Chiến tranh Cộng Cộng năm 1979: Lính Mít Cộng bị lính Tầu Cộng bắt làm tù binh. |
Năm 1995 khi tôi bắt đầu viết lại ở Kỳ Hoa, tôi chọn cái tên “Viết ở Rừng Phong” cho loạt bài của tôi. Chủ ý của tôi là viết về Tình Yêu, về Tình Nghiã Vợ Chồng, về những chuyện Văn Nghệ, Văn Gừng, về những người Việt Xưa và về những người bạn văn cùng sống hay đã chết của tôi. Nhưng cuộc sống ở Kỳ Hoa kéo tôi sa đà vào những chuyện chính chị, chính em. Tôi yêu Văn Thơ, tôi mù tịt về chính trị. Nên tôi không hào hứng viết về những đề tài thời sự, chính trị. Hai nữa tôi thấy ở hải ngoại đã có nhiều người Việt viết về chính trị, thời sự. Mà viết hay, viết đúng.
Tháng Sáu 2014, tôi buồn đến không còn muốn viết gì nữa. Tôi buồn vì đất nước Việt Nam của tôi sắp mất. Nước Việt Nam của tôi sắp tiêu vong mà tôi không làm gì được, kể cả việc viết những lời tiếc thương đất nước.
Tôi tìm được bài dưới đây trên Internet. Bài được ghi tác giả là Lê Duẩn. Mời quí vị đọc và có những nhận xét, những suy luận của quí vị về những chuyện Lê Duẩn kể. CTHĐ tôi chỉ là người có thì giờ rị mọ tìm kiếm trên Internet những bài tôi thấy hay hay gửi đến quí vị. Những ý kiến, những xét đoán về những bài viết như bài này là của riêng quí vị.
Lê Duẩn
Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm,
ngay lập tức Trung Quốc ban hành một Tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng
ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em
khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi nói,
hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ
nghĩa”, họ đã không nghe nữa.
Đặng Tiểu Bình nói:
“Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của
chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến của các đồng chí, nhưng tôi không chấp
nhận quan điểm này của các đồng chí.”.
Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố:
“Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á.”
Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm:
“Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh:
“Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta
và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi”. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ
nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến việc
đánh chiếm Việt Nam!”
Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.
Mao hỏi tôi:
“Lào có bao nhiêu cây số vuông đất?”
Tôi trả lời:
“Khoảng 200.000 cây số vuông.”
Mao hỏi:
“Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời:
“Khoảng 3 triệu!”
Mao nói:
“Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!”
Mao hỏi:
“Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?”
Tôi trả lời:
“Khoảng 500.000 cây số vuông.”
Mao hỏi:
“Có bao nhiêu người?”
Tôi trả lời:
“Khoảng 40 triệu!”
Mao nói:
“Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có
500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một
số người dân của tôi tới Thái Lan!”
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi:
“Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?”
Tôi nói:
“Đúng“.
Ông ta hỏi:
“Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói:
“Đúng.”
Ông ta nói:
“Và quân Minh nữa, phải không?”
Tôi nói:
“Đúng, và cả các ông nữa. Các ông có biết điều đó không?“
Tôi đã nói với Mao Trạch Đôn g như thế. Ông ta nói:
“Có, có!”
Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng
như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó.
Quan điểm đó thật là phức tạp.
Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất
phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã
chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta
không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề
đơn giản.
Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh
em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu
thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong
tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay
lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng,
không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu.
Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi
đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.
Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó
tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng
sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì
[buổi hợp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục
đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đến dự.
Liên Xô nói:
“Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?”
Tôi nói:
“Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa
quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế,
trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải
có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến dự hội nghị
này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn cho chúng tôi. Các đồng
chí, hãy hiểu cho tôi“.
Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và
tranh luận khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với
Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc
gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng:
“Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“.
Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).
Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta:
“Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần
đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao
các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?”
Chu Ân Lai nói:
“Chúng tôi có thể thành lập mặt trận
chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một
mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]“.
Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm:
“Quan điểm này cực kỳ chính xác!”
Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.
Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan
điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã
giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về
những gì đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có
lần, ông ta nói với tôi:
“Tôi đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí“.
Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng
Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai,
điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.
Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh
đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ
khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có
tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao
Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông
ta.
Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà
lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương
lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong
quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là,
khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo]
Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc
mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị những người khác
xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn
đầu phái đoàn, và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng
đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn
đảo, tôi nói:
“Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có
một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai
bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm
ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”.
Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau
khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là
người theo chủ nghĩa xét lại.
Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên
rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là
người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh
hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.
Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi:
“Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?”
Tôi nói:
“Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“.
Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội
thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường
trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng
ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì
một đội quân lớn.
Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin
rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ có thể tiếp quản và bắt nạt cả
thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam
là không sợ Mỹ.
Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy
tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó
là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao
hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các
ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó
là mối nguy lớn.”
Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói:
“Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam.”
Ông ta (Mao) nói:
“Các ông không thể làm điều đó. Miền
Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời
hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ
là nguy hiểm”. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…
Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp
tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không
được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất
nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được
tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối
cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là
tự do cho cả nước Việt Nam …
Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau
đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này.
Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không
đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất
cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân,
tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui”.
Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba
giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi
[các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế
phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu
người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc
vẫn không thể đánh bại họ.
Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì
trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam
chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ
không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo những lời khuyên
của Trung Quốc.
Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung
Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước
ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có
những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50
triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…
Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:
“Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?”
“Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.”
“Chú đã thấy gì?”
“Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.”
Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta
(Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người
Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ (ý
nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu.
Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm
ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng
dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế
thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội
Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu
đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.
Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một
cuộc chiến kéo dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố
đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì
điều này,] họ đã tấn công chúng ta mạnh như thế này.
… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã
chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước
rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ
khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã
phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang.
Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không
thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quảng Trị, ngay lập tức Bộ Chính trị ra
lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.
Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi:
“Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.
… Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi:
“Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.
Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc
hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000
quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này.
Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào.
Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc,
chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một
nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ
họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất
với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước
thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có
dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ
do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp
Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân
Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ
ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung
Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể
tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung
Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ:
“Nếu các ông không tấn công tôi, thì
tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền
Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.
… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một
nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực
hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải
chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa
bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực
hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ
bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để
bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để
Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung
Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …
Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ
thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một
nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 –
600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận
tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện
đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở
biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1
hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều
gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu
chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta
không sợ.
Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết
cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở
miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí
xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.
Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn
Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến
Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công
trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả
chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn
năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế.
Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một
chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.
Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh
kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ.
Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai
không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc.
Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước ta phải
là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải
là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh
chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh
một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp
tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải
là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.
– Bây giờ đã đánh xong một trận rồi,
chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai
lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta
không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào
chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.
– Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh
[chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ
không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam
có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên:
“Không được đụng đến Việt Nam“!
Thời đại hiện nay không giống như thời
xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung
Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa
hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người
đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng
muốn độc lập, tự do.
Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là
rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều
này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý
tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và
xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc
lập và tự do.
- Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em
chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân
nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ
Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ
Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ,
chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không
sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này,
chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ
Chính trị hồi đó.
Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các
buổi thảo luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã
nói với một đồng chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ
Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta
muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải
nói như vậy nữa?
Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung Quốc, đứng lên, nói:
“Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh…“
Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt
Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội
trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói:
“Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm
về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội
trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“.
Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.
– Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không
sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của
chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta
không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con
người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết
chúng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh, bởi
vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được.
Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.
– Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó
không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung
Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy
yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn.
Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải,
không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được
mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng
lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh
mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi
không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt
nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào
khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …
– Hiện nay, trên vai quân đội của chúng
ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng
ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới.
Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực
hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều
này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và
Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân
loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.
… Các đồng chí có biết người nào trong
đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung
Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối
quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi
lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung
Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.
Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết
rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là
sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại
Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi
là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục
lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ
là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ
với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là
một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói
tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng
ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần
nữa một cách nghiêm túc như thế.
Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình
chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự
cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50
năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công,
và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời
gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi
phương diện.
Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ
nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào
nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng
chí [này] không có kiến thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là
trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng
Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì
vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào
tháng 1 năm 1979]….
Hết bài viết của Lê Duẩn.
CTHĐ: Sao Y Bản Chính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét