ở khắp nơi . Đó là tổ chức và quyền lực . Người ta thât sự không ai nói tới «độc tài» nhưng mọi thứ quyền lực đều nằm trong tay của một đảng duy nhứt đang cầm quyền .
Mọi người ai cũng đều có thể làm giàu nhưng, với điều kiện phải được đảng cộng sản ok . Mọi người đều có thể làm chuyện mình muốn, nhưng trước hết phải chờ đảng quyết định . Trong những xí nghiệp tư, phải có những đơn vị đảng dòm ngó giùm .
Tàu là nước tư bản nhưng đảng cộng sản mạnh hơn, nó kiểm soát tất cả, cả tư tưởng, cả mọi phản ứng tâm lý của dân.
Tuy nhiên có những chuyện mà cái đảng cực mạnh đó không thể kiểm soát được, không can thiệp được, nó chịu bất lực, đó là bịnh hoạn, chết . Những người lãnh đạo đảng như Xi, như Lý, như …bịnh, chết, đảng cộng sản toàn quyền, triệt để, toàn diện, cũng chịu thua thôi .
Màn Kịch Đã Hạ - Tác giả Người Lính Già Oregon
Trong vở hài kịch nổi tiếng của Molière, Tartuffe ou l’hypocrite (1664), nhân vật chính, Tartuffe, là một gã vô lại, cơ hội chủ nghĩa, được Orgon, thuộc giới trung lưu (bourgeois), rước về nhà với sự chấp thuận của bà mẹ mộ đạo cuồng tín, Mme Pernelle, và hai mẹ con xem gã như một thánh sống. Trong khi, ngược lại, cả gia đình, từ Elmire, vợ kế của ông, đến Damis, con trai, đến Mariane, con gái, đến người anh vợ, đến cô người làm trực tính, trực ngôn, đều khinh ghét gã. Orgon, mỗi lần đi đâu về, đều ân cần vấn an Tartuffe trước tiên. Và dự tính gả Mariane cho gã, mặc dù cô đã có người yêu, là Valère. Trước mọi người, Tartuffe có thái độ khiêm cung, nói năng nhỏ nhẹ, dáng vẻ nghiêm trang, miệng lúc nào cũng kêu tên Chúa. Một hôm, có dịp gặp riêng Elmire, gã thả lời ong bướm. Từ phòng bên, Damis nghe được, liền báo cho bố biết, nhưng Tartuffe chối bay chối biến và tố ngược Damis vu khống, khiến Orgon, vì quá mê gã, bèn từ con, đuổi đi, và viết giấy tặng hết nhà cửa, tài sản cho gã. Còn Elmire giả vờ nói với gã, sẽ không tiết lộ việc này nếu gã chịu từ bỏ Mariane để cho cô lấy Valère. Rồi bày mưu, hẹn gặp Tartuffe tại phòng, làm như muốn đáp lại tình yêu của gã, nhưng trước đó, đã sắp xếp cho Orgon núp dưới bàn, nghe hết. Orgon bèn nổi giận lôi đình, đuổi gã ra khỏi nhà, trong khi Mme Pernelle vẫn không tin. Nhưng Tartuffe lại đuổi ngược gia chủ, sau khi trưng ra đầy đủ giấy tờ. Vua biết được câu chuyện, ra lệnh bắt gã. Vở kịch kết thúc có hậu cho gia đình Orgon với tin loan báo đám cưới của Mariane với Valère.
I. Tartuffe trong bối cảnh Portland, Oregon:
Tôi kể sơ về nội dung vở hài kịch Pháp, thế kỷ XVII, của Molière, để nhắc đến một vở hài kịch tương tự, đương thời, mà nhân vật là người thế kỷ XXI, đang sống giữa Cộng đồng của chúng tôi, tức Portland, Oregon. Anh là một nhạc sĩ nổi tiếng, đối với người Việt tỵ nạn trên thế giới, mặc nhiên trở thành người của quần chúng (public figure), nhưng tôi tạm gọi “không tên”, cho có vẻ lập dị như những bài hát của anh. Từ lúc chưa thành phó tế, anh nhạc sĩ không tên này luôn cư xử với mọi người còn hơn một nhà tu hành thứ thiệt: lễ độ, tươi cười, nhã nhặn, dáng vẻ e ấp như cô dâu mới về nhà chồng, và nhũn như con chi chi. Một lần, trong bữa ăn tại nhà một người bạn tôi, vốn mê những bài không tên, anh nhạc sĩ tuyên bố rằng anh đã có lời hứa với Chúa là sẽ không bao giờ hát và làm nhạc đời nữa. Liền sau đó, anh cầm đàn, hát một bài sặc mùi đạo, mà anh nói mới sáng tác. Tôi quên tựa đề, nhưng nhớ mang máng nội dung, đầy tính tượng trưng: một người leo lên dốc đá cheo leo, trượt chân ngã xuống mấy bận, cuối cùng cũng thành công, nhờ Chúa giơ tay dắt lên. Và kết thúc là một coda cao vút, ngân vang như tiếng kinh cầu, ai nghe cũng cảm động.
Nhiều lần, trước đây, bạn bè, người quen, và đồng hương Portland, Công giáo hay không, vốn dị ứng với anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này, cho anh là một tên đạo đức giả thật. Biết tôi là con chiên trong giáo xứ Mỹ mà anh đang phục vụ, họ đã mớm ý cho, và thúc giục, tôi viết một bài tố anh ta về ba tội: làm ăng-ten trong trại tù cải tạo, làm thầy sáu mà không thuộc giáo lý, lợi dụng tiền bá tánh để làm giàu cá nhân… Tôi từ chối, bác bỏ những lời buộc tội mà tôi cho hoặc quá cũ, hoặc thiếu bằng chứng cụ thể, hoặc không đủ thuyết phục. Và qua đó, vô tình đóng vai luật sư bào chữa cho anh ta –điều mà anh chưa hề biết. Như sau:
A. Làm ăng ten trong tù?
Tôi nói với họ rằng tôi cũng đã ở tù tám năm ngoài Bắc, nhưng không chung trại, chung đội với anh ta, nên không chứng kiến tận mắt, và bởi vậy, không dám lên tiếng bàn bạc về điều gì mình không rõ, không thấy, mặc dù đã đọc nhức mắt nhiều bài viết ký tên tác giả đường hoàng, và nghe rát tai những tin đồn nặc danh, nửa thực nửa hư, thuộc loại tabloids, rất tiêu cực về anh. Tuy nhiên, tôi thắc mắc, về từ ngữ, khi các tác giả, độc giả, và tù nhân cải tạo gọi anh là ăng-ten, không biết có đúng (lắm) không. Bởi một lý do đơn giản: hệ thống ăng-ten trong tù được bố trí ngầm –không, hoặc khó, có ai phát giác được, và làm sao?– và đôi khi ăng-ten chính là thằng bạn tù tử tế, hiền như ma sơ, nằm cạnh bên. Thông thường, bọn ăng-ten được giao phó nhiệm vụ theo dõi và báo cáo, một cách bí mật, cho cán bộ trại về những hành động, và tư tưởng, của đồng đội, đặc biệt âm mưu trốn trại –là điều mà bọn cai tù lo sợ nhất. Nhưng để lập công, chúng báo cáo, hoặc bịa ra, đủ thứ chuyện, thượng vàng hạ cám, kể cả thở dài trong đêm, ngủ gật trong giờ “học tập”, hay lén hôn vợ trong nhà thăm nuôi v.v...
Riêng anh nhạc sĩ, qua lời của nhiều nhân chứng, có thời gian được cử làm thi đua, và đội trưởng một đội, với nhiệm vụ báo cáo một cách công khai, hợp pháp, về người và việc trong trại, trong đội, và mặc tình hành hạ đồng tù. Tôi nghĩ, đã là công khai thì không còn bị gọi ăng-ten nữa. Phải chăng vì hành động hắc ám, muốn lấy điểm với cai tù, mà anh đã bị những nạn nhân và nhân chứng quen miệng gán cho cái nickname ăng-ten, là danh xưng nặng nề và bỉ ổi nhất, mặc dù về hậu quả, tội làm ăng-ten hay làm đội trưởng, mà ác ôn, cũng ngang nhau, bên tám lạng bên nửa cân? Hoặc giả, có thể ở trại này, anh ta làm ăng-ten, ở trại nọ, làm đội trưởng ác ôn? Hoặc có thể ở cùng một trại, có lúc anh làm đội trưởng ác ôn, có lúc làm ăng-ten, cho nên lẫn lộn về chữ dùng chăng?
B. Làm thầy sáu dỏm?
1) Năm 1992, tôi đang nghỉ hè ở San José. Anh nhạc sĩ không tên, lúc ấy mới qua Mỹ, dự định tổ chức buổi tái ngộ với những fans của mình trong một hội trường gần đó và anh ta bị một số cựu quân nhân cảnh cáo, tẩy chay, và dọa hành hung, và cửa hội trường bị họ chận, cấm không cho ai vào dự, bởi bất mãn với thành tích “ăng-ten” của anh. Cho nên, tôi biết rất rõ. Anh bèn chạy lên Portland, để tỵ nạn. Tại đây, theo tin đồn miệng, hay phổ biến trên Mạng, nhưng không ai dám xác nhận: đầu tiên, anh ta vô chùa xin quy y. Bị chùa từ chối, anh bèn nhảy sang nhà thờ Tin Lành. Bị từ chối nữa, anh chưa biết đi đâu, thì bất ngờ được tiến cử lên LM chánh xứ La Vang bởi những người thân cận của ông. Biết anh là nhạc sĩ nổi tiếng, LM chánh xứ nhận ngay, cho vào ca đoàn và sau giữ chức “sứ vụ tông đồ mục vụ” (?), nhưng anh rất mù mờ về giáo lý, khiến giáo dân bàn tán, khó chịu. Về sau, không biết bằng cách nào, anh thuyết phục được ông LM chấp thuận cho học làm thầy sáu, mà không qua thủ tục bắt buộc cho tất cả ứng viên phó tế khác: phải đi học lấy bằng MA về Thần học (theology) tại University of Portland. Vì kém Anh văn, lại không có BA ở Mỹ, anh được Tòa Tổng Giám Mục Portland –thời đó, còn quá dễ dãi– châm chước cho tham dự các lớp Kinh Thánh căn bản do giáo phận tổ chức và học thần học “hàm thụ” tại chỗ với một LM trẻ, đệ tử của LM chánh xứ, và với sự giúp đỡ làm homework của một giáo viên dạy giáo lý tại La Vang. Năm 2001, anh được phong chức phó tế. Theo thiển ý, anh làm thầy sáu ngang, tức là tắt, cũng như làm quan tắt, chứ không phải làm thầy sáu chui hay dỏm, như dư luận dị nghị. Lúc ấy, LM chánh xứ đã đổi đi và một LM khác lên thay, và với ý kiến của giáo dân, ông cha xứ mới này từ chối, không nhận anh về giáo xứ La Vang, mặc dù đang rất cần một phó tế người Việt.
2) Rồi thầy sáu Việt Nam này được Tòa Tổng Giám Mục Portland bổ nhiệm về phục vụ một giáo xứ Mỹ, từ 2001 cho đến hôm nay.
a. Trong buổi lễ chiều Chúa Nhật, có tôi, anh được cha xứ Mỹ mời đứng lên tự giới thiệu, trước giáo dân Mỹ và thiểu số, gồm khá đông người Mễ, Phi, Nga… và lèo tèo vài bổn đạo Việt Nam. Vì thế, anh tha hồ bốc phét, khiếp quá, tuy không ác liệt như kho đạn Long Bình, hoặc văng miểng tới mây xanh như vài vị thuộc hàng cự phách trong Làng Nổ Oregon, về thân thế và lý lịch. Anh ta nói, và tôi còn nhớ rõ, tuy là một Trung úy Phật tử, nhưng anh đã có ơn gọi đi tu theo Công giáo, từ lúc còn ở Việt Nam trước 1975, sau khi một cô bạn gái dạy anh học kinh Kính Mừng, và đi đánh trận [hồi nào?], nhờ đọc kinh Kính Mừng, anh đã nhiều lần thoát chết, và sau 1975, trong tù VC, cũng nhờ đọc kinh ấy, anh đã khỏi bệnh mất ngủ [sic]. Nào là qua Mỹ, bị bệnh gần chết, anh đã nhờ Chúa và Đức Mẹ Maria cứu khỏi. Nào là anh có bằng Cử Nhân Luật ở VN, đặt nhạc trữ tình, nhưng, anh thêm, với thiên chức thầy sáu, từ nay anh sẽ quên đi “quá khứ sai lầm” đó. Nào là, động trời hơn, chức vụ cuối cùng của anh, trước ngày Sài Gòn sụp đổ, là chỉ huy Bộ Thông Tin của chính phủ Miền Nam và dùng chữ minister –bởi, tôi tự hỏi, anh cố tình nổ sảng hay không hiểu chữ đó có nghĩa “bộ trưởng”? Nào là anh bị giam nhiều năm tại những trại tù khắc nghiệt của VC, và ở đó được bạn bè rửa tội cho… Giáo dân Mỹ tò mò lắng nghe, không phản ứng, một phần vì lịch sự, một phần vì không ở trong chăn nên anh nói hươu nói vượn gì cũng tin tuốt luốt, một phần vì chỉ hiểu lõm bõm, cũng như tôi, tiếng Anh đầy accent An Nam Mít của anh.
b. Trung bình mỗi tháng, anh đến nhà thờ một lần để phụ giúp cha xứ làm lễ, và mỗi lần, trước và sau lễ, thấy tôi, anh ta gật đầu chào, và ngược lại, nhưng không bắt tay nhau, bởi mặc cảm từ cả hai phía. Tiếp xúc với anh, tôi cảm thấy khó thoải mái, nếu không muốn nói khó chịu, vì cử chỉ và lời ăn tiếng nói, khiêm nhường, hay nhún nhường quá đáng, của anh, có cái vẻ gì đó không thật, nếu không muốn nói giả tạo, làm tôi nghĩ đến vở kịch và nhân vật của Molière. Càng khó chịu hơn khi, sau này, nghe tin về một phép lạ, được ai đó đồn ầm trên báo và Mạng Việt Nam, đã xảy ra cho cặp kính mát của anh, nghĩa là giơ nó lên ánh mặt trời người ta thấy có hình Đức Mẹ hiện ra rõ ràng. Phép lạ nhảm nhí, lố bịch đó, ít lâu sau, không còn được ai nhắc nữa, nhưng nhiều người vẫn nhớ, để kể lại với ít nhiều châm biếm, mỉa mai.
C. Làm giàu từ những hoạt động từ thiện?
Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha chánh xứ cho anh thời gian rộng rãi để lo cho Hội Từ Thiện, mà anh sáng lập năm 2005, và quảng cáo rầm rộ trong một flyer (đính kèm).
Phải công nhận anh điều hành Hội một cách khoa học và qui mô, gồm cả việc bán điện thoại V247 và dược thảo chữa bách bệnh (trong đó có thuốc “tăng cường hạnh phúc gia đình”) và đã kiếm được tiền một cách hợp pháp, ít ra theo giấy tờ và báo cáo. Được tờ The Sentinel của Giáo phận và cha xứ nhiệt liệt ca ngợi, và anh mặc nhiên trở thành thầy sáu cưng của Tòa Giám Mục Portland. Thậm chí, cũng năm ngoái, 2016, cha xứ đã đi Manila, Philippines làm từ thiện, cùng với anh ta.
Có một điều làm đồng hương chê bai: thành công như thế, nhưng anh không bao giờ tham gia sinh hoạt Cộng Đồng, không đóng góp tài năng hay tài chánh cho Cộng Đồng khi cần. Nhưng sau hai mươi năm, vẫn né, vẫn núp dưới chiếc veste đen và cổ cồn trắng, và những ngày Chúa Nhật, dưới lễ phục –được sử dụng như một áo giáp vững chắc. Và rất tự tin, tưởng rằng người ta đã quên.
Nhưng người ta vẫn nhớ. Tôi thành thật nói với những kẻ còn căm ghét anh rằng, dù có tội gì chăng nữa, anh đã cải tà qui chánh và chọn con đường tu rồi thì hãy cho anh ta một cơ hội làm lại cuộc đời. Bằng cách để yên cho anh tu hành, leave him alone, như người Mỹ thường nói. Và tôi im lặng. Kiên nhẫn chờ đợi, và cầu mong, một ngày anh sớm thành “chánh quả”.
II. Áo gấm về làng:
Đùng một cái, có tin anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này trở về Việt Nam làm một tua ra mắt và bán sách (Chuyện tình không tên) viết kể lại chuyện tình “hàm thụ” ngày xưa một cách vô duyên, lẩm cẩm, vớ vẩn (đối với một người trên bảy bó, quá tuổi hồi xuân, nếu không vớ vẩn, lẩm cẩm, vô duyên thì còn là cái gì?), đồng thời tổ chức hát những bài không tên cũ rích, cùng với những ca sĩ hải ngoại cóc nhái, vô liêm sỉ, mùa chay nào cũng có nước mắt, cộng với vài ca sĩ lô-can quốc nội, suốt tháng 8 này, tại Hà Nội, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, và Sài Gòn. Tin được tung ra, chuyền đi nhanh như tên bắn, làm mọi người sửng sốt, thất vọng, nhưng không ngạc nhiên, vì bản chất là bản chất, ở đây, giả dối, và, như VC nói, không bao giờ thay đổi. Đối với anh ta, vấn đề chỉ là thời gian cho vở kịch bịp bợm, có lớp lang, dài đến hai mươi năm, hạ màn, trót lọt.
Hôm nay, tôi không còn chọn lựa, vì anh nhạc sĩ kiêm phó tế này đã vượt qua lằn ranh đỏ (red line). Nhìn những bức ảnh của anh chụp ngày 28/7 tại phi trường Nội Bài, và phổ biến tràn ngập trên Mạng, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, hớn hở, khác xa hồi mới đến Portland, vào đầu thập niên 90, còn lẻ loi, lêu bêu, bèo nhèo, và cười nói tươi rói với các ca sĩ địa phương, bạn bè và thân nhân ra đón, tặng hoa, níu lấy tay, khiến những người tỵ nạn chống VC và các cựu tù binh cải tạo hiện ở hải ngoại không khỏi thấy ngứa mắt và ứa gan.
Mặt nạ rơi xuống, anh ta hiện nguyên hình một Tartuffe bằng xương bằng thịt đã đóng vai trò của mình quá xuất sắc, và bây giờ, cụ thể hơn, đã trở thành một công cụ ngu ngốc, nhưng hãnh diện, của VC, trong việc thực thi Nghị quyết 36, cũng như hơn bốn mươi năm trước, tại các trại tù, trong việc đối xử ác độc với các sĩ quan VNCH đồng đội của anh. Vì sao?
1) Thời điểm trở về (tự nguyện, hay được VC mời dụ?) của anh rất phù hợp với “ý đồ” và kế hoạch thâm độc của VC và tình thế hiện tại trong nước. Xin nhắc, tháng 8 là tháng VC kỷ niệm Hà Nội khởi nghĩa (19/8/1945), còn gọi là “Cánh mạng tháng 8”. Không phải bởi trùng hợp, ngẫu nhiên, hay tự phát, mà có đến hơn hai trăm người dân (ở không, rảnh quá sao?), được gọi là fans, đội mưa hàng giờ để đón nhạc sĩ thần tượng, tại phi trường, theo tin báo chí quốc nội –một vinh dự hãn hữu mà từ trước đến nay, không có Việt Kiều nào được nhận lãnh… VC là một lũ lưu manh, xảo quyệt, biết tận dụng mọi thủ đoạn. Khi cần đàn áp biểu tình, hay đập phá nhà thờ, tu viện, chúng điều động hàng trăm côn đồ, thay vì công an, và tuyên bố đó là “hành động tự phát” của nhân dân. Làm sao có một “hành động tự phát” nào dưới chế độ độc tài, đảng trị hiện nay, mà không được bọn lãnh đạo cho phép, sắp xếp, cổ võ, hoặc ngược lại, mà không bị ngăn chận, trừng phạt, đàn áp dã man?
Vai trò của anh này rất cần thiết cho VC trong giai đoạn và bối cảnh hiện tại bởi anh ta là một phó tế Công giáo và một nhạc sĩ nổi danh. Nhất cử lưỡng tiện. Như sau:
a. Về mặt nổi, anh ta trở về trong tư cách nghệ sĩ trình diễn, được nhiều người hâm mộ tiếp đón –theo dàn dựng của VC, là chuyện thường tình đối với công luận. Ngoài ra, VC ngu gì mà không biết anh là cựu sĩ quan bị tù cải tạo nổi tiếng, nhưng vẫn cho phép về trình diễn, mà không qua thủ tục kiểm duyệt khắt khe, cấm cản gì ráo, không bắt “cởi quần áo khám nghiệm” như những ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại khác (nghĩa bóng) về nước trình diễn, hay những cô gái quê (nghĩa đen) muốn lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, kể cả những thằng ngưòi nửa điên nửa khùng, đui què sứt mẻ. Qua việc dành mọi ưu đãi cho anh nhạc sĩ này, phải chăng chúng muốn tuyên truyền, một lần nữa, chính sách “hòa hợp hòa giải”, “xóa bỏ hận thù” bịp bợm, mà chúng đã khổ công khua chiêng gõ mõ ầm ỉ, nhưng vẫn thất bại, suốt bao năm qua?
b. Về mặt chìm, là phó tế, anh bị dùng như một đối trọng (contrepoids) với những vị linh mục và giáo dân dũng cảm trong nước, từ mấy tháng nay, đã và đang ngày đêm xuống đường biểu tình chống tập đoàn Formosa và bọn lãnh đạo tham nhũng bán nước cầu vinh, cũng như, ở hải ngoại, chúng đang sử dụng những linh mục trẻ, quốc doanh, bố lếu bố láo, hay giả mạo, tại Texas, Florida hay Connecticut –đã lợi dụng bục giảng để công khai tuyên bố những lời mất dạy về VNCH và Ngày Quốc Hận 30/4. Cho phép một nhà tu hành Công giáo, dù chỉ là phó tế, chức nhỏ nhất trong hàng giáo phẩm, về nước ca hát, VC muốn chứng tỏ cho cả thế giới thấy rằng chúng không kỳ thị tôn giáo, và qua đó, và cùng với sự im lặng của Hội đồng Giám mục Việt Nam, chúng có thêm đồng minh và phương tiện để tiêu diệt một cách tinh vi và mạnh mẽ hơn những linh mục và giáo dân đang biểu tình phản kháng chúng. Đã không ủng hộ họ thì chớ, mà vô tình (hay nhận lệnh) anh thầy tu tắt này cũng không nhiều thì ít đã đồng lõa, tiếp tay triệt tiêu sự chiến đấu đầy chính nghĩa của họ, trước công luận?
2) Ngoài ra, khi về VN trình diễn nhạc đời, mà là nhạc tình sa đọa, đương nhiên anh ta đã tự lột bỏ chức thánh cao quý và chiếc áo tu hành mà anh, một Xuân Tóc Đỏ mới, đã may mắn vớ được –đã tạm thời che chở anh trước cơn thịnh nộ của những đồng hương tỵ nạn và các sĩ quan tù nhân cải tạo, một thời là nạn nhân trực tiếp, hay gián tiếp, của anh.
Thêm nữa, phải chăng vì chóa mắt trước danh và lợi, và lòng trần chưa dứt bỏ được tham sân si, anh ta đã vi phạm trầm trọng lời thề hứa, với Chúa, mà trong vai trò Tartuffe, anh thường lớn tiếng rêu rao, khi có dịp, là từ bỏ những bài trữ tình, dù có tên hay không tên, của anh?
Nhân tiện, NLGO tôi, trong tư cách một khách thưởng ngoạn, xin có lời bàn nhỏ về những bài không tên: nhạc thì ủy mị, rên siết, sướt mướt, nghĩa là tầm thường, và nội dung bài nào, nhất là bài không tên cuối cùng, cũng xúi giục người đàn bà có chồng ngoại tình, trong tư tưởng, với thằng bồ cũ rất bựa, rất nham nhở, rất cà chớn và rất độc ác đã công khai khoe khoang thành tích chơi gái, không biết giữ gìn thanh danh, bảo vệ hạnh phúc gia đình cho người đã (lỡ dại) trao thân cho nó. Tôi thực tình không hiểu nổi, về mặt nghệ thuật, và nhất là đạo đức, não trạng nào đã khiến người ta, ở hải ngoại hay trong nước, có thể mê mẩn những bài hát có nội dung vô luân đến thế, đến nỗi phải tiến cử anh ta học làm thầy sáu, hoặc phải đứng hàng giờ dưới mưa, chờ đón anh ta trở về nước, hoặc phải tranh nhau để được hát chung trong cuộc lưu diễn này. Trước 1975, chẳng hạn, một con bé hàng xóm của tôi, mới mười tuổi, thường nghêu ngao hát những câu, “mưa bên chồng có làm em khóc… có làm em nhớ những khi mình mặn nồng…”. Đúng là bệnh hoạn!
Tôi nghĩ rằng Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha xứ họ đạo Mỹ chưa biết mục đích thật sự về VN lần này của anh. Nhưng tôi tin rồi họ cũng sẽ biết, kể cả việc làm “ăng-ten”, bức hại đồng đội trong tù, và việc rửa tội chui, còn là một nghi vấn đối với nhiều người. Vì tôi tin vào công lý tuyệt đối của Thiên Chúa, hay luật nhân quả (karma) trong đời thường. Còn anh dại gì mà khai thật. Họ cứ tưởng anh về VN lần này, cũng như mọi lần trước (và chắc chắn đã được nêu lên trong đơn xin phép của anh), là để làm từ thiện.
III. Thay cho lời kết:
Có lẽ sau bài viết này, tôi sẽ phải đi lễ tại một nhà thờ khác trong khu vực. Lý do duy nhất là để tránh nhìn thấy bộ mặt tởm lợm của một kẻ mà từ nay sẽ tiếp tục là chỗ trú ẩn an toàn cho sự lừa bịp và gian dối hóa thân. Một Tartuffe thời đại, mà những hành vi vừa qua tại Việt Nam có hậu quả rất khốc hại và lâu dài trên cả nước –còn tồi tệ hơn chính nhân vật đạo đức giả trong vở kịch của Molière.
Từ làm "antenne" đến "đi tu" !
Nhạc sĩ Vũ Thành An đang ở Việt Nam để ra mắt một số dự án không chỉ trong âm nhạc. Bên cạnh album và liveshow Giai nhân 13/4 tại Hà Nội (với các giọng hát Tuấn Ngọc, Bảo Yến, Thái Hiền…) ông còn cắt băng khánh thành mái ấm cho trẻ mồ côi ở Bình Phước.
Giảng đạo bằng nhạc
Đang là một nhạc sĩ tên tuổi, sao ông có thể ngừng viết nhạc trong hơn 20 năm?
Được biết trong khoảng thời gian đó, ông vẫn sáng tác cho nhà thờ?
Tôi phục vụ cho một giáo xứ Mỹ. Tôi soạn những câu hát ngắn bằng tiếng Mỹ. Sau khi tôi giảng, tôi hát cho người ta nghe, tôi thấy người ta thích lắm.
Ở cương vị phó tế, ông còn làm những gì?
Tôi phụ cho ông cha. Trong các buổi lễ, khi thì ông cha giảng, khi thì tôi giảng bài cỡ 10-12 phút. Khi tôi giảng căn cứ theo lời của Chúa bằng tiếng Mỹ, tôi rất ngạc nhiên - tại sao mình là anh Á châu, mình phải nói có một cái mặc cảm cho đến khi lớn lên của người dân nhược tiểu, đối với mình dân da trắng bao nhiêu ưu việt (superior), nhưng khi mình đứng lên giảng họ lại nghe, họ phục mình. Cái đó tôi thấy diệu kỳ. Nó như một cái gì mình không nhìn thấy nhưng nó có thật. Nó như cái quyền năng (power) của người đứng giảng trên bục, lúc bấy giờ không phải là mình. Tôi ngạc nhiên lắm. Khi chịu chức, được đặt tay để phong chức, coi như mình có cái ơn Chúa Thánh Thần, tự nhiên con người nó khác, nó có cái quyền năng lạ lắm.
Hình như không nhiều vị đi tu xong lại hoàn tục như ông?
Không phải tôi hoàn tục. Tôi trở lại sinh hoạt trong cuộc đời, đi làm những công việc như thế này đối với tôi là đi làm sứ vụ. Tôi gọi là sứ vụ thương yêu, đem tình thương yêu đến với mọi người. Khi tôi đi làm như thế này không có nghĩa là tôi tìm danh vọng cho riêng tôi, mà tôi muốn đem tình thương, sự an ủi đến cho mọi người. Họ gặp tôi, họ vui. Như thế là tôi đạt được mục đích. Chứ không phải tôi đi kiếm tiền. Tiền để làm những điều mình muốn, chứ không phải để tích trữ.
Từ thời còn đang sáng tác dồi dào những bản tình ca và nổi tiếng, ông đã có ý định đi tu?
Phải nói cái đó nằm trong tâm thức của mình rồi. Không phải là định đi tu nhưng lúc bấy giờ tôi cũng muốn đi tìm cái lý lẽ của cuộc đời này. Nhìn lại tuổi trẻ của tôi, tôi đọc rất nhiều sách về tâm linh, tôn giáo… Tôi không đi sâu lắm, nhưng đọc hết đạo Phật, đạo Lão, cũng như tất cả các tư tưởng triết học Đông Tây. Để tìm trong đó con đường tâm linh của mình. Rồi cuối cùng tôi mới chọn con đường tôi đang đi đây là Công giáo để phục vụ.
Hiệp nhất trong tâm hồn dân tộc
Sáng tác của ông vẫn thường xuyên được hát ở hải ngoại nhưng gần đây mới chính thức được ca sĩ trong nước hát. Cảm giác của ông thế nào?
Tôi ngạc nhiên tại sao những thế hệ này có thể thích những bài tôi sáng tác từ khi họ còn chưa sinh ra. Trong mỗi con người dù sinh ra trong thời đại nào cũng là tâm hồn đó thôi. Nhất là tâm hồn Việt Nam mới hiểu được nhạc của Việt Nam.
Trong khi đó những nhạc Việt Nam của mình, trong đó có nhạc của tôi, mặc dù mình sang hải ngoại mấy chục năm rồi cũng không đi vào được hệ thống của Mỹ, vì tâm hồn của họ khác. Nó làm sao mình cũng không hiểu. Chẳng hạn những chương trình của Thúy Nga Paris làm rất hoành tráng, đầy đủ kỹ thuật nhưng không vô được dòng chính (main stream). Thành ra mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng, dù sinh trước hay sinh sau.
Chẳng qua mác của mình là người Việt, cũng nhạc đấy mà đứng tên người Mỹ, chắc việc hòa nhập là bình thường, thưa ông?
Khi làm mấy bài đó mình không nghĩ nó sẽ sống lâu như vậy, nhất là thế hệ này phải nói ở một xã hội hoàn toàn khác, cuối cùng rồi cũng đi về một hướng. Các cháu sinh sau thống nhất ở trong một nền giáo dục khác với nền giáo dục của tôi, cuối cùng lại hiệp nhất được. Cái đó là điều mình thấy vui. Nó là một sự hiệp nhất trong máu thịt, tư tưởng của mình, cho dù anh có được giáo dục ra sao đi chăng nữa.
Sinh ra ở miền Bắc hay miền Nam, thế hệ này, thế hệ kia cũng là người Việt Nam. Do đó những bạn sinh ra sau này mới có thể quý dòng nhạc sáng tác tại miền Nam cách đây mấy chục năm. Đó là sự nối kết, hiệp nhất vô hình nhưng rất bền chặt.
Khổ vì tình
Điều gì đã thôi thúc ông sửa hẳn tinh thần Bài không tên cuối cùng thành Bài không tên cuối cùng tiếp nối? Ông có nghĩ việc làm lời mới ảnh hưởng đến cảm xúc của khán giả về bài hát đã quá nổi tiếng kia?
Không phải sửa, mà là câu chuyện chấm dứt ở đó, nhưng rồi lại tiếp nối. Giống như phim có Bố Già 1, rồi lại Bố Già 2… Tôi viết Bài không tên cuối cùng năm 1965, năm 1991 viết lời thứ hai. 25 năm sau nhìn lại cuộc tình đầu để mình viết tình cảm của mình về chuyện tình đó.
Cái ý chính là thế này, Bài không tên cuối cùng tôi viết: "Con đường em đi đó đúng hay sao em/ Mưa bên chồng có làm em khóc/ Có làm em nhớ những khi mình mặn nồng…" Thì cũng hay nhưng nó lại hại cho người đó. Tự nhiên người ta cứ đi chỗ này chỗ kia hát như vậy thì đương nhiên sẽ ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình của cô đó. Ông chồng đó cứ nghe cái đó là nổi nóng lên.
Đấy là thật hay do ông tự nghĩ thế?
Tôi nghĩ là như vậy. Cho nên tôi hối hận là đã viết câu đó. Nhất là trong thời gian tôi cải tạo từ 1975 cho đến 1985. Nhưng đến khi tôi được ra, được tự do nói lại, thì tôi nói thêm một cái lời như lời xin lỗi cùng người bạn đó: "Này em hỡi còn đường em đi đó/ Con đường em theo đó đúng đấy em ơi/ Nếu chúng mình có thành đôi lứa/ Chắc gì ta đã thoát ra đời khổ đau…"
Ý tôi muốn nói, nếu cuộc tình đó thành thì dĩ nhiên em phải chịu khổ với anh trong 10 năm bị cải tạo. Nhưng em không lấy anh cho nên em thoát khỏi cái đau khổ đó… Cô đó may. Chính đương sự trong câu chuyện đó không ở trong hoàn cảnh đó vì đã thoát khỏi Sài Gòn trước 1975. Thành ra gia đình của cô ấy không chịu sự đau khổ của những người như tôi. Nhưng nếu cô ấy lấy tôi là cô ấy tiêu rồi.
Ông có 50 Bài không tên hầu như đều nổi tiếng, phải chăng sau mỗi bài hát là một bóng hồng?
Không không, làm gì nhiều thế. Ước gì cũng được như vậy (cười). Có những bóng hồng có thể là từ em gái, từ những người bạn, những người xung quanh…
Khả năng viết nhạc, danh tiếng cộng với ngoại hình cao ráo, khi còn trẻ hẳn là ông… có rất nhiều cô vây quanh?
Cuộc đời của tôi khổ vì tình chứ. Mình thất tình. Tất cả là tôi thất tình không à. Là khi yêu mình không lượng sức. Mình đặt niềm tin vô quá cái sức của mình, nên là mình thất bại thôi. Nếu mình ở cấp này mà yêu người cấp trên này thì làm sao mà được. Xã hội thời đó không cho phép vậy.
Nhạc sĩ bây giờ thường là rất được hâm mộ kèm theo tiền bạc, còn thời ông?
Cũng có những nhạc sĩ giàu. Một bản nhạc cỡ hai tờ A4 in ra bán hai chục đồng thời ấy cũng to lắm. Có những bài mà họ bán cả trăm ngàn bàn. Nếu những bài mà trúng như "Em ơi nếu mộng không thành thì sao…" của Lam Phương, ông ấy có thể kiếm tiền triệu dễ dàng lắm. Mà hồi đó một lượng vàng tôi nhớ chỉ khoảng 500Đ.
Ông hẳn là cũng kiếm được nhiều tiền từ sáng tác vì nổi tiếng sớm?
Hồi đó tôi giao cho người khác in, thành ra cũng không biết là họ kiếm như thế nào. Mình không có phương tiện phổ biến. Khi mình in bán, mình còn phải có điều kiện để phát hành nó hay không.
Ông học nhạc như thế nào?
Tôi chỉ học cái căn bản rồi tự học. Khi mình sáng tác một ca khúc như thế này cũng không cần kiến thức nhiều lắm, chủ yếu là năng khiếu, cảm hứng trong lòng mình.
Vì sao hồi trẻ ông không nghĩ tới việc theo học nhạc chuyên nghiệp?
Hồi đó tôi lại dồn vào trong việc học chữ rồi kiếm địa vị trong xã hội hơn là đi làm một nhạc sĩ. Đối với tôi như vậy là đủ rồi.
Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019
Thứ Năm, 14 tháng 3, 2019
Mỹ chỉ trích: csvn hạn chế tự do trong giáo dục
Báo cáo nhân quyền hàng năm của Bộ ngoại giao Mỹ nói chính phủ Việt Nam "hạn chế tự do học thuật và các sự kiện văn hóa".
Ông Pompeo nói báo cáo năm nay của Mỹ đánh giá hành vi của khoảng 200 nước và vùng lãnh thổ.
Phần nói về Việt Nam vẫn gọi nước này là "nhà nước độc đoán", và rằng bầu cử quốc hội gần nhất năm 2016 "không tự do, chẳng công bằng, mặc dù có cạnh tranh hạn chế từ các ứng viên do Đảng Cộng sản duyệt".
Bộ ngoại giao Mỹ liệt kê các vấn đề nhân quyền Việt Nam như tra tấn, bắt giữ tùy tiện, giam giữ tù nhân chính trị, can thiệp quyền riêng tư…
'Thiếu tự do học thuật'
Trong phần nói về tự do học thuật, báo cáo của Mỹ nói các chuyên gia nước ngoài ở các đại học tại Việt Nam có thể tự do thảo luận chủ đề phi chính trị trong lớp.
Nhưng chính phủ tiếp tục cấm chỉ trích công khai chính sách của đảng và nhà nước, trong đó có chỉ trích của các tổ chức khoa học kỹ thuật, ngay cả khi chỉ trích "chỉ dành cho khán giả chuyên môn học thuật".
Báo cáo của Mỹ cũng nói chính phủ áp đặt ảnh hưởng lên cả triển lãm mỹ thuật, âm nhạc, hoạt động văn hóa bằng việc buộc các hoạt động phải có giấy phép.
Theo báo cáo, nhiều nhà hoạt động nói rằng công an dọa các lãnh đạo đại học nếu họ không đuổi học giới hoạt động.
Thứ Tư, 13 tháng 3, 2019
Thứ Ba, 12 tháng 3, 2019
Thứ Hai, 11 tháng 3, 2019
Nước mắm lại lội ngược dòng - Tác giả Mắc Lâm
Hơn hai năm trước, một văn bản của Vinastas (Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam) cho rằng105/150 mẫu nước mắm đóng chai của 88 nhãn hiệu do Vinastas lấy mẫu trên thị trường có chứa hàm lượng arsen tổng hợp (thạch tín) cao hơn mức cho phép. Tiếp theo sau là hàng loạt bài báo công kích nước mắm truyền thống và tuyên dương nước mắm công nghiệp. Báo Thanh Niên không ngần ngại bên cạnh bài viết về arsen đi quảng cáo nước mắm Chinsu và Nam Ngư có slogan: "phải ngon, nhưng trước hết phải an toàn".
Hơn hai năm sau, nước mắm truyền thống tiếp tục bị tấn công. Lần này rất bài bản, được che chắn kỹ lưỡng hơn trước và núp dưới hình thức “Tiêu chuẩn quốc gia” khi Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đưa ra dự thảo về quy phạm thực hành sản xuất nước mắm 2019 gọi là TCVN1260-2019.
Dự thảo này ngay lập tức bị phản ứng dữ dội không những của chính các nạn nhân của bản dự thảo là các cơ sở sản xuất nước mắm truyền thống mà đa số người dân biết chuyện đều cho rằng đây là hành vi nhằm triệt hạ nước mắm truyền thống bằng chi phí, bởi nếu dự thảo này được thông qua thì chi phí để thỏa mãn yêu cầu trong dự thảo sẽ nâng giá thành nước mắm truyền thống lên cao, và rõ ràng kẻ có lợi không ai khác hơn là các thương hiệu nước chấm công nghiệp.
Nếu như hơn hai năm trước Vinastas lập lờ thông tin arsen trong nước mắm truyền thống gây ung thư thì dự thảo TCVN1260-2019 đưa ra tiêu chuẩn histamin để làm chao đảo người tiêu dùng lẫn doanh nghiệp sản xuất nước mắm truyền thống. Histamin có đặc tính chịu nhiệt, thậm chí khi được nấu chín cũng không bị phá hủy, vì vậy, nếu cá biển có chứa lượng histamine cao vẫn không mất đi trong quá trình đun nấu. Độc tính của histamine phụ thuộc vào tổng lượng histamine ăn phải.
Mặc dù cho tới nay chưa có một phát hiện nào trong nước mắm có chứa hàm lượng histamine gây nguy hiểm cho người tiêu dùng nhưng bản dự thảo vẫn cố o ép doanh nghiệp sản xuất nước mắm truyền thống phải chứng minh trong khi ủ cá thì lượng histamine vẫn trong vòng kiểm soát. Đây là một thách thức cho người làm nước mắm và không ngoa khi nói rằng dự thảo đang làm khó hơn 2.800 doanh nghiệp vốn đã chịu mọi thứ lao đao.
Bản dự thảo đề nghị thay đổi tiêu chuẩn Codex để phù hợp với tiêu chuẩn chung của các nước và dựa vào đó khi trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên theo TS Nguyễn Thị Dung, một chuyên gia về nước mắm cho biết tiêu chuẩn Codex là của Thái Lan đặt ra cho nước mắm của họ, mà nước mắm Thái chỉ là nước mắm công nghiệp không ủ cá tươi làm nước mắm vì vậy tiêu chuẩn này chỉ phù hợp cho loại nước chấm có mùi vị giống như nước mắm nhưng hoàn toàn không có con cá nào được chế biến để hoàn thành sản phẩm.
Trong khi các nước có quyền ra tiêu chuẩn Codex cho riêng sản phẩm của mình thế thì tại sao bản dự thảo lại đề nghị lấy tiêu chuẩn của Thái để áp dụng vào Việt Nam?
Bản dự thảo cũng yêu cầu các thùng chứa nước mắm truyền thống phải có màu sáng. Tuy nhiên ai cũng biết các bể ủ nước mắm đều làm bằng xi măng, hay thùng gỗ, còn gọi là thùng liều làm sao có màu sáng được? Màu sáng như yêu cầu của bản dự thảo có hai mục đích, thứ nhất làm ra vẻ công nghiệp hiện đại, thứ hai nhằm làm kiệt quệ các cơ sở sản xuất nước mắm truyền thống vì nếu thay đổi toàn bộ các thùng chứa theo như yêu cầu thì các cơ sở này sẽ phá sản.
Dáng vẻ công nghiệp hiện đại sẽ giết chết hình ảnh truyền thống của một sản phẩm, bất cứ sản phẩm nào. Chẳng hạn như rượu vang, hàng trăm năm nay các hãng rượu danh tiếng thế giới không nổi tiếng vì hiện đại mà nổi tiếng về cách ủ rượu trong các thùng gỗ truyền thống. Nếu bị thay đổi chắc chắn các hãng rượu này sẽ phá sản vì tính cách duy mỹ của bản dự thảo.
Nếu nước mắm truyền thống bị ảnh hưởng thì các đại gia nước chấm công nghiệp không hề tổn hại một đồng nào vì đơn giản họ chỉ pha chế nước lạnh và hóa chất, được che đậy bằng mỹ tự phụ gia, để thành “nước mắm” nên không cần thùng để ủ trong vòng từ 6 tháng đến 1 năm để cho ra sản phẩm.
Từ hơn mười năm nay, nhiều nhà thùng ở Phú Quốc hay Phan Thiết đã xuất khẩu nước mắm truyền thống sang châu Âu, Mỹ, Nhật, Úc… là những thị trường khó tính, hàng rào kỹ thuật rất nghiêm ngặt song nước mắm Việt Nam chưa hề gặp phải bất cứ cảnh báo nào về an toàn thực phẩm, và chẳng ai yêu cầu Việt Nam phải thay đổi thùng liều có màu sáng mới cho bán nước mắm tại nước của họ.
Hiện nay có khoảng 2.800 cơ sở chế biến và doanh nghiệp chế biến nước mắm truyền thống. Nhìn vào các kệ hàng nước mắm trong các siêu thị là thấy sự đa dạng của các thương hiệu đã dày công vun xới cho sản phẩm của họ trong nhiều năm qua. An toàn thực phẩm chưa bao giờ liên quan đến nước mắm ngoại trừ chúng bị cáo gian như vụ Vinastas.
Bản dự thảo nếu được thông qua bất kể sự chống đối của các doanh nghiệp chế biến nước mắm truyền thống sẽ tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Thứ nhất, một ngành nghề truyền thống vốn không được nhà nước tạo cơ hội thăng tiến nay sẽ phá sản và biến mất trên thị trường thế giới. Thứ hai, chấp nhận thông qua dự thảo là chấp nhận hành vi tham nhũng chính sách của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, nơi phác thảo bản dự thảo có lợi cho các nhóm lợi ích núp bóng dưới các công ty sản xuất nước chấm công nghiệp. Thứ ba, người dân sẽ tẩy chay nước chấm công nghiệp để ủng hộ các thương hiệu nước mắm truyền thống mà họ đã dùng trong gia đình suốt bao năm qua, từ khi nước chấm công nghiệp chưa xuất hiện. Việc tẩy chay này sẽ gây ảnh hưởng tới nhiều người, nhiều công ty và nhà nước sẽ không có một chút lợi lộc gì. Thứ tư, kể từ nay hai chữ “truyền thống” sẽ trở thành khôi hài khi áp dụng vào bất cứ lãnh vực nào do sự vấy bẩn mà bản dự thảo đã cố tình bức tử hai chữ “truyền thống” đối với nước mắm Việt Nam.
Nhiều dấu hiệu cho thấy đang có vài cơ quan nhà nước dùng thẩm quyền của mình để đưa ra định nghĩa mập mờ ranh giới giữa nước mắm truyền thống với nước mắm pha chế. Cái được gọi là nước mắm công nghiệp chỉ là xảo ngôn của các công ty sản xuất vì trong đó không có “mắm” mà chỉ có nước mắm được mua từ các thùng liều mang về pha thêm nước, chất phụ gia rồi mang ra thị trường tiêu thụ.
Bênh vực và chủ mưu cho việc làm trái đạo đức này là các “chuyên gia” của các cơ quan “thẩm quyền.” Ông PGS-TS Trần Đáng, Chủ tịch Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế là một trong các thành phần này khi phát biểu trong một cuộc họp báo: "Anh dựa vào đâu mà phân biệt nước mắm truyền thống với nước mắm công nghiệp? Tiêu chuẩn của Nhà nước người ta chỉ gọi là nước mắm và nước mắm nguyên chất. Tại sao phải phân ra nước mắm truyền thống với nước mắm công nghiệp để gây mất đoàn kết trong ngành nước mắm của mình”.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)