Hồi cuối tháng 7 năm nay (2015), tôi có cơ hội trao đổi với sử gia Tạ Chí Đại Trường (TCĐT). Tôi gửi hai câu hỏi qua email để nhờ ông giải đáp. Nguyên văn hai câu hỏi như sau:
1. Các yếu tố tạo nên tâm lý thần phục thiên triều của các vương triều Việt Nam trong lịch sử?
1. Các yếu tố tạo nên tâm lý thần phục thiên triều của các vương triều Việt Nam trong lịch sử?
2. Đảng cộng sản Việt nam có mang tâm lý thần phục Bắc Kinh hay không, và tại sao?
Mặc dù sức khỏe bắt đầu suy sụp từ nhiều tháng trước đó, sử gia TCĐT đã cố gắng hồi đáp khá nhanh, cũng qua phương tiện email. Trước hết, TCĐT cho rằng hai câu hỏi “níu kéo” nhau “vì cũng chỉ là chuyện quan hệ Việt-Trung mà thôi”. Ông xác nhận tâm lý thần phục Trung Hoa là hoàn toàn có thật, và tâm lý này mang nặng tính lịch sử và văn hóa. Về mặt địa lý, hai nước kề cận nhau thì chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, và theo lẽ thường, “thằng nhỏ phải thua thằng lớn”. Đối với nước nhỏ, đánh nhau là chuyện bất đắc dĩ, ngay cả khi thắng trận, giành lại được ngôi vị thì vẫn phải xưng thần để cảm ơn nước lớn đã không… đánh tiếp và đã phong chức cho mình. Điều này xảy ra nhiều lần trong lịch sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân đất Việt, “lâu ngày thành thói, có chuyện tranh giành trong nước, bị thua thì kéo nhau qua Tàu nhờ phân xử, như họ Trần cầu viện Minh đánh Hồ Quý Li, Trịnh Lê cầu Minh đánh Mạc, Lê Chiêu Thống v.v..”. Theo TCĐT, chính là vì vậy mà cái thế “nước nhỏ” càng lúc càng thấp thỏi, phải chịu đựng một thứ tâm thức Phiên thuộc, kéo dài thành một thứ ông gọi là “Hội chứng Phiên thuộc”. Sử gia TCĐT cho biết thêm cái hội chứng phiên thuộc còn có gốc rễ sâu xa từ áp lực nặng nề của văn hóa Hán. Theo ông, “các nho sĩ làm quan được là nhờ chữ Hán, sống trong khung trời Hán học nên có lúc tưởng mình là người phương Bắc, không được thì cũng ráng nghĩ làm sao cho có dạng phương Bắc”. Ông dẫn chứng: “Quyển Toàn thư dịch ra tiếng Việt, ví dụ có chữ ‘nước ta’ thật ra trong bản văn gốc nó là ‘ngã Trung Quốc nhân’. Sách triều Nguyễn không xưng là dân Việt mà xưng là ‘dân Hán’, còn người Tàu là ‘Đường nhân’”. Liên kết tâm lý phiên thuộc này với giới lãnh đạo CSVN thuộc nhiều thời kỳ, TCĐT nhận xét: “Cái tâm lí [phiên thuộc], kiến thức đó âm ỉ trong phần lớn đám cộng sản ngoài Bắc khiến họ thấy thân thiện một cách tự nhiên khi nhờ cậy [Trung quốc] từ những năm 1950. Cú xung đột 1979 vì Tàu chận âm mưu làm bá chủ Đông Dương của nhóm Lê Duẩn kiêu ngạo chiến thắng nhưng chiến tranh biên giới, Kampuchia làm các anh cũng ê mình, lớp người nối tiếp tất nhiên không có dũng khí của cha anh nên không những phải chịu Tàu lấn lướt mà tâm thức phiên thuộc trỗi dậy nên có lời phân trần chính thức của nhà chức trách Đảng ‘Từ xưa ta cũng phải xưng thần’”.
* Cái hội chứng phiên thuộc này được hăng hái kế thừa bởi các lãnh tụ CSVN rất sớm. Có thể một phần của cái cảm giác “thân thuộc” họ dành cho đất nước Trung Hoa đến từ thực tế là hầu hết các lãnh tụ tiền phong của đảng CSVN đã sinh sống và hoạt động ở đây ngay từ những năm 1930. Hội nghị thống nhất các tổ chức CSVN do Nguyễn Ái Quốc triệu tập và Đại hội Đại biểu Toàn quốc đầu tiên đã diễn ra ở Hong Kong và Macao thuộc lãnh thổ Trung quốc chứ không phải ở Việt Nam. Vào đầu những năm 1950, hội chứng Phiên thuộc dưới một dạng thức mới, một tôn ti mới, “đàn anh đàn em”, ngày càng rõ nét với sự “ngoan ngoãn” của tập đoàn lãnh đạo CSVN trong việc thực hiện chương trình Cải Cách Ruộng Đất theo chỉ thị của cố vấn Trung Quốc một cách sít sao. Vào năm 1958, công hàm mà nhiều người cho rằng mang tính bán nước của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thấy tâm lý lệ thuộc tự nguyện của đám chóp bu CSVN đã lên đến cao độ. Điều này tiếp tục vào năm 1974, khi hải quân Trung quốc sát hại 74 thủy thủ VNCH và chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Hà nội đã không hề mở miệng phản đối. Không những vậy, theo nhà báo Bùi Tín, cựu đại tá Quân đội Nhân dân, cựu phó tổng biên tập nhật báo Nhân Dân, “đồng chí” Lê Đức Thọ đã trấn an mọi người: “Hãy yên tâm, Hoàng Sa trong tay các đồng chí Trung quốc còn hơn là trong tay ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ”. Làm thế nào mà một người dân Việt Nam bình thường có thể yên tâm giao trứng cho ác? Nhiều năm trước khi Trung quốc đánh chiếm Hoàng Sa, một người lính VNCH khác, học giả Phạm Việt Châu, bút danh của cố Trung tá Phạm Đức Lợi, đã lên tiếng cảnh báo không chỉ Việt Nam mà toàn thể Đông Nam Á về mối họa Trung quốc trong chuỗi bài viết “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh” đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa (Sài gòn) trong những năm 1969 – 1974. Một cách sáng suốt, tác giả chỉ ra rằng “nhân dân Đông Nam Á không có vấn đề Trung Cộng riêng rẽ mà chỉ có vấn đề Tàu. Tàu thì lúc nào cũng chỉ là Tàu, và cái mưu đồ theo đuổi tận diệt bằng cách đồng hoá các dân tộc nhỏ yếu xung quanh (dưới hình thức này hay hình thức khác) từ xưa đến nay cũng vẫn thế”. Xung đột biên giới Tây Nam với Campuchia vào nửa sau những năm 1970 dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung quốc phát động vào năm 1979 với tuyên bố xấc xược của Đặng Tiểu Bình “dạy cho [đàn em] Việt Nam một bài học”. Đây thật ra là cơ hội rất tốt để CSVN gỡ cái tròng băng đảng anh em vô sản quốc tế ra khỏi đầu mình. Cũng chỉ được một số năm, cho đến khi hải quân Trung quốc đánh chiếm quần đảo Trường sa và sát hại 64 chiến sĩ Việt Nam vào năm 1988. Phản ứng của chính phủ Việt Nam đối với sự kiện quan trọng này, nhìn ở góc độ bao dung nhất, được cho là vô cùng yếu ớt. Không bao lâu sau đó, nhiều văn kiện quan trọng (vẫn còn nằm trong vòng bí mật sau một phần tư thế kỷ) được ký kết giữa lãnh đạo hai nước tại hội nghị Thành Đô vào tháng 9 năm 1990. Điều đáng lưu ý là vị trưởng lão cố vấn cho phái đoàn CSVN không ai khác hơn là cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đã ký công hàm 1958 thừa nhận chủ quyền của TQ trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách mau mắn! Như vậy, sau một thập kỷ tương đối độc lập, giới chóp bu CSVN lại quay về thần phục thiên triều, không phải vì nhu cầu ích nước lợi dân mà chính vì sự sống còn của đảng CSVN ngay vào thời điểm hệ thống cộng sản ở Đông Âu đang trên đà sụp đổ. Đây chỉ là một trong số không ít lần đảng CSVN đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi của tổ quốc và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Đúng như sử gia TCĐT nhận xét, “quyền lợi lớn quá nên không thể để mất đảng…”.
* Từ sau hội nghị Thành Đô, có nhiều dấu hiệu cho thấy sự nhượng bộ, đôi khi tự nguyện, của chính quyền Việt Nam trong một số lãnh vực. Hiệp ước Biên giới (trên đất liền) năm 1999 vẫn tiếp tục là điều được dư luận nhắc nhở mỗi khi quan hệ Việt-Trung được mang ra thảo luận. Trong khi phe thân chính quyền khăng khăng cho rằng đây là một hiệp ước công bằng, bài học địa lý quen thuộc của nhiều thế hệ học sinh Nam Bắc vốn luôn luôn có câu “Nước Việt Nam hình cong như chữ S, kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu” đã không còn đúng với thực tế! Ngoài ra, Việt Nam thường tỏ ra dè dặt một cách thái quá khi phải đối đầu với Trung quốc, tránh né đến mức tối đa việc buộc Trung quốc phải nhận trách nhiệm trong việc thay đổi hệ sinh thái sông Mekong, ảnh hưởng vô cùng tiêu cực lên đời sống hàng chục triệu dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Gần đây, có những bằng chứng cho thấy Ủy ban Sông Mekong do chính quyền lập ra đã sản xuất một báo cáo mà kết quả đi ngược lại các công trình nghiên cứu quốc tế liên hệ về hậu quả nghiêm trọng do việc xây cất các con đập ở thượng nguồn sông Mekong (thuộc lãnh thổ Trung quốc). Về hiểm họa này, từ hơn 15 năm trước, nhà văn, bác sĩ quân y (VNCH) Ngô Thế Vinh, đã lên tiếng báo động với các “tiểu thuyết dữ kiện” Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (xuất bản lần đầu năm 2000) và Mekong, Dòng Sông Nghẽn Mạch (xuất bản lần đầu năm 2007) cùng nhiều bài biên khảo, tiểu luận liên quan đến hệ sinh thái sông Mekong mà ông cho ra đời khá thường xuyên. Gần đây nhất là các bài viết “Năm Nay 2015 Không Có Mùa Nước Nổi” và “Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ – Miền Tây Đau Thắt Ngực” để chỉ ra cái hiểm họa mà ông và các thân hữu trong Nhóm bạn Cửu Long lên tiếng báo động từ lâu nay đã trở thành một tai họa có thật đang giáng xuống đầu người dân vùng châu thổ sông Cửu Long (Việt Nam) và vùng biển Hồ Tonle Sap (Campuchia). Điều đáng chú ý là bài viết “Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ – Miền Tây Đau Thắt Ngực” chỉ ra sự ngoan cố của Hun Sen, đương kim thủ tướng Campuchia, người vẫn khăng khăng bào chữa cho Trung quốc trong khi bằng chứng các con đập thượng nguồn ở Trung quốc là thủ phạm gây ra tình trạng khô kiệt ở vùng Biển Hồ là điều không thể chối cãi. Xem ra về mặt cúc cung tận tụy với thiên triều, đảng CSVN nay đã có một đối thủ đáng gờm.
* Không ít người cho rằng lần viếng thăm Việt Nam vừa qua của Tập Cận Bình là một cơ hội rất tốt cho chính quyền Việt Nam gửi đến người cầm đầu Trung quốc một thông điệp rõ ràng về “dáng đứng Việt Nam” trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt trong vấn đề tranh chấp lãnh hải ở biển Đông. Chỉ trong ít ngày trước cuộc thăm viếng, một số biến cố thuận lợi cho Việt Nam liên tiếp diễn ra. Ngày 27 tháng 10, 2015, khu trục hạm Lassen của Mỹ xâm nhập vùng “12 hải lý” của đảo nhân tạo Subi thuộc quần đảo Trường Sa nhằm phủ nhận “chủ quyền” mà Trung quốc ngang ngược tuyên bố trước đó. Sau đó ít hôm là vụ Philipines kiện Trung quốc về chủ quyền trên biển Đông được tòa án quốc tế đặt ở Hòa Lan nhận thụ lý. Kế đến, bộ trưởng quốc phòng Nhật thăm Cam Ranh, đề nghị tập trận chung v.v… Tuy vậy, dựa trên cách ứng xử của nhà cầm quyền chung quanh lần viếng thăm của chủ tịch Tập Cận Bình, không có dấu hiệu nào cho thấy giới lãnh đạo CSVN đã tận dụng những biến chuyển thuận lợi này để mạnh dạn đương đầu với áp lực của vị khách đến từ phương Bắc. Theo thiển ý, hành động đàn áp những người biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh không chỉ tô đậm thêm hình ảnh tiêu cực của chính quyền Việt Nam về mặt nhân quyền trong mắt giới quan sát quốc tế mà còn là điều vô cùng thất sách, gây bất lợi cho công cuộc tranh đấu giành lại chủ quyền biển đảo. Nếu buộc phải né tránh việc công khai thách đố Tập Cận Bình về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì tâm lý Phiên thuộc hay vì một lý do nào khác, Việt Nam vẫn có thể lợi dụng các cuộc biểu tình này để gián tiếp bày tỏ vị trí của chính quyền và tâm tư của nhân dân Việt Nam đối với cuộc tranh chấp lãnh thổ đang xảy ra giữa hai quốc gia. Bằng cách dập tắt những cuộc biểu tình, chính quyền Việt Nam đã không chỉ vùi dập tiếng nói chính đáng của người dân mà còn tự làm suy yếu tư thế đàm phán của chính mình.
* Người cộng sản, kiêu ngạo một cách vô căn cứ, luôn cho rằng họ xứng đáng hơn bất cứ ai hết để cai trị đất nước và nhân dân Việt Nam. Những tuyên bố theo kiểu “còn đảng còn mình” hay “mất đảng mất đảo” cho thấy đối với họ việc đảng này giành độc quyền lãnh đạo đất nước trong gần ba phần tư thế kỷ là chuyện… trời cho, là mệnh Trời.
Mệnh Trời hay mệnh con Trời?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét