khktmd 2015
Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014
Sự Liên Tục Lịch Sử Trong Nền Giáo Dục Của Miền Nam Thời Trước Năm 1975 - Tác giả TS Phạm Cao Dương
Một trong những đặc tính căn bản của sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói chung và văn hóa miền Nam nói riêng là sự liên tục lịch sử. Nói như vậy không phải là trong thời gian này miền đất mà những người Quốc Gia còn giữ được không phải là không trải qua nhiều xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ những gì liên hệ tới chế độ, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn được tôn trọng. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục. Trong bài này tôi chỉ nói tới tới giáo dục và giáo dục công lập. Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, đồng thời không đầy đủ. Một sự nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.
Giáo dục là của những người làm giáo dục
Giáo dục công lập ở Viẽt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ nào đó định chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học. Có điều coi trọng thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói chung, chỉ vạch ra nhữn g đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn ngưới tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp trong nước. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường tự do đảm trách. Giáo dục là của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả những học thuyết, nhửng nguyên tắc căn bản của giới này. Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ và phát triển văn minh và văn hóa của họ, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm thời về phía người Pháp cũng như về phía người Việt.
Đặc tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của CựuÏ Hoàng Bảo Đại. Chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng, bí thư tức thư ký riêng của bộ trưởng… tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong bộ, từ thứ trưởng, tổng thư ký, tổng giám đốc, giám đốc cho tới các hiệu trưởng các trường và đương nhiên là các giáo sư, giáo viên đều là những nhà giáo chuyên nghiệp. Lý do rất đơn giản: họ là những người biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, chưa kể tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một dân tộc hay ít ra là của những thế hệ tới mới là quan trọng. Trong phạm vi lập pháp, rõ hơn là ở quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu ban, dù là thượng viện hay hạ viện đều do các nghị sĩ hay dân biểu gốc nhà giáo phụ trách. Ngọại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường.
Tôn chỉ và mục đích nhằm hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống cũ
Nói tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích. Lý do có lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học.. Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích hay không đồng ý, ba nguyên tắc này vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam. Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời.. Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sởdĩ có được phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng giáo, một học thuyết coi giáo dục là công tác cơ bản của con người. Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình:
Khổng Mạnh cương cường tu khắc cốtÂu Tây khoa học yếu minh tâmSự liên tục trong phạm vi nhân sự
Nhân sự ở đây không ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thày, làm cô của mình, dù đó là sư phạm tiểu học hay sư phạm trung học. Tất cả các vị này vẫn còn nguyên vẹn khi đất nước bị qua phân và đã ở các trường trong Nam khi các trường này được mởcửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa. Sau khi đất nước bị chia cắt và qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền Bắc vô Nam, họ lại được tăng cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng với các trường được gọi là Bắc Viêt di chuyển. Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều hành các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập, đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới.Từphong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp tới cách viết bảng và xóa bảng, các vị này đã để toát ra một sự chừng mực của những nhà sư phạm nhà nghề, khác hẳn với các đồng nghiệp của họ từ ngoại quốc về chỉ lo dạy các môn học chuyên môn. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những lúc tình thế vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độ lập của học đường. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các đại học văn khoa ở Saigon và Huế.
Mặt tiền tòa nhà hành chánh Viện Đại học Sài Gòn - viện đại học lớn nhất miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa
Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của chương trình Pháp và chương trình Hòang Xuân Hãn
Đây là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại thay vì cứ nhắm mắt đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn cảnh mới và cải tổ từ từ, kểcả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp lực của họ, đã trở nên rất mạnh qua những chương trình viện trợ của họ. Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thới chính phủ Trần Trọng Kim với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục đương thời. Nó cho phép người ta, từ thày đến trò dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ cuối niên học 1944-1945 người ta đã tổ chức đươc những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là chính phủ Trần Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng trời hay hơn một trăm ngày với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp và khả năng của các đương sự, không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật… vì đó là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống gần với hệ thống chung của quốc tế.
Duy trì mối liên tục lich sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và khoa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thày mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự học. Trong phạm vi Văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốnViệt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ, thay vì họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô Hoài, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân… là những trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự. Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau miền Nam đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình khi phải lãnh nhiện vụ ở những vùng xa thủ đô Saigon. Về phía chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp can thiệp . Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui mọi chuyện.
Một Xã hội tôn trọng sự học và những người có học
Đây là một trong những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội miền Nam nói chung và nền giáo miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị và giáo dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người làm công tác giáo dục được tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương diện tinh thần để thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những nhà chủ trương cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất. Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần giáo dục của miền Nam.
Tạm thời kết luận
Bài này được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục hiện tại ở Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chời đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ “phá sản” để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975. Ở đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những dữ kiện căn bản . Một công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này. Tuy nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm cách mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng trong những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có giáo dục. Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm. Có điều vì bằng kinh nghiện nên khi biết được thì đã quá muộn.
Đời Sống Văn Hóa Mỹ và Chúc Thư của Một Nhà Khoa Học Anh
Viện bảo tàng Smithsonian |
Du khách ghé thăm thủ đô nước Mỹ hầu như ai cũng được nghe nói tới hệ thống viện bảo tàng Smithsonian nổi tiếng ở Hoa Thịnh Ðốn, với những kho tàng nghệ thuật vô giá được trưng bày tại nhiều bảo tàngviện khác nhau, phần lớn tọa lạc ngay tại trung tâm thành phố.
Khách thưởng lãm, dù là cư dân hay du khách, thường không phải trả vé vào cửa. Mục Đời Sống Văn hóa của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) do Hoài Hương phụ trách, kỳ này xin được dành để giới thiệu một vài nét về lịch sử của hệ thống viện bảo tàng và nghiên cứu Smithson, tiếng Anh gọi chung là The Smithsonian Institute.
Vào thế kỷ thứ 19, một khoa học gia người Anh tên James Smithson soạn tờ di chúc của ông, để lại tài sản cho một người cháu và con cái của người được thừa hưởng gia tài.
Ông Smithson cẩn thận ghi thêm vào chúc thư, rằng trong trường hợp người cháu qua đời mà không có con, dù là con hợp pháp hay con ngoại hôn, thì toàn thể tài sản của ông sẽ được hiến cho Hoa Kỳ để, theo nguyên văn chúc thư, “thiết lập một định chế mang tên Smithson, có mục đích tăng cường và quảng bá kiến thức của nhân loại.”
Một chi tiết đáng chú ý có thể giải thích những ngôn từ trong chúc thư, là ông Smithson là một đứa con ngoại hôn, và trong xã hội khắt khe ở Anh thời bấy giờ, ông bị cấm, không được mang tên họ của cha.
Nhà khoa học qua đời vào năm 1829, thọ khoảng 64 tuổi, trong khi đang cư ngụ tại thành phố Genoa, nước Ý. Chúc thư của ông được đăng trên tờ The Times of London- Luân Đôn Thời Báo, và khả năng Hoa Kỳ có thể được tặng một gia tài lớn lao như thế vào thời đó, đã thu hút sự chú ý của một chủ biên người Mỹ, ông này đã cho đăng lại bản tin trên tờ The New York American.
Ông Hungerford, người cháu của khoa học gia Smithson, lúc đó chỉ mới ngoài đôi mươi, và bởi vì thế mà không ai tin rằng điều khoản phụ được ghi thêm vào di chúc của ông Smithson, tặng tài sản cho Hoa Kỳ, có cơ may trở thành hiện thực.
Nhưng 6 năm sau khi thừa kế gia tài, chàng thanh niên trẻ tuổi tên Hungerford từ trần vào ngày 5 tháng 6 năm 1835, vì những nguyên nhân không rõ ở thành phố Pisa bên Ý, trong tình trạng không có con kế tự.
Chính phủ Hoa Kỳ tức khắc được thông báo, và Tổng Thống thời bấy giờ, ông Andrew Jackson, loan báo cho Quốc Hội biết chi tiết về ước nguyện cuối cùng lạ thường của nhà khoa học người Anh. Quốc Hội Mỹ chấp nhận khoản hiến tặng và cam kết sẽ thực hiện chúc thư của người quá cố. Gia tài được chính thức trao lại cho Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng Năm năm 1838.
Tài sản của nhà khoa học Smithson trị giá hơn 100.000 đồng tiền vàng Anh, được giao cho lò đúc tiền ở bang Philadelphia. Sau khi được đúc lại thành tiền Mỹ, gia tài mà nước Mỹ được thừa hưởng trị giá hơn 500.000 Mỹ kim.
Suốt 8 năm sau đó, Quốc Hội Mỹ tranh luận nên sử dụng tài sản này như thế nào cho vừa ý người quá cố. Cuối cùng vào ngày 10 tháng 8 năm 1846, Tổng Thống James K. Polk ký đạo luật thành lập Viện Smithsonian, đặt dưới sự điều hành của một Hội Đồng Quản Trị và một vị Tổng Thư Ký.
Hơn 168 năm sau, Viện Smithsonian nay đã trở thành hệ thống viện bảo tàng và viện nghiên cứu lớn nhất thế giới, với tất cả 19 viện bảo tàng và trung tâm triển lãm, một Vườn Thú Quốc gia và 9 cơ sở nghiên cứu.
Đa số các cơ sở của Viện Smithsonian mở cửa mỗi ngày trong năm, trừ ngày Lễ Giáng Sinh, 25 tháng 12, và trong hầu hết mọi trường hợp, khách được vào cửa miễn phí.
Năm 1865, một thập niên sau khi hoàn tất tòa kiến trúc đầu tiên của Viện Smithsonian được đặt tên là “The Castle- Tòa Lâu Đài”, tầng trên cùng của tòa nhà bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Trong những tài liệu bị thiêu rụi trong đám cháy này, có nhiều quyển nhật ký và giấy tờ của ông Smithson, bộ sưu tập các khoáng vật của ông, cùng những vật sở hữu cá nhân khác. Thật may mắn, thư viện của ông, được đặt tại một tòa nhà khác, vẫn tồn tại.
Mãi về sau, Viện Smithsonian mua lại bộ hài cốt của người sáng lập Viện cùng những kỷ vật cá nhân của ông để đưa sang Hoa Kỳ lưu trữ.
Năm 1903, nghĩa trang ở Genoa của nước Ý, nơi ông Smithson được chôn cất, bị di dời vì dự án phát triển một mỏ khai thác đá tại đây. Một thành viên của Hội đồng Quản trị thời đó, ông Alexander Graham Bell, đã đích thân tháp tùng bộ hài cốt của nhà hảo tâm từ Ý sang Mỹ. Bộ hài cốt đã được mai táng trở lại tại The Castle, ngay trung tâm thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, kế cận Quảng trường Quốc gia trước tiền đình tòa nhà Quốc Hội Hoa Kỳ.
Gia tài của nhà khoa học người Anh mà nước Mỹ thừa hưởng đã có nhiều ảnh hưởng lớn lao làm phong phú hóa đời sống văn hóa và các lĩnh vực nghệ thuật – thủ công mỹ nghệ – nhân văn và khoa học của nước Mỹ. Tuy nhiên, động cơ khiến ông Smithson đề cập tới Hoa Kỳ trong chúc thư, và chọn nước Mỹ để hiến gia tài – trong trường hợp cháu ông qua đời mà không có người thừa kế, vẫn còn là một bí ẩn.
Ông Smithson chưa hề đặt chân tới Hoa Kỳ, và dường như cũng không thư từ qua lại với bất cứ người nào tại Mỹ.
Một số người cho rằng ông chọn Hoa Kỳ như một cách để phản đối sự khắt khe trong xã hội Anh thời bấy giờ. Là một đứa con ngoại hôn, ông đã bị cấm, không được sử dụng tên họ của cha.
Một số nhà nghiên cứu khác thì tin rằng ông đã chọn Hoa Kỳ bởi vì nước Mỹ tượng trưng cho những lý tưởng cá nhân của riêng ông, về dân chủ và một nền giáo dục đại chúng.
Nhưng dù cho động cơ thúc đẩy nhà khoa học Smithson làm chúc thư là gì đi chăng nữa, sự chọn lựa của ông đã tạo điều kiện cho cư dân tại Hoa Thịnh Ðốn nói riêng, và du khách quốc tế ghé thăm thành phố này, được thưởng lãm tận mắt những tranh ảnh nghệ thuật, những báu vật trong kho tàng vô giá được trưng bày tại các viện bảo tàng Smithsonian khi tới thăm thủ đô nước Mỹ.
"Khi ta đến chỉ là nơi đất ở. Bốn mươi năm đất đã hoá tâm hồn" - Nhại thơ Chế Lan Viên
"Đời ông nội và tía má thằng Cộc là đời mắm còn đời thằng Cộc là đời tràm, đến đời con cháu của Cộc sẽ đời lúa, mít, xoài, dừa, cau…Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng"
Rừng Mắm, Bình Nguyên Lộc
Chàng Du Sinh Bắc Kỳ 2 Nút - Tác giả Trần Du Sinh
Vào những năm đầu của thế kỷ này, tôi có một cuộc hội ngộ mà sau này nghĩ lại, tôi cho đó là cơ duyên. Ở Châu Âu tôi có một người đồng hương là du học sinh đến từ Hà Nội.
Khi còn ở Việt Nam, tôi chưa bao giờ đi quá ranh giới Thừa Thiên về phía Bắc, nên không hiểu nhiều về người Bắc, mà cụ thể hơn là 'Bắc 75', chứ 'Bắc 54' thì tôi cũng biết được vài người khi học ở Sài Gòn. Dân miền Nam tị nạn hay nói Bắc Kỳ '2 nút' để phân biệt với Bắc Kỳ '9 nút'. Chắc dân mình thích đánh bài cào nên mới tính kỹ như vậy, 7 cộng 5 đúng là 2 nút thật, bên kia thì lại 5 cộng 4 là 9 nút, lại là số hên của người Việt.
Người trí thức miền Bắc trong tư tưởng tôi là hình ảnh mấy ông thầy bà cô từ trụ sở chính của Đại Học Ngọai Thương ngoài Hà Nội vào giảng dạy, luôn hùng hồn hô khẩu hiệu "công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chiến lược sản xuất thay thế hàng nhập khẩu"...nhiều đến nỗi tôi không còn đánh vần mấy chữ này nữa, mà toàn viết tắt. Trên bục giảng thầy cứ đọc, dưới này tôi cứ chép để có tài liệu thi cuối khóa, và tập vở toàn là chữ CNH (công nghiệp hóa), HĐH (hiện đại hóa), XHCN, TB (tư bản). Riêng chữ 'xã hội chủ nghĩa' (XHCN) thì đã không còn là chữ viết tắt nữa rồi, vì nó quá phổ biến.
Giờ đây tôi lại mong tìm được những cuốn tập đó để làm tài liệu lịch sử của một thời nước Việt sửa sai dưới danh nghĩa "đổi mới", và tiến lên chủ nghĩa tư bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói chung thì lịch sử của cái thời đi học của tôi, cái thời tranh tối tranh sáng cũng có khá nhiều điều để nói.
Trong trường đại học của tôi ở Đan Mạch có cả thảy ba du học sinh, hai người miền Trung và một miền Bắc, còn lại là việt kiều Đan Mạch. Gần như toàn bộ sinh viên việt kiều này là con cái của người dân tị nạn miền Nam, tổng cộng cũng khoảng hai chục người, gốc miền Nam và miền Trung là chủ yếu.
Sau nhiều dè dặt và nghi kị thì chúng tôi cũng chơi được với nhau, quên đi lằn ranh Quốc-Cộng. Mỗi lần nhóm tranh luận chuyện Việt Nam thì anh du sinh Bắc Kỳ nổi bật hơn hẳn vì kiểu nói chuyện hùng hồn tuyên bố những câu chính trị trật lế và đặc biệt là hay chê Đan Mạch củ chuối này củ chuối nọ, thành ra tụi sinh viên Việt tặng anh mỹ danh Củ Chuối. Anh hay nói câu "Tụi Đan này nó chuối thật", nhưng cái anh chê lại là những cái trung thực, tinh thần thượng tôn pháp luật và lòng tốt đến ngây thơ của dân xứ cổ tích An-đéc-xen (H.C. Andersen).
Trường tôi có một nét riêng là cứ chiều thứ Sáu là căn-tin cho bán bia với giá khá rẻ, gọi là Beer Day. Nghèo như sinh viên vẫn uống được đến một chục chai. Thật ra, sinh viên Đan Mạch 100% được học bổng và 100% miễn học phí nên chuyện uống vài ve mỗi tuần không có gì là ghê gớm cả. Chúng tôi là du sinh nhưng cũng có thể lai rai vài chai vì bia ở đây cũng khá rẻ. Bia Đan Mạch khá ngon với hương vị Carlsberg nổi tiếng thế giới, nhưng tụi tui vẫn uống bia Tuborg, như là cách ủng hộ bia của thành phố Odense của mình. Odense cũng nổi tiếng với ngôi nhà thời thơ ấu của danh hào văn chương cho thiếu nhi Hans Christian Andersen được trẻ em toàn thế giới yêu thích với những câu chuyện cổ tích "Chú lính chì dũng cảm", "Cô bé bán diêm", "Vịt con xấu xí", và "Nàng tiên cá bé nhỏ"...
Mỗi lần nhóm sinh viên gốc Việt ở Đại Học Odense tụ tập đàn đúm là đề tài Việt Nam lại nóng hổi, làm như cuộc chiến Bắc-Nam vẫn còn đâu đây, dù đây là xứ của những câu chuyện cổ tích. Bắc Nam vẫn còn ngăn cách. Còn tôi, vốn có nguyên quán gần sát với Quảng Trị, nên làm con sông Bến Hải để hai bên nã đạn cũng hợp lý.
Một người hùng phương Bắc vẫn 'một mình chống lại mafia', chống lại những người xét lại chính nghĩa của Giải Phóng từ miền Nam tị nạn. Dần dà tôi nghiêng về phía 'độc cô cầu bại' này lúc nào không hay, vì nghĩ dù sao mình cũng là dân du học với nhau, cùng học Triết Học Mác-Lênin và Lịch Sử Đảng, và cũng vì đôi khi chúng tôi cùng bị chụp mũ cộng sản như nhau, nếu lỡ làm con vẹt lặp lại những gì đã học được khi còn ở dưới mái trường XHCN.
Không biết có phải do tình đồng hương xã hội chủ nghĩa, hay vì sống xa nhà cô đơn mà chúng tôi dần dần trở nên thân nhau hơn, dù tôi vẫn đi chơi với nhóm Việt Kiều kia. Có một lần, anh đem lá thư của ban quản lý ký túc xá tới nhờ tôi phiên dịch, vì thư viết bằng tiếng Đan. Lúc đó tôi đang 'share' phòng với một anh kỹ sư người Đan gần trường mới li dị vợ và có một cô gái nhỏ năm tuổi nên tiếng Đan cũng đủ xài vì nhờ hay nói chuyện với hai cha con này khá thường xuyên.
Đọc thư tôi mới tá hỏa là cuối tháng nay anh phải dọn ra, do bị các sinh viên khác khiếu nại vì cái mùi khó chịu từ phòng của anh và vì anh không dọn dẹp cái bếp chung sau khi dùng. Hỏi ra mới biết là anh này hay ăn nước mắm nguyên chất đặc trưng Bắc Kỳ, ăn dư không bọc lại mà để khơi khơi trong phòng, mỗi lần mở cửa là 'tỏa hương' ra cả hành lang. Chưa kể lâu lâu anh ăn trong bếp lại quên mang chén nước mắm về, gây bom khủng cho tụi Đan ngơ ngác nai vàng, không hiểu có con mèo hay con sóc nào chết ở xó nào đó đây.
Tôi đoán là khi ở nhà, vì là con trai độc nhất, lại học giỏi chắc anh không phải làm việc nhà hay phụ giúp mẹ và chị dọn dẹp nên mới ra nông nỗi này.
Nói về nước mắm, tôi cũng không quên cái món mà anh hay đãi tôi mỗi khi qua chơi: thịt bò gân luộc chấm nước mắm nguyên chất không pha, rồi lấy nước luộc thịt vặn chút chanh và mì chính vào làm súp. Tôi chịu không ăn được món này, vì nước đục ngầu, mỡ lênh láng lại không có rau riếc gì hết. Lần đầu cũng là lần cuối, tôi nói với anh, "Canh thì phải có rau, mà thịt bò bổ dưỡng ai lại luộc tuốt luốt như vậy, còn gì hương vị nữa?" Anh cười hề hề nói: “Ăn vậy cho nó nhanh, vừa tiện lợi, có thêm món súp bổ dưỡng nữa.”
Thôi thì 9 người 10 ý, sinh viên cũng không kén cá chọn canh làm gì. Riêng cái món nước mắm nguyên xi chan vào cơm thì đến giờ tôi vẫn không ăn được, nhưng nhờ nó mà nhớ tới anh bạn này. Anh làm tôi nhớ lại câu chuyện mà Ba tôi hay kể, rằng người Bắc 75 khi mới vào Nam chỉ cần có bó rau muống thôi thì họ cũng làm được ba món ăn.
Thế là hai tuần sau đó tôi phải thường xuyên coi mục rao vặt để tìm nhà cho anh bạn du sinh. Trời cũng không phụ lòng người thành tâm, cuối cùng tôi cũng thuê được cái phòng trong ký túc xá khác của cô sinh viên người Đan, nhưng chỉ thuê được 5 tháng vì cô đi qua Tây Ban Nha một học kỳ trao đổi sinh viên mà thôi. Lần này rút kinh nghiệm nên anh ăn ít nước mắm hơn, ráng ăn cho hết, không hết thì bọc lại bỏ tủ lạnh, vì chuyện dọn nhà và tìm chỗ mới một lần thôi cũng đủ ám ảnh anh rồi.
Cũng nhờ lần giúp đỡ này mà tụi tôi thân hơn, và tôi cũng biết thêm về anh. Bố anh là một trung tướng về hưu, mẹ anh là giáo viên trung học cũng sắp về hưu. Anh học sau tôi hai khóa nhưng chỉ kém tôi có một tuổi, nên anh cứ gọi tôi là "Bác" làm tôi lúc đầu rất ngại.
Anh ta tốt nghiệp đại học ở Hà Nội với tấm bằng đỏ và tức thì nối nghiệp mẹ đi dạy ngay sau khi ra trường, theo mô-típ truyền thống cử nhân dạy cử nhân rồi tìm cơ hội xin học bổng nước ngoài để học lên cao.
Anh qua Đan Mạch học Cao Học bên kỹ thuật nên chúng tôi không học chung lớp, vì tôi học bên kinh doanh, nhưng cộng đồng du học sinh ở đây khá neo đơn nên chúng tôi vẫn thân nhau. Căn phòng của anh cũng là nơi tụi tôi nói chuyện chính trị Việt Nam ra rả suốt ngày, mà hình như đây là đề tài chung của du học sinh Việt Nam thời ấy, cái thời chưa có mạng xã hội và khao khát thông tin ngoài luồng sau khi được xổ chuồng từ cái ngục lớn.
Dẫu có xung đột ý thức hệ và bị dư âm cuộc chiến Bắc Nam chia rẽ, chúng tôi vẫn là bạn tốt của nhau, cũng vì cái tình đồng hương. Cũng nhờ là dân miền Trung nên tôi chẳng mang nhiều thù hận, dù miền Trung là vùng trái độn chịu nhiều thương đau nhất. Hơn 30 chục năm sau cuộc chiến mà miền Trung vẫn còn nhiều bom đạn còn sót lại, lâu lâu lại vang lên tiếng nổ lấy đi sinh mạng của dân nghèo cưa đạn kiếm ăn.
Vì là du học sinh đầu tiên của trường nên tôi cũng là người đầu tiên rời trường. Ngày tôi bảo vệ luận văn tốt nghiệp Thạc Sĩ, tôi cũng chỉ có hai khách mời là hai du học sinh còn lại. Dẫu gì chúng tôi cũng thuộc một phân khúc thị trường riêng, là những người dễ bị đồng hương tị nạn chụp mũ cộng sản và ghẻ lạnh lúc đầu, và chưa biết khi về nước có bị ghẻ lạnh là thân phương Tây hay không.
Làm du học sinh thời mới mở cửa chẳng khác gì dân miền Trung hứng chịu hai làn đạn Bắc Nam. Đó cũng là cách tôi tự an ủi mình. Rời Bắc Âu với cuốn tuyển tập của văn hào An-đéc-xen với ước mơ một nước Việt Nam sẽ yên bình và nhân bản như những câu chuyện cổ tích của ông.
Mọi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc và một cuộc sống ấm no. Tôi cũng không ngoại lệ. Rồi tôi cũng qua định cư ở xứ mang nhiều ước mơ của di dân. Hoa Kỳ, nơi của những ước mơ thành hiện thực nhưng cũng không thiếu những ước mơ tan vỡ. Đó là xứ sở của chọn lọc tự nhiên và trăm hoa đua nở, nhưng để vươn lên thì mỗi đoá hoa phải có hương sắc riêng hay cốt cách riêng.
Hoa Kỳ cũng là xứ sở của những trường đua, và quan trọng đó là xứ mà con người ta dùng chữ "cày" thay cho chữ "làm việc", vì dân lao động ở đây làm việc rất nhiều giờ. Và đôi khi để gánh đỡ chi phí cho gia đình, một người phải làm 2-3 jobs với giờ làm việc lên tới 60 tiếng hay nhiều hơn một tuần. Thời gian ở xứ Cờ Hoa này qua rất mau.
Mới đó mà đã mười năm, tôi không nhớ là anh bạn du sinh Bắc Kỳ năm xưa tốt nghiệp năm nào, và hiện đang ở đâu, Hà Nội hay vẫn còn ở nơi nào đó ở Châu Âu. Thường thì trí thức miền Bắc hay học lên tới Tiến Sĩ, vì ngoài đó có rất nhiều Tiến Sĩ, lên tới 9-10 ngàn ông Tiến Sĩ gì đó, nên mỗi khi đi du học thì du sinh Bắc Kỳ thường phải học tới Tiến Sĩ mới về, nếu không thì khi về nước phải làm phó cho mấy sếp Tiến Sĩ, trong đó có Tiến Sĩ đỏ từ Liên Xô và Đông Âu cũ thì rách việc. Dù gì đi nữa thì tôi cũng mong anh bạn này học ra Tiến Sĩ và ở lại Châu Âu thêm một thời gian nữa để tẩy rửa bớt màu đỏ phương Bắc, và tôi tin là vậy.
Một hôm tôi nhận được email của một ông thầy chùa từ Đan Mạch. Ông sẽ qua Hoa Kỳ làm Phật Sự. Kí ức lại hiện về. Tôi còn nhớ ngày xưa hay tới chùa vào mùa Vu Lan và Phật Đản để cầu an cho gia đình, và chính tôi là người rủ anh Bắc Kỳ này đến chùa lần đầu. Trí thức XHCN ngày ấy ở miền Bắc hình như bị vô thần hoá gần hết, vì họ ít đi chùa, nếu có cũng theo phong trào, lên chùa tìm đối tác yêu đương những ngày lễ lạc hay lên chùa với bạn trai bạn gái để cầu tình duyên và chụp hình. Còn chuyện lặng lẽ đến chùa một mình giữa đêm đông, đứng ngoài sân chùa cầu an cho gia đình dưới tượng Phật Bà Quan Âm gần như là chuyện hiếm. Ấy thế mà anh du sinh này lại đi chùa thường xuyên hơn tôi, và trở thành bạn của ông thầy chùa.
Hội ngộ mười năm với ông thầy giúp tôi hiểu thêm về người bạn cũ. Tôi được biết anh có dạo dọn vào chùa sống. Và chính ông thầy này khen anh Bắc Kỳ kia mộ đạo hơn tôi, vì tôi có phần tài tử lúc nắng lúc mưa, không ngoan đạo vào cung kính thầy chùa bằng anh ta.
Thêm một chuyện mà tôi không bao giờ nghĩ đến, và cũng thật khó tin nếu cái tin này không xuất pháp từ một ông thượng toạ của một ngôi chùa. Anh du sinh Bắc Kỳ nay đã định cư ở Bắc Âu với cô vợ đem từ miền Bắc qua. Anh vi phạm chính sách hai con của công chức Việt thì anh sanh tới bốn đứa con và nghe đâu sắp sanh đứa thứ năm. Và còn nữa, bố mẹ của anh thường qua thăm và ở lại rất lâu để chăm cháu.
Bố mẹ anh là hai “cán bộ cách mạng lão thành”, nay chắc đã về hưu. Họ từng là hình mẫu lí tưởng trong bài nhạc đỏ "Mùa Xuân bên cửa sổ", một trong số bài hát hiếm hoi ở trong nước mà tôi còn nhớ: "Khi mặt trận bình yên, anh lính về thăm phố". Cái câu này làm tôi nhớ đến bố anh là một tướng về hưu, từng là anh lính về thăm mẹ anh là cô giáo nơi hậu phương. Một hình tượng đẹp mà ai từng đi học ở Việt Nam đều nghĩ tới. Chỉ không biết là anh lính đó có hiểu mình đang phục vụ cho ai và cho mục đích gì hay không.
Nhưng dù gì đi nữa, ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc, tôi tự an ủi mình như thế.
Có lẽ anh bạn du sinh Bắc Kỳ ở xứ thần tiên bên đó vẫn hơn. Về nước thì cái học của anh không biết được xài vào việc gì. Sang xứ cờ hoa, nếu ở chỗ nào mang danh "Little Saigon", đôi khi anh khó mà truyện trò thoải mái.
Không chừng, anh Bắc Kỳ 2 nút sẽ phải học tiếng Bắc kỳ 9 nút và dùng ngôn ngữ miền Nam, nếu không thì anh sẽ thấy cuộc nội chiến Bắc-Nam như vẫn còn đâu đây.
Michelle Phan - Nàng công chúa Tuyết Băng
Ngày xửa, ngày xưa, có một nàng công chúa xinh đẹp tên là Tuyết Băng. Nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bất hạnh, gãy vỡ. Thế rồi có một ngày kia... Câu chuyện của cô gái Michelle Phan có tên Việt là Tuyết Băng, đã có thể bắt đầu như một câu chuyện cổ tích thế kia. Trong xã hội tân kỳ hôm nay. Của thời đại internet. Trong thế giới mộng tưởng về những nàng công chúa Disney, những búp bê Barbie xinh xắn. Đây là một trong hàng tỉ câu chuyện kể về cuộc đời mỗi người trên trái đất này. Nhưng đẹp thay, chúng ta lại đọc được thêm một câu chuyện cổ tích kết thúc có hậu khác, về cuộc đời một cô gái trẻ gốc Việt trở thành một hiện tượng youtube và chủ nhân công ty vài chục triệu đô la như thế nào. Một cổ tích tân thời với “happy ending”.
Kỳ 1
Những giấc mơ tuổi thơ
Những giấc mơ tuổi thơ
Câu chuyện phải quay ngược lại thời gian trong một ngày băng tuyết mùa Đông tại Boston, Massachusetts của đầu năm 1987. Một đôi vợ chồng gốc Việt chạy xe giữa những bông tuyết sáng rực một màu trời. "Michelle, con của mình sẽ là tên Michelle", người chồng bảo. "Thế còn tên Việt Nam?" - người đàn bà âu yếm quay sang chồng. Nhìn những bông tuyết tuyệt đẹp đang rơi ngoài trời, người chồng thốt lên "Tuyết Băng". Thế rồi ba tháng sau, nàng công chúa bé nhỏ Michelle Phan mang tên Việt là Tuyết Băng chào đời. Tuyết Băng không sinh ra trong nhung lụa, hạnh phúc như những nàng công chúa mà đã trải qua một tuổi thơ bất hạnh, chẳng như cái tên xinh đẹp của mình. Nhưng giấc mơ về những nàng công chúa cổ tích vẫn ngấm ngầm trong tâm trí cô bé cô đơn. Để một ngày, chính cô trở thành một "nữ hoàng" như vậy. Có đến hơn bảy triệu "thần dân". Dù là trên không gian ảo, nhưng đủ cho tên tuổi của cô trở thành một trong những người được giới thiếu niên mến mộ, yêu thích và xuất hiện trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng thế giới.
“Draw My Life” trên youtube
Câu chuyện về cái tên của mình ra đời như thế nào đã được chính Michelle kể lại như vậy trong đoạn phim đưa lên youtube "Draw My Life", được phát âm rất rõ hai chữ "Tuyết Băng" của một cô gái có thể nói tiếng Việt sành sỏi. Đoạn phim dài hơn 11 phút, ít nhiều cho những "thần dân" của Michelle biết về mình, sau khi cô đã đạt đến thành công trong vài năm qua, trở thành một "celebrity" trong mắt những cô gái mới lớn. Cho đến nay, có lẽ cái tên Michelle Phan đã trở nên khá quen thuộc với những thiếu nữ mới lớn, nếu chưa một lần xem qua các đoạn phim hướng dẫn về cách trang điểm sắc đẹp được đưa lên kênh youtube của riêng cô, thì cũng đọc hay thấy cô xuất hiện trên các show truyền hình, các giải thưởng hoặc trên nhiều tạp chí, đặc biệt khi được đề cử vào giải thưởng thường niên "Teen Choice Awards" năm 2014 này. Với hơn 7 triệu người ghi tên theo dõi các đoạn phim video của cô và hơn một tỉ lượt xem, con số đủ để đưa Michelle lên ngôi "nữ hoàng" youtube mà khó lòng có nhiều người đạt đến. Kể cả những chuyên gia thượng thặng trong kỹ nghệ trang điểm hay các tập đoàn mỹ phẩm nổi danh khắp thế giới. Nhưng trước khi nói đến câu chuyện thành công của Michelle Phan ra sao, có lẽ cũng kể về những chặng đường tuổi thơ cùng những suy nghĩ của cô để dẫn đến hôm nay.
Bìa một cuốn sách của Michelle Phan. Bây giờ cô ấy có một kênh với gần 7 triệu thuê bao trên YouTube, nguồn qingsteahouse.blogspot.com
Sinh ra tại Boston, Michelle Phan nay đã 27 tuổi, dù kể về cha với những lời lẽ đầy thương yêu, trìu mến nhưng không may, cha cô lại là một người có máu đỏ đen, đã đem lại tuổi thơ Michelle những dấu ấn khó phai. Vài tuổi, Michelle cùng gia đình dọn sang California, nơi những bất hạnh bắt đầu khi cô kể rằng, gia đình phải liên tục dọn chỗ ở vì cha cô đem cả tiền thuê nhà ra đánh bạc. Có năm gia đình cô đã phải bị dời nhà đến sáu lần vì thiếu hụt tiền nhà. Nhìn những giọt nước mắt đau khổ, thất vọng của mẹ nhiều đêm, Michelle dù còn rất nhỏ cũng đã mong mình sẽ lớn thật nhanh để có thể đỡ đần gì đó cho mẹ. Nhút nhát, cộng thêm việc thay đổi trường lớp liên tục không cho Michelle có đủ thời gian để có bạn như trẻ em cùng trang lứa. Michelle chỉ còn đem sự cô đơn của mình để vẽ nên những nàng công chúa cổ tích trong phim Disney, vẽ những nàng siêu nhân với mộng ước một ngày nào đó, mình sẽ trở thành những nàng công chúa sang giàu hạnh phúc, thành những siêu nhân đầy những quyền năng để cứu gia đình ra khỏi những tuyệt vọng, thiếu hụt. Gia đình cô lại tiếp tục dọn về Florida, tránh khỏi California nơi những sòng bạc đầy hấp lực với các con bạc như cha cô. Nhưng không cưỡng lại cơn ghiền cờ bạc, cha cô lại lao vào chiếu đỏ đen. Thế rồi một đêm, sau một canh bạc lớn bị cháy túi, cha của Michelle đã tự mình biến mất khỏi cuộc đời mẹ con cô, để lại cho họ sự tan nát, trống vắng, túng quẫn, cùng sự mong ngóng cha trở về hàng đêm của Michelle. Một thời gian sau, mẹ Michelle đi thêm bước nữa và anh em cô có thêm một em gái cùng mẹ khác cha. Nhưng bi kịch lại tái diễn, khi người cha dượng không như anh em cô mơ ước. Dù cô không muốn nhắc lại nhiều nhưng dường như nó đã để những thương tổn tinh thần đậm nét khác cho mẹ con cô. Họ rời người cha kế này và lại trở về với đời sống của một gia đình chỉ có người mẹ với các con nhỏ, ở trong khu chung cư chỉ một phòng ngủ cho bốn mẹ con. Món quà Giáng Sinh mơ ước của cô là con búp bê nhỏ và một ngôi nhà đồ chơi cho búp bê nhưng mẹ cô vẫn không kham nổi, Michelle phải tự cắt những miếng cạc-tông để làm nhà cho búp bê mẹ mua. Đã có thời gian mẹ con cô phải sống nhờ vào những trợ cấp xã hội. Mẹ đi làm nail, anh em cô phải đi làm thêm sau giờ học, cô làm phục vụ tại nhà hàng, phụ giúp thêm mẹ. Michelle kể lại trải nghiệm của mình cho những bé gái khác rằng, những khi gặp những khó khăn nhất của đời sống thì hãy ngồi xuống viết, vẽ, nghe hay chơi nhạc để xoa dịu lòng mình như cô đã làm. Nghệ thuật là sự giải thoát cho cô gái nhỏ. Bằng một tâm hồn mẫn cảm và những suy cảm nghệ thuật như vậy, Michelle định hình cho mình một ý thức mỹ học, dù mơ hồ nhưng khởi đầu cho con đường làm đẹp mà cô theo đuổi sau này.
Một “wallpaper” của Michelle Phan
Những năm cuối bậc trung học, cũng khó khăn cho đến khi được mẹ cho phép, cô bắt đầu tự trang điểm cho mình. Không chỉ là một kiểu làm đẹp của tuổi mới lớn, Michelle xem trang điểm cũng như cách cô tự họa về chính con người của mình, khi xem khuôn mặt của mình là giấy vẽ và cọ, màu vẽ là những vật dụng trang điểm. Đó cũng chính là điều Michelle đeo đuổi khi cô được nhận vào học đại học Mỹ Thuật Ringling, nơi mà mẹ cô đã phải đôn đáo vay mượn 12,000 đô la cho cô theo học và thực hiện ước mơ của mình. Những bài học căn bản về hội họa chân dung từ ngôi trường này đã cho Michelle cơ hội áp dụng màu sắc, hiệu ứng ánh sáng lên khuôn mặt mà cô đã sẵn tư khiếu. Từ phòng ngủ ký túc xá, những thước phim tự quay về trang điểm đầu tiên của cô được đưa lên mạng, khởi đầu cho một hiện tượng trở thành một "minh tinh" youtube thượng thặng - là người phụ nữ đứng hạng nhì trên youtube có số người xem đông nhất, với vài triệu cô gái ghi tên theo dõi các thước phim cô hướng dẫn cách trang điểm như đã nói bên trên. Hồi đầu năm nay, Đại Học Ringling đã trao tặng bằng Tiến Sĩ Danh Dự cho cô cựu sinh viên của mình, người sau bảy năm đã tạo nên một vinh dự cho trường về những gì đạt được.
Như một nhà văn nào đó đã viết rằng, "Bất hạnh mang lại cho người ta những phẩm hạnh mà hạnh phúc đã lấy mất", những giấc mơ của Michelle Phan về một ngày trở thành một "công chúa" đã trở thành sự thật. Không phải đến từ những may mắn mà bằng những giấc mơ và tư khiếu mà cô tự tạo từ chính tuổi thơ bất hạnh của mình. Câu chuyện của Michelle không chỉ tạo sự xúc động cho những ai nghe qua câu chuyện của cô, mà nó còn tạo niềm cảm hứng cho những cô gái mới lớn biết đối diện và vượt lên số phận để tìm ra chính khả năng và con người thật của mình.
Kỳ cuối
Con đường nổi danh và trở thành chủ hãng
Khi Michelle phấn khích được nhận vào đại học mỹ thuật Ringling College of Art and Design tại Florida, Michelle đã hứa với mẹ rằng cô sẽ cố gắng học hành để lo cho gia đình, dù cô cũng chưa có bất cứ ý niệm gì về việc tận dụng youtube hay tương lai của mình ra sao. Cô bắt đầu viết blog, ghi lại đời sống một tân sinh viên cũng như những khao khát sẽ trở thành một cô gái có tiền, có một gia đình hạnh phúc sau những ám ảnh về tuổi thơ mình. Khi được các giáo sư giao cho chiếc máy điện toán MacBook Pro với câu hỏi cho các sinh viên rằng, họ sẽ làm gì với nó, cô đã thực hiện một đoạn phim hướng dẫn cách trang điểm đầu tiên của mình trên youtube, nghĩ rằng chỉ để cho một vài cô gái trên blog xem vì đã hỏi Michelle về cách trang điểm trước đó. Không ngờ chỉ sau tuần đầu tiên, đã có đến hơn 40,000 lượt người xem. Cuộc đời Michelle bắt đầu đi sang một khúc quanh mới, khi cô nhận ra các cô gái trẻ đã thích thú với thước phim hướng dẫn trang điểm của mình như thế nào.
Michelle Phan và bạn trai Dominique Capraro, một người mẫu Thụy Sĩ
Dù việc một đoạn phim nào đó trên youtube có thể tình cờ thu hút được hàng chục hay trăm ngàn lượt xem, nhưng việc kiếm tiền qua nó không dễ dàng như thoạt nghe. Muốn được trả tiền, chủ nhân phải có một kênh phim có đông đảo người ghi tên theo dõi liên tục, cố định và lâu dài. Michelle cũng vậy, cô thoạt đầu xem nó là niềm vui hơn là mục tiêu kiếm tiền, khi lần lượt đóng nhiều vai được trang điểm khác nhau, sử dụng nhiều kỹ thuật và cảm xúc khác nhau trong các đoạn phim dạy trang điểm sống động và thích hợp cho các cô gái mới lớn, đồng thời những đồ trang điểm cũng là hàng rẻ tiền, dễ mua tại các tiệm tạp phẩm, thích hợp cho giới trẻ này. Có thể xem youtube như một phương tiện ngẫu nhiên để cho Michelle cơ hội thực hiện những giấc mơ ấp ủ của mình, còn lại là sự riêng biệt và độc đáo của cô để định hình con đường của mình, vì trước cô, ắt đã có hàng ngàn chuyên gia thượng thặng trong mỹ nghệ trang điểm. Nhưng với Michelle, khi xem trang điểm như cách vẽ một chân dung, cô bơm vào nó hơi thở của một họa sĩ đa cảm thay vì chỉ là cách làm đẹp của một người phụ nữ thông thường.
Người hâm mộ xếp hàng mua sách của Michelle Phan
Số người ghi tên vào kênh video của cô tăng dần. Khi tiền quảng cáo cô nhận được từ youtube bằng với tiền công làm nhân viên phục vụ tại nhà hàng, cô bỏ việc. Nụ cười chế giễu của người chủ khi biết cô bỏ việc vì youtube, càng làm cô xác quyết về con đường phải đạt đến của mình. Phim làm nhiều hơn, người xem đông hơn. Khi những clip phim dạy cách trang điểm giống ca sĩ Lady Gaga mà Michelle bảo rằng chỉ để "cho vui" thay vì "bắt chước" Lady Gaga được cô thực hiện, chúng trở thành một cú đột biến cho kênh phim của Michelle. Những clip phim có đến vài chục triệu người xem, tương tự cho những clip cô hướng dẫn trang điểm trở thành những khuôn mặt búp-bê hay các tài tử nổi danh khác. Khi một nhân viên quản trị cao cấp của hãng mỹ phẩm Lancome dạo tìm quanh internet và phát hiện kênh youtube hướng dẫn trang điểm của Michelle cũng có xài hàng của họ và đông đúc "thần dân" như vậy, Lancome đã mời cô làm phát ngôn viên cho hãng và hướng dẫn khách cách dùng mỹ phẩm Lancome. Một vận may cho Michelle và cả cho... Lancome vì với sự góp mặt của Michelle, bốn trong năm clip phim của hãng đưa lên youtube và thu hút số người mới ghi tên theo dõi kênh youtube Lancome đông nhất là do Michelle hướng dẫn cách trang điểm. Năm 2012, sau bốn năm và 200 clip phim đưa lên youtube như một hiện tượng thành công, hãng Google đã đề nghị trả cho Michelle một triệu đô la để thu hình cho khoảng 20 tiếng đồng hồ. Google chọn cô gái có những thước phim không rõ nét được thu hình từ phòng ngủ của mình, thay vì hàng ngàn chuyên gia khác quả là một điều khác thường. Nhưng không khó hiểu. Sự khác biệt của Michelle so với giới chuyên gia mỹ phẩm thượng thặng khác là các cô gái trẻ xem Michelle như một người chị, một BFF- một người bạn luôn thân thiết. Nhưng giấc mơ trở thành "công chúa" của Michelle chính thức trở thành sự thật phải kể khi hãng mỹ phẩm lớn nhất thế giới L'Oreal của Pháp- hãng mẹ của Lancome, gọi điện thoại báo tin sẽ ký hợp đồng với Michelle để cho ra đời một dòng sản phẩm trang điểm của riêng cô. Sau phút giây bàng hoàng khi nhận ra không phải đang mơ, Michelle gọi điện về cho mẹ đang làm ở tiệm nail: "Mẹ! Hôm nay là ngày cuối cùng mẹ làm việc này. Con không muốn mẹ đi làm ngày mai nữa". Để rồi cả hai mẹ con cùng khóc nức nở qua điện thoại sau khi mẹ cô nghe tin. Và một dòng mỹ phẩm mới của L'Oreal có tên tiếng Việt được ra đời và tung ra thị trường: "em michelle phan". Chọn một đại từ ba ngôi nhiều ý nghĩa và quen thuộc trong tiếng Việt cho dòng mỹ phẩm mang tính toàn cầu, cũng như việc lồng ý nghĩa hoa sen vươn lên trong clip phim về đời mình, Michelle có vẻ như mang một tâm cảm rất Việt so với thế hệ đồng thời sinh ra ở hải ngoại.
Michelle Phan ký tặng sách
Câu chuyện còn lại chỉ là những sự nổi tiếng, các phỏng vấn của báo đài, những sự xuất hiện trên các sô truyền hình hay làm đại diện quảng cáo cho các hãng khác cùng các chuyến đi đây đó để giới thiệu mỹ phẩm cho các hãng cô đại diện. Không ngừng ở đó, với sẵn hàng triệu "thần dân" trong tay, "nữ hoàng" youtube đã mở hãng thương mại mỹ phẩm Ispy của riêng mình và hiện nay có hơn 700,000 khách hàng thường trực đã trả mỗi tháng $10 để nhận các mẫu mỹ phẩm, được xem các video hướng dẫn trang điểm qua chương trình Glam Bags. Chỉ riêng với hoạt động này cũng đã mang lại cho Ispy một tổng thu 84 triệu đô la. Cuốn sách Makeup của Michelle Phan xuất bản hồi tháng trước cũng được các cô gái mới lớn đón nhận nồng nhiệt, khi những nơi cô xuất hiện để ký sách đã có hàng trăm thiếu nữ sắp hàng để mua và được nhận chữ ký. Dù không nhận được giải thưởng cuối cùng, nhưng khi được đề cử vào chung kết giải thưởng thường niên "Teen Choice Award" cùng vô vàn tài tử, ca sĩ nổi tiếng thế giới đã cho tên tuổi Michelle bay xa hơn thế giới youtube hay giới hạn trong nước Mỹ.
Youtube quảng cáo chương trình của Michelle Phan trên xe điện ngầm
Bên cạnh một số hợp đồng cùng các hãng như Beats, Toyota, SanDisk, Audible.., Michelle Phan cũng đang làm người mẫu quảng cáo cho hãng nước giải khát Dr Pepper. Đoạn phim quảng cáo về Dr Pepper Diet đã gom gọn nỗ lực của Michelle Phan vào trong 30 giây quảng cáo của mình: làm nhân viên phục vụ nhà hàng (bưng Dr Pepper cho khách), hướng dẫn trang điểm trên youtube và tất nhiên, thành một doanh nhân ngồi uống... Dr Pepper trước máy điện toán. Con đường của một cô gái trong gia đình di dân gốc Việt từng có lúc phải sống nhờ food stamp rồi trở thành một nhân vật nổi tiếng như Michelle Phan không phải xảy ra nơi mỗi gia đình di dân, nhưng ít ra nó cũng cho thấy có những cánh cửa cơ hội rộng mở khác hơn những con đường khuôn mẫu chung mà không ít phụ huynh gốc Việt vốn thường áp đặt và kỳ vọng nơi con cái mình và bỏ qua những khả năng thiên khiếu nơi các em.
Michelle Phan quảng cáo cho Dr Pepper
Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014
Viện Khổng Tử, cơ quan tuyên truyền và tình báo Trung Cộng - Tác giả Trần Trung Đạo
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)