khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 8 tháng 5, 2021

Đời là vậy!- Tác giả Vương Hồng Sển

 

Tuy rằng sáo nhưng cần nhắc lại: “Ơn đất đai thủy thổ, cây cội nước nguồn”, những sự ấy đừng quên mới phải con người có trước có sau.
Kể về cố cựu nhiều đời, tổ tiên ông bà tôi ở đường nay gọi là Hai Bà Trưng, kể đã ba xác nhà, dỡ ra dựng lại, tấn phát mỗi lần một chút, từ ban căn nhà lá ky-cóp dựng được ba căn lợp ngói vách gạch, sau bị chánh-phủ Pháp ép xây lại hai căn phố có lầu, chính tôi đã sống trong ban căn nhà ngói trệt ấy, từng bị trận bão năm giáp-thìn 1904, làm ngã cây me đè trên nóc mà nhà không sập, trận bão tai hại, người dân chất-phác thời đó đó gọi “rồng đi” đã qua rồi, nhưng dân còn nhắc nên gọi “đường Hàng Me”, me trốc gốc, dẹp đi và thay vào trồng theo lề đường hai hàng sao suôn-đuột và đổi gọi “đường Đại-Ngãi”, vì quả con lộ nầy chạy thẳng ra Vàm Tấn trên sông Ba-Thắc, còn tên nữa là Đại-Ngãi, đến năm 1922, tôi đã lên học trường trung-học Chasseloup Laubat ở Sài-Gòn, thì nhà nước địa phương, nhớ là ông Chánh tên Antoine Bon, ra lịnh phố đại-lộ Đại-Ngãi phải xây thêm lầu cho thành phố được khang trang tân tiến, vì vậy Ba tôi phải dỡ ba căn nhà trệt đáng tiếc và còn tốt chắc làu-làu, dồn lại và thay bằng hai căn phố có một tầng lầu mang số 31 và 33, và kể từ năm 1945 sau nhiều cuộc đổi thay biến chuyển, đường Đại-Ngãi đổi lại gọi là “đường Hai Bà Trưng”, tuy đường đã đổi tên mấy lần, các căn chung quanh sang tên và đổi chủ ở không biết đã bao phen, nhưng hai căn nhà của Ba tôi vẫn còn y chỗ cũ, và Ba tôi, thọ đến 86 tuổi (mất năm 1962), vẫn hãnh diện không đổi chỗ ở, vẫn mỗi sáng sớm, Ba tôi xách ghế tre ra ngồi trước cửa xem người qua lại, dân cư lớp nầy thay lớp khác, nước sông cứ chảy, nhưng hai căn phố lầu vẫn tồn tại, nay là rạp hát bóng hiệu “Dân Ta”, và Ba tôi tuy đã mất nhưng người cố-cựu đất Sốc-Trăng vẫn còn nhắc mãi: “ông già đơn tam đường Hai Bà Trưng”.
Đến lượt tôi, tôi không được như vậy. Năm 1947, vì thời cuộc, tôi phải chạy lên Sài-Gòn, tưởng rằng tạm lánh nạn, ngờ đâu có số ly hương mới khá, nay tôi đã có nhà vĩnh-viễn ở Gia-Định, và cánh én lâu ngày xây tổ mới, tôi đã thành dân thiệt-thọ đất Gia-Định rồi, vì sống ở đây đã được tròn bốn mươi năm dài; tuy vậy, “con chim về già nhớ tổ”, tôi làm sao quên được đất Sốc-Trăng là nơi chôn nhau cẳt rún, và lại là nơi đất nằm của tổ-tiên, và có lẽ cùng là nơi tôi sẽ được về nằm dưới phần mộ Ba tôi và Mẹ tôi sau nầy.
Tôi là người thuộc lớp cũ, hiểu việc đời cũng theo lối cũ, và bất cứ vật gì khi lọt vào tay tôi, là tôi cố gìn-giữ cho được y nguyên, để cho cháu con sau nầy hiểu và biết “có nay phải có xưa và không có xưa, thì làm sao có nay” là vậy.
Ham thay đổi mau quá, bỏ hết vật cũ và thay lại hoàn toàn mới, theo tôi, là không phải chính sách hay. Tỷ dụ vừa rồi tôi có lời tiếc mến cái nhà xưa của lão trạng-sư Bertrand, tuy lão là thầy kiện đã từng xúi-đốc kiện-tụng, làm hư cửa nát nhà nhiều gia đình trong xứ, nhưng nhà của lão, kiến-trúc theo kiểu Tây-phương, còn lành lẽ, chỉ hư cái nóc và có thể sửa chữa lại được, nay phá bỏ thì đã làm mất một di-tích của tỉnh nhà rồi. Đáng tiếc vậy, và cũng là vì cạn suy và không thấu xét vấn đề “bảo tồn cổ-tích”.
Một tỷ dụ khác là hôm tôi về viếng tỉnh quê-hương nầy, tôi đến viếng chốn trước có ngôi trường học cũ, thấy cảnh hoàn toàn đổi thay, bất giác tôi không cầm được giọt lụy hoài-cổ. Trường học cũ tỉnh Sốc-Trăng như tôi đã biết, vốn là một đồn sơn-đá (blockhaus, nay ta gọi là “lô-cổ”), của ba chú Tây cất lên khi đến chiếm đóng ở đây, vách xây gạch thức rất dày, dưới chơn vách dày cả thước, lên từng lầu, vách dày đến ba tấc (0m30), ván-rầm bằng cây giả-tỵ dùng trăm năm không hư, năm chống Tây 1945, khi rút lui vội đốt cháy nóc, lẽ đáng tu bổ lại không tốn bao nhiêu mà cứu được một di-tích cũ, còn dùng làm trường học hay làm kho chứa dụng-cụ thì bền chắc vô cùng, và thêm hay thêm đẹp, nay đã phá lỡ, có lẽ vì ham lấy gạch dùng vào việc khác, hoặc đã vụng tính định phá như vậy để dẹp bỏ một di-tích làm chướng mắt, và quên rằng ghét lão thầy kiện Tây bày mưu thiết kế con kiện cha, vợ kiện chồng, chớ ngôi nhà cũ của lão đáng để lại cho người hậu-lai biết tàn-tích của thực dân, thì đó cũng là một ý nghĩ cao đẹp như bao nhiêu ý nghĩ khác, cũng như cái đồn sơn-đá trường học cũ nầy, chớ chi để nó lại cho người đời sau biết đó là di-tích Pháp, ta đã thâu đoạt khi Pháp rút lui, như vậy chẳng là hay hơn ngày nay phá chẳng hay ho chút nào. Nội khoảnh đất rộng do lấp con kinh Delanoue, sao không trồng hoa dọn làm hoa-viên và làm nơi tập thể-dục, lại phá trường đào ao, thật là lãng phí.
Chung qui cảnh nhà trường xưa, ngày nay chỉ còn lại một cụm đa cổ-thụ xanh om như trước và ngạo-nghễ nhứt là còn sót lại hai đại thọ "gốc dầu” to ba vòng tay ôm không giáp, một gốc trước ở gần miệng một giếng nước ngọt nay đã lấp, còn gốc kia nhớ là cây dầu thiên-niên che mái nhà của lão đốc-học què, ông Francois Gros, đã từng đào tạo nhiều thế-hệ cha ông đám thanh niên hiện tại. Nhưng như đã nói, thấy cảnh “sao dời vật đổi” như vầy thì đau lòng, nhưng tôi làm sao trì-kéo đà tiến-hóa của xã-hội ngày nay, trẻ nay khác và khôn hơn lớp trẻ xưa như tôi rất nhiều, và người lớp mới có ý nghĩ rất khác tôi, tôi tôn-cổ và lỗi-thời, họ tân-tiến, họ mặc tình “thay cũ đổi mới”. Có ý xem: ghế trường-kỷ lớp xưa nay đâu còn, hoặc đã hư tệ hoặc đã vào trong bếp làm củi chụm; bàn thờ tổ-tiên không dẹp thì cũng thâu nhỏ lại, bàn đánh ping-pong thay bộ ván gõ; anh Lê Ngọc Trụ đã không còn, bao nhiêu sách nơi thơ-viện quốc gia nay đã tứ tán xiêu-lạc; nhớ anh Nguyễn Hiến Lê, cặm cụi viết hơn trăm bộ sách dạy đời, mà người con duy nhứt của anh nay đậu bằng cao, đã nhiễm văn hóa Pháp và nghe nói nào đọc văn Việt của người cha để lại. Ô hô! Văn minh là vậy, tôi cười người mà ai sẽ cười tôi, tôi ham đồ cổ đồ xưa, mà con tôi chỉ ham đồ cổ khi đồ cổ hóa ra kim-ngân bỏ túi.
Bồn-chồn tích giận đã nhiều đời, đắc thắng bồng-bột đập phá cho đã nư, và khi hết giận, nhớ lại “giẻ rách đỡ nóng tay” thì đã trễ!
Đời là vậy đó, bởi tôi ngu dại nên nói ra cho người ta cười.

Nói chuyện với cõi âm: Màu của linh hồn - Tác giả Tuấn Khanh


Vô tình xem được một buổi trò chuyện của thầy Thích Pháp Hòa, vào cuối năm 2020, có một người đưa lên câu hỏi rằng chuyện nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nói chuyện được với hồn ma, và đã từng giúp tìm được hàng ngàn hài cốt, vậy chuyện ấy là như thế nào. Sau đó, mọi người được một tràng cười.

Mọi thứ ngỡ là quá khứ xa lắm, phút chốc dội về với bao nhiêu thứ.

Chuyện một phụ nữ tuyên bố mình có khả năng nhìn thấy một cõi khác, có thể can thiệp và cứu giúp sự tồn tại trong hai thế giới cùng lúc, có thể là chuyện thú vị trà nước, nhưng cũng được nhìn thấy như một sự thao túng tiến trình sống thực tế của con người bằng những điều huyễn hoặc. Nó giống như việc các nhà triết học viễn mơ đưa ra lý thuyết đi về một xã hội cộng sản ở một cảnh giới nào đó, xa lắm nhưng lại thao túng con người ở xã hội đương thời với từng ngày, từng giờ, buộc phải đi đến.

Bà Hằng từng là nhân vật showbiz hạng nhất của xã hội Việt Nam từ giai đoạn 2009 đến 2013, đỉnh cao là những chương trình truyền hình theo chân bà, gọi là tìm hài cốt liệt sĩ. Hàng triệu người đã khóc cười, ngã nghiêng theo các điều được ca ngợi là kỳ diệu của bà, cho đến khi show truyền hình của đài VTV, có tên “Trở về từ ký ức” bất ngờ nói ngược lại mọi thứ, nói tất cả là một trò lường gạt của bà Hằng. Thậm chí các mẫu xương cốt tìm được, có sự xác nhận của Viện Pháp y Quân đội là toàn xương chó, mèo, heo.

Có vẻ như show truyền hình ấy đã theo chỉ đạo, kết thúc giai đoạn tôn vinh và sử dụng bà Hằng vì lý do nào đó, đặc biệt vào thời điểm có tin các nhóm sinh hoạt thờ ông Hồ Chí Minh có ước muốn bà trò chuyện với ông ở cõi âm. Và dù là bị tố là lừa gạt, và xúc phạm đến hài cốt bậc lão thành cách mạng như Phùng Chí Kiên, lại không thấy bà bị khởi tố, thậm chí bà cũng chẳng đưa ra lời giải thích nào. Thật lạ.

Một lần trả lời phỏng vấn vào năm 2010, bà Hằng khi được hỏi là ngoài việc thấy các linh hồn liệt sĩ, bà còn thấy gì khác không, bà nói là thấy mọi thứ, kể cả thấy nhiều linh hồn lính Ngụy chết, sợ sệt và mặc cảm vì mình là kẻ có tội. Vào năm tháng đọc được phần trả lời ấy, tôi nhớ rõ mình bật cười khan, vứt tờ báo sang một bên, từ chối nghe mọi sự thao túng của bà ta từ các câu chuyện huyền diệu được xưng tụng. Ối Hằng ơi là Hằng!

Trong bài “Chuyện chưa kể về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng”, xuất hiện ở nhiều báo nhà nước, có đoạn nghe mà buồn nôn. Bà Hằng kể là khi đi tìm mộ liệt sĩ ở công viên Lê Thị Riêng, Sài Gòn, bà thấy một linh hồn lính Ngụy muốn nhờ bà nhắn giùm với gia đình, nhưng không dám vì luôn e sợ các liệt sĩ bộ đội chôn ở gần đó.

Trong một đoạn khác mô tả đi tìm mộ ở Bình Định, bà Hằng dành hẳn một đoạn kể là bọn Mỹ Ngụy ngày xưa ác lắm, mổ bụng moi gan một người trong làng và đóng đinh treo lên cây. Và còn mô tả là bà nhân đức nên thắp hương cho lính Ngụy nhưng “người trong làng xô ra không cho thắp”.

Lời mô tả rập khuôn sách giáo khoa dạy căm thù. Thậm chí mô tả là dân làng nhắc đến Mỹ Ngụy là giận đến mức muốn lấy đá, búa… dần xương cốt của chúng được tìm thấy, may mà bà can ngăn.

Cuối cùng, linh hồn một anh lính Ngụy dắt bà đến chỉ chỗ một hài cốt bộ đội, và trong bài ghi chép ấy kể như sau: Hằng bảo với dân làng: “Vậy là anh ta đã lấy công chuộc tội rồi, mọi người không nên căm thù nữa nhé!”.

Trong cảnh giới tâm linh của bà Hằng, rõ ràng linh hồn có màu: Màu cách mạng, màu Mỹ Ngụy và màu nhân ái cao cả của tinh thần chủ nghĩa cộng sản.

Có thể bà Hằng rất giỏi chuyện tâm linh, có thể bà nhìn thấy được cõi âm, nhưng khả năng ấy cúc cung phục vụ cho định kiến, cho chính trị, nên mọi thứ của bà đọng lại, cũng chỉ là một loại tà quyền, hay tệ hơn, là tay sai của tà quyền. Có thể nhờ những công lao tạo dựng rõ cảnh trí “địch-ta” đó ở khung cảnh đại vĩ tuyến, mà bà Hằng bình an vô sự, thậm chí hôm nay vẫn nhận lời đi tìm hài cốt và diễn thuyết tự tin ở chùa Hoằng Pháp.

Một ngày cuối tháng 4, gợi nhớ giờ phút kết thúc một cuộc chiến nhưng không phải là thôi những cái chết oan khiên trên đất nước Việt Nam. Rồi nhớ đến chuyện của nhà ngoại cảm quốc doanh Phan Thị Bích Hằng, nên tự hỏi, có bao giờ bà lắng nghe những linh hồn thanh niên miền Bắc chết vô danh trên những chiếc võng ở dãy núi Trường Sơn, chết ngậm ngùi ở đồi Charlie, hay bà có nghe thấy lời của cô gái Đặng Thùy Trâm, chết mang theo một giấc mơ hòa bình thiếu nữ, vùi thân trong một cuộc chiến tranh khốc liệt mà không thể hiểu được, phía sau tiếng súng cuối cùng ấy, là gì?

Bức tường đá đen: Đài tưởng niệm cho hiện tại sâu thẳm - Tác giả Trần Tiến Dũng



 

Tôi đến Quảng Trường Quốc Gia (National Mall) ở thủ đô Washington, nơi có đài tưởng niệm những người lính Mỹ chết trận ở Việt nam. Tôi quen gọi nơi này là bức tường đen. Đi cùng tôi có anh Trịnh Cung và anh Trương Vũ (Trương Hồng Sơn). Chính anh Trương Vũ đã lái xe đưa chúng tôi đến đây vào một sáng mùa xuân.

Chúng tôi đi bộ xuyên qua những khoảng xanh công viên. Trên lối đi bộ, nhiều lần chúng tôi phải bước lên cỏ để tránh đường cho những chiếc xe tỉa cây; và những lần như vậy khiến tôi nhớ mỗi khi đi đường phải ngó lung tung để né xe ở Việt Nam.

Tôi không nhớ rõ anh Trịnh Cung và anh Trương Vũ nói những gì trong lúc cùng tôi đi bộ. Tôi chỉ nhớ là tôi đã nói huyên thuyên với các anh ấy cảm nhận của tôi về cây cỏ nước Mỹ. Mọi giống thực vật ở đây đều lạ lùng. Lạ lùng hơn nữa là chuyện sinh lực tràn trề của màu xanh lục xứ ôn đới.

Lúc đi qua cái hồ nước nhỏ ở công viên, tôi nhìn thấy những con thiên nga đen cùng một bầy vịt. Tôi chỉ chú ý vào những con vịt và không muốn phân biệt chúng là vịt trời, vịt Mỹ hay vịt Ta. Tôi vốn ưa loài vịt, nhưng những con vịt ở đây lại không có gì đáng gần gũi thương cảm như vịt ở quê tôi. Ở đây, từ vịt mẹ cho đến mấy con vịt con chỉ nhỏ bằng nắm tay đều có vẻ xa lạ. Tôi đọc thấy sự xa lạ này là do cái phong cách chúng tự nhiên kiếm ăn, rỉa lông và sống không lo sợ giữa thế giới con người.

Đi qua hồ nước một chút, tới chỗ bán đồ ăn nhanh và restroom, chúng tôi bước vào hàng cây liễu đang giăng cành lá thành một tấm rèm xanh mượt. Những chùm bông đỏ nở rất dày buông xuống mạnh mẽ như một cách chọn lựa không đắn đo cho chuyến đi trở về với đất.

Ký ức không thể sắp đặt

Tôi mong tới công viên này, tới bức tường đen vì bị thôi thúc bởi ký ức tuổi thơ. Tôi nói với anh Trương Vũ như vậy. Các anh có ký ức trần trụi hơn tôi về những người Mỹ đã đến miền Nam Việt Nam trước đây, ký ức của những người vào thời điểm ấy đã trưởng thành. Trong khi ký ức của tôi về người Mỹ là của một cậu bé. Người Mỹ của tôi thuộc về những năm tháng thập niên sáu mươi, thuộc về nơi chốn ghi trong khai sinh của tôi: Ấp Long Thuận, xã Long Chánh, tỉnh Gò Công. Trong cái hẻm số 3 thuộc thị xã, dưới dốc cầu Long Chánh. Cái hẻm là nơi sống của nhiều gia đình chạy nạn chiến tranh từ thời Việt Minh nổi dậy.

Trong tôi có hình ảnh những người lính Mỹ da đen và da trắng. Những năm tháng ấy, ngày nào họ cũng lùng sục từng gia đình để tìm những đứa con nít có bệnh, có ghẻ, có răng sâu… Những người lính Mỹ đầu tiên có trong ký ức của tôi là những người có thân hình hộ pháp và không cầm súng. Tôi không hiểu vì sao những người lính quân y này bỏ nhiều công sức đến vậy để chỉ tìm những đứa con nít. Tôi nhớ lúc đó gần cườm chân phải của tôi có mụt ghẻ mà dân gian gọi là ghẻ hòm; cái mụt ghẻ này là do lúc tôi đá banh bị trầy da. Một vết trầy da đối với thằng nhóc xóm lao động thì đâu có nhằm nhò gì, dù vết thương chỉ được xức thuốc đỏ sơ sơ và cộng với tật ở dơ nên lâu ngày thành ghẻ hòm.

Tôi không bao giờ quên được một ông Mỹ trắng đã dùng bàn tay to bè phất phới lông vàng nắm lấy chân tôi, tay còn lại cầm kéo kẹp miếng gạc rửa ráy, xức thuốc mụt ghẻ mấy ngày liền, mỗi lần như vậy tôi đau đái ra quần. Mụt ghẻ trên còn để lại vết thẹo trên chân tôi, còn ông Mỹ trằng với tóc vàng mắt xanh, lờ mờ trong ký ức ấy không biết bây giờ ở đâu!

Tại sao một cậu bé phải nhìn người lính Mỹ theo cách mà hai phe trong cuộc chiến tuyên truyền? Tôi có quyền nhìn nhận người lính Mỹ xức ghẻ cho tôi là một phần trong sáng của ký ức tôi.

Chúng tôi đến bức tường đen từ một phương hướng tôi không định hình được, vì hôm ấy mặt trời bị khuất trong mây. Khi bức tường đen lọt vào tầm mắt, tôi bắt gặp một con sóc ngồi chồm hổm dưới một gốc cây cạnh lối đi. Đôi mắt đẹp của con sóc làm tôi muốn chụp hình nó. Ý tưởng của tôi là chụp đôi mắt đẹp ngây thơ của con sóc và bức tường đen phía sau. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ có bức hình con sóc với gốc cây. Toàn bộ không gian của công viên này hiển hiện tự do, không để cho bất kỳ ý tưởng nào có thể sắp đặt.

Tôi nhớ hình ảnh một chiếc trực thăng rơi ngoài ấp chiến lược ở quê tôi. Bốn, năm ông lính Mỹ nằm cạnh tứ phía của chiếc trực thăng đó, thì bọn con nít chúng tôi bên bờ ấp chiến lược cũng tò mò ngồi mấy tiếng đồng hồ chờ coi mấy ông lính Mỹ làm gì. Lúc ấy tôi nghĩ mấy ông Mỹ này sao khờ quá. Nơi trực thăng rơi cách thị xã Gò Công chưa đầy hai cây số, vậy mà sợ nỗi gì! Lính đầy! Ai ăn cắp được chiếc trực thăng mà sợ mất!

Chiến tranh của người lớn lúc ấy giống như chuyện tụi con nít khác xóm với chúng tôi chơi trò chia phe đánh nhau. Nghĩ lại tức cười thiệt! Chiến tranh của người lớn trong cái nhìn non nớt của tụi tôi cũng tức cười không kém. Đơn cử như chuyện sơn mấy gốc cây: Buổi tối mấy ông Cộng Sản ra sơn cờ giải phóng; buổi sáng thì lính quốc gia lại bôi đi, rồi sơn cờ Việt Nam Cộng Hoà; cứ làm đi làm lại mỗi ngày như vậy, giống như một trò chơi đã được sắp đặt trước.

Tôi không biết mấy người lính Mỹ giữ chiếc trực thăng rơi ngày ấy bây giờ ra sao. Nhưng bây giờ thì tôi biết: Trong toàn cảnh chiến tranh người ta không thể sắp đặt cho chuyện còn mất của mỗi số phận.

Hiện tại nghiệt ngã và cay đắng

Lúc tôi đến, thủ đô nước Mỹ chưa khánh thành bia tưởng niệm những nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn thế giới. Và nghị viện châu Âu chưa thông qua nghị quyết về tội ác chống nhân loại của chủ nghĩa Cộng Sản. Trong khi tôi có mặt ở nước Mỹ, thì đứa con trai tuổi thiếu niên của tôi trong trường trung học phổ thông ở Việt Nam vẫn phải học bài “Chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết”. Con tôi thuộc thế hệ 9x. Đối với tất cả học trò ở Việt Nam thuộc các thế hệ sinh sau 1975, bài học về “tội ác của đế quốc Mỹ” là bài học bị bắt buộc phải ghi nhớ.

Đài tưởng niệm “The Vietnam Veterans Memorial” được dựng bằng đá đen thành một bức tường màu huyền, trên đó khắc tên bằng chữ màu trắng của hơn 58.000 người lính Mỹ tử trận. Chiều sâu bên trong của chất đá ấy, bắt đầu từ phía thấp nhất của bức tường, vạch ra riêng một đường chân trời, mở ra riêng bầu trời đen huyền. Chúng tôi và những người đã đến đây, dù muốn hay không vẫn thấy bóng mình trong bầu trời đó. Bầu trời của hôm nay, một thời đại khác sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam.

Từ hướng chúng tôi đi tới, bức tường đá đen nhô lên. Chỗ bức tường bắt đầu nhô lên ấy chỉ cao bằng bàn chân người. Đỉnh cao và vực thẳm của số phận con người, cuối cùng chỉ là ngần ấy.

Tôi đứng đó, lúc ấy, chỉ muốn nói với con trai tôi, để cho nó hiểu mà bước vào tuổi trưởng thành, rằng: Trong cảm xúc ký ức của tôi luôn có hình ảnh người lính Mỹ tốt. Bất kể những người lính Mỹ khác ra sao, tôi vẫn tựa vào cảm xúc trong sáng ấy để không cực đoan, để luôn tin trong hoàn cảnh cay đắng và nghiệt ngã đến mấy, dù họ có là lính của bất cứ phe nào, dân tộc nào thì vẫn luôn có người tốt. Người lính tốt không bao giờ là thiểu số. Người lính tốt có thể vô danh nhưng việc làm của họ dù nhỏ, vẫn âm thầm tử tế trong lòng người đã nhận.

Anh Trương Vũ và có lẽ cả anh Trịnh Cung đã đến đây nhiều hơn một lần. Còn tôi, lúc ấy, trong không gian tưởng niệm những người lính Mỹ chết ở Việt Nam, tôi thấy tôi Việt-Nam-hơn. Tôi biết tôi Việt-Nam-hơn chính là khi tôi nói ra điều tôi nhận thức: Những cuộc đời của những người lính Mỹ đã vĩnh viễn mất đi này, linh hồn họ cùng linh hồn những người lính Việt Nam không phân biệt màu quân phục, tất cả đồng hành trong lịch sử cá nhân tôi và mỗi người ở đất nước tôi trong hiện tại và tương lai.

Anh Trịnh Cung đi trước tôi, chăm chú nhìn từng kỷ vật do các thân nhân và những người đến viếng để lại dưới chân bức tường tưởng niệm: những chú gấu bông, nhiều tờ giấy ghi vội cảm tưởng, những bài thơ và nhiều tấm ảnh thời trẻ thơ, thời thanh niên của những người lính đã khuất. Những người lính ấy, trước khi chết, vào cái lúc mà phần sâu thẳm trong lòng họ mong được sống sót để về với gia đình, trong khoảng sáng cuối cùng ấy — tôi ước ao họ vượt qua được nỗi giày vò rằng: Tương lai dân chủ tự do cho dân tộc Việt Nam tại sao lại chính là nỗi tuyệt vọng của họ?

Trong lúc nhờ một người phụ nữ Mỹ trung niên chụp giùm chúng tôi một tấm hình, anh Trịnh Cung nói với bà rằng anh là người miền Nam. Anh giải thích thêm với bà rằng anh cũng từng là lính Việt Nam Cộng Hoà, và anh xin được cám ơn sự hy sinh của những người lính Mỹ này. Chúng tôi cùng nói cám ơn bà vì bà đã giúp chúng tôi chụp tấm hình kỷ niệm. Đoán rằng tôi không nói được tiếng Anh, bà quay sang anh Trịnh Cung và hỏi có phải tôi cũng đến từ nước Việt Nam Cộng Sản không. Anh Trịnh Cung xác nhận là đúng. Tự nhiên bà cười rất tươi với chúng tôi và nói: “Cám ơn!” Cách nói cám ơn của bà nhẹ nhõm như của một người vừa trút khỏi mình một gánh nặng.

Đọc hồi ký của một tác giả nghiên cứu Việt học L. Cadiere

 


Tên tuổi L. Cadiere rất quen thuộc đối với giới nghiên cứu Việt Nam ở nhiều quốc gia, bởi ông là chủ bút tập san Bulletin des amis du Vieux Hue (B.A.V.H) có tuổi thọ 30 năm (1914-1944) - nguồn cung cấp nhiều tư liệu gốc về Huế và miền Trung cho giới nghiên cứu.

Tuy vậy, thiên hạ sử dụng di sản tinh thần L. Cadiere để lại nhưng chưa có điều kiện hiểu biết đầy đủ cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Bộ sách Hồi ký của một ông già Việt học không chỉ giúp chúng ta hiểu toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp L. Cadiere mà còn giúp hiểu sâu hơn lịch sử, văn hóa của Việt Nam.

Với phần đầu cuốn sách - Thân thế và sự nghiệp của L. Cadiere, bạn đọc sẽ nắm được những điều cốt yếu nhất trong cuộc đời và sự nghiệp của chủ bút tập san Bulletin des amis du Vieux Hue - một "cuộc đời dài 86 năm nhưng đã để ra hết 63 năm phục vụ ở Việt Nam".

Hơn 250 ấn phẩm của L. Cadiere cũng được thống kê, phân loại trong phần 2 - Ấn phẩm của L. Cadiere.

Đỗ Trinh Huệ dành phần 3 cuốn sách cho tiểu luận dài 60 trang mang tên "Tâm thức tiếp cận của L. Cadiere với văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng và gia đình Việt Nam".

Qua tiểu luận này, độc giả thêm khâm phục công phu và cả sự quả cảm của "ông già Việt học" đã luôn trung thành với nguyên tắc "mắt thấy tai nghe", đến tận những nơi xa xôi hẻo lánh nhất, thậm chí đe dọa tính mạng mình chỉ để hiểu một từ địa phương, để biết vì sao con chim này, chim kia lại có tên như thế...

L. Cadiere thổ lộ: "Vì đã nghiên cứu và hiểu người Việt nên thật tình tôi yêu mến họ. Tôi yêu mến họ vì trí thông minh, nhạy bén trong suy nghĩ... vì những đức hạnh tinh thần".

Cũng chính vì thế, khi bàn về tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, ông đã bày tỏ "một ước nguyện là đừng làm suy yếu gia đình tại xứ Việt Nam này, mà trái lại hãy củng cố bằng mọi cách. Than ôi, liệu có được chăng! Liệu có chống chọi nổi những biến đổi với bao là mãnh lực". L. Cadiere viết điều này hơn trăm năm trước!

Trong phần Hồi ký của một ông già Việt học chiếm 2/3 cuốn sách, L. Cadiere chủ yếu ghi lại quá trình học và nghiên cứu tiếng Việt của ông từ lúc lên tàu sang Việt Nam. L. Cadiere "dẫn" chúng ta đi khắp hang cùng ngõ hẻm từ Đà Nẵng đến Huế, Quảng Trị, Đồng Hới, Phong Nha... thời mà Đà Nẵng cũng như Đồng Hới còn toàn cát với cát, từ Đà Nẵng ra Huế chưa có đường quốc lộ.

Cũng qua cuốn sách, chúng ta mới biết ông từng "rất hân hạnh đã được dạy vài bài tiếng Việt cho bác sĩ Yersin" - một "người Tây" cũng yêu Việt Nam đến mức xin được chết trên đất Việt...

Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam: Khổ đau và sung sướng- Tác giả Cameron Shingleton

 

Người nước ngoài học tiếng Việt ở Việt Nam vì nhiều lý do: một số người chắc vì tìm công việc ở đây, một số người vì đã đến thăm vài lần và muốn quay lại ở lâu hơn, một số người khác nữa vì tình yêu. Lý do sau cùng này cũng là lý do tôi bắt đầu học tiếng Việt ở Úc rồi qua Việt Nam học tiếp 8 năm trước.

Học tiếng Việt 2 - 3 tháng ở Việt Nam, tôi thấy tiếng Việt khó - khó hơn mấy tiếng châu Âu tôi từng học rất nhiều. Nhưng tôi vẫn học được là nhờ sự kiên nhẫn và khéo léo trong việc thôi thúc học trò thực hành và giao tiếp của thầy cô.

Công nhận phương pháp dạy ở khoa Việt Nam học (chương trình học tiếng Việt dành cho người nước ngoài) ở trường nhân văn những năm ấy không tân tiến lắm. Được cái tôi chẳng màng, thậm chí bài tập càng khô khan thì càng thấy thích thú. Thầy cô có óc hài hước, là người hiểu biết, với tôi là đủ.

Tôi học được tiếng Việt, bởi vậy, là nhờ các thầy cô ở trường nhân văn hiểu học trò nước ngoài muốn nói gì, mặc dù bọn tôi nói sai bét 6 dấu thanh tiếng Việt (về sau tôi mới biết khả năng đó hiếm thế nào). Một yếu tố quan trọng nữa có lẽ là vì tôi sống ở Việt Nam thì bắt buộc phải nói chuyện với người Việt mỗi ngày. Phần lớn những người tôi tiếp xúc không hướng dẫn tôi hay bán đồ ăn cho tôi bằng tiếng Anh được, nên tiếng Việt của tôi tiến bộ khá là nhanh. Nhiều lúc trong ngôn ngữ, khó cũng sinh khéo.

Nhưng học tiếng Việt ở Việt Nam cũng nhiều vất vả, ngay cả không tính tới 6 dấu thanh quỷ quái kia. Một vấn đề lớn là môi trường sống ở Việt Nam ồn ào, nên chuyện học nghe với người nước ngoài như tôi là một thử thách lớn.

Tôi ở Việt Nam càng lâu thì càng nhận ra rất nhiều người Việt không nghe ra được người nước ngoài nói gì bằng tiếng Việt, thậm chí cả khi chúng tôi nói đúng dấu. Hình như khả năng nghe của họ tùy thuộc một phần vào việc “chuẩn bị tinh thần” để nghe.

Thứ ba có vấn đề liên quan đến cả văn hóa lẫn ngôn ngữ. Khá nhiều người Việt có vẻ ngại nói chuyện với người ngoại quốc, thậm chí khi đã biết người ngoại quốc đó đủ rành tiếng Việt để hiểu và tự nói. Bao nhiêu lần câu hỏi duy nhất người Việt nghĩ ra để hỏi tôi là “Bạn ở Việt Nam bao lâu rồi?”, sau đó im thin thít?! Nhiều đến độ có người đặt câu hỏi hay hơn khiến tôi bối rối. “Biết nói tiếng Việt em có thấy… sướng không?”, một cô thu ngân ở siêu thị hỏi tôi gần đây. Vì bận nín cười nên tôi chỉ có hai từ nhạt nhẽo để trả lời là “Có chị”, dù câu đáp thành thật hơn lẽ ra là “Có chị, nhưng vẫn có lúc phải loay hoay nên lâu lâu vẫn thấy khổ chút”.

Tôi vẫn nghĩ học tiếng Việt bằng cách đến và ở Việt Nam, học tập trung những năm đầu, là phương án hiệu quả nhất. Chỉ có chút luyến tiếc: sau khi ra trường nhân văn, tôi không kiếm được đúng người địa phương để “trao đổi ngôn ngữ”, điều lẽ ra đã giúp tôi nói tiếng Việt tự nhiên hơn. Ở trường thì học “xa thực tế” là không tránh khỏi, nên sau khi có trình độ kha khá thì phần lớn người nước ngoài cần học thêm: họ cần biết người Việt sử dụng từ ngữ nào, đặt câu ra sao cho hay trên thực tế. Tôi không có người hướng dẫn chuyện này nên luôn có cảm giác tiếng Việt của mình còn hơi “cứng”.

Vậy về ưu điểm của việc học tiếng Việt, cơ hội tôi nắm bắt được thì sao? Câu trả lời là tôi có nhiều bạn Việt Nam khá thân thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Tôi có cơ hội nói chuyện với nhiều người Việt bằng tiếng mẹ đẻ của họ.

Nhưng ưu điểm lớn nhất của việc học tiếng Việt ở Việt Nam là có công việc mới. Nhờ học tiếng Việt đến trình độ cao, ngày nay tôi viết sách nói về Việt Nam từ góc nhìn một người Tây và viết bằng tiếng Việt. Đó là một công việc xuyên văn hóa mà tôi thấy không thể thú vị hơn, cả khía cạnh ngôn ngữ, tri thức và tâm lý.

Tôi đến Việt Nam 8 năm trước, và cũng giống như mọi nơi khác trên thế giới, nhiều người ở đây coi công việc đơn thuần chỉ là sinh kế; họ hài lòng ít nhiều với khoản tiền kiếm được bằng công việc mình làm, nhưng đam mê với nó thì ít ai có. Còn tôi thì biết tiếng Việt và “làm việc với nó”: Tôi không coi nó chỉ là công cụ kiếm tiền, mà như phương tiện để biểu đạt suy nghĩ, bày tỏ ý kiến, gần như một góc nhìn khác để ghi lại những ấn tượng đời sống phong phú.

Có lúc tôi vẫn thấy hơi… khổ chút vì không biết biểu đạt điều muốn nói một cách đẹp, đầy đủ, tự nhiên, nhưng những niềm vui vượt qua trở ngại đó cũng có gần như mỗi ngày. Như bài này, tôi viết hoàn toàn bằng tiếng Việt, kể cũng đáng tự hào chút chút nhỉ.

Thôi thì cứ nói sống bằng cách viết tiếng Việt thì lúc vui, lúc khó. Hay có lẽ tốt hơn là nói nó khổ đau một cách sung sướng đi.

Do I need to replace my AC or fridge? Understanding the new EPA rule on Hydrofluorocarbons





How the U.S. compares to the world on health care





An Easy Way, Using Puzzle Pieces, To Understand Variants





No, Biden is Not After Americans' Burgers





Crowds Flock to Indian Vaccination Center





Chinese rocket to come crashing down to Earth at unknown location; while SpaceX Starship prototype makes clean landing







Myanmar's Revolution through the eyes of a musician





Dù có số ca nhiễm Kung Flu kỷ lục, Pakistan không muốn phong tỏa chặt chẽ biên giới





Tương lai bất định, di dân vẫn vượt biên giới vào Mỹ





Mỹ, Nga, Trung ‘đốp chát’ nhau tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc





Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn khỏi Afghanistan, giới chuyên gia liên tưởng tới Việt Nam





Hình chụp những người tù cải tạo ở Hàm Tân năm 1988

 






Cà Phê Vớ

 

Hồi xửa hồi xưa . . . có một dạo, ở Sài Gòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. .Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy ông bà người Tàu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt .

Năm 1900, hồi đó người Sài Gòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh có khói này là do các xếnh xáng tên nghe rất Chệt:  A Hoành, A Coón, chú Xường, chú Cảo. Họ là chủ các tiệm hủ tiếu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhâm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.

Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phễu được may cặp với một cọng kẽm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc dợt cà phê này hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi. Tiếng lóng bình dân gọi là Kho Cà Phê. ”Kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cách pha chế rất độc đáo không nước nào quốc gia nào trên thế giới có được.Duy chỉ có ở Saigon và Lục tỉnh miền Nam  mà thôi.  Dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.

Có mấy khu vực có những con đường quy tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường MacMahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuổi (nay là Cách Mạng Tháng cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày.

Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Phan Thanh Giản và Minh Mạng) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm. Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhâm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải đến tận sáng hôm sau. 

Thứ Năm, 6 tháng 5, 2021

Vui Buồn Làm Căn Cước Công Dân Gắn Chíp - Tác giả Vinh Râu

 

Hôm qua tôi đi làm căn cước công dân (cccd) gắn chíp, mất 3 tiếng đồng hồ của đời người vì nó. Đó là có đăng ký trước cho tổ trưởng dân phố, lấy số đàng hoàng. Tổ trưởng báo giờ làm cccd cho số 38, 39 của vợ chồng tôi là lúc 8h 05 sáng, nhưng đúng 11h05, tôi mới được xách đít về nhà.

1) Vì mất 3 tiếng nên công dân có thể ngồi trên ghế nhựa màu đỏ mà suy nghĩ vẩn vơ đủ thứ, từ chính trị xã hội đến cơm áo gạo tiền hay những vấn đề tình yêu và triết học.

Cái tui nghĩ đầu tiên là cái từ căn cước công dân. Mất 46 năm sau khi chiếm miền Nam, chế độ này mới dám lấy lại từ căn cước của VNCH. Căn bệnh bảo thủ của mấy anh cộng sản quả là cố đế thâm căn. 

Nó giống như từ tiểu học, trung học. Hai từ ngắn gọn như thế mấy ảnh ko chịu, nhất quyết phải là phổ thông cấp 1, phổ thông cấp 2 cấp 3 dài thòng cơ. Giờ thì ta thấy sao rồi, chữ tiểu học và trung học đã được dùng lại sau nhiều năm cố tình chối bỏ. 

Muốn học lấy văn minh, có cần phải tốn quá nhiều thời gian như thế không?

Không những bảo thủ, mấy ảnh còn thích lê thê lòng thòng nữa cơ. Chứng minh nhân dân 4 từ 17 ký tự đang bị bỏ, thì thôi ta dùng lại 2 từ căn cước ngắn gọn với 7 ký tự như VNCH đi, đàng này mấy ảnh phải thêm 2 từ công dân đằng sau mới chịu, thế là thành 4 từ 14 ký tự nằm chình ình trên cái thẻ. 

Tui đâu có cần phải có hai chữ công dân trên tấm thẻ căn cước thì thiên hạ mới biết tui là công dân của nước chxhcnVN? In thêm 2 từ với 7 ký từ trên hàng chục triệu tấm thẻ, bạn có thể thấy mấy ảnh mất thêm bao nhiêu là mực màu và thời gian rồi chớ hả?

Càng nghĩ tôi càng thấy ghét cái tên ngôi trường hiện giờ mà ngày xưa tôi theo học. Nó tốn âm tiết cho người muốn nhắc đến nó, tốn thêm tiền sơn và diện tích tấm bảng viết tên trường.

Thay vì là (đại học) Văn khoa đơn giản ngắn gọn như thời VNCH, đủ ý với 2 từ 7 ký tự, nay mấy ảnh gọi là (đại học) Khoa học xã hội và nhân văn. Chời ơi nó dài đến 7 chữ 21 ký tự. Đọc muốn mỏi cái miệng luôn á.

2) Giờ đến chuyện làm căn cước. Sở dĩ công dân phải mất 3 giờ cũng... nhờ quy trình tiên tiến của mấy anh công an.

Quy trình này có nhiều công đoạn. Chụp ảnh, giải quyết sự cố phát sinh về mặt giấy tờ của công dân, lăn tay, chờ ra hồ sơ, lấy biên nhận.

Cứ mỗi công đoạn thì...chờ. Ban đầu thì chờ cho đã để được gọi lên chụp ảnh. Chụp xong tiếp tục xuống ngồi chờ...xem những người khác chụp. Sau một thời gian chờ miên man, mới được gọi lên lăn tay nếu giâý tờ nhân thân ko có vấn đề. Lăn tay xong lại xuống chờ... miên man để được gọi lên đưa hồ sơ đã xong để công dân kiểm tra lại có sai sót không. Sai thì sửa, không sai thì đem ra nộp tại bàn cấp giấy chứng nhận, lấy giấy hẹn sau khi đóng 15 nghìn đồng.

Có vậy thôi mà mất 3 tiếng đấy quý vị.

Thay vì mỗi công dân chỉ lên một lần, làm đủ các công đọan thì về chỗ chờ kêu tên lấy giấy hẹn, đàng này, do quan tâm quá mức đến tên tuổi công dân nên mấy anh kêu lên kêu xuống ít nhất 3 lần.

Phần tôi thì bị sự cố như sau:

Anh tổ trưởng dân phố vận động công dân trong tổ đi làm cccd. Tôi hỏi anh, là công dân quận 1 tphcm, nhưng tạm trú nhà vợ ở Thủ Đức, tôi làm cccd ở tp Thủ Đức được không? Anh bảo ok. Vì thế tôi mới đăng ký.

Khi đến chỗ làm cccd, một anh công an bảo tôi điền vào tờ khai của người tạm trú (người thường trú không cần). Tôi lầm lũi điền, tốn thêm một ít thời gian. Điền xong được mấy ảnh tiếp nhận.

Sau một thời gian chờ đợi dài hơn nữa thế kỷ bị phỏng dái, tôi được gọi tên, nhưng không phải lên chụp ảnh mà lên để cật vấn, tại sao hộ khẩu quận 1 không về quận 1 làm mà làm ở đây. Tôi bảo đã hỏi chính quyền rồi, việc đó là hợp pháp, tôi ở đây nên làm ở đây cho tiện, có vợ có chồng. Nếu mấy anh không muốn làm thì ban nãy bắt tôi điền tờ khai tạm trú làm gì cho mất thời gian, rồi thêm ngồi chờ lâu lắc nãy giờ nữa?

Cãi cọ một hồi, mấy anh công an mới chịu làm cccd cho tôi sau khi anh cảnh sát khu vực của tổ tôi có ý kiến. Thế rồi mấy anh lại hăm dọa, nếu làm ở đây, chú là người tạm trú nên rất lâu mới nhận được thẻ. Tôi hỏi bao giờ. Trả lời, người thường trú là 2 tháng còn chú thì không biết bao giờ.

Tôi hỏi vì sao lâu thế, mấy anh bảo, do khác quận nên thời gian thẩm tra hồ sơ của tôi lâu hơn. mấy anh khuyên, nếu muốn nhanh, tôi nên về quận 1 mà làm.

Mẹ kiếp, tôi bắt đầu nóng, sáng giờ mất bao nhiêu là thời gian, chả nhẽ giờ về quận 1 làm để mất thêm một mớ thời gian nữa?

Tôi hỏi, giấy tờ cũ trưng ra để làm cccd có đủ, từ hộ khẩu đến CMND, giờ mấy anh còn thẩm tra cái gì nữa. Nếu thẩm tra, vậy là mấy anh không tin vào chính giấy tờ mà chế độ này cấp cho tôi à? Thứ nữa, Thủ Đức với quận 1 cùng thành phố, muốn thẩm tra mấy anh cứ mở hệ thống quản lý công dân của mấy anh lên, check cái rẹc thì tên tuổi tôi hiện ra chứ cần gì phải mất thời gian?

Mấy anh chống chế, "hệ thống đó chúng tôi đang củng cố nên giờ không thể check được".

À ra vậy, vậy thì 4.0, số hóa, chuyển đổi số gì gì đó mấy anh hay la làng cho dân nghe chỉ là để cho vui thôi phải hơm?

Cuối cùng, tôi phẩy tay ok, nói với mấy anh công an rằng, mãi mãi không biết bao giờ được giao cccd cũng được, vì tôi vẫn còn cmnd cũ để dùng.

Khi nhận hồ sơ đã xong, kiểm tra, tôi thấy trình độ học vấn của mình là 9/12 dù tôi chưa bao giờ khai cái mục như vậy. Lại phải mất thời gian mang vô yêu cầu các anh công an thần thánh sửa chữa.

Đấy, hành trình làm căn cước công dân của tôi là như thế đấy. Ko biết người mất quyền công dân sẽ làm căn cước công dân gắn chíp như thế nào?

3) Zui nhất là, ngồi cạnh tôi có ông già khoảng 70 tuổi chân bị tật nên đi phải chống nạng. Ông ngồi chờ lâu y như tôi. Tôi nghe ông nói:" Tui sắp chết rồi mà chúng nó còn bắt đi làm cccd gắn chíp".

Quýt Làm Cam Chịu - Tác giả Ls Đặng Đình Mạnh


"Ai làm nấy chịu" như là một nguyên tắc ứng xử trong quan hệ giữa cá nhân với xã hội.

Sự chế tài của luật pháp cũng khởi nguồn từ nguyên tắc ấy. Ai vi phạm pháp luật thì người đó phải chịu sự chế tài và đương nhiên, chỉ trong giới hạn phạm vi đối với người ấy mà thôi.
Tuy vậy, hiện nay, cơ quan điều tra có quan điểm rất khác về vấn đề này. Rất may, chỉ phát sinh trong phạm vi kiểm soát các trang mạng xã hội mà thôi. Nhưng chỉ nhiêu đó cũng đã đủ đưa đẩy các Facebooker, Youtuber ... dễ vướng vào các rắc rối pháp lý không hề mong muốn, thậm chí, cả về lao lý.
Theo đó, khi một bài viết được đăng công khai, thì người đăng không chỉ chịu trách nhiệm về nội dung bài viết của mình trước pháp luật, mà còn phải chịu trách nhiệm về những lời bình luận của công chúng trong bài viết ấy !? Rủi thay, nếu lời bình luận ấy mang nội dung chống, phá chính quyền, thì danh tính tác giả bài viết sẽ được đưa vào tầm ngắm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và kéo theo sự chế tài là khả năng không hề nhỏ.
Đồng thời, với số lượng lực lượng dư luận viên hoạt động đông đảo trên các trang mạng xã hội như hiện nay, việc bị báo cáo những nội dung bị cho rằng chống, phá chính quyền chỉ còn là vấn đề thời gian. Bị xử lý, may mắn thì được mời "uống trà", nhẹ nhàng thì bị phạt vi phạm hành chính, nặng hơn thì 331 và nghiêm trọng nhất là 117.
Có dịp trao đổi quan điểm với một cán bộ an ninh điều tra của một tỉnh giáp ranh TP.HCM, khi tôi đang chờ thân chủ đến để cùng làm việc. Sau khi nghe tôi nói về nguyên tắc "Ai làm nấy chịu", thì anh ấy đã phủ nhận ngay "Không. Anh phải chịu trách nhiệm về lời bình luận của họ. Vì lẽ, khi đăng bài là anh đã tạo cơ hội cho những người chống đối nhà nước có "chỗ" để "hoạt động" ?! Nếu anh không xóa, hoặc anh nhấn like là còn biểu thị sự đồng tình của anh đối với sự chống đối của họ. Chưa kể, nếu anh có số lượng người theo dõi lớn, thì trách nhiệm của anh lại càng nặng nề hơn".
Thời gian không đủ dài để chúng tôi tranh luận đến hết lẽ, vì đã phải đến lúc vào làm việc.
Thế nên, quan điểm cho rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm pháp lý về nội dung của những lời bình luận của người khác trong bài viết của chúng ta đang là một thực tế.
Cho dù không là một luật sư, tôi vẫn không tán thành điều này. Điều mà tôi cho rằng trái với nguyên tắc ứng xử và không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, luật sư không thể quyết định được việc các bạn có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không. Nhưng cơ quan điều tra thì có quyền đấy, và trong đa số trường hợp, quyết định của họ thường dễ được tòa án chấp thuận hơn.
Từ nguyên tắc "Ai làm nấy chịu", chúng ta đang có một biến tướng của nguyên tắc ấy, "Quýt làm cam chịu".
Thế nên :
- Với người đọc, nếu muốn trao đổi quan điểm về bài viết hoặc nhận xét, đánh giá ... thì hãy để lại lời bình luận có tâm, thiện chí với người viết.
- Với người viết, hãy thận trọng với những lời bình luận của công chúng trong bài viết của bạn. Hãy xử lý trước khi chúng kịp mang đến tai họa.
Chúng ta đang cùng sống trong một thời điểm mà nói gì, viết gì ... cũng đều quá dễ dàng và quá khó khăn.

Một Cái Chết Bất Tử - Tác giả Nguyễn An Vinh

 


Dưới chân tượng đài của Thủy quân Lục chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người Sĩ quan Cảnh sát đeo lon Trung tá. Ông mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá Cảnh sát Long đã tự sát ở đây, Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm Trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh.

Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết.

Tiểu sử Trung Tá Nguyễn văn Long.

Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh:

Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, hoạt động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.

Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như hoạt động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình.

Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:

Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố Đà Nẵng, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.

Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.

Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói:

“…tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.

Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.

Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn Văn Long:

“…Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả (tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình…

…Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn….

… Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức.

… Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Nhà Long cửa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.

…Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…”

Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “…Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy…”

Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.

Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:

“…chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc… Ông Giám Ðốc kết luận:…Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình…”

Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.

Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.

Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.

Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.

Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.

Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.

Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.

Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:

Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.

Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.

Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.

Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.

Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin “ân huệ” cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.

Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:

Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.

Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.

Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.