khktmd 2015
Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2018
Hai sát thủ Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh - Tác giả Lữ Giang
Sát thủ Hoàng Phủ Ngọc Phan
Báo chí trong nước nói rất ít về tông tích của hai tay sát thủ Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh, có lẽ vì những sự tàn ác của hai người này trong Tết Mậu Thân quá ghê rợn và quá rõ ràng, nên phải giấu kín để tránh phản ứng của dân chúng, nhất là của gia đình các nạn nhân.
Hoàng Phủ Ngọc Phan, em ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1939 tại Huế, nhưng quê ở làng Bích Khê, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, cùng quê với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Bố của Tường và Phan làm y tá ở bệnh viện tỉnh Quảng Trị, sau về làm ở Huế, cư ngụ trong cư xá công chức ở đường Mai Thúc Loan, trong Thành Nội, gần trường Bồ Đề.
Khi Giáo Hội Phật giáo Ấn Quang phát động chiến dịch gây bạo loạn để cướp chính quyền ở Huế và Đà Nẵng năm 1966, Phan đang là sinh viên y khoa năm thứ 2 Đại học Y khoa Huế, đã tham gia vào “Đoàn Sinh Viên Quyết Tử” do Nguyễn Đắc Xuân làm Đoàn trưởng. Đây là một tổ chức ngoại vi của Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế.
Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế lúc đầu do Hoàng Văn Giàu làm Trưởng đoàn, sau đó là Vĩnh Kha, còn Thái Thị Kim Lan làm Phó. Đám này gồm có các tên chủ yếu sau đây : Trần Quang Long, Nguyễn Thiết, Nguyễn Hữu Châu Phan, Phan Chánh Dinh, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Tấn Hùng, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Thị Kim Lan, Hoàng Thị Thọ, Phạm thị Xuân Quế, Bửu Chỉ…
Trong tập hồi kỳ “Năm tháng dâng người”, Lê Công Cơ, một đảng viên đảng cộng sản có tham dự vào Đoàn Sinh Viên Quyết Tử đã cho biết như sau :
“Trước thời cơ ngàn năm có một, thông qua sự chỉ đạo của Thành ủy… Đoàn sinh viên quyết tử Huế ra đời với quân số trên 500, được chia làm 4 đại đội và do anh Xuân làm tiểu đoàn trưởng. Sinh viên quyết tử được trang bị các vũ khí tự tạo và một số súng, lựu đạn do binh lính tại Huế cung cấp. Đoàn Sinh viên quyết tử, với những chàng thư sinh ngày nào, giờ mặc những bộ đồ ka-ki, đội mũ tai bèo diễu hành qua các phố “thề bảo vệ Huế đến cùng” đã tiếp thêm sức mạnh cho người Huế trong cơn dầu sôi, lửa bỏng” (NTDN, tr.293-294).
Nguyễn Đắc Xuân có đính chính rằng đoàn “đội mũ lưỡi trai (theo kiểu Mỹ)” chứ không phải “đội mũ tai bèo” !
Nhưng cuộc nổi loạn thất bại, nhóm Đoàn Sinh Viên Quyết Tử một số bị bắt, một số được Hoàng Kim Loan đưa vào chiến khu theo cộng sản, một số chạy vào Sài Gòn ẩn nấp tại 3 nơi : Trung tâm Quảng Đức của Thích Thiện Minh ở số 294 đường Công Lý, chùa Pháp Hội ở số 702/105 đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) Quận 10 và cư xá Viện Đại học Vạn Hạnh, nhưng Trung tâm Quảng Đức của Thích Thiện Minh là nơi tập trung đông nhất.
Trong hồi ký trên, Lê Công Cơ cũng tiết lộ rằng khi phong trào bị đàn áp, chính Cơ đã viết thơ cho Thành ủy xin đưa Tường, Phan và Xuân ra hậu cứ. Trong bài “Kỷ yếu về Hòa thượng Thiện Siêu” Nguyễn Đắc Xuân cho biết Xuân đã mượn áo cà sa mặc vào giả làm Ni-cô, được Phạm Văn Rơ và Cao Hữu Điền hộ tống lên chùa Từ Đàm, sau đó qua chùa Kim Tiên rồi chùa Tường Vân, nhưng : “Không ngờ chùa Tường Vân nằm trong địa bàn lõm của Thành ủy Huế.” Đến đầu tháng 7/1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường từ Thành ủy Huế trên chiến khu gởi thư rủ Xuân ra chiến khu, chờ tình hình yên rồi trở lại. Xuân đã mặc áo cà sa ra đi hôm 10/7/1966… Những tiết lộ này cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi theo cộng sản trước biến cố 1966.
Nhóm ở Trung tâm Quảng Đức do Hoàng Văn Giàu lãnh đạo gồm khoảng 90 người, trong đó có Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Tấn Hùng, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Trần Triệu Luật, Phan Long Côn, Trần Văn Long… Sau biến cố này Thích Thiện Minh quyết định tách ra khỏi Thích Trí Quang và thành lập Phật Xã Đảng để hoạt động riêng, nhưng nghiêng hẳn về phía cộng sản. Một số trong nhóm này đã được đưa vào chiến khu, trong đó có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Trần Triệu Luật (đã chết trong chiến khu).
Sau nhiều lần cảnh cáo, tối 25/2/1969 cơ quan an ninh đã lục soát Trung tâm Quảng Đức, tìm thấy nhiều truyền đơn tuyên truyền cho cộng sản và một số vũ khí, bắt Thích Thiện Minh và 66 sinh viên đang cư ngụ và đưa về điều tra, trong đó có lãnh tụ Hoàng Văn Giàu.
Hoàng Văn Giàu sinh năm 1938 tại Phủ Cam, Huế, con ông Hoàng Văn Xương (ở khu sau nhà thờ), nhưng gia đình này không theo Công giáo. Giàu là người hoạch định mọi kế hoạch đấu tranh của nhóm sinh viên Phật giáo ở Huế cũng như ở Trung tâm Quảng Đức và là “cố vấn” của Thích Thiện Minh. Đi sát với Giàu có Nguyễn Tấn Hùng, Phan Long Côn, Trần Văn Long… bị phát hiện là những cán bộ cộng sản nằm vùng. Khi dẫn đi, cảnh sát đã còng chung Giàu với Hùng.
Ngày 15/3/1969 Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng III đã xét xử và tuyên phạt Thích Thiện Minh, tên thật là Đỗ Xuân Hàng, sinh năm 1921, 10 năm khổ sai và 5 năm cấm cố. Ít lâu sau ông được ân xá vì cam kết không hoạt động cho cộng sản nữa.
Riêng nhóm Hoàng Văn Giàu được chia ra hai loại : loại cán bộ cộng sản thì bị giam giữ, có người cho đến 1975, còn loại sinh viên đấu tranh thì bị bắt đi nhập ngũ, sung vào những đơn vị thuộc Sư Đoàn 21 đóng ở Chương Thiện. Riêng Hoàng Văn Giàu chỉ ở quân trường một thời gian thì được biệt phái về Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị. Giàu nhân danh Vụ trưởng Sinh Viên Phật Tử Vụ tuyên bố giải tán Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn – Vạn Hạnh vì bị các sinh viên Mặt Trận Giải Phóng thao túng. Vì thế nhiều người tin rằng Giàu là phản gián của cơ quan an ninh. Nhưng có người lại cho rằng Giàu là một người hèn nhát, lừa thầy phản bạn, bán đứng tổ chức.
Phe cộng sản cũng không tin Giàu nên sau khi chiếm miền Nam, đã bắt Giàu giam ở Trại Phan Đăng Lưu (tức trại tù Gia Định cũ) một thời gian. Năm 1982 Giàu đã qua Úc và bắt đầu viết nhiều bài trên Sachhiem.net của nhóm Giao Điểm và Chuyenluan.net chửi Công giáo và chế độ Ngô Đình Diệm với nhiều bút hiệu khác nhau để chứng tỏ “ta đây không phải là phản gián” hay phản bội ! Nay thì Giàu đã bị tai biến và không còn viết lách gì được.
Khi giới thiệu tác phẩm “Dưới ánh hỏa châu” của Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nhà xuất bản TRẺ ở Đà Nẵng đã viết “Phan nguyên là sinh viên tranh đấu ở Huế thoát ly kháng chiến. Từ Miền Trung trôi dạt vào Sài Gòn, về vùng kháng chiến Miền Đông, Miền Tây Nam Bộ, lên R, sang chiến trường Campuchia…”.
Hoàng Phủ Ngục Phan đã cùng với Trần Triệu Luật từ Sài Gòn đi vào chiến khu chứ không phải từ Huế, còn Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đi từ Huế.
Trong biến cố Tết Mậu Thân, Phan đã trở lại Huế cùng với Nguyễn Thị Đoan Trinh và bộ đội cộng sản, đi tìm bắt hoặc giết các nhân viên chính quyền, quân đội, cảnh sát và những thành phần bị coi là chống cộng trong thành phố Huế.
Sau 30/4/1975, Phan đã trở lại Huế và làm “nhà văn” với bút hiệu là Hoàng Thiếu Phủ hay Ngọc Phang Lang. Trong tác phẩm “Dưới ánh hỏa châu”, Phan không hề nói gì đến chuyện Phan làm mưa làm gió ở Huế trong suốt 22 ngày trong Tết Mậu Thân mà chỉ cho biết “Khoảng trưa hôm ấy, đoàn công tác chúng tôi được lệnh tập kết ở khu vực Đại Nội để chờ đến tối sẽ rút ra khỏi thành phố” và Phan thấy ở đâu đều chật ních đồng bào lánh nạn.
Ma nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh
Nguyễn Thị Đoan Trinh sinh năm 1949 tại Huế. Đoan Trinh có nghĩa là ngay ngắn và thủy chung, nhưng những gì mụ ta đã làm lại rất ghê rợn, dân Huế thường gọi mụ ta là Ác phụ hay Ma nữ. Chúng tôi phải nói qua gia đình của Đoan Trinh để đọc giả có thể hiểu tại sao đất Kinh thành Huế theo Phật giáo thuần thành, phủ đầy chùa chiến mà lại sinh ra một con ác quỷ như vậy.
Nguyễn Thị Đoan Trinh là con của Nguyễn Văn Đóa, nhưng thường được gọi là Nguyễn Đóa, một đảng viên đảng cộng sản. Lúc đầu Đóa là giáo viên tiểu học, rồi làm giám thị trường Khải Định, khi về hưu dạy Pháp văn ở trường Bồ Đề Thành Nội.
Trường Bồ Đề Thành Nội được Hội Tăng Già Trung Việt thành lập năm 1953 ở số 35 đường Đặng Dung, phường Thuận Thành, Huế, rất gần với nhà Đóa. Ông Lê Mộng Đào là hiệu trưởng đầu tiên và các giáo viên đều là Phật tử như Võ Đình Cường, Nguyễn Đóa, Nguyễn Hữu Ba, Cao Xuân Lữ, Tôn Thất Dương Tiềm, Cao Cự Phúc, Lê Quang Vịnh… Nhưng đây là một ổ hoạt động trí vận của cộng sản. Những đảng viên nổi tiếng đều có mặt ở đây như Võ Đình Cường, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm (rể của ông Đóa)…
Võ Đình Cường, người được phe cộng sản gọi là “cây đại thụ của Gia đình Phật tử Việt Nam” sinh năm 1917 tại Huế, vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1943, từng giữ chức Ủy viên Tuyên vận của Tỉnh ủy Thừa Thiên, bị bắt rất nhiều lần, nhưng mỗi lần Cường bị bắt, Thích Trí Quang đều can thiệp, cơ quan an ninh phải thả ra, vì Cường vừa là Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, vừa là người chỉ đạo và “cầm tròng” Thích Trí Quang (chúng tôi đã chứng minh nhiều lần).
Nguyễn Đóa gốc Quảng Nam, có bốn người con, hai trai và hai gái, người con trai đầu tên là Nguyễn Bồng, năm nay cũng phải 82 tuổi, hiện đang ở Kim Long. Anh này không theo cộng sản. Đoan Trinh là con út. Cả gia đình đều đã quy y và được gọi là “Phật tử thuần thành” vì thế người ta thường gọi Nguyễn Đóa với danh xưng “Đạo hữu Nguyễn Đóa”.
Tôn Thất Dương Tiềm, rể của Nguyễn Đóa, người thấp lùn, là một cán bộ nội thành và cũng như Võ Đình Cường, đã hoạt động cho cộng sản từ trước 1954, y cũng dạy ở trường Bồ Đề. Tiềm là anh em con chú con bác với Tôn Thất Dương Kỵ. Kỵ hoạt động cho cộng sản đã bị chính phủ Phan Huy Quát trục xuất ra Bắc ngày 19/5/1965 qua ngả cầu Hiền Lương cùng với Bác sĩ Phạm Văn Huyền và ký giả Cao Minh Chiến.
Nhà Nguyễn Đóa ở kiệt 2 đường Âm Hồn trong Thành nội Huế, gần trường Bồ Đề. Nguyễn Đắc Xuân kể lại : “Nhân một buổi trưa vắng tiếng súng, tôi theo chân cô Đoan Trinh – con cụ Nguyễn Đóa về nhà cô ở đầu kiệt 2 đường Âm Hồn xin nước giếng tắm. Tôi mới vào phòng tắm, vừa cởi cái tay nải ra khỏi thắc lưng treo lên cửa thì pháo Mỹ rót ầm ầm xuống khu vực chúng tôi đang có mặt. Nhà cụ Đóa sập, một vài bộ đội tự vệ đang trú trong nhà chết và bị thương nặng”.
Sau 30/4/1975, ông Đóa trở về và được cấp một căn nhà khác cũng trên đường Âm Hồn, nay đổi là 22 Lê Thánh Tôn (khúc đường Tống Duy Tân), Phường Thuận Thành, Huế. Sau khi ông Đóa chết, Đoan Trinh đã bán căn nhà này và vào ở Sài Gòn.
Trước Tết Mậu Thân, Nguyễn Thị Đoan Trinh đang học Dược tại Sài Gòn, được Nguyễn Đóa gọi về và dặn dò phải thể hiện tinh thần “Bi, Trí, Dũng” như thế nào khi quan cộng sản chiếm Huế, rồi đi vào chiến khu. Ông Nguyễn Thúc Tuân, một cán bộ cao cấp được phe cộng sản giao cho theo dõi các hoạt động của Hòa thượng Đôn Hậu ở chùa Thiên Mụ, đã kể lại như sau :
“Tối mồng 4 Tết Mậu Thân, tôi cùng đi với bà Nguyễn Đình Chi (tên thật là Đào Thị Xuân Yến), cụ Nguyễn Văn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm (3 người) lên chiến khu cách thành phố Huế độ 4km. Tối ấy ở lại một đêm, ngày sau lên chiến khu gặp Giáo sư Lê Văn Hảo đã lên trước ngày 30 tháng Chạp, gặp cụ Đôn Hậu cũng đã lên trước vài ngày, từ Văn Xá đi lên độ 3 km đường chim bay. Chúng tôi giờ đây gồm 6 người : bà Nguyễn đình Chi, ông Nguyễn Văn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm, Giáo sư Lê văn Hảo, cụ Đôn Hậu và tôi. Chúng tôi lên gặp ông Hoàng Phương Thảo, Chủ tịch Thành phố Huế. Ông này lo toàn bộ. Ở tại chiến khu Huế 15 ngày”.
Sau khi thất bại ở Huế, những người trên đã được phe cộng sản đưa ra Bắc. Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm và bà Nguyễn Đình Chi đã đến gặp Hồ Chí Minh ba lần. Ngày 8/6/1969, khi “Chính phủ Cách mạng lâm thời” được thành lập, Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Nguyễn Đóa làm Phó Chủ tịch, còn Thích Đôn Hậu làm Ủy viên Hội Đồng Cố Vấn.
Vì bố là “Đạo hữu Nguyễn Đóa” được Đảng trọng dụng như thế, nên con gái là Đoan Trinh phải thực thi tinh thần “Bi – Trí – Dũng” một cách “kiên cường” khi quan cộng sản chiếm Huế. Nguyễn Đắc Xuân xác nhận : “Đoan Trinh là con gái út của cụ (Nguyễn Đóa), hoạt động trong đội thanh niên công tác của tôi”. Đoan Trinh mặc bộ đồ màu hồng, đi xe Honda, vai đeo AK-47, lưng mang súng lục K-54, cùng với Hoàng Phủ Ngọc Phan “lục soát mọi nơi tìm bắt ngụy quân/quyền. Bất kỳ ai, khi hỏi giấy tờ, thị phát hiện là quân nhân hay cảnh sát ngụy thì thị nổ súng bắn chết ngay, không cần hỏi câu thứ 2”. Chuyện dài của Đoan Trinh và Hoàng Phủ Ngọc Phan sẽ được nói sau.
Sau khi quan cộng sản rút khỏi Huế, Đoan Trinh đi theo và ra Hà Nội tiếp tục học ngành Dược. Sau 30/4/1975 y thị đã trở lại Huế. Khi ông Đóa qua đời, y thị vào Sài Gòn, được cấp giấy phép số 2433 ngày 18/5/2011, mở tiệm thuốc tây lấy hiệu là Hữu Thiện (!) ở địa chỉ G15/28G đường Ấp 7, Phường Lê Minh Xuân, quận Bình Chánh, Sài Gòn. Đường Ấp 7 nay đã được đổi thành Láng Le Bàu Cò, nên địa chỉ hiện nay của Đoan Trinh là :
Nhà thuốc Hữu Thiện, G15/28G Láng Le Bàu Cò, Phường Lê Minh Xuân, quận Bình Chánh, điện thoại 84 91 249 48 09.
Khi hai sát thủ ra tay
Bà Nguyễn Thị Thái Hòa, năm 1968 là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế và đang thực tập tại Bệnh Viện Trung Ương Huế khi biến cố Mậu Thân xảy ra ở Huế. Gia đình bà ở đường Hàm Nghi, Huế. Bà vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng vụ Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh đánh lừa để giết 4 người thân trong gia đình bà, đó là 3 anh em ruột của bà mà Phan quen biết khi học ở Huế : Nguyễn Xuân Kính (sinh 1942, sinh viên Y khoa), Nguyễn Xuân Lộc (sinh 1946, sinh viên Luật) và Nguyễn Thanh Hải (sinh 1949, sinh viên Văn khoa). Sau khi giết 3 người này, Phan bắn chết luôn ông nội của bà là cụ Nguyễn Tín (70 tuổi). Sau đó, Phan bắt Lê Tuấn Văn, một sinh viên Văn khoa, đào huyệt tại vườn sau nhà cụ Tín để chôn 4 người trên rồi bắn Lê Tuấn Văn luôn.
Khi các cơ quan truyền thông hải ngoại phổ biến rộng rãi lời tố cáo của bà Nguyễn Thị Thái Hòa về những chuyện gian ác mà Phan và Trinh đã làm, Phan đã mượn tờ Tạp Chí Sông Hương ở Huế do Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng Biên tập, và một nữ cán bộ có tên là thi sĩ Đông Hà làm cò mồi để giải thích bâng quơ : “Đó là luận điệu tuyên truyền vu khống của kẻ địch”. Khi được hỏi tại sao không phản biện, Phan nói : “Thường thì tôi không có hứng thú tranh luận trên những trang web lá cải của những người CCCĐ (chống cộng cực đoan)… Gia đình tôi vốn theo đạo Phật. Cả anh Tường và tôi đều có pháp danh và có phái quy y với bổn sư Thích Đôn Hậu. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, buộc lòng tôi đã phải lên tiếng vạch trần những chỗ trật lất và láo toét…”. Nhưng Phan chỉ cho rằng trong Tết Mậu Thân, Tường không có mặt ở Huế, chứ không hề đả động gì đến chuyện bà Thái Hòa đã tố cáo. Đó là kiểu “vạch trần” của Phan !
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét