khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2019

Sợi Khói Bay Vòng - Tác giả Phạm Ngọc Lư






China’s maritime expansion reflects a curious mix of ambition and paranoia - Source The Economist






Why Is Repression Rising in Vietnam? - Source The Diplomat






English, Arabic, Chinese and Vietnamese … Việt Nam ta được sánh vai ngang tầm thế giới






Lời Phân Trần Của “Hàng” Tướng Dương Văn Minh- Tác giả Ls Nguyễn văn Chức



Toàn bộ bức thư của Tướng Dương Văn Minh viết cho Tướng Nguyễn Chánh Thi có nội dung như sau:


15-4-87
 
“Thi,

Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.

Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.

Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân.

Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ :

– Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh.

– Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.

Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ.

Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn.
 
Thân mến
 

Dương Văn Minh”

Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Ðại tướng Võ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”, tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.
 
 

Một cái nhìn về Dương Văn Minh
 
Ngày 30-4-1975, một quân lực đứng vào hàng thiện chiến và dũng cảm nhất thế giới đã bị trói tay và phải buông súng trước quân thù. Vì sự hèn nhát của lãnh đạo và sự phản bội của đồng minh.

Ngày 30-4-1975, Việt Cộng đã dùng võ lực, xé nát hiệp định Ba Lê, bản văn mà chúng nó đã long trọng ký kết trước mặt thế giới.

Ngày hôm đó, nước Mỹ đã ôm đầu bỏ chạy, trước sự vi phạm thô bạo một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Mỹ đã khởi xướng và long trọng ký kết trước mặt thế giới. Ngày hôm đó, Tây Phương đã cúi mặt trước sự vi phạm một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Tây Phương đã cổ võ, ca ngợi, trước mặt thế giới, nhân danh những lý tưởng nhân đạo tự do và hòa bình.

Ngày 30-4-1975, khi xác của người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tự sát dưới chân Đài Chiến Sĩ đường Lê Lợi chưa kịp lạnh thì Dương Văn Minh mũ mãng “bàn giao” miền Nam cho Việt Cộng. Đúng là một trò hề, một trò hề lơ láo của một tên hề lơ láo. Bọn Việt Cộng nón cối dép râu mang xe tăng húc sập cánh cửa Dinh Độc Lập, tiến vào chiếm hữu ngôi nhà biểu tượng cho chủ quyền Quốc Gia của miền Nam, chứ đâu có vào để nhận bàn giao. Đối với Việt Cộng, buổi lễ “bàn giao” hôm đó chỉ là một hành vi quỳ lậy và khiếp nhược của một tên tướng Ngụy. Đối với người Quốc Gia nói chung và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói riêng, thì ngoài phong cách hèn hạ và khiếp nhược của một quân nhân, Dương Văn Minh còn là một đứa đần độn và háo danh.

Ngày 28-4-75, khi cụ Trần Văn Hương từ chức tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì định chế hành pháp không còn nữa. Định chế lập pháp, tức quốc hội, thì lại không có quyền bầu tổng thống, hoặc chỉ định tổng thống, hoặc cho phép ai trao chức vụ tổng thống cho ai. Bởi lẽ: Quốc hội không phải là sở hữu chủ quyền nhân dân. Với tư cách thụ ủy đó, quốc hội chỉ được làm những điều mà nhân dân đã mịnh thị giao phó, qua những điều khoản được ghi trong hiến pháp. Mà hiến pháp thì không có điều khoản nào cho phép quốc hội được trao chức vụ tổng thống cho ai.

Tổng thống đương nhiệm lúc đó, cụ Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho người khác. Vì vậy, trong những ngày tháng chót của Quốc Gia miền Nam, khi Dương Văn Minh nằng nặc đòi cụ Hương trao quyền tổng thống Việt Nam Cộng Hòa cho y, thì mọi người đã nhìn thấy rõ cái hèn, cáo háo danh và nhất là cái đần độn của y. Y nằng nặc đòi được làm tổng thống, để mũ mãng đi đầu hàng.

Cái hèn và háo danh đần độn ấy đã chẳng giúp cho Cộng Sản Bắc Việt ngụy tạo được hào quang cho cái gọi là đại thắng mùa Xuân. Cũng chẳng giúp cho các nhà làm lịch sử sau này có dữ kiện để viết rằng: Chính quyền hợp pháp của Quốc Gia Miền Nam đã đầu hàng.

Ngày 30-4-1975, Quốc Gia Miền Nam chỉ còn là đống hoang tàn. Trên đống hoang tàn ấy, Văn Tiến Dũng và đoàn quân của y đã nhặt được một cái túi phong lưu (capote, condom), món trang sức của đêm giao hoan giữa thằng điếm tư bản quốc tế với con đĩ vô sản quốc tế. Văn Tiến Dũng ngậm cái túi phong lưu ấy vào mồm, thổi cho căng lên, gọi đó là đại thắng mùa Xuân.

Trước khi cái túi phong lưu được thổi căng lên, nó được lau chùi cho hết nhờn nhớt. Người lau chùi, là Dương Văn Minh.

Tôi không quen, nhưng biết Dương Văn Minh, hồi chưa mất nước, tôi từng nói chuyện với y nhiều lần. Hồi đó, Câu Lạc Bộ Thể Thao Sài Gòn có 4 sân quần vợt danh dự. Hội viên câu lạc bộ muốn có sân để chơi, phải ghi tên trước. Riêng Dương Văn Minh, vì là cựu quốc trưởng, y được câu lạc bộ dành cho sân số 4 (sát hàng rào, gần hồ tắm), mỗi buổi sáng thứ Hai, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.

Vì vậy, những sáng thứ Hai, trừ ngày mưa gió, người ta thường thấy Dương Văn Minh trên sân số 4. Y chơi quần vợt với bạn bè, với người con gái, hoặc với người con rể tên là Đài. Có khi y không chơi, chỉ ngồi trò chuyện.

Tôi thường gặp y ở chỗ này, và nói chuyện với y ở chỗ này.

Tôi muốn tìm hiểu về ba khuôn mặt nổi của chính biến 1963. Hai khuôn mặt nổi khác, ông Trần Văn Đôn và ông Tôn Thất Đính, tôi đã biết khá nhiều. Chúng tôi cùng là thượng nghị sĩ.

Dương Văn Minh có cái bề ngoài đôn hậu, ăn nói chậm rãi. Người ta đã dùng nhiều tĩnh từ để nói về y, như nham hiểm, kỳ thị Nam Bắc, háo danh, v.v… Riêng tôi, tôi thấy tội nghiệp. Không ai có thể ngờ rằng một người từng làm quốc trưởng, và được kỳ vọng như là một lá bài chính trị cho tương lai, lại có trình độ văn hóa thấp đến như vậy. Những ý niệm về lãnh đạo, như quyền uy (autorité), quyền lực (puissance), và quyền bính (pouvoir), rất xa lạ với y. Tôi đã mất khá nhiều thì giờ, và đưa ra trường hợp Nã Phá Luân, Nguyễn Huệ, để giải thích cho y hiểu rõ những thành tố của lãnh đạo, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa quyền uy, quyền lực và quyền bính. Nhưng nhìn mặt, tôi biết y không hiểu lắm. Về Cộng Sản Việt Nam và chính sách mặt trận thống nhất (politique du front uni) của Cộng Sản trên thế giới, y cũng rất lờ mờ.

Y có mời tôi đến dinh hoa lan để “họp mặt” chính trị. Tôi đến một lần, để giữ lễ, và để y có dịp – nếu tôi không lầm – cảm ơn tôi đã giúp đỡ một vài đàn em của y trong vấn đề luật pháp. Những lần sau, tôi cáo lỗi. Tôi không muốn làm người khác lạ ngồi nghe những Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận giảng chính trị. Họ là những quần thần của Dương Văn Minh. Họ là những bộ óc lớn của Dương Văn Minh. Và khi những bộ óc lớn gặp nhau…

Có lẽ ông Vũ Văn Mẫu cũng một cảm nghĩ như tôi. Ông cũng từng là khách bất đắc dĩ của dinh hoa lan.

Trình độ học vấn của Dương Văn Minh đã thấp, nhân cách của y còn thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng lãnh, thì lại quá tệ. Ai cũng biết: Trong vụ đảo chánh 1963, y đã ra lệnh ám sát Tổng Thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu rạng ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối, mà còn đổ lỗi cho người khác. Trong cuốn “Our Endless War”, Tướng Trần Văn Đôn – linh hồn của cuộc đảo chánh – đã phải bực mình và viết như sau: “Big Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm và đổ lỗi cho người khác. Mỗi khi vấn đề được đặt ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vào. Trong thời gian bị lưu đầy ở Vọng Các, Big Minh đã thanh minh với một linh mục Công Giáo rằng ông không có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, Big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi (“Our Endless War”, trang 314).

Trong những lần nói chuyện, tôi có hỏi Dương Văn Minh về vụ giết ông Diệm. Theo tôi, đảo chánh nào mà không đổ máu, và giết ông Diệm thì đã sao, nếu mình có chính nghĩa, hoặc tin rằng mình có chính nghĩa? Cần gì phải chối. Nhưng y vẫn chối. Cái hèn của Dương Văn Minh là ở đó. Và y đã sống suốt cuộc đời còn lại với cái hèn ấy.

Ngày 30-4-1975, sau khi được cụ Trần Văn Hương trao quyền tổng thống, y đã ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng, “vì chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc” và “để cứu sinh mạng đồng bào”. Chúng ta hãy tạm cho y được hưởng lợi ích của sự nghi vấn. Chúng ta hãy tạm chấp nhận rằng: Y kêu gọi và ra lệnh cho anh em Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng, vì chủ trương hòa hợp hoà giải và để cứu mạng đồng bào. Nhưng khi VC vi phạm hiệp định Ba lê, trả thù man rợ các anh em Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thì y không có được một lời để bênh vực các anh em đó. Chỉ cần một lời thôi. Chỉ cần một hành động thôi. Một lời và một hành động của chính cái kẻ đã kêu gọi anh em buông súng, nhân danh Hiệp Định Ba Lê, và nhân danh hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng Dương Văn Minh đã im lặng. Vì hèn.

Ba năm sau khi đầu hàng, năm 1978 Dương Văn Minh được Việt Cộng cho sang Pháp. Sang tới Pháp và suốt 19 năm sống bên Pháp, y cũng không có được một lời về số phận đau xót của các anh em Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong các trại cải tạo và cho thân phận cùng cực của nhân dân miền Nam dưới ách bạo quyền Cộng Sản. Vì hèn.

Y cũng không có được một lời xót xa cho cả triệu đồng bào ruột thịt đã chết trên biển khi đi tìm tự do. Vì hèn.

Năm 1997, y tuyên bố sẽ về Việt Nam để góp phần xây dựng đất nước. Người ta hiểu rằng trước khi tuyên bố như vậy, y đã được Việt Cộng cho phép về Việt Nam. Người ta cũng hiểu rằng y đã được Việt Cộng cho phép về Việt Nam để xây dựng nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Việt Cộng.

Năm 1963, hèn hạ, phản bội và làm tay sai. Mười hai năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản bội. Hai mươi hai năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.

Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai. Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh.

Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh.

Coi vậy mà không phải vậy - Tác giả Phan đông Anh



Tên khủng bố Nguyễn Văn Trỗi, một gã sửa xe Vespa ở Saigon, dại dột nghe theo lời của đảng cộng sản, đặt mìn ở cầu Công Lý để giết bộ trưởng quốc phòng Mỹ là ông Mc. Namara, không kể đến biết bao sinh mạng người dân chung quanh. Trổi bị bắt vào ngày 9 tháng 5 năm 1964. Trong phiên tòa đại hình ngày 23 tháng 10 năm 1964, Nguyễn Văn Trỗi bị tuyên án tử hình, luật sư biện hộ là Nguyễn Văn Chức, cho biết Nguyễn Văn Trỗi rất bạc nhược, hay là hắn biết bị lừa, khóc sướt mướt trên vai ông và nói:” Luật sư ơi! Em bị chúng lừa, tội nghiệp cho Quyên, vợ em”.

Trong khi Nguyễn Văn Trỗi bị bắt, Hà Nội dùng vụ án nầy để phát động chiến dịch tuyên truyền qui mô, Hà Nội dùng xác chết của tên thợ sửa xe tầm thường để khuyến khích những người nhẹ dạ khác tham gia và công tác khủng bố, thời ấy đảng ca tụng Nguyễn Văn Trỗi là anh hùng dân tộc, hăng hái nhất là có sự tham gia của nhà thơ Tố Hữu, dù ở miền bắc, không hề biết cảnh Nguyễn Văn Trỗi khóc khi bị tuyên án tử hình, với những vầng thơ sau đây:

Hai hàng đen súng cắm lưỡi lê.
Anh bước tới mắt nhìn bình thản.
Như chính anh là người xử án.
........
Anh thét to:” Ta có tội gì đây?”
Chúng trói anh vào cọc mấy vòng dây.
Mười họng súng, một băng đen bịt mắt.
Và tay anh giựt phắt mảnh vải đen.
Chúng tung lên xông tới trói chặt anh hơn.
..........
Lệnh hàng đầu quỳ xuống một giây thôi.
Anh thét lớn: Hãy nhớ mấy lời tôi.
Đả đảo đế quốc Mỹ.
Đả đảo Nguyễn Khánh.
Hồ Chí Minh muôn năm.

Đây là bài thơ rất vô duyên, tuyên truyền phét về anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, đã được người dân miền bắc thán phục, ca tụng là anh hùng, hiên ngang, anh dũng, như bài bản tuyên truyền cũ về Võ Thị Sáu, trên đường giải ra pháp trường, đã cúi xuống nhặt cánh hoa hồng để tặng hai người lính áp giải ( Tử tội bị còng tay, có người kè, làm sao có thể cựa quậy để hái hoa hồng? Và ở trên đường đi ra pháp trường, hoa hồng ở đâu có sẵn để hái?).  Thủ đoạn tuyên truyền rất ấu trĩ, thiếu nền tảng, đầy kịch tính, đã được bộ máy tuyên truyền của đảng và nhà nước lập đi lập lại không biết bao nhiêu triệu lần và được đưa vào học đường, dù dân chúng biết rất rõ, nhưng nếu dẫn chứng sự vô lý nầy, chắc chắn bị qui chụp vào tội phản động, đánh phá nhà nước, đảng, xuyên tạc cách mạng...

Vụ án tên khủng bố Nguyễn Văn Trỗi rất phổ biến tại miền nam, báo chí cũng tường thuật và nhất là sự thực đã được luật sư Chức, là nhân chứng, có thời kề cận để lo biện hộ cho bị can, lột tả sự hèn yếu của một gã khủng bố lúc sa cơ. Vợ của Nguyễn Văn Trỗi là cô Quyên, mới cưới 1 tháng, sau đó nghe theo lời dụ dỗ của Cộng Sản, trốn vào mật khu, bị Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng dùng làm trò giải trí tình dục và sau đó biến thành nữ hộ lý, người theo cộng sản ở mien nam đã bị đảng đãi ngộ như thế.



Chuyên "anh Chỗi"- Tác giả Ls Lê công Định



Nhân thiên hạ đang bàn lại chuyện anh Trỗi, nhớ hồi ở tù trong Chí Hòa, hàng năm đến ngày giỗ của anh, cán bộ quản giáo đều đến thắp nhang ở nơi anh bị tử hình bên trong trại, nay được dựng bia kỷ niệm. Buổi thắp nhang rất long trọng và thành kính như một lễ nghi tôn giáo [bệnh hoạn].

Một cán bộ quản giáo làm việc lâu năm trong trại Chí Hòa kể với tôi rằng ngày xưa anh Trỗi bị giam và bị bắn trong đó luôn, nên không có cảnh như trong phim rằng anh bị chở lén đi bắn bằng xe bít bùng trên đường phố, để chị Quyên phát hiện và chạy theo la hét “trả lại chồng cho tao!” rồi té lăn ra đường, vừa hổn hển, vừa bất tỉnh (!)(?).

Khi đưa ra bãi bắn nhỏ trong trại, cán bộ quản giáo kể tôi tiếp, anh Trỗi bị bịt mắt bằng khăn, rồi trói tay sau lưng cột, và không có chuyện anh giựt phắt mảnh khăn bịt miệng để gọi tên bác ba lần.

Thêm nữa, truyện “Sống như Anh” và phim về anh Trỗi cũng không đưa chi tiết, mà ngày nay ai cũng có thể xem được trong các clip chia sẻ trên mạng xã hội, rằng trước lúc bị bắn anh đã … tè trong quần. Đang tè mà nghĩ về bác rồi gọi tên ba lần thì quả là bôi bác quá!

Tóm lại, đặt bom định ám sát người trên đường phố trong đô thị, dù bào chữa thế nào về động cơ và lý tưởng, vẫn đơn thuần là một hành động khủng bố mà nhà cầm quyền ngày nay cũng lên án và xem là tội phạm. Anh hùng gì một tay khủng bố?

Việc bộ máy tuyên truyền đã biến một tay khủng bố thành anh hùng, còn đặt tên cho những đoạn đường dài trong nhiều thành phố trên cả nước, rồi viết truyện, làm thơ, làm phim tung hê, qua đó mới thấy bản chất chế độ này cũng chỉ là khủng bố mà thôi!

David và Goliath thời đại - Tác giả Lê Huỳnh



Câu chuyện “châu chấu chống xe” là biểu tượng ám chỉ kẻ yếu thế mà dám to gan chống lại kẻ mạnh hơn mình vạn lần, thường ngầm ý chê bai, không biết thân phận hèn kém.
Tương tự ở Tây phương có truyền thuyết về việc đọ sức giữa chú mục đồng bé nhỏ David với chàng dũng sĩ khổng lồ Goliath, kết cuộc không ngờ là chú mục đồng lại hạ gục địch thủ nhờ chiếc ná thun.
 
Hiện nay, qua các lời đe dọa của TT Trump, một số nước nhỏ như Cuba, Bắc Hàn, Venezuela, Iran, …dám chống chọi với Mỹ nghĩ thật chẳng khác nào các biểu tượng trên, đặc biệt là “châu chấu chống xe”, tuy chưa rõ chung cuộc ra sao nhưng đến nay chỉ thấy xe đều chuyển hướng nên chưa con châu chấu nào bị cán chết.

Có dư luận cho đó là nhờ ơn của TT Trump, người không thích chiến tranh, chỉ giơ cao đánh sẽ hay nhờ lòng thương người như sợ dân Iran chết nên vào mấy phút chót đã rút lại lịnh oanh kích trả đủa vụ chiếc phi cơ thám thính Global Hawk bị bắn hạ.

Cũng may nhờ thế mà tuy tình hình thế giới luôn căng thẳng nhưng các mặt trận hiện đều tạm yên hay ít ra vẫn chưa có chuyện gì xảy ra.

Về mặt tâm lý, có người xem dọa đánh còn hơn cả đánh thật (một cái giá bằng ba cái đánh) nên ghét những lời dọa dẫm, đành rằng nhiều người biết TT Trump nay răn đe mai rút lại là chuyện thường, cho TT thuộc hạng người khẩu xà tâm Phật, nhưng mối nguy vẫn luôn tiềm ẩn do có thể diễn dịch sai nên mọi quyết định đơn phương, tùy tiện, ngẫu hứng đều chứa nhiều hiểm tai, không những cho các nước liên hệ trực tiếp mà có thể lan ra cả khu vực, thậm chí ảnh hưởng đến toàn cầu, nên chi các lãnh tụ có trách nhiệm không thể khinh xuất lời ăn tiếng nói, câu “nhất ngôn nhi khả dĩ hưng bang, nhất ngôn nhi khả dĩ táng bang” (một lời nói có thể làm thịnh nước, một lời nói có thể làm mất nước) trong sách Luận ngữ nghĩ thật chí lý vậy!

Có thể nói là uy tín của Mỹ trên thế giới ngày nay khác xưa, diện phục mà tâm không phục, những lời dọa dẫm, những giải pháp đốp chát đôi khi đạt được kết quả nhứt thời đối với các đối thủ yếu bóng vía hay dưới cơ đành phải chịu lép, nhưng khi phải gặp phải đối thủ nặng ký hay gồng mình chịu đòn, chấp nhận mọi thấu cáy thì sẽ có vấn đề, có khi dọa rồi lại chấp nhận thương thuyết (Tàu), hay đề nghị thương thuyết không điều kiện (Iran), có khi gây ồn ào nhưng không đi đến đâu (Venezuela), coi đó như bí quyết giải quyết song phương, nên nước nào dầu là đối thủ, đối tác hay đồng minh đều bị đe dọa nên không ai ưa.
 
Lối hành xử theo tình thế đầy mâu thuẫn thể hiện một chính sách, đường lối thiếu sự chỉ đạo nhất quán của vị lãnh tụ tối cao, cùng một vấn nạn chỗ này giải quyết vầy, nơi kia giải quyết khác, trước thì rất diều hâu sau lại rất bồ câu, nhiều quyết định tùy hứng xuất hiện trên các twitters của TT Trump là dịp để các nhà bình luận bắt mạch thời cuộc, là cơ hội vàng cho các nhà thương thuyết lão luyện, suy đoán tim đen (hỷ, nộ, ái ố) của chủ nhân tòa Bạch ốc, dường như TT Trump cũng thích thế, một hình thức biểu trưng uy quyền tuyệt đối, nên không lạ gì khi TT không mấy quan tâm đến những lời chỉ trích của Jong Un đối các cộng sự viên diều hâu (phó TT Mike Pence, Cố vấn an ninh John Bolton, Ngoại trưởng Mike Pompeo).

Việc TT Trump ngẫu hứng muốn gặp Chủ tịch Kim Jong Un, hai người gặp nhau tại đường ranh biên giới Nam Bắc Hàn là một chỉ dấu tốt đẹp cho tình hình an ninh khu vực, nhớ lại lời qua tiếng lại cực kỳ nảy lửa cách nay chưa đầy 2 năm (8-2017) như sẽ làm cỏ Bắc Hàn, Trump Threatens ‘Fire and Fury’ Against North Korea, coi Jong Un là chú hỏa tiển bé con (little rocket man), đối lại chú hỏa tiển bé con này cũng chẳng vừa: “Liệu Hoa kỳ muốn gặp chúng tôi tại phòng họp hay đối đầu bằng nguyên tử hoàn toàn tùy thuộc qyết định và thái độ của Hoa kỳ” (Whether the U.S. will meet us at a meeting room or encounter us at nuclear-to-nuclear showdown is entirely dependent upon the decision and behavior of the United States.).

Qua hai cuộc họp thượng đỉnh, tuy kết quả chẳng được gì, Jong Un phàn nàn thất bại là do phe diều hâu của Mỹ, chỉ thẳng mặt các ông Pence, Pompeo, Bolton, trái lại Trump xem là thắng lợi (Bắc Hàn đã ngưng thử nghiệm hỏa tiển tầm xa, trao trả hài cốt lính Mỹ, thả tù binh sắp chết), lần này, TT Trump chỉ ước mong gặp Jong Un để chỉ nói “hello, good bye” thôi lại được hân hạnh được đón tiếp và họp mật cả tiếng đồng hồ, mời bước qua ranh giới lãnh thổ Bắc Hàn nên coi đây là một đại thắng lợi (!), mà quả thật ông Trump là TT Mỹ đầu tiên hân hạnh gặp lãnh tụ Bắc Hàn, ông Trump cho biết là cựu TT B. Obama trước đây đã bị Jong Un từ chối xin gặp (do Jong Un vừa xì ra chăng?), là TT Mỹ đầu tiên hân hạnh đặt chân lên đất Bắc Hàn, biết đâu Trump sẽ hài lòng với kịch bản đóng băng kho võ khí hạt nhân của Jong Un thay thế đòi hỏi hủy bỏ toàn bộ có kiểm chứng, ngầm nhận Bắc Hàn là cường quốc hạt nhân, nghĩ nếu xảy ra cũng chẳng có gì lạ, thế giới há chẳng đã từng quen với các nước thủ đắc võ khí hạt nhân như Ấn độ, Pakistan, Do thái đó sao? Biết đâu Trump là TT Mỹ đầu tiên ký Hòa ước với Bắc Hàn (bao đời TT trước không làm được), ông Trump luôn thích những cái nhứt như rất hãnh diện là lãnh tụ ngoại quốc đầu tiên được Tân Nhựt hoàng tiếp đón.
 
Tình hình căng thẳng giữa Mỹ với Iran hiện nay có phần giống với giữa Mỹ và Bắc Hàn hai năm về trước, liệu một kết thúc tương tự có thể xảy ra chăng?

Tuy Iran thua xa Bắc Hàn ở chỗ chưa có bom nguyên tử, chưa trực tiếp công khai đe dọa Mỹ, lại đã từng chấp nhận một số ràng buộc với Mỹ và các cường quốc hạt nhân cộng với Đức trong việc tinh chế uranium, điều này vẫn không làm TT Trump hài lòng, vậy hóa ra TT chỉ nể trọng nước nào đã thủ đắc loại võ khí độc hại này hơn là các nước chưa có?

Cuộc khủng hoảng hiện nay là do TT Trump xóa bỏ thỏa hiệp về hạt nhân do vị tiền nhiệm đã ký kết với Iran năm 2015, không còn bị ràng buộc vào cam kết nữa, phải chăng đây là cơ hội hợp pháp, hợp lý để Iran xúc tiến giấc mơ của mình, họ đang bắt đầu thực hiện một cách công khai việc tinh chế lượng uranium theo nhu cầu của họ. Tương tự hồi tháng 2/2019, chính TT Trump cũng đơn phương rút khỏi thỏa hiệp với Nga về hạn chế số lượng hạt nhân tầm trung (INF Intermediate-Range Nuclear Forces Treaty), Nga cũng vừa ký luật đình chỉ việc thi hành Hiệp ước này (7-2019). Nguy cơ chạy đua võ trang nguyên tử đang rõ nét.
 
Tình hình Trung Đông đang sôi sục hẳn lên, chỉ cần một tia lửa nhỏ đủ gây ra một đám cháy to, khi ngọn lửa bùng phát rồi thì muốn dập tắt đâu có dễ, đó là điều cả thế giới lo sợ, riêng thành phần không lo sợ là phe hiếu chiến trong nội bộ hai bên, họ mong khiêu khích đến độ tình hình không thể đảo ngược.

Khởi đầu, TT Trump nghĩ rằng đơn phương rút khỏi thỏa hiệp để rảnh tay tung ra các biện pháp trừng phạt kinh tế, Iran sẽ phải sớm cúi đầu khuất phục, chấp nhận các điều kiện mới do Mỹ áp đặt, quả thật nền kinh tế của họ vô cùng khốn đốn, các cường quốc cùng ký thỏa hiệp đều chống lại việc đơn phương rút lui của Mỹ nhưng không tài nào bù đắp nỗi những thiệt hại cho Iran, bao nhiêu cơ sở đầu tư qui mô của Tây phương đều phải lần lượt rút lui khỏi Iran, điều này chứng tỏ uy quyền của Mỹ quá mạnh, nhưng điều Mỹ không ngờ là Iran vẫn trụ được, không những trụ được mà còn tỏ ra thách thức, nhiều tàu dầu đã bị thủy lôi ngay trong vùng vịnh Ba tư và eo biển Ormuz, biến cố nghiêm trọng nhứt là Iran bắn hạ một chiếc máy bay thám thính tự hành Global Hawk của Mỹ ngay trong vùng, giá chiếc máy bay này còn mắc hơn chiếc Boeng 837 Max8 (ước tính trên 120 triệu mỹ kim), nhưng số tiền ấy không là bao so với ngân sách quốc phòng hiện hành (750 tỷ mỹ kim), nhưng điều đáng ngại là tuy trang bị cực kỳ hiện đại (hệ thống phát hiện và tránh hỏa tiển), bay với cao độ 60 ngàn feet (trên 18 ngàn thước), gắp đôi cao độ các phi cơ hàng không dân dụng vậy mà vẫn bị hạ, kỹ năng quân sự của Iran như vậy không thể xem thường, khi xung đột xảy ra, Mỹ không thể oanh kích tự do như đối với lực lượng thánh chiến Hồi giáo, tuy không lực không đáng kể, bù lại họ có kho hỏa tiển đủ loại, có đạo quân cảm tử hiện diện khắp nơi (Syrie, Liban, Irak, Yemen) và ngay trong lòng các chế độ Á rập (phái Chiite), một khi các xưởng lọc dầu của Iran bị đụng tới thì các xưởng lọc dầu của Arabie Saoudite cũng khó mà yên, khối nhà chọc trời là những cái đích dễ nhắm, cái khó nữa là làm sao hủy diệt hết các lò nguyên tử trong lòng núi của Iran, khi ấy họ sẽ cố sản xuất uranium, chế tạo bom nguyên tử để sớm đem ra thử nghiệm.
 
TT Trump dọa sẽ có một cuộc chiến chớp nhoáng, khởi động cuộc chiến thì dễ nhưng muốn kết thúc sớm không dễ. Kịch bản này thật khó xảy ra, nhớ lại cuộc chiến giữa Irak và Iran do S Hussein khởi xướng với sự ngầm hỗ trợ của Mỹ kéo dài 8 năm trời (1980-1988), chiến thắng thần tốc ban đầu nhưng kết cuộc kể như thua, năm 2003 Mỹ đánh gục S Hussein, bá chủ Irak, khống chế Afghanistan, tuy lúc đó Iran gần như bị cô lập ở vùng Trung Đông mà Mỹ vẫn làm ngơ chưa đụng tới, giờ đây tình hình khác hẳn, ảnh hưởng của Iran bao trùm cả khu vực, thanh thế rất mạnh, sát cạnh sườn Do Thái là dân quân Palestine gan lì, vốn quen các đòn hằn thù của Do thái, lực lượng Hezbollah ở Liban dưới quyền thủ lãnh Hassan Nasrallah, một lực lượng khắc tinh của quân đội Do thái trong một trận thư hung kéo dài suốt 33 ngày (từ 12/7/2006), đạo quân bách chiến bách thắng nổi tiếng với những trận đánh thần tốc đành chấp nhận kết thúc cuộc chiến theo nghị quyết 1701 của LHQ, Syrie thì lại được hậu thuẫn mạnh mẽ của Nga, chỉ chực chờ cơ hội để đòi lại cao nguyên Golan bằng thương thuyết hay bằng chiến tranh trong khi Mỹ ngoài hậu thuẫn mạnh mẽ của Do Thái, các vương quốc Á Rập, còn có một lực lượng trên 5 ngàn quân ở Irak, nói là để theo dõi hoạt động của Iran, nhưng dưới mắt Iran và cánh Chiite ở Irak thì coi đó như là các con tin của họ, căn cứ của Mỹ ở Irak thường xuyên bị pháo kích mà không thể phản pháo, ở Afghanistan thì đang thương lượng với phe Taliban để rút quân về nước, tình trạng y hệt Mỹ thương lượng với Việt cộng, bất kể ý kiến của VNCH trước 1975, đồng minh Pakistan thì đang xa rời quỹ đạo của Mỹ.
 
Duyệt qua tương quan lực lượng thì một khi ngọn lửa bùng phát thì chắc sẽ lan tỏa khắp vùng, đánh phủ đầu chắc chắn Mỹ sẽ chiếm thượng phong ngay nhưng liệu địch thủ có chịu ôm đầu máu qui hàng, xin thương thuyết liền chăng? Kịch bản này liệu có dễ dàng xảy ra không? Nhược bằng cuộc chiến tiêu hao tiếp tục thì sao?

Sức chịu đựng của hai phe sẽ là yếu tố quyết định, chiến trường Việt Nam kéo dài hàng chục năm, kết thúc trong thảm bại, ngay chiến trường Trung Đông hiện nay, nước Afghanistan nghèo hơn Iran, võ khí của lực lượng chiến đấu Taliban thua xa Iran mà Mỹ còn đang tìm đường tháo lui. Đó là chưa kể thời gian tranh cử TT Mỹ tới gần, liệu ứng cử viên Trump có dấn thân trong một cuộc phiêu lưu mới trong khi các thế trận đang giăng ra đều dậm chân tại chỗ nếu không nói là có nhiều bước lùi, thật ra là không phải lùi nhưng là nạn nhân của chính mình, đòi hỏi quá nhiều nhưng đạt được chẳng bao nhiêu, những trừng phạt đưa ra vội vã, chưa nghiên cứu chính chắn nên nhiều khi gặp phản tác dụng của boomerang, như các trừng phạt kinh tế chống Tàu, dân Tàu khổ mà dân Mỹ cũng đang than van, số lượng cử tri nồng cốt có thể vơi dần là điều phải quan tâm, sau hai năm đạt nhiều thành tích gọi là chưa từng có, vậy mà trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, đảng CH đã mất Hạ viện, như vậy dân mỹ còn cần điều gì khác nữa, đó cũng là điều đáng phải quan tâm, không khéo lần này mất cả chì lẫn chài.
 
Ngoài ra, trên bình diện thế giới, nếu Mỹ sa lầy vào cuộc chiến này, các đối thủ Nga, Tàu là hai nước hưởng lợi nhiều nhứt, trước mắt là chẳng tốn kém gì, là thành viên ký kết trong thỏa hiệp, họ đã công khai đứng về phía Iran, trách cứ Mỹ không tôn trọng cam kết, ngay các thành viên đồng minh của Mỹ (Anh, Đức, Pháp) cũng không che giấu bất bình và đề ra giải pháp INSTEX (Instrument for Supporting Trade Exchanges -hệ thống trao đổi một số hàng hóa không qua hệ thống mỹ kim) nhằm hóa giải phần nào trừng phạt của Mỹ, Nga, Tàu cũng tuyên bố sẽ tham gia, một tín hiệu thoát khỏi vòng ảnh hưởng của đồng mỹ kim.

Việc giao hoán quốc tế bằng đồng mỹ kim hiện nay là ưu thế tuyệt đối của Mỹ, ưu thế đó phần lớn là nhờ Mỹ bảo đảm an toàn trong việc giao thương quốc tế, một khi việc bảo đảm này bắp bênh, niềm tin cậy không còn nữa thì tai hại thật khó lường, quyết định tùy tiện một cách đơn phương, không cần đến các cơ quan trọng tài quốc tế, ỷ mạnh hiếp yếu, giải quyết theo luật của kẻ mạnh thì sự xáo trộn tất xảy ra, cứ đà này thì đồng mỹ kim khó duy trì mãi quyền độc tôn, các chuyên gia đã biết việc lạm dụng quá đà này như giáo sư kinh tế đại học California, Berkeley nhận định trong quyển sách How Global Currencies Work: Past, Present, and Future (Princeton University Press): “Trong tương lai, đồng mỹ kim bắt buộc phải chia phần với đồng nguyên và đặc biệt là đồng euro. Tốc độ thay đổi nhanh chậm tùy thuộc các hoạt động của Donald Trump” (In the future, the dollar will be forced to share prominence with the yuan and the euro, in particular. The speed of the shift might depend on the actions of Donald Trump.); thật khó tưởng tượng một nước hùng mạnh như nước Mỹ lại là một nước nợ nầng nhứt thế giới, do tiêu thụ quá nhiều nên cán cân mậu dịch thâm thủng đối với hầu hết các nước, giải pháp trừng phạt đơn thuần đang gây xáo trộn giao thương toàn cầu, kết quả chưa thấy đâu, dầu vậy nước nào cũng muốn cho Mỹ vay, khi thế giới mất niềm tin thì lợi thế tuyệt đối này sẽ giảm dần, đà xuống dốc của Mỹ càng gia tốc, như vậy vô hình chung chính ông Trump đang làm cho nước Mỹ suy yếu thay vì làm cho hùng mạnh, ngẫm thật chí lý lời khuyên “phàm nhân hữu thế bất khả ỷ tận”, vận vào đúng quẻ dịch Kháng long hữu hối (Càn vi thiên), khi con rồng bay đến tột đỉnh thì chỉ còn một nước là rơi xuống, ai thừa thế xông lên một cách mù quáng, không biết củng cố tất có điều hối hận về sau.
 
Quả thật đồng nguyên của Tàu đã được quỹ tiền tệ quốc tế FMI công nhận trong hế thống giao hoán quốc tế, Tàu lại đang cố tranh thủ thế giới, ra sức chứng tỏ mình là một cường quốc có trách nhiệm, cố tỏ ra hòa đồng với các nước trong khi Mỹ thì trái lại như tại hội nghị G20 ở Osaka Nhựt vừa qua (28-29/6/2019), Mỹ gần như tự cô lập, tách hẳn với thế giới đương đại, chỉ có Mỹ là vẫn tiếp tục tẩy chai thỏa hiệp quốc tế về biến đổi khí hậu, chỉ có Mỹ là không đồng ý ghi trong thông cáo chung điều khoản chống bảo hộ mậu dịch, coi thường hay rút khỏi các định chế quốc tế (UNESCO, Hiệp ước Toàn cầu về Di dân, Hội đồng nhân quyền, …), chỉ có Mỹ ngăn trở Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc (3/7/2019) ra nghị quyết lên án vụ không kích vào một trại tạm cư ở Libya, làm ít nhất 44 người nhập cư bị thiệt mạng và trên 100 người khác bị thương, việc đương kim thứ trưởng nông nghiệp tàu Khuất Đông Ngọc được chọn đứng đầu tổ chức Lương nông quốc tế FAO (23/6/2019) cho thấy ảnh hưởng suy yếu của Mỹ nói riêng và Tây phương nói chung trên trường quốc tế, thủ lãnh một cường quốc nổi tiếng dân chủ lại quá trọng vọng các lãnh tụ các nước độc tài như Mohamed ben Salmane (Arabie saoudite), người chủ mưu ám hại nhà báo Jamal Khashoggi, Kim Jong Un (Bắc Hàn) bị tình nghi hành quyết nhiều người thân tín, Rodrigo Duterte (Phi luật tân) giết những người tình nghi nghiện ngập như ngóe không cần xét xử, Recep Tayyip Erdoğan (Thổ nhỉ kỳ) đàn áp đối lập cực kỳ thô bạo.
 
Quyền lực mềm (soft power) là võ khí độc quyền của các nước dân chủ Tây phương mà Mỹ là tiêu biểu, một quyền lực chinh phục thế giới một cách êm thấm nhứt, vậy mà TT Trump lại từ bỏ nó, điều mà cựu ngoại trưởng Đức Joschka Fisher ngạc nhiên: «Tôi chưa bao giờ thấy có một tiền lệ nào trong lịch sử thế giới, khi một siêu cường như Hoa kỳ, mà quyền năng vượt hẳn lên tất cả những nước khác hiện nay, lại tuyên bố thoái vị.» (tin RFI 18/1/2017 thuật lại từ tuần báo Pháp Le Point 11/1/2017), thật vậy làm sao rao giảng dân chủ khi coi truyền thông báo chí là kẻ thù của nhân dân.
 
 
 

Kiếp Dư "LỢN" Viên




Một con lợn bị đem ra chọc tiết. Nó kêu gào thảm thiết.
Bụt hiện ra hỏi: sao lại khóc ?
Con lợn : thưa Bụt, cuộc đời này thật bất công! Con sinh ra đã mang thân hình xấu xí, cả
đời phải ăn cơm thừa canh cặn, cuối cùng lại bị giết thịt để làm thức ăn cho kẻ khác, vậy
công bằng ở đâu?
Bụt cười: Con không hiểu rồi! . Cuộc đời này có luật nhân quả, có kiếp luân hồi..
Kiếp trước con bỏ ngoài tai những lời dạy bảo của tổ tiên, nên kiếp này trời phạt con mang đôi tai to.
Kiếp trước con nhắm mắt làm ngơ trước những cảnh cơ cực của người khác, nên kiếp này
trời phạt con mang đôi mắt híp.
Kiếp trước con tham nhũng nhiều, nên kiếp này trời bắt con mang chân ngắn, bụng to.
Kiếp trước con lừa phỉnh chúng sinh, nên kiếp này trời bắt giọng con " khịt khịt ".
Kiếp trước con nói dối nhiều, nên kiếp này trời bắt mõm con dài nên gọi là mõm lợn.
Kiếp trước con sa đọa trụy lạc, nên kiếp này trời phạt con mang nhiều vú.
Kiếp trước con ăn chơi phè phỡn bằng tiền mồ hôi nước mắt của người khác, nên kiếp này
trời bắt con ăn cơm thừa canh cặn.
Kiếp trước con hãm hại nhiều người vô tội, nên kiếp này trời phạt con bị giết thịt.
Con đã giác ngộ ra chưa?
Con lợn gạt nước mắt, tự nhận :
"Chả lẽ kiếp trước mình là... cán bộ Cộng Sản ...? "



Tìm ra tên người liếm hủ kem Blue Bell trong chợ Walmart rồi cất trở lại vào tủ đông lạnh







Bài Học Cũ Nhưng Vẫn Mới: Hai Mang!





Thomas Quoc Bao là ai ???

Nhóm 4 người gồm anh Michael Phuong Minh Nguyen, Huỳnh Đức Thanh Bình, Trần Long Phi và Trương Quốc Báo đã bị an ninh cộng sản Việt Na...m bắt giữ khi đang trên đường trở về lại Sài Gòn sau chuyến đi du lịch ra Huế hồi đầu tháng 7 năm ngoái với cáo buộc "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Trong nhóm này có một nhân vật mà tôi quan tâm và đặt dấu hỏi nghi vấn ngay từ lần đầu tiên gặp mặt. Đó là Trương Quốc Báo (fb Thomas Quoc Bao)

Trong giai đoạn tạm giam giữ để phục vụ điều tra vụ án này thì chúng ta nhận được thông tin Trương Quốc Báo đã trốn thoát khi an ninh dẫn giải về nhà của anh ta để khám xét. Tôi không tin Báo thoát được trong tình huống này. Không thể có chuyện đó xảy ra. Trường hợp này không thể nào so sánh với trường hợp tôi tẩu thoát khỏi xe khách ở địa phận tỉnh Quảng Ngãi khi tôi bị an ninh thành phố Huế trục xuất khỏi Huế (nơi tôi đang tạm trú) cùng thời điểm đó.

 Sau khi "trốn thoát" khỏi lực lượng an ninh, Báo lập tức nhờ người liên lạc với tôi, nhờ tôi giúp tiền để chạy trốn tiếp. Tôi đã từ chối vì không quen biết tên này và nghi ngờ động cơ này kéo tôi vào cái bẫy đã giăng sẵn.

 Vậy Báo đã thoát như thế nào? Bạn bè của Báo có ai có thông tin gì không? Bây giờ Báo ở đâu? Hoặc đặt ra giả thiết Báo bị thủ tiêu thì gia đình, người thân của anh ta có im lặng không ???

Và mấu chốt là ngày hôm qua (24.6.2019) trong phiên sơ thẩm xét xử vụ án Michael Phuong Minh Nguyen đã không có bất cứ cái tên Trương Quốc Báo nào được nhắc tới. ?.

Những người anh em của tôi bị xét xử ngày hôm qua. Và cả chính bản thân tôi đang là nạn nhân của sự vu khống, bịa đặt từ phía nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam với cáo buộc những tội danh vô cùng nguy hiểm. Tôi khẳng định có những con mồi được tung ra để gài bẫy. Bẫy đã sập. Vậy đâu là con mồi ???



Xã Hội Chũ Nghĩa và Tư Bản Chũ Nghĩa tại Mỹ







Lò Lửa Trung Đông - Tác giả Hoàng Ngọc Hiển







Hồi sinh đợi ngày - Tác giả Trần Xuân Dũng



Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, người thứ hai trong hàng, trước giờ lên máy bay cho một Saut nhảy dù bồi dưỡng, 1966

Sau khi đậu kỳ thi tuyển vào trường trung học Nguyễn Trãi Hà Nội năm 1951, tôi được vào học lớp đệ thất. Nhà trường có hai dẫy nhà. Dẫy chính cao, rộng và đẹp. Dẫy phụ, mới hơn, có hai tầng, nhưng không uy nghi bằng. Bước lên vừa hết cầu thang, rẽ sang tay phải là những phòng học dành riêng cho các lớp đệ thất. Phòng đầu tiên là của lớp 7B1 .Kế đó là lớp của tôi, 7B2. Tôi vốn là dân học gạo. Sau kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt, tôi được xếp thứ nhất ở trong lớp. Do sự tò mò, tôi cũng muốn để ý xem ở những lớp bên cạnh, ai là người đứng đầu trong số 60 học sinh của mỗi lớp. Những học sinh lớp 7B4 chỉ cho tôi người đứng đầu lớp họ. Tôi bước tới gần anh ta, tự xưng tên họ, rồi cũng hỏi ngược lại. Anh đáp: Nghiêm Sĩ Tuấn. Tôi chợt nghĩ: cũng may, anh chàng có khuôn mặt gần như chữ điền , nước da trắng trẻo, với vẻ khôi ngô tuấn tú như thế này, mà học cùng lớp với mình, thì chưa chắc mình đã được xếp thứ nhất. Chúng tôi trao đổi vài câu xã giao theo đúng như cách mà những người mới quen nhau thường dùng.
Những ngày sau đó, tôi biết thêm được Hà Ngọc Thuần. Thuần vui tính,hay ngoác miệng ra cười lớn, trong khi Tuấn tuy cười rất tươi nhưng âm thanh không lớn . Ở những lớp trung học, có nhiều môn học. Thuần và Tuấn đều là hai người giỏi. Khi người này đứng thứ nhất, khi người kia. Sau 20-7-1954, chúng tôi đều di cư vào Nam. Và cũng cùng học tại trường Chu Văn An. Cùng đỗ tú tài một năm, rồi PCB một lượt, và cùng được vào năm thứ nhất Y Khoa với nhau. Ở trường Y khoa, khuôn mặt của Tuấn dần dần biến đổi. Cái vẻ khôi ngô tuấn tú hồi mới vào trung học đã nhường chỗ cho những nét đăm chiêu. Những nụ cười cũng trở thành có chừng mực. Rồi tiến đến một giai đoạn khuôn mặt hiện lên nhiều vẻ của một kẻ khổ tu. Tôi không tiện hỏi. Có thể rằng, hồi ở ngoài Bắc gia đình Tuấn khá giả. Phải bỏ miền Bắc mà đi, trong một luồng di cư của cả 1.000.000 người, vào tới trong Nam, chắc thế nào cũng khốn quẫn hơn. Tuy thế, chúng tôi vẫn đậu những kỳ thi cuối mỗi năm, để lần lượt lên học lớp cao hơn ở Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Con người sẽ hỏi, vậy Tuấn có cá tính gì? Tôi để ý, chưa bao giờ tôi thấy Tuấn nổi giận cả. Trong những câu chuyện thuở trung học hay thời đại học, tất nhiên có nhiều điều Tuấn không hài lòng và cũng lắm chuyện không đồng ý. Nhưng dù bất đồng ý kiến với ai hay bị người nào chỉ trích, Tuấn cũng chưa bao giờ có vẻ mặt hầm hầm cả. Nói thế không có nghĩa rằng Tuấn hiền như cục đất. Và cũng không có ý bảo rằng Tuấn không để ý đến ai hay là sống tách biệt, không thích tụ năm tụm ba . Tuấn vẫn tham dự mọi hoạt động của lớp học, mọi sinh hoạt của bạn bè. Chỉ có điều rằng, khi thấy ai bị chỉ trích châm biếm, Tuấn cũng không về hùa với kẻ nói, để làm cho người bị chỉ trích thêm bực mình, mà cũng chẳng hề xúi kẻ đang hăng nói đưa thêm, đưa ra những câu không thích hợp để nghe cho sướng tai . Mặc dầu vậy, Tuấn không hề có tính ba phải. Đúng với sai, đối với Tuấn, là hai điều rõ rệt. Trong rất nhiều năm, tôi chưa thấy Tuấn văng tục,dùng chữ Đ ̣t mẹ ( tiếng Bắc ) hay Đ` má (tiếng Nam) bao giờ. Cả chữ “L…”, cái tên cúng cơm của bộ phận sinh dục phái nữ , cũng không được dùng tới. … Vài tuần sau khi cuộc cách mạng 1-11-1963 thành công, anh Trần Xuân Ninh, lúc đó vừa học hết năm thứ 6 Y Khoa, nẩy ra ý kiến, cần phải xuất bản một tờ báo cho Sinh viên Y Khoa. Anh bèn tự đánh máy trên giấy Stencil một giấy mời rồi đem đi in ronéo, và phổ biến tại Trường và các Bệnh viện, thỉnh cầu anh em Sinh viên tới họp để bàn vấn đề này.
Tới ngày giờ ấn định, gần 50 Sinh viên có mặt. Trần Xuân Ninh mở đầu cuộc họp, trình bày những lý do tại sao Sinh viên Y Khoa cần phải có một diễn đàn của chính mình, một cơ quan ngôn luận riêng. Sau hơn 3 giờ bàn luận, mọi người đều đồng ý là phải xuất bản một tờ báo. Toàn thể anh em đề nghị Trần Xuân Ninh làm Chủ nhiệm. Anh Ninh từ chối, lý do là chỉ còn 3 tháng nữa anh sẽ phải lên đường nhập ngũ. Anh em đang chọn người khác thì một câu hỏi được nêu lên khiến mọi người khựng lại:
- “Báo sẽ quay ronéo, hay in ?”
Bàn đi tính lại, quyết định chung là báo sẽ phải được in đàng hoàng, chứ không thể dùng máy quay ronéo được. Vừa quyết định xong, tất cả đều lo. Lấy đâu ra tiền để thuê in báo mỗi tháng ? Nếu là quay ronéo, thì anh em còn có thể cùng nhau xoay trần ra đánh máy, quay máy, đóng tập rồi phát hành - còn in, không thể nào có tiền được. Bỗng anh Phạm Ðình Vy, vừa sắp sửa lên năm thứ 4, phát biểu: “Nhất định là phải in. Tôi quen một ông Tướng có tham dự vào cuộc đảo chánh. Tôi sẽ đến xin ông “viện trợ” cho một số tiền để in vài số đầu. Anh em hoan hô, phòng họp ồn cả lên. Ban Ðiều Hành Tòa Soạn được đề cử gồm: - Chủ nhiệm: Phạm Ðình Vy - Chủ bút: Nguyễn Vĩnh Ðức (Sinh viên Quân y ) - Tổng Thư ký: Trần Xuân Dũng - Thư ký: Nghiêm Sĩ Tuấn.
Cả 3 anh Ðức, Dũng, Tuấn đều sắp sửa lên năm thứ 5 Y Khoa. Ða số Sinh viên dự họp ngày hôm đó đều đồng ý vào ban biên tập. Sau đó vấn đề đặt tên tờ báo được nêu lên. Một số tên liên quan đến chính trị và văn hóa được đề nghị. Phạm Ðình Vy đề nghị tên “Tình Thương”. Ða số cho rằng đặt tên như vậy thì ủy mị quá. Nhưng tranh luận xong, mọi người đồng ý với Vy, vì dù sao hai chữ đó cũng hợp với nghề nghiệp của mình.
 
 
 

Vì công việc làm cho báo, cho nên tôi thường phải đến nhà Tuấn, ở vùng Tân Định. Đó là một căn nhà hẹp, bề ngang khoảng ba thước rưỡi. Ngay sau cánh cửa ra vào là một cái bàn học. Sát ngay bên cạnh là một tủ sách mà tới hai phần ba toàn là sách chữ Hán. Sử Ký của Tư mã Thiên, Nam Hoa kinh của Trang Tử, Thơ của Đỗ Phủ, Luận Ngữ, Mạnh Tử … đủ hết. Tôi còn nhìn thấy cả quyển truyện rất lãng mạn, trữ tình, Tây Sương Ký nữa.
….
Tôi vốn biết Tuấn rất giỏi chữ Hán. Nhưng tôi chưa bao giờ ngờ là Tuấn có thể đọc được những tác phẩm này, bằng nguyên bản chữ Hán. Có lần, Tuấn còn khoe với tôi rằng anh đọc quyển triết học của Hồ Thích, rất lấy làm thích thú.
Tuy số thơ Nhị Thập Bát Tú Nghiêm Sĩ Tuấn sáng tác không nhiều, nhưng mỗi bài đều hoặc là chứa được nỗi ẩn ức của quê hương, khả năng nhỏ bé của con người, hoặc là nói đến sự tàn khốc đến ngu đần của súng đạn. Mặc dầu Tuấn sáng tác những vần thơ này trong lúc còn đang học những năm chót ở trường Y khoa, nhưng mỗi khi đọc, tôi lại cảm thấy dường như anh đã linh cảm xấu.
Không hẳn là một nỗi bi quan thống thiết, nhưng có vẻ tiên đoán về sự yểu mệnh nói chung của các chàng trai thời chiến. Tôi đọc chỉ thấy vậy. Và tự hỏi, sao Nghiêm sĩ Tuấn lại viết ra theo cái cách mà các bậc trưởng thượng thường khuyên nên tránh , vì sợ nó vận vào người. Trong bài thơ “Quê hương”, ta thấy được cảnh vốn thanh bình của làng xóm. Một sự thanh bình đã được mô tả trong phần đầu của bản nhạc “ Làng tôi” của nhạc sĩ Chung Quân. Nhưng đây Tuấn viết cô đọng lại: Rộn ràng chim hót rừng thưa Lắng tai quen thuộc vườn xưa ngỡ ngàng.
Để rồi bỗng nhiên sự tan hoang xảy đến: Đồi xa súng đạn ầm vang Cành khô bặt tiếng giấc vàng tan mau (Quê Hương)
Rồi khi chiến tranh lan rộng, không còn chỉ ở trên đồi núi xa xăm nữa, mà đã tiến dần về thành phố:
Đêm mở cửa , hỏa châu rơi, Ngu đần la mãi bên trời sắt kêu. ( Bạn cũ) Bom Đạn là những vật vô tri. Những kẻ xâm lăng đem sử dụng, hay những người cần tự vệ phải dùng tới, thì bom đạn cũng vẫn phát ra tiếng nổ. Không cần biết phải trái. Nói vắn tắt: kêu lên một cách ngu đần. Con người đạo mạo Nghiêm sĩ Tuấn, tuy không hề đề cập tới bộ phận sinh dục của phái nữ , bằng cái tên cúng cơm của nó, nhưng điều này không có nghĩa rằng Tuấn là một người ghét đàn bà (misogynist) . Tuấn cũng có những mơ mộng, tuy ít khi tâm sự với ai về chuyện này. Thế nhưng , trải được ý ra trên trang giấy:
Sóng ngân gợi nhớ xưa chìm Hoa bay thấp thoáng tưởng em nét cười. (Người yêu) Trong cuốn Thơ Đường của Giáo sư Trần Trọng San, có đoạn viết dưới đây: “Trong thời Khai Nguyên, vua Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi ra chơi vườn thượng uyển, có cho vời Lý Bạch, sai làm những khúc ca mới để cho nhạc đội ca hát. Thi sĩ soạn xong ba bài thanh bình điệu trong khi đương say.”
Lý Bạch mở đầu Thanh Bình Điệu với câu:
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung. ( Trông đám mây tưởng là xiêm áo nàng . Trông đóa hoa tưởng là vẻ mặt nàng .) Thật là một câu tuyệt tác.
Nghiêm sĩ Tuấn không cần chuếnh choáng say , đặt bút xuống, cũng vẽ lại được vẻ thanh thoát, tươi vui của giai nhân: Hoa bay thấp thoáng tưởng em nét cười.
Có một thời, khoảng gần cuối năm thứ sáu Y khoa ,Tuấn đi thực tập tại khu nội khoa Bệnh viện Nhi đồng. Tuấn để ý tới một nữ y tá. Nàng có vẻ cũng có cảm tình với Tuấn. Gần hết năm Âm lịch, một bữa tiệc tất niên được tổ chức cho các Bác sĩ, Sinh Viên,Y tá đang làm việc tại đây. Đã thu xếp từ trước, Tuấn đến nhà nàng chở nàng đi dự tiệc trên một chiếc xe mobylette. Có lẽ đây là lần đầu tiên Tuấn có hân hạnh được cùng với một người con gái đi dự tiệc. Lẽ dĩ nhiên, tiệc tùng vui vẻ cho tất cả mọi người. Đến khi tan tiệc, nàng từ chối không chịu ngồi trên xe mobylette để Tuấn chở về nữa .Nàng quyết định về bằng xe hơi với một nữ bác sĩ làm ở trại này. Tôi không biết rõ người nữ y tá này có phải là người trong bài thơ trên đây hay câu thơ của Tuấn đã tả vẻ duyên dáng của một thiếu nữ khác.
Thơ của Tuấn thường bí hiểm, xa xôi. Khi đọc xong một bài thơ khác Tuấn viết, đặt tên là “Đất lạnh”, tôi suy nghĩ. Sao Tuấn lại có thể dùng hai chữ này để đặt tên cho bài thơ. Có vẻ như là nói gở.
Miền Nam đang bị cộng sản miền Bắc gia tăng việc xâm lăng. Chỉ còn ít hôm nữa chúng tôi sẽ ra trường và sẽ được trưng tập để trở thành y sĩ trong quân đội. Sau khi học xong năm thứ sáu, tất cả nam sinh viên đều phải trình diện nhập ngũ. Tới đúng ngày giờ ấn định, đám nam Bác sĩ vừa mới ra trường chúng tôi, gồm 73 người tập họp tại một địa điểm ở vườn Tao Đàn. Ba chiếc xe GMC chở chúng tôi lên trung tâm huấn luyện Quang Trung. Đến hết chiều có mấy chiếc xe GMC tới, chở chúng tôi lên trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Thời gian chúng tôi phải học ở Thủ Đức là chín tuần lễ.
Sau khi mãn khóa tại Thủ Đức chúng tôi còn phải học thêm bốn tuần về hành chánh quân y tại trường Quân Y. Trường này nằm tại Sài Gòn. Khóa chúng tôi không phải ở lại trong trường. Ngày hai buổi đi học. Sau cả hai thời kỳ huấn luyện, đến lễ mãn khóa chúng tôi được đeo lon Y sĩ Trung uý.
Ngày chọn đơn vị đi phục vụ là một ngày quan trọng. Người nào đậu cao nhất, do điểm ở Thủ Đức lẫn Quân Y cộng lại, sẽ được gọi tên chọn chỗ trước nhất. Được chọn đầu tiên có nghĩa sẽ được chỗ tốt nhất theo ý mình. Đại khái, những đơn vị quân y tĩnh tại, được sắp vào loại tốt. Tốt ở đây, không liên quan gì tới việc nổi tiếng hay không. Chẳng do cơ sở lớn hay nhỏ. Cũng không vì trang bị tối tân hay thô sơ . Chỗ tốt trong trong trường hợp này, là nơi nào an toàn nhất. Khi những chỗ trong các đơn vị quân- y tĩnh tại (Tổng yviên,Quân y-viện hay bệnh viện dã chiến) đã được chọn hết, những người còn lại sẽ phải chọn những chỗ thuộc Quân-Y binh-đoàn. Những chỗ nguy hiểm nhất trong nhóm này, thuộc về các lực lượng tổng trừ bị. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa có hai lực lượng tổng trừ bị là Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Tỷ lệ tử vong trong hai binh chủng này rất cao. Ở nơi nào chiến trường khốc liệt nhất, nơi đó Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến sẽ được gửi tới. Có khi cả hai . Trong mỗi tiểu đoàn tác chiến của hai binh chủng này đều có một bác sĩ đi theo. Các y sĩ phục vụ tại đây cũng sẽ trải qua những sự nguy hiểm như các chiến sĩ khác của tiểu đoàn. Còn trong các sư đoàn bộ binh, phải cấp trung đoàn mới có một bác sĩ. Trung bình mỗi năm sẽ có khoảng 6 chỗ cho sư đoàn Nhảy Dù và 6 chỗ cho Thuỷ Quân Lục Chiến.
Bắt đầu buổi chọn chỗ, một vị sĩ quan đọc lên thứ tự những người cao thấp trong bảng xếp hạng. Tôi đứng thứ 71, trên tổng số 73 người. Nhìn lên trên bảng liệt kê những đơn vị sẽ được chọn trong khóa này, tôi nhẩm tính qua, biết rằng tới lượt mình, không vào Nhẩy Dù, ắt cũng đi Thủy Quân Lục Chiến. Trước giờ chọn chỗ, một điều được thông báo rõ ràng cho tất cả mọi người rõ: “ Rằng ai muốn chọn về Nhẩy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến, chỉ cần giơ tay lên mà không cần phải đợi đến lượt tên mình được gọi. Thí dụ người đậu thứ 73, bất cứ giờ phút nào muốn chọn về đó, chỉ cần giơ tay lên,sẽ được chấp thuận ngay”. Nghe xong,có tiếng xì xào,bàn tán. Người đậu thứ 72 là Nghiêm Sĩ Tuấn, liền giơ tay lên. Vị sĩ quan hỏi:“Anh chọn gì?” Tuấn đáp:“Nhảy Dù”.
Sau khi ký giấy tờ Tuấn bước ra khỏi phòng. Không cần để ý đến ai sẽ đi đâu, và bao giờ buổi này mới chấm dứt.
Khi thấy Tuấn chọn xong, tôi hiểu ngay Tuấn đã thực hiện cái ý đã diễn ra trong một bài thơ làm từ trước :
Cung Dâu dựng nhắm phương nào Ngập ngừng tên cỏ ngày cao chất chồng Mai sau đó gửi về không Bóng vươn tinh đẩu mơ vùng núi cao (Tuổi đứng)
Sau khi trình diện Quân y Nhảy dù, Tuấn được làm Y sĩ trưởng tiểu đoàn 6 Nhảy Dù. Trong tất cả các đơn vị của lực lượng Tổng Trừ Bị, chỉ có hai tiểu đoàn có hậu cứ tại Vũng Tàu. Đó là Tiểu đoàn 6 Nhẩy Dù (đơn vị của Tuấn) và Tiểu đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến (là đơn vị của tôi) . Trại tiểu đoàn 6 Nhẩy Dù nằm gần Bãi Sau.
Kể từ khi đáo nhậm đơn vị tôi và Tuấn không có dịp gặp lại nhau nữa . Tuy cả hai hậu cứ đều ở Vũng Tàu, nhưng trên thực tế phải 2,3 tháng đơn vị mới được về nghỉ khoảng một, hai tuần lễ. Do đó Tuấn và tôi, mỗi người chỉ có việc theo đơn vị mình đi hành quân mà không có dịp nào gặp nhau cả.
Khoảng một, hai tháng sau Tết Mậu Thân, tôi đang làm việc tại Bệnh xá Thủy Quân Lục Chiến trong trại Cửu Long ,Thị Nghè, thì được tin Tuấn tử trận .Tôi bàng hoàng cả người, mặc dầu vẫn biết rằng, một cái tin như vậy, là chuyện thường ngày đến với những gia đình có con , em , hoặc thân nhân phục vụ trong lực lượng Tổng Trừ Bị. Xác Tuấn được đưa về Sài gòn. … Lê sĩ Quang và tôi bước vào nghĩa trang Mạc đĩnh Chi. Đi dọc theo con đường, thẳng từ cổng vào, tôi ngó sang phía bên tay phải nhìn vào hai ngôi mộ của Tổng thống Ngô đình Diệm và người em là Ngô đình Nhu, bị sát hại trong cuộc đảo chính 1-11-1963. Tôi đi thêm vài chục thước nữa, rồi rẽ sang phía tay trái tới gần cuối, góc phía sau của nghĩa trang.
Thân nhân của Tuấn đang sụt sùi . Cạnh đó là một cái huyệt mới được đào xong. Chiếc áo quan chưa được đặt vào trong huyệt. Tôi nhìn quanh Số người dự đám tang không nhiều lắm. Các bạn cùng lớp, thì mỗi người đang ở một đơn vị xa, trải dài từ Bến Hải xuống đến Cà Mâu, nên không về được. Một vài đồng nghiệp đang được làm việc tại Sài Gòn có đến dự. Lê Sĩ Quang ở Liên đoàn 5 Công Binh Kiến tạo Hóc Môn, nên đương nhiên cũng kể như ở Sài Gòn. Ngoài ra còn có vài người thuộc Quân Y Nhẩy Dù. Khi áo quan đã hạ huyệt, vài người bạn học cũ tại trường trung học Chu Văn An, hay bạn đồng nghiệp của Tuấn tỏ lời tiếc nhớ bạn xưa . Anh Trần Xuân Ninh đang làm tại Bệnh viện Nhi đồng cũng có mặt, vừa khóc vừa nói lời vĩnh biệt. Không có một người nào long trọng đọc một bản điếu văn như trong những đám tang khác. Những người hiện diện hôm nay tiễn đưa Tuấn , tuy số lượng ít nhưng tất cả, lòng thương xót bạn lại vô bờ bến. … Độ một tuần sau, tôi có việc phải trở lại Vũng Tàu một ngày. Tôi đến thăm Giáo Sư Nguyễn Văn Quyên, cũng là một bạn của Tuấn . Chúng tôi buồn, ngồi nghĩ đến bạn. Quyên hỏi tôi, “tối nay ngủ ở đâu”. Tôi đáp: “ vào trại thủy quân lục chiến”. Quyên cản lại: “Thôi, ngồi lại đây đến khuya, anh em mình nói chuyện với nhau. Rồi sau đó hoặc là ngủ trong nhà này hoặc là vào phòng của Tuấn cũng trong cư xá này cách đây 50 thước. Tiểu đoàn 6 Nhẩy Dù , có vài căn phòng trong cư xá này, dành cho sĩ quan của đơn vị. Mỗi lần, trước khi đi hành quân, Tuấn đều giao chìa khóa phòng cho tôi.” Tôi trả lời Quyên: “Ừ được, tôi sẽ ở phòng Tuấn”. Khuya đến. Quyên đưa tôi chìa khóa.
Tôi bước hết một đoạn đường nhỏ. Tôi tra chìa khóa vào ổ. Phải xoay 2,3 lần mới mở được cửa. Trong phòng tối om. Tôi đưa tay bật đèn. Một cái giường xếp , trống không. Một cái bàn nhỏ với một cái ghế. Ở vai ghế, có vắt một cái áo rằn ri của binh chủng . Trên túi áo ngực bên tay phải có thêu tên Tuấn và trên chữ này có một cánh dù. Tôi ngó lên tường, không thấy treo một bức hình nào cả. Tôi đặt mình trên chiếc giường xếp mà mỗi lần Tiểu đoàn 6 hành quân xong, được về Vũng Tầu nghỉ, Tuấn đã nằm. Tôi nhớ tới bài thơ của anh trước đây tôi đọc, và đã cảm thấy sao như có vẻ nói gở:
Đất lạnh Hồ Trường một dốc chưa say Lưng đau cát sỏi ai thay xương mình Điểm trang khô mắt đăng trình Nghiêng thêm băng gía hồi sinh đợi ngày. Nghiêm Sĩ Tuấn …
Trong hai năm 2013-2014, Úc châu có một chương trình thu thập những sự kiện lịch sử bằng cách phỏng vấn mấy chục cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Người phụ trách cuộc phỏng vấn này là Giáo Sư Natalie Huỳnh Châu Nguyễn, đại học Monash tỉnh Melbourne.
Tôi cũng là một trong những người được phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh, kéo dài ba tiếng đồng hồ, có ghi âm. Trong lúc kể lại việc nhập ngũ và rồi phục vụ trong lực lượng Tổng trừ bị , tôi chợt nhớ đến Nghiêm sĩ Tuấn. Tôi nghĩ bụng, trong cuộc chiến Việt Nam, biết bao thanh niên miền Nam đã trở thành những anh hùng vô danh. Nghiêm sĩ Tuấn là một trong những người đó. Tôi tự bảo , “những băng hay đĩa ghi âm này sẽ được lưu trữ trong Thư viện quốc gia Úc. Mình phải nhắc đến Tuấn.” Năm 2016, một phần tài liệu trong những cuộc phỏng vấn đã được vị giáo sư này in ra thành sách với nhan đề South Vietnamese Soldiers, bởi nhà xuất bản Praeger , Hoa Kỳ. Sau khi nhìn thấy tên Bác sĩ Nghiêm sĩ Tuấn được in lên trong một đoạn do tôi đã trình bày trong cuộc phỏng vấn, tôi cảm thấy như mình đã thắp được một nén hương trước bàn thờ anh.
 
 
 Hình chụp một đoạn do tôi trình bầy, được in trên trang 74 trong cuốn sách South Vienamese Soldiers của Giáo Sư Nathalie Huynh Chau Nguyen, nhà xuất bản Praeger, 2016, Hoa Kỳ.