Tôi qua buồng bên thăm Thanh Tâm Tuyền. Chúng tôi mới gặp nhau cách đây ít hôm, tuy ở sát vách. Trước đó, tôi nghe nói có Tuyền ở đây, không tìm ra, tuy đội tôi và đội Tuyền ngồi sát bên nhau. Từ ngày đi cải tạo, thân xác mỗi người đều đổi thay và áo quần lao động tơi tả, rách rưới, nhơ nhớp. Người nào cũng chụp mũ xuống gần nửa mặt để không muốn nhìn ai, và cũng chẳng muốn ai nhìn mình. Một buổi chúng tôi nhận ra nhau. Tuyền mở to mắt nhìn hỏi:
- Ông đó hả?
- Còn ông đó ư?
Chúng tôi cùng phá lên cười. Anh em xung quanh không hiểu gì, sững nhìn. Đội tôi bị gọi đi lao động. Tôi đứng lên, nói với Tuyền, mai sẽ ngồi đúng chỗ này để nói chuyện. Từ đó, chúng tôi mới đỡ cô đơn vì còn có nhau để tâm sự. Tuyền vốn ít nói, nhưng mỗi lời nói rất chắc, cũng như anh viết văn hay làm thơ. Tuyền dặn nhỏ tôi:
- Cậu ạ! đừng gọi biệt hiệu, sợ tụi nó biết, gọi mình là Tâm nhé!
Tôi cười dí dỏm:
- Cậu đánh giá tụi nó kém quá thế sao?
Tuyền vốn có bệnh trĩ, nên thường được nghỉ ở nhà làm việc nhẹ. Còn tôi, đã chán việc khai bệnh vì quá nhục nhã, nên thà lao động còn hơn, bởi vậy vấn đề gặp nhau cũng thất thường.
Sáng nay, tôi sang thăm Tuyền vì thấy cửa mở.
Vừa sang đến nơi, Tuyền đã cười khà khà:
- Chiều qua, nhớ cậu, làm được mấy câu thơ đây.
- Đâu, đọc lên nghe. Nhưng còn thuốc lào không?
- Để đi xin.
Tuyền định đi thì Trung, Đội Trưởng của Tuyền nhanh nhẹn đứng lên, đi xin thuốc giùm. Trung mang về một dúm thuốc “3 số 8” thơm phức. Tuyền nói với Trung
- Ông xin đâu hay thế?
- Ô thiếu gì, anh em mới nhận được quà mà!
Tôi vê thuốc cho vào nõ, châm lửa rít một hơi dài, thở khói xanh um, cả người bần thần ngây ngất vì đã lâu mới được điếu thuốc ngon. Tôi đưa điếu cho Tuyền. Nhồi thuốc xong, Tuyền cũng kéo hơi dài, thật dài nuốt luôn khói. Đôi mắt Tuyền lờ đờ như đắm chìm vào chuyến viễn mơ! Sau khi hả cơn say, Tuyền đọc:
Chờ cơm ôm bụng lép trên giường
Muốn sang thăm bạn cửa gài then
Chiều đổ cơn mưa, trời sập tối
Buông sách ngồi lên, ngó trống không!
Tôi nói với Tuyền:
- Đời chúng mình lúc này chẳng có gì để nhìn ngắm. Sau hơn hai năm bị đầy ải, miệng lưỡi đã tê mùi tân khổ, còn gì để ngóng đợi? Ba chữ “ngó trống không” nó cho tôi nhìn thấy hư vô, nhìn thấy cái cõi “Bất khả tư nghị” của Chân Như. Nó thâu tóm được biết bao nhiêu hình ảnh của kiếp sống phù du, công danh và sự nghiệp nào đó, mũ mãng cân đai nào đó, cũng chỉ là hư ảnh, có đúng vậy không cậu?
-------------------------------------
Trích phỏng vấn Thanh Tâm Tuyền của Lê Hữu Khóa
— Làm thơ trong trại tù cải tạo, cũng là trở về với thi ca truyền thống dân gian/ la poésie de tradition populaire.
— Tuy nhiên, trong tiếng Việt, người ta nói “làm thơ” chứ không ai nói “viết thơ”. Như vậy, người ta có thể làm thơ khắp nơi, trong bất cứ vị trí nào: khi đang đi, đứng, nằm, ngồi, khi tỉnh thức… Thi ca tới với bạn không hẹn trước, không định ngày, định giờ. Người ta không thể tìm vì không biết nó ở đâu. Chỉ còn là một công việc đơn giản: đón nhận và trao đổi với nó. Thơ đòi hỏi ở bạn một điều duy nhất: giữ cho được tiếng nói thuần khiết/ parole pure và sau đó tiếng nói ấy sẽ quyết định đời sống của chính nó.
— Trong lúc bạn “lao động vì mục tiêu cách mạng”, thơ tới với bạn. Bất ngờ, giữa cánh đồng, giữa rừng rậm… Thơ tới, thơ bắt bạn dừng lại. Bạn bắt đầu thấy bầu trời và rồi quên đi những cử động máy móc. Thơ sớm đưa bạn tới một trạng thái nội tâm thanh tịnh. Sự tự-hiện-sinh/ autoexistence ấy đem tới niềm vui. Bởi vì khi thi ca buông anh ra, anh trở lại cuộc sống mà anh đã dám chối bỏ. Anh thấy cuộc sống này tự chuyển đổi thành tiết điệu của các câu thơ. Chỉ làm việc với đôi cánh tay, trong khi đôi tai đuổi theo những tiết điệu, nhạc tính của bài thơ. Sự hoà điệu này đem lại cân bằng cần thiết giữa giới hạn lao động trong những động tác và ký ức đang tích luỹ/ stocke.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét