khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016

Anh Hồ Chí Minh, một bức thư độc đáo gởi Hồ Chí Minh thời Nam kỳ kháng chiến



Trang blog “Một góc nhìn khác” của ông Trương Duy Nhất có đề nghị mọi nguời nên sử dụng cụm từ «Bác Hồ» hay «Cụ Hồ» sao cho đúng cả về ngôn ngữ, truyền thống và văn hóa nhơn ngày sanh 19/5/1980. Người chủ trương Blog trả lời trưóc cho câu hỏi do chính ông đặt ra :

Gọi “bác”, thì chữ bác ấy không được viết hoa- phải là : bác Hồ. Nhưng vậy cũng không ổn. Mình đâu bà con, họ hàng gì với ổng. Thế hệ ổng, cũng đâu phải hàng lớp cha chú mình. Ông thuộc lớp người xa hơn. Đúng, phải gọi ông, hay cụ.


Do sự nhồi nhét theo lối tôn sùng lãnh tụ, đến mức thành một nếp viết hoa và tụng xưng vô lối. Chữ “Bác” khi đã được viết hoa, tự thân nó đã không còn là đại từ nhân xưng nữa. Nó đã thành một tên riêng, danh từ riêng.


Nhưng quen rồi. Giờ cắt vứt đi chữ “Bác”, gọi mỗi “Hồ” cũng không ổn, nhiều khi thành ra… xấc xược. Vì thế, viết đúng, gọi đúng phải là: ông Bác Hồ, hoặc cụ Bác Hồ.
Đó là khi ta cố giữ chữ “Bác”. Còn không, đúng một cách giản đơn (theo giống), nên viết là ông Hồ Chí Minh, hay cụ Hồ Chí Minh".

Trương Duy Nhất.
 
Ý kiến của một độc giả :

“cụ Minh”, “bác Minh” thay cho “cụ Hồ”, “bác Hồ”


Lãnh đạo Việt Nam thường gọi nhau bằng cách dùng đại từ nhân xưng “Anh” kèm tên riêng. Thí dụ: Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh, anh Thọ, anh Giáp, anh Linh….


Dân chúng thì gọi các lãnh đạo bằng cách dùng đại từ nhân xưng “bác” kết hợp với tên riêng. Thi dụ: bác Duẩn, bác Thọ, bác Chinh, bác Đồng…


Vậy, chúng ta cũng nên gọi cố Chủ tịch Hồ Chí Minh tương tự. Không nên gọi là “bác Hồ” hay “cụ Hồ” nữa, mà nên gọi là “cụ Minh” hay “bác Minh”.


Như vậy mới đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa giản dị, thân mật, thuận lợi, đúng truyền thống, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.


Cách gọi cũ là “cụ Hồ”, “bác Hồ”, hay “Hồ chủ tịch” là lai căng, bắt trước theo cách gọi của Tàu, không đúng với thuần phong mỹ tục Việt Nam.


Vậy, từ nay chúng ta nên gọi là “cụ Minh”, “bác Minh” thay cho cu Hồ, bác Hồ. Đây chỉ là ý kiến cá nhân tôi. Mong các bạn góp ý".

Sông Hồng.
 
Hai vị Trương Duy Nhứt và Sông Hồng đã có nhận xét rất rõ. Nay, NVT tôi xin có ý thêm. Theo văn hóa Việt nam, có lẽ dựa theo truyền thuyết một cái bọc nở ra trăm con, gọi «bác» với người lớn tuổi hơn cha của mình, «chú», người kém tuổi cha, như trong quan hệ gia đình. Ở Bắc, thì anh hay chị của mẹ cũng được gọi bằng «bác». Người Tàu và Tây phương không có cách xưng hô cùng «một nhà» như Việt nam ta.

Theo văn hóa ứng xử việt nam, khi gọi «bác Hồ», nếu dành cho mọi người, thì hoàn toàn không đúng bởi có những người tuổi xấp xỉ với Hồ Chí Minh và cả những người lớn tuổi hơn. Nên nhớ lúc về Hà nội năm 1945, ông mới có 55 tuổi nếu tính theo năm sanh dỏm 1980. Từ năm 1954, ông tự bốc lên «cụ» hay «bác» với mọi người. Một thái độ thiếu khiêm tốn của một con người thật sự không có cái gì là của riêng mình có giá trị. Vậy mà năm 1931, khi ông bị người Anh nhốt ở Hồng kông vì hoạt động mật vụ chỉ điểm cho cộng sản Nga, ông đã phải thưa «anh, xưng em» với Lâm Đức Thụ để nhờ Lâm Đức Thụ giúp tìm luật sư can thiệp vì không thể cầu cứu ở các đồng chí cộng sản của ông được (AOM, Aix). Năm 1948, phong trào Việt Minh nổi lên, Lâm Đức Thụ sợ, đi gặp Hồ Chí Minh nhờ che chở, được Hồ Chí Minh nhận lời và bảo về quê Thái Bình ở yên ở đó. Ít lâu sau, Hồ chí Minh sai cán bộ cộng sản bắt Lâm Đức Thụ cho mò tôm (NVT, Hồ Chí Minh, Lâm Đức Thụ, Phan Bội Châu, ĐCV, Việt Báo, Nggày Nay.và internet).

Vả lại, khi xưng hô «bác» - không thấy có ai gọi «chú» - thì phải «bác Nguyễn Sinh Côn» hay «bác Nguyễn Tất Thành» hoặc «bác Côn» hay «bác Thành» vì cách gọi này mới có cơ sở văn hóa Việt nam.

Nhưng có điều không giống ai vì xưng «bác» cũng bị độc quyền. Có những người mà cha kém tuổi hơn các ông Trường Chinh, Phạm văn Đồng,… cũng vẫn phải gọi các ông này là «chú» thay vì «bác» cho đúng phép. Ở miền Bắc, chỉ gọi «bác» sau khi Hồ Chí Minh chết đi. Thậm chí, sau 30/04/75, người trẻ miền Bắc vào Nam gọi mọi người lớn hơn cha mình bằng «chú». Họ như không biết gọi ai là «bác» ngoài «bác Hồ» của họ.

Cả tiếng «bác» lại cũng bị ổng chôm làm của riêng nữa!
 
Sau cùng Hồ Chí Minh là một tên hoàn toàn chánh trị nên chỉ gọi «bác Hồ, ông Hồ» hoặc « bác, ông Hồ Chí Minh», chớ không nên «bác, ông Minh» vì «bác, ông Minh» là không đúng hắn. Mà tại sao không gọi «đồng chí, đồng chóe» vì cùng đảng vói nhau, như đối với những đảng viên khác ? Nội qui đảng có ghi ngoại lệ này không ?

Tóm lại, khi đối thoại với ông thì tùy quan hệ tuổi tác và vai vế mà xưng hô. Còn ngày nay, ông đã chết nên khi viết về ông, tưởng chỉ nên gọi «Hồ Chí Minh» là đủ và phải phép lắm rồi.

Báo chí Tây phương, khi viết về Giáo hoàng Vatican, cũng viết tên. Viết hay thưa «Đức Thánh Cha» chỉ khi đối thoại với ông mà thôi.
 
Anh Hồ Chí Minh


Tại sao không có ai gọi «anh Hồ Chí Minh»? Thưa có.

Mười Trí, tức Huỳnh văn Trí, dân Bà Quẹo, sau khi vượt ngục Côn nôn về tới đất liền, bèn cùng uống nước tiểu của nhau, thay vì trích huyết ăn thề, kết nghĩa anh em chết sống với Bảy Viễn (Lê văn Vìễn), Năm Bé và Tư Nhị. Kịp lúc phong trào Nam bộ kháng chiến nổi lên, họ cùng tham gia kháng chiến chống Pháp ở Khu 7, lập ra Chi Đội Bình Xuyên. Năm 1949, Bảy Viễn về Sài gòn với Quốc trưởng Bảo Đại, Mười Trí ở lại với Việt Minh, được Nguyễn Bình ủy nhiệm thuyết phục Bảy Viễn đừng bỏ đi nhưng thất bại. Mười Trí, thành phần xã hội khác hơn Bảy Viễn nên dễ bị ảnh hưởng cộng sản trong lúc đó Bảy Viễn quyết liệt chống cán bộ cộng sản được Hà nội gởi vào để kìm kẹp hàng ngũ kháng chiến trong Nam phải đi theo sát đuờng lối và mục đích cộng sản. Bảy Viễn ra lệnh cho kháng chiến quân Bình Xuyên hể biết chánh trị viên Hà nội là cho đi mò tôm ngay. Tuy theo cộng sản, sau khi Bảy Viễn về thành, vì cùng anh em ăn thề với nhau, nên Mười Trí vẫn bị Nguyễn Bình nghi ngờ, đưa đi Miền Tây, hoạt động với danh xưng Sư thúc Hòa Hảo, để lôi kéo Năm Lửa (Hòa Hảo) về theo cộng sản. Trước khi đi, Mười Trí làm tiệc từ giả anh em Khu 7. Nhơn có phái đoàn miền Nam ra Bắc họp Đại hội do Phạm Hùng hướng dẫn, Mười Trí viết thư nhờ Phạm Hùng cầm ra gởi Hồ Chí Minh để trần tình tấm lòng mình chỉ có theo chánh phủ trung ương Hà nội. Thư không niêm để phái đoàn có thể đọc.

Phạm Hùng mở thư ra đọc :

«Bức tâm thơ kính gởi anh Hồ Chí Minh.


Thằng em của anh là Mười Trí gởi thơ này chúc anh khỏe mạnh. Thằng Bảy Viễn đã đầu Tây rồi, thằng em của anh rất lấy làm buồn vì không ngăn cản được nó. Nhưng thằng em của anh hứa chắc với anh là thằng em của anh sẽ tiếp tục kháng chiến cho tới thắng lợi cuối cùng.


Dân giang hồ một khi đã theo cách mạng là nhứt định đi tới cùng, không bao giờ sanh nhị tâm.


Ký tên Huỳnh văn Trí


Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304» (*) .


Phạm Hùng đọc qua, cảm thấy dội ngược vì chưa bao giờ có ai dám gọi Hồ Chí Minh bằng anh. Đưa cho tất cả thành viên phái đoàn lần lượt đọc, ai cũng lắc đầu, im lặng. Tức ý muốn nói không nên đưa thơ cho Hồ Chí Minh.

Sau cùng, Hà Huy Giáp nhận xét nội dung thơ hoàn toàn đúng sự thật. Còn cách nói, tuy nói với «Bác», vẫn không có gì xúc phạm, thất lễ. Mười Trí kém «Bác» 13 tuổi, có gọi «Bác» bằng anh thì cũng bình thường thôi. Trái lại, lời thơ đúng là giọng dân giang hồ Nam bộ, như vậy sẽ có cơ hội để «Bác» hiểu dân giang hồ Nam bộ đi theo kháng chiến.

Nghe qua lý luận của Hà Huy Giáp, mọi người thấy an tâm nên đều bằng lòng nên đưa thơ của Mười Trí cho Hồ Chí Minh.

Khi gọi Hồ Chí Minh bằng anh, không biết có phải Mười Trí nghĩ Hồ Chí Minh cũng cùng gốc đi «hát» (**) như Mười Trí hay không. Bởi anh em Bình Xuyên đều gốc giang hồ, khi phong trào kháng chiến chống Tây phát động ảnh ưởng sâu xa đến lòng yêu nước ở họ, tất cả đều từ bỏ đời sống cũ, nhiệt tình tham gia kháng chiến. Trước đây giang hồ vì họ muốn sống hào hùng, ngoài vòng pháp luật.

Nên nhớ ngoài lớp trí thức tiểu tư sản ra, phần lớn những người đi theo Hồ Chí Minh làm cách mạng cộng sản đều gốc bụi đời, du thủ du thực, thất học, chẳng mấy ai ý thức được tình yêu nước, và cũng không thấy họ sẽ bị mất cái gì dưới chế độ cộng sản nên họ đi làm cộng sản chỉ để «có tất cả» nếu thành công, và không mất gì hết nếu thất bại (Quốc tế ca).

Nhưng nếu nghĩ Hồ Chí Minh cũng là dân giang hồ như Bảy Viễn thì đó là một sự lầm lẫn rất lớn. Bởi Hồ Chí Minh không thể giang hồ vì thiếu tinh thần mã thượng của dân Nam kỳ. Vả lại Hồ chí Minh là cộng sản, đệ tử chơn truyền của Staline và Mao. Staline được Lénine tuyển dụng nhờ thành tích ăn cướp ngân hàng và giết người không gớm tay. Hơn nữa Hồ Chí Minh đi «hát» không phải trong phạm vi thôn xóm như Mười Trí, mà trên cả nước. Thành tích thổ phỉ của ông và cái đảng của ông là cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, sau 30/04/75 trong Nam, là đổi tiền, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới,… Truyền thống «đi hát» của Hồ Chí Minh được gìn giữ một cách luôn luôn sáng tạo. Ngày nay, là đi «hát» trên ruộng đất của nhơn dân. Đảng viên lớn giàu lớn, nhỏ giàu nhỏ. Chỉ có nhơ n dân lương thiện là tay trắng. Lời nói của Chu Sồi Sển, nhơn vật trong truyện «Xe lên, xe xuống» (Nguyễn Bình Phương, Diễn đàn Thế kỷ, Huê kỳ), nói với Tướng cộng sản Hà nội Chu văn Tấn «Tụi tao vì nghèo đi làm thổ phỉ. Tụi bây cũng vì nghèo, đi làm cách mạng. Tụi mình giống nhau» rất đáng ghi nhớ để đừng mơ hồ với cộng sản.

Sau 1954, Mười Trí tập kết ra Bắc. Cũng như phần đông dân trong Nam tập kết, ông được cho đi học, cả học ở Liên xô và Đông Âu, nhưng họ đều được «hướng dẫn» theo học các ngành thiên về kỷ thuật như xây dựng, hàng hải, kế toán,… theo chế độ hữu nghị. Nên chẳng có mấy người sau 75 về Miền Nam làm cán bộ chánh trị hay an ninh.

Bảy Viễn về Sài gòn, với lực lượng võ trang Bính Xuyên, giữ an ninh vùng Sài gòn Chợ lớn, đẩy lui việt cộng ra xa thành phố. Tây không giữ lời hứa lập một «khu trái độn» để tiếp tục nhận thêm nhiều kháng chiến quân không theo Việt Minh cộng sản có thể yên tâm trở về mà không mang tiếng đầu Tây. Trái lại, Tây biến lực lượng Bình xuyên hoàn toàn phụ thuộc họ. Và, vì sống xa hoa, chung quanh có nhiều kẻ xu nịnh, Bảy Viễn cũng bắt đầu thay đổi, để mất hẳn bản chất giang hồ lúc đầu.

Sau 1954, Bảy Viễn được Tây rước qua Tây, với cả gia đình. Ông và gia đình sống an lành ở một vùng ngoại ô phía Nam Paris, con cái học hành thành đạt. Có lẽ nhờ ông làm ăn cướp mà không thuộc thành phần đại gian đại ác.

Ghi chú :

(*) Nguyên Hùng, Bảy Viễn, Thủ lãnh Bính Xuyên, xb Văn Học, Sài gòn, 1999, trg 288-289 và Pháp Luật Tp Hồ Chí Minh, Xuân 1998. Cũng nên để ý Nguyên Hùng là đảng viên cộng sản nên viết luôn luôn nhằm phục vụ cho tuyên truyền cộng sản và công kích những người ái quốc chống cộng sản.

 (**) Đi hát là tiếng lóng của giới giang hồ có nghĩa là đi ăn cướp.
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét