khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Năm, 3 tháng 10, 2024

Nho Sĩ Cuối Cùng - Bản dịch của Phạm Viêm Phương từ Chapter 5 của tác phẩm The Last Confucian”, tác giả Denis Warner

 



“The Last Confucian” là tác phẩm của Denis Warner, một nhà báo Úc, được xuất bản năm 1963. Ông đã có mặt tại Sài Gòn trong những năm cuối đời ông Diệm. Ngoài những phần tra cứu từ nhiều nguồn sử liệu, tác phẩm này còn chứa đựng nhiều chi tiết mắt thấy tai nghe của ông. Khi ra đời, cuốn này mang tính thời sự, nhưng đến nay nó đã trở thành sử liệu.
Sách này có tựa phụ là “Vietnam, Southeast Asia, and the West” và gồm 15 chương. Tôi chọn dịch chương 5, chủ yếu nói về ông Diệm trong những năm đầu chấp chánh, chỉ để cung cấp tài liệu tham khảo cho các bạn thôi. Các chi tiết trong đây có thể chính xác hoặc không, và luôn cần phải đối chiếu kiểm chứng với các sử liệu khác theo đúng phương pháp của người đọc sử. Tôi còn muốn nói thêm rằng, xin các bạn đọc sử bằng con mắt lý tính, tuyệt đối không để cảm tính (lòng yêu hoặc ghét, quan điểm ủng hộ hoặc chỉ trích…) chen vào. Ông Diệm đã là nhân vật lịch sử, chúng ta đã cách xa cái chết của ông hơn nửa thế kỷ, như thế hy vọng chúng ta đủ tỉnh táo và khách quan khi đọc tài liệu về ông.
Denis được mô tả là nhà báo có xu hướng phê phán gay gắt ông Diệm. Có lẽ hầu hết nhà báo Tây phương hành nghề ở châu Á thời đó đều cho rằng các nhà lãnh đạo Á châu, như ông Diệm, không thực thi dân chủ đúng mức, mà không xét tới tình cảnh họ thường phải đối phó với thù trong giặc ngoài trùng điệp khi đất nước còn chập chững lúng túng với nền độc lập, mà kẻ thù nào cũng sẵn sàng chơi đòn đánh dưới lưng quần.
Sách còn một chương nữa, được chen vào thành chương 13, với nhan đề “The Last Confucian”, khi cuốn này được tái bản năm 1964. Còn chương 5, ban đầu mang nhan đề trên, được đổi thành “By Divine Right”. Chương 13 mới này nói về cuộc đảo chánh 1963 và cái chết của anh em ông Diệm. Hy vọng tôi có thời gian và sức khỏe để dịch tiếp chương này hầu các bạn.
Tôi dịch mấy chương này chẳng phải vì cuốn này đặc biệt hay ho sâu sắc hay quý giá, mà chỉ vì nó là sử liệu. Và sử liệu nào cũng cần để chúng ta hiểu quá khứ và loại bỏ thành kiến hoặc sự u mê thâm căn cố đế. Phần được viết trong ngoặc vuông là thông tin bổ sung của tôi, thay cho cước chú.
--------
CHƯƠNG 5: THIÊN MỆNH
Trong bối cảnh bại trận tan nát này [tức trận Điện Biên Phủ], một nhà lãnh đạo lưu vong khác đã rời cảnh quy ẩn để bước ra nhận lấy vị trí của mình trong chính trường Việt Nam. “Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm Vương quốc của Chúa và Công lý”, Ngô Đình Diệm đã từng viết như thế cho gia đình mình từ Chủng viện Maryknoll, khi đó ở Lakewood, New Jersey. “Mọi thứ khác sẽ tự đến.” Bức thư không làm ngạc nhiên gia tộc Ngô Đình, gia đình Công giáo hàng đầu của Việt Nam. Biểu hiện đức tin sâu sắc này là đặc điểm của ông Diệm.
Trong khi gia đình ông đang vận động bằng những phương pháp trực tiếp hơn để đưa ông vào vị trí lãnh đạo, ông vẫn tiếp tục sống ẩn dật, mặc dù luôn tin rằng đến giờ phút cần thiết, ông sẽ được mời gọi. Tuy nhiên, khi sau cùng lời mời được đưa ra, những phẩm chất chính trực và trung thực đã thành huyền thoại của ông lại không quan trọng bằng vị thế có sẵn của ông trong việc quyết định lời mời gọi đó. Vì người Pháp đang mặc cho con tàu chìm đắm nên họ không còn quan tâm đến việc ai đứng trên cầu tàu khi nó chìm nữa.
Quyết định mời Diệm nhận chức thủ tướng Nam VN ban đầu là của Bảo Đại. Nó không phải là ý tưởng của Ngoại trưởng John Foster Dulles như một số tác giả nghĩ. Bộ Ngoại giao không hào hứng với ông như thẩm phán Tối cao pháp viện William O. Douglas vốn đã mô tả Diệm được dân Việt “tôn sùng” trong một cuốn sách được xuất bản một hai năm trước.
Ảnh hưởng [đối với quyết định này] là không cần thiết. Những bạn bè và người gần gũi thân pháp của Bảo Đại vốn đã từ Paris “nhảy dù” xuống Sài Gòn để xoay xở kiếm chác trong khi cố duy trì ảo tưởng về nền độc lập của VN đã tự làm mất uy tín. Những giải pháp khác là sắp xếp lại lực lượng cũ kỹ kém cỏi này, hoặc mời Diệm tham chính. Mặc cho lời khuyên của bạn bè, Bảo Đại đã chọn Diệm. Trong thực tế, ông ta chẳng có mấy lựa chọn. Khi Diệm thẳng thắn nhận lời thì chẳng có ai cạnh tranh.
Tuy nhiên, điều đó hợp lý chỉ vì Diệm, và không ai khác, muốn nhận công việc này. Hai mươi mốt năm trước, ông đã là một người có địa vị lớn ở Việt Nam. Nhưng 21 năm gần như là cả một cuộc đời hoạt động trong giai đoạn cách mạng này. Việt Minh (VM) đã tiếp quản quyền điều hành trong khi Diệm đứng ngoài cuộc. Giờ phút tồi tệ nhất của ông là khi ông từ chức Thượng thư bộ Lại (thực tế là thủ tướng) ở Trung kỳ vào năm 1933 vì người Pháp không đồng ý trao cho người dân Việt Nam quyền hạn lớn hơn trong việc nội trị. Nhưng những nhân vật của công chúng không thể chỉ dựa vào những hành vi, dù cao cả đến đâu. Diệm không còn là một nhân vật của công chúng nữa. Từ năm 1933 đến khi nổ ra Thế chiến II, ông đã suy nghĩ theo hướng cách mạng nhưng không bao giờ hành động. Thay vào đó, ông đọc sách và cầu nguyện, chụp ảnh, đi nhà thờ rước lễ hàng ngày, và cắt tỉa hoa hồng. Ông đã hy vọng vào người Nhật nhưng sớm từ bỏ họ, mặc dù họ đã bảo vệ ông vào năm 1944 khỏi người Pháp vốn lúc đó ra sức lùa vào tù những người Việt có tinh thần quốc gia, và thậm chí còn mời ông làm thủ tướng của một chính phủ “độc lập” dưới trướng Bảo Đại vào năm 1945. Một hoặc hai năm trước đó, ông có thể đã chấp nhận. Bây giờ ông biết rằng người Nhật đã thua cuộc chiến. Vào thời điểm này, ông không muốn đồng nhất hóa mình với khối “Thịnh vượng chung Đại Đông Á” do Nhật khởi xướng.
Trong cuộc đấu tranh giành quyền lực ngay sau chiến tranh, Diệm vẫn sống trong một tu viện khi VM tiến vào Hà Nội. Bằng cách di chuyển từ nơi này sang nơi khác, ông đã tránh xa khỏi tầm tay của họ trong một vài tuần, mặc dù họ đã ra lệnh bắt giữ ông. Người anh cả của ông, Ngô Đình Khôi, vốn đã bị Pháp cách chức tổng đốc Nam Ngãi vào năm 1942 [hoặc 1943], thì kém may mắn hơn. Không lâu trước khi chiến tranh kết thúc, người Nhật, thông qua Ngô Đình Khôi, đã tiếp cận Bảo Đại để xin ông chấp thuận một kế hoạch thủ tiêu tất cả thủ lãnh VM mà họ có thể bắt được. Bảo Đại đã do dự, và VM đã biết được kế hoạch này. Họ bắt Khôi và con trai ông và chôn sống cả hai.
Sau đó, quân VM đã đột nhập vào nhà chị [hay em?] gái của Diệm. Sống cùng bà vào thời điểm đó là một cô gái 21 tuổi, Trần Lệ Xuân, con gái của Trần Văn Chương, người đã nhậm chức Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ “độc lập” do người Nhật thành lập, và sau đó trở thành đại sứ tại Washington. Khi hai người phụ nữ lùi bước trước những người lính với dao rựa và súng, một con chó săn lai sói tên là Quito, vốn do anh trai của cô gái nọ nuôi dưỡng, gầm gừ với những người lính vốn đang định bắn nó. Cô gái lao vào ôm con chó, "Nếu anh bắn nó, thì bắn luôn tôi đi”, cô hét lên. Chị [em] của Diệm kêu lên rằng cô ấy điên rồi. Nhưng cô gái vẫn tiếp tục hét lên lời thách thức của mình, và cuối cùng những người lính VM, dường như không biết phải làm gì, đã bỏ đi. Ngày nay, cô gái ấy được biết đến nhiều hơn với cái tên Bà Nhu.

Diệm chỉ thoát khỏi tay VM trong một thời gian ngắn. Vài tuần sau, họ bắt được ông tại thị trấn Tuy Hòa, phía nam Huế, và chuyển ông đến vùng thượng du Bắc Việt, gần biên giới Trung Quốc. Tại đây, ông bị bệnh nặng và theo lời kể của chính ông, ông đã chết nếu không có sự giúp đỡ của những người dân thiểu số địa phương.
Vào tháng Một 1946, VM đưa ông về Hà Nội và điều trị cho ông. Hồ Chí Minh thậm chí còn mời ông tham gia chính phủ của mình, nhưng Diệm cáo buộc Hồ đã giết anh trai và cháu trai của mình. Hồ trả lời rằng ông không biết gì về điều đó. “Dù có biết hay không, ông vẫn là đồng phạm và là tội phạm”, Diệm trả lời. Hồ không nản lòng và biện luận quan điểm của mình trên cơ sở yêu nước. Diệm, người có xung đột với lực lượng Cộng sản từ thời ông còn là tuần vũ Bình Thuận vào năm 1931, trả lời rằng ông phải là một đối tác toàn diện trong chính phủ và không bí mật nào được che giấu với ông. Vì cần ông Diệm như tín đồ Công giáo hàng đầu của đất nước chứ không vì khả năng cai trị hay chính trị nên Hồ đã im lặng để biểu lộ sự không tán đồng.
Diệm tin rằng lúc này ông Hồ dự định tiếp tục cố gắng thuyết phục lôi kéo ông. Tuy nhiên, vì không thể biết chắc nên Diệm lợi dụng giấy thông hành được cấp phát lúc đó và trốn đi, lần này ông ẩn náu trong một tu viện tại Hà Nội. Các diễn biến sau đó chứng tỏ sự thận trọng này là đúng. Việt Minh lục soát phá hủy nhà của ông Nhu, bắt giam Trần Văn Chương. Sự kiện này vẫn được anh em Diệm Nhu nhớ lại với ít nhiều thích thú vào những lúc thư giãn hiếm hoi trong Dinh Độc Lập khi họ diễn tả lại phản ứng của ông Chương khi nghe VM đến bắt mình.
Sau khi đào thoát khỏi tay VM, Diệm vào nam, tới Vĩnh Long, sống với anh ruột Ngô Đình Thục lúc đó đã là giám mục. Diệm không chấp nhận người Cộng sản và không chấp nhận người Pháp. Đòi hỏi của ông là “Quy chế tự trị”. Hai tờ báo, một ở Hà Nội và một ở Sài Gòn, ủng hộ ông, nhưng người Pháp không chấp nhận những lời lẽ dấy loạn này. Họ đóng cửa các tờ báo, bắt giữ các biên tập viên, và đàn áp Mặt trận Thống nhứt Quốc gia non trẻ của Diệm.
Được Bảo Đại mời đến Hồng Kông để thảo luận về việc thành lập chính quyền trung ương lâm thời dưới sự bảo trợ của Pháp để chống lại VM, Diệm thấy cựu hoàng quan tâm đến chuyện vui chơi ở Happy Valley [một khu dân cư hạng sang, tên tiếng Hán là “Bào mã địa”, nghĩa là “bãi đua ngựa”] hơn là quy chế tự trị, bản thân Diệm cũng không quan tâm đến việc nhận vị trí lãnh đạo của cái mà ông coi như một chính quyền bù nhìn. Một lần nữa ông từ chối chức vụ, và lần này trở về với người em Ngô Đình Cẩn, người mẹ đau yếu, và những lời cầu nguyện của ông ở Huế, luôn tin rằng một ngày nào đó lời cầu nguyện sẽ được đáp lại và rằng, mặc dù một ngàn năm đã trôi qua kể từ khi triều đại Ngô sụp đổ [có tác giả cho rằng dòng Ngô Đình có liên quan đến dòng dõi của Ngô Quyền], ông sẽ được gọi ra để lãnh đạo đất nước mình đi vào một kỷ nguyên mới của sự thịnh vượng và khai sáng.
Ngô Đình là một trong những gia tộc lớn của Việt Nam. Theo truyền thống, theo năng lực, và thông qua ý thức về bổn phận theo kiểu Nho giáo, họ thích hợp với vị trí trong hàng quan lại tại triều đình Huế. Đây là trật tự đúng. Guồng máy đòi hỏi điều đó và họ đã sẵn sàng đáp ứng.
Với ý thức về bổn phận ăn sâu này, trong nhiều thế kỷ, nhà Ngô Đình cũng chấp nhận thêm kỷ luật, và thập giá, của Công giáo. Đó thực sự là một thập giá, vì có nhiều lúc đạo Thiên Chúa bị đồng nhất hóa với người Pháp và người Pháp bị đồng nhất hóa với chủ nghĩa thực dân. Giống như nhiều gia đình Công giáo khác, họ thường phải chịu đau khổ cay đắng vì đức tin của mình. Cách đây chưa đầy một thế kỷ, trong một thời kỳ bột phát tâm tình bài Thiên Chúa giáo dữ dội, cả trăm thành viên trong gia đình này đã bị một đám đông tín đồ Phật giáo [tài liệu khác cho rằng không chỉ riêng tín đồ Phật giáo] bạo loạn thiêu chết tại nhà thờ Công giáo ở Đại Phong, một ngôi làng quê quán của dòng họ này trên bờ biển Trung phần và là nơi có những phần mộ của gia đình này.
Trong số người sống sót ít ỏi của gia đình này có Ngô Đình Khả, lúc đó đang học để trở thành linh mục tại Penang, Malaya [Mã Lai]. Với gia đình gần như bị tuyệt diệt, Khả đành bỏ ngang việc học và trở về Huế, ở đây vốn liếng tiếng Pháp đã giúp ông nhanh chóng thăng tiến. Khả kết hôn hai lần. Người vợ đầu của ông mất mà không có con. Người vợ thứ hai sinh cho ông chín người con. Diệm, người con thứ ba, chào đời vào ngày 3.1.1901, trong một căn nhà lợp lá nền đất, gần nhà thờ chính tòa Huế. [nhiều tài liệu ghi nhận ông ra đời ở Đại Phong, Lệ Thủy, Quảng Bình. Tuy nhiên năm 1901 khi ông chào đời, Ngô Đình Khả đang là đại thần ở Huế]
Gia đình Ngô Đình là quý tộc nhưng chỉ giàu về khả năng phục vụ chứ không giàu về vật chất. Tuy nhiên, khi Khả lên chức, ông đã xây một ngôi nhà gạch đồ sộ hơn bên cạnh ngôi lợp lá. Theo phong tục của quan lại, đàn ông sống trong ngôi nhà mới, phụ nữ sống trong ngôi nhà cũ.
Mùa đông và mùa hè, tiếng đọc kinh Truyền Tin lúc 6:00 sáng gọi cả gia đình đi lễ. Khả đội khăn xếp đen và mặc áo dài thêu kiểu quan lại dẫn các cậu con trai mặc áo dài đen và quần trắng. Diệm thường đi chân đất, nhưng khi đi lễ, ông đi guốc gỗ.
Công giáo và Nho giáo song hành trong gia đình Diệm. Lòng kính Chúa đi liền với ý thức bổn phận và lòng trung thành. Khả được phong làm tổng quản cấm thành, với trách nhiệm bao gồm cả việc trông coi các thái giám trong cung.
Một trong những người bạn chơi đầu tiên của Diệm là Duy Tân, người đã lên ngôi khi người Pháp đày cha ông, Thành Thái, đến đảo Réunion, gần Madagascar, khi mới mười tuổi. Người Pháp phàn nàn rằng một trong những tính lập dị của hoàng đế là việc giữ lại quá nhiều phi tần. Là người duy nhất trong số các quan lại triều đình, ông Khả đứng về phía Thành Thái, một quyết định khiến ông mất chức vụ và đẩy gia đình Ngô Đình về với đồng ruộng, nơi họ chăn trâu và trồng lúa trên một mảnh đất nhỏ và giữ được phẩm giá cũng như vị thế của mình trên đất nước này.
Người Pháp thấy Duy Tân còn khó chịu hơn cả cha ông. Khi ông 18 tuổi, họ cáo buộc ông âm mưu chống lại họ. Duy Tân chạy trốn lên vùng núi và sau đó bị bắt và bị đày đến Réunion.

Diệm lúc này đã 15 tuổi. Ông không quan tâm nhiều đến công việc chân tay mà tất cả những đứa trẻ phải làm trên ruộng lúa của cha chúng. Ông thích cầu nguyện và đọc sách hơn. Anh trai của ông, Thục, đã tu học để trở thành linh mục. Diệm quyết định noi gương anh trai. Đó là tham vọng sớm nhất và ấp ủ nhất của ông, nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ nó.
Luôn đứng đầu lớp, Diệm, sau khi rời khỏi chủng viện, giờ đây là sự lựa chọn hiển nhiên cho lớp quan chức tiềm năng được tuyển chọn kỹ lưỡng tại trường của người Pháp [trường Hậu bổ, hay École des fonctionnaires indigènes – Trường công chức bản xứ, hay École de Droit et d'Administration – Trường pháp lý và hành chánh] ở Hà Nội. Ông tốt nghiệp đứng đầu lớp vào năm 1921 và bắt đầu làm việc tại Huế ở bậc thấp nhất trong hệ thống quan lại. Ông là người lao động không biết mệt mỏi. Những người khác cùng tuổi ông tìm kiếm thú vui trần tục trong giờ rảnh rỗi. Diệm, người đã tuyên khấn tiết dục, chỉ nghĩ đến công việc. Sự thăng tiến đến nhanh chóng. Trong vòng một năm, ông được bổ làm tri huyện. Với chiếc nón lá buộc quai dưới cằm và hai dân phu, một người kéo và một người đẩy chiếc xe kéo của ông, ông làm việc ngày đêm vì lợi ích của những người nông dân.
Mặc dù thời gian có thể đã tô điểm thêm màu sắc cho ký ức của những người vốn biết ông bốn mươi năm trước, nhưng điều đáng ghi nhớ là trong hồi ức của họ về Diệm, trước tiên họ đề cập đến sự cần cù, liêm chính, và trung thực của ông, và chỉ sau đó mới nói đến một số đặc điểm tính cách vốn sau này đã thúc đẩy những người ủng hộ thân cận nhất của ông phát động cuộc đảo chính dẫn đến cái chết đẫm máu của ông.
Vào lúc 28 tuổi, Diệm đã trở thành quan đứng đầu một tỉnh [tuần vũ Bình Thuận] gián tiếp can dự vào cuộc thảm sát của Pháp đối với những người Cộng sản và những người quốc gia phi Cộng sản xảy ra vào năm 1930-31 [tức vụ Xô viết Nghệ Tĩnh]. Tuy nhiên, Diệm đã thoát khỏi nỗi ô nhục từ những sự kiện đáng tởm này, khi lính lê dương [dịch từ Légion étrangère – Binh đoàn ngoại quốc] hãm hiếp và giết người, và những người vô tội phải chịu đau khổ cùng với những kẻ có tội.. Ông điều hành một tỉnh có trật tự và một hệ thống mật thám tốt. Ông sử dụng luật pháp chứ không phải áp bức để duy trì trật tự. Đối với người Pháp, ông là một công chức mẫu mực; đối với người Việt, ông là một viên chức trẻ tài năng, vô cùng chăm chỉ, người đã hoàn thành tốt công việc của mình mà không để tay mình bị hoen ố.
Việc ông được chọn làm Thượng thư bộ Lại [tựa như Bộ Nội vụ ngày nay] cho Hoàng đế Bảo Đại vào năm 1933 gần như là tự động. Tuy ông vượt qua nhiều đại thần thâm niên trong triều nhưng ông có vẻ như một lựa chọn hiển nhiên. Tuy nhiên, đó là một lựa chọn mà người Pháp sẽ lấy làm tiếc.
Là một quan chức tương đối trẻ tuổi, Diệm đã tận tâm tuân thủ, và thực hiện, các mệnh lệnh, mặc dù ông đã rất buồn bực trước những bất công mà lực lượng khởi loạn đã khai thác. Ban đầu ông nghĩ người Pháp thành thật khi nói chuyện cải cách. Đi liền với trách vụ là việc nhận thức được rằng họ không hề như thế. Thay vì mở rộng thẩm quyền của triều đình, người Pháp lại có ý định cắt giảm nó.
Bị quấy rối bởi những tay chân của người Pháp trong Nội các vốn trung thành báo cáo mọi nhận xét phê phán mà Diệm đưa ra, và giận dữ trước những sự kiện mà ông cho là thể hiện sự thiếu thiện chí của người Pháp khi họ không chịu trao quyền hạn thực sự cho Viện Dân biểu Trung kỳ vốn phần nào cũng do dân cử, Diệm quyết định từ chức. Trong 21 năm kế tiếp, ông không đảm nhiệm bất kỳ chức vụ nào, hoặc thậm chí làm việc gì đó để kiếm sống. Tuy sống nhờ vào lòng thương và trợ cấp của các anh em, ông không bao giờ quên đi, theo cách bí ẩn của ông, vai trò lãnh đạo mà ông chắc chắn mình sẽ đảm nhiệm trong chính sự Việt Nam.
Các báo cáo cho biết VM đã kết án tử hình ông (cùng việc ông từ chối sự bảo vệ của Pháp) khiến Diệm phải rời VN vào năm 1950. Sau khi đi qua Nhật Bản, Ý, Philippines, Mỹ, và Bỉ, ông đến Pháp vào năm 1953. Theo tiểu sử chính thức của ông,(*) “Ông cảm thấy rằng sắp đến ngày ông phải chăm lo cho vận mệnh của đất nước mình.” Vào ngày 7.6.1954, một tháng sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, lời cầu nguyện của ông đã được đáp ứng, Bảo Đại đã giao phó cho ông tất cả các quyền lực mà trước đây được chia sẻ giữa vua và thủ tướng.
Ít ai nhìn thấy Diệm bước xuống máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt vào ngày 25.6.1954, cảm thấy rằng một Jeanne d'Arc cứu tinh mới đã đến với họ. Ông chậm rãi bước xuống cầu thang, dừng lại để liếc nhìn bãi dây kẽm gai phủ cả mấy mẫu mà người Pháp đã vội vã giăng ra để bảo vệ máy bay của họ khỏi các cuộc đột kích của du kích, rồi rụt rè vẫy chào vài trăm người bạn và những người chúc mừng đã tụ tập để đón ông. Ngày hôm đó nóng nực, nặng nề, và ngột ngạt. Điểm nhấn màu sắc duy nhất trong khung cảnh ảm đạm này là một ông già quấn khăn rằn đỏ và mặc áo dài màu xanh da trời. Tin tức từ Bắc Kỳ thì tệ: từ Genève còn tệ hơn.
“Kể cho tôi nghe về Diệm đi,” tôi nói với một người bạn Việt Nam, khi nhân vật thấp đậm, trông trẻ trung khác thường bước ra từ quá khứ, rảo chân vững chãi trên đường băng. Người bạn của tôi kể về ước vọng ban đầu của Diệm muốn trở thành linh mục, về lời tuyên khấn độc thân sau đó của riêng ông, về những giờ ông thường dành cho cầu nguyện mỗi ngày. “Coi bộ ông ấy quá giống một linh mục khó mà kéo được Việt Nam ra khỏi mớ hỗn độn này", tôi gợi ý.
“Không ra một linh mục đâu”, người bạn Việt Nam nói, "Ít nhất thì một linh mục cũng biết về cuộc sống thông qua tòa giải tội. Diệm là tu sĩ sống sau những bức tường đá. Ông ấy chẳng biết gì cả.”
-----
* Denis không nêu rõ cuốn tiểu sử chính thức này là gì. Matthew B. Masur trong luận án tiến sĩ năm 2004 trích dẫn tài liệu “President Ngo Dinh Diem”, Press Office of Presidency of the Republic of Viet Nam, Saigon, 1957; có lẽ do một cơ quan kiểu như Nha báo chí Phủ tổng thống VNCH xuất bản.

Việc Diệm sớm phát hiện ra rằng ông không có ơn kêu gọi làm linh mục không có nghĩa là ông thiếu nhiệt tình tôn giáo. Ngược lại, Diệm thấy Giáo hội quá dễ bị tác động so với ý chí cứng rắn của ông. Anh trai ông là Thục, một người đàn ông hiền lành, mặc dù có suy thoái, và cho đến khi cuộc khủng hoảng Phật giáo nổ ra vào tháng Năm 1963, đã tránh được phần lớn sự thù ghét nhắm vào một số thành viên khác trong gia đình tổng thống, cho rằng Diệm quá nghiêm khắc không hợp với sự chừng mực của Giáo hội, quá cứng nhắc để thực hiện nhiệm vụ của một linh mục giữa những người dân của mình.
Khía cạnh ngoan cố này trong tính cách của ông, việc ông từ chối lời khuyên, phản ánh nền tảng Nho giáo, chứ không phải Công giáo, của ông. Ông luôn đúng. Ông là cha của nhân dân. Ông biết điều gì là tốt cho nhân dân. Chỉ có người cha mới biết, vì nhân dân là toàn bộ mối quan tâm của ông. Vậy thì làm sao ông có thể sai được?
Sau này, khi đã lật đổ Bảo Đại và nắm quyền tổng thống, Diệm đã tự thiết kế một hiệu kỳ. Nó là một mảnh vải vàng hình vuông với một bụi trúc ở giữa. Bên dưới là dòng chữ “Tiết trực tâm hư” [nghĩa đen, lóng thẳng, ruột rỗng, để tả cây trúc; nghĩa bóng là lòng dạ ngay thẳng, không thu vén riêng tư] có nghĩa là “Chính trực và vô tư”, hoặc, như theo tiểu sử chính thức, “Tổng thống sinh ra là người chính trực và không bị vướng vào những thứ của thế gian.”
“Thực tế cơ bản ở VN, và điều này thường không được hiểu rõ, là hệ thống chính trị của chúng ta trong lịch sử không dựa trên khái niệm quản lý công vụ do người dân hoặc đại diện của họ, mà do một quân vương sáng suốt và một triều đình sáng suốt [cuốn tiểu sử viết]. Hệ thống này hữu hiệu vì các chức vụ công quyền mở cửa cho tất cả mọi người, thông qua sát hạch cạnh tranh. Hệ thống này cũng hữu hiệu vì có một quy tắc đạo lý nghiêm ngặt. Mặc dù trong lịch sử, thỉnh thoảng chúng ta có một vị vua kém cỏi, nhưng nhìn chung, triều đình có ý thức mạnh mẽ về nghĩa vụ công và trách nhiệm đối với người dân.
“Vấn đề đang đối mặt với một người như Tổng thống Ngô Đình Diệm, vốn bám rễ sâu vào các nguyên tắc hành chính truyền thống, nhưng cũng quen thuộc với các hệ thống chính trị Tây phương, do đó là vấn đề đem lại cho Việt Nam một nền tảng đạo lý vững chắc để xây dựng lại một Nhà nước dân chủ lành mạnh và hùng cường,” tiểu sử viết tiếp. “Nghĩ đến hình thức trước khi nghĩ đến thực chất chắc chắn sẽ thất bại. Do đó, mối quan tâm chính của Tổng thống Ngô Đình Diệm là phá hủy các nguồn gây mất tinh thần, dù mạnh đến đâu, trước khi đi vào vấn đề đem lại cho Việt Nam một bộ máy dân chủ theo nghĩa Tây phương của từ này.” [Vì không có được cuốn tiểu sử Ngô Đình Diệm này, vốn có lẽ được in bằng tiếng Việt, nên đoạn dịch trên chỉ dựa theo bản Anh]
Có thứ triết lý của Diệm. Các đại sứ có thể đến rồi đi và nói về nhu cầu cần có những quyền tự do chính trị rộng rãi hơn cho những người không Cộng sản, nhưng Diệm không chấp nhận điều đó. “Nếu chúng ta mở cửa sổ, không chỉ ánh nắng mà nhiều điều xấu cũng sẽ bay vào,” Bà Nhu, cô em dâu can dự vào hoạch định chính sách của ông, từng nói thế. Cửa sổ - và tâm trí của Diệm - vẫn đóng chặt.
“Bạn nghĩ rằng bạn có thể có một sự thấu hiểu tư tưởng với Diệm,” một thành viên trong gia đình ông từng nói. “Tôi nói thẳng với bạn rằng điều đó là bất khả. Đối với một người Tây phương, Diệm không chỉ đến từ một nền văn hóa khác và một bán cầu khác. Ông ấy đến từ một hành tinh khác.”
Được nuôi dưỡng trong bầu không khí Nho giáo của chế độ quan lại, Diệm tận tụy và mãnh liệt, đồng thời có khả năng làm việc chăm chỉ khác thường. Nhớ lại thời thơ ấu, anh em ông kể rằng ánh đèn dầu vẫn sáng trong phòng của ông vào lúc rất khuya khi ông miệt mài với sách vở. Ngay từ hồi đó, ông đã không thích sự sửa sai, chỉ trích, hay lời khuyên. Cha ông thường đánh ông vì thói cứng đầu. Cậu bé trút sự giận dữ với mẹ mình.
Khi đã là tổng thống, Diệm đi ngủ khi không còn thức nổi nữa. Ông thường mang theo một đống công việc, và nếu thức dậy trong đêm, ông sẽ mở một tập hồ sơ và tiếp tục làm việc ở nơi ông đã bỏ dở. Ông làm việc từ 16 đến 18 giờ một ngày. Ông từng thích chụp ảnh, quay phim, và cưỡi ngựa, nhưng không có thời gian cho những thú vui khi làm tổng thống. Sự thư giãn duy nhất của ông, nếu có thể gọi như vậy, là những chuyến đi thực tế định kỳ vào vùng nông thôn. Các đại sứ đi cùng ông trở về trong tình trạng mệt mỏi. Diệm vẫn tiếp tục làm việc. Có lần ông bị ngã từ độ cao bốn hoặc năm mét trên cầu thang của một tàu hải quân Việt Nam. Khi các trợ lý và đại sứ chạy đến giúp đỡ ông, ông gạt họ sang một bên và tiếp tục công việc mà không hề khập khiễng.
Chỉ một tuần sau khi đến Sài Gòn năm 1954, Diệm nhận được tin choáng váng rằng người Pháp đã từ bỏ khoảng 42.000 cây số vuông ở Đồng bằng sông Hồng, trong đó có những thị trấn đồn trú quan trọng ở phía nam Hà Nội cùng với khoảng hai triệu trong dân số từ bảy đến chín triệu sống dưới sự kiểm soát của Pháp. Người Pháp không có giải pháp nào khác. Tuy về mặt quân sự, ít ai nhận thấy sai lầm gì trong việc rút lui, nhưng về phương cách triệt thoái, nhất là thiếu sót trong việc thông báo với giới dân sự đã khiến dân chúng càng thêm khinh bỉ họ. Tại Trại Báo chí (*) ở Hà Nội, sĩ quan thông tin, mới tháng trước, còn khinh thị gọi quân VM là "les jaunes" (lũ da vàng), cứ như màu da đó có nghĩa là hèn nhát [trong tiếng Anh, yellow (vàng) còn có nghĩa là “hèn nhát”], lúc này đã cẩn thận gọi là “Quân đội nhân dân VN”.
-----
(*) Trại này (Camp de Presse, xem hình) do tướng de Lattre de Tassigny thành lập năm 1950. Khi chiến cuộc sôi động, số nhà báo giảm xuống. Đầu năm 1953, tài liệu ghi nhận có ba nhà báo Pháp và gia đình sống ở đó. Đầu 1954, khoảng ba mươi nhà báo quốc tế khác trú ngụ trong đó.

Các cuộc đàm phán tại chỗ về lệnh ngừng bắn bắt đầu tại Trung Giã [huyện Sóc Sơn, Hà Nội], ngay bên kia phòng tuyến phía bắc của Pháp, vào ngày 4.7.1954. VM đã làm mọi cách để người Pháp không quên được thực tế của tình hình quân sự. Ba chiếc xe jeep và hai xe vận tải võ khí được gắn tấm biển sơn dòng chữ “Kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ - 7.5.54”. Các bức tường của một quán trà liền kề với dãy nhà hội nghị vách tôn và cót tre [mê bồ] được trang trí bằng những chiếc dù Pháp thu được ở Điện Biên Phủ. Những người lính VM bật lách tách những chiếc bật lửa lấy được của lính Pháp bại trận. Trên tường là những khẩu hiệu đặc trưng của VM: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”, “Đảng Lao Động muôn năm”, và “Cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc và dân chủ muôn năm”.
Đúng 9 giờ sáng, hai phái đoàn vào phòng họp và được các sĩ quan liên lạc giới thiệu. Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, đại diện cho VM, giơ tay chào Đại tá Marcel Lennuyeux, và có những cuộc trao đổi thân mật giữa các thành viên của cả hai phái đoàn. Trong khi những người nông dân làm việc trên cánh đồng lúa chỉ cách phòng họp vài mét hò hét lũ trâu bò của họ. Tướng Dũng có bài phát biểu khai mạc bằng tiếng Việt. Nó tẩm đầy những lời tuyên truyền về “tám năm chiến tranh cứu quốc” và “sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Ông hứa rằng Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức để nhanh chóng mang lại việc ngừng bắn và đình chiến, và tái lập hòa bình ở Đông Dương. Khi vị tướng này phát biểu xong, mọi thành viên của phái đoàn VM đứng dậy và vỗ tay. Đại tá Lennuyeux cảm ơn Tướng Dũng về những phát biểu của ông và nói về việc nghiên cứu một kế hoạch cụ thể nhằm “khắc phục một số vấn đề không vui phát sinh từ chiến tranh”.
Từ Genève, Trần Văn Đỗ, chú của bà Nhu, người sau đó bị cáo buộc, rồi miễn tố, tham gia vào cuộc đảo chính bất thành năm 1960, và lúc này là Ngoại trưởng mới được bổ nhiệm, đã gửi điện cho Diệm: "Chúng tôi đã chiến đấu tuyệt vọng chống lại sự chia cắt và đòi thành lập một vùng trung lập ở khu vực Công giáo của Bắc Việt. Hoàn toàn không thể vượt qua được sự thù địch của kẻ thù và sự phản bội của những người bạn giả dối. Các thủ tục bất thường đã làm tê liệt hoạt động của phái đoàn chúng tôi. Mọi thỏa thuận đều được họ [Pháp và VM] ký kết riêng với nhau. Chúng tôi bày tỏ nỗi buồn sâu sắc nhất về sự thất bại hoàn toàn này trong nhiệm vụ của chúng tôi. Chúng tôi xin trân trọng đệ đơn từ chức.”
Theo chỉ thị của Diệm, phái đoàn VN đã không ký hiệp định chia đôi VN tại vĩ tuyến 17, để lại miền Bắc và phần lớn dân số dưới quyền Hồ Chí Minh và miền Nam cho Diệm. Như một biện pháp tạm thời, lực lượng võ trang của cả hai bên sẽ tập hợp lại và chuyển đến khu vực tương ứng của họ ở phía bắc và phía nam vĩ tuyến 17 dưới sự giám sát của Ủy ban Quốc tế Giám sát và Kiểm soát gồm Ba Lan, Ấn Độ, và Canada. Sau một năm, hai bên sẽ tham vấn về các cuộc bầu cử, để sau một năm nữa, thống nhất đất nước.
Diệm nhận chức thủ tướng với niềm tin rằng phe Cộng sản hẳn có thể đã bị đánh bại nếu người Pháp trao cho VN độc lập hoàn toàn, hoặc ít nhất là quy chế tự trị. Theo quan điểm của ông, những người đã nhận chức vụ dưới quyền người Pháp do đó đều là những người cộng tác, mặc dù họ có thể chống Cộng, nhưng đã đánh mất quyền được coi là người quốc gia chân chính, xứng đáng được đưa vào chính phủ của ông.
Theo tiêu chuẩn này, ông hầu như không tin cậy ai, bởi vì ngoài một vài người ngoại lệ hầu như tất cả những người có kinh nghiệm công vụ đều có vết hoen ố. Thay vì làm việc cho người Việt, họ đã làm việc cho người Pháp vốn không những đã thua cuộc chiến này mà còn rút ra khỏi VN tất cả những gì họ có thể rút. Nhiều cánh cửa vốn không đóng lại với ông thì bị chính ông chủ tâm đóng lại.
Sài Gòn là một đầm lầy, một hố phân của tham nhũng và hoạt động phi pháp. Với sự thông đồng chính thức của Pháp, một dòng piastre [đồng bạc Đông Dương] đã đổ ra khỏi VN và chảy vào Pháp với tỷ giá hối đoái giả tạo. Bất kỳ người Pháp nào có thân nhân ở quê nhà cũng đều có thể tham gia vào việc này bằng cách gửi 25.000 franc mỗi tháng về Pháp. Những con buôn xuất nhập khẩu giả mạo đã tham gia vào mạng lưới này để chuyển “lợi nhuận” của họ về Pháp. Ngân hàng Đông Dương đã cắt giảm phần vốn nắm giữ tại Đông Dương xuống mức tối thiểu nhưng vẫn tiếp tục thu được lợi nhuận lớn, phần lớn trong số đó đến từ VN.
Cho đến khi ký kết Hiệp định Genève, sự hiện diện của chính quyền Pháp đã mang lại vẻ ngoài trật tự cho tình hình hỗn loạn tiềm tàng ở Nam VN. Bằng cách kiểm soát nguồn tiền lưu chuyển và ban phát sự bảo trợ, người Pháp nắm được sự trung thành lỏng lẻo trong số các lãnh chúa khác nhau. Cũng giống như một số lực lượng Công giáo ở miền Bắc vốn xây dựng được quân đội riêng của họ và coi sóc mọi việc theo cách của họ, các giáo phái [ở Sài Gòn và Nam Việt] cũng tự điều hành công việc của họ, trong khi ngoài miệng vẫn thừa nhận quyền thống trị của Pháp. Người Pháp là chốt chặn thiết yếu, và như Diệm nhanh chóng nhận ra, ông không phải là giải pháp thay thế có thể chấp nhận được. Nam VN bắt đầu tan rã.
Các giáo phái vào thời đó là một bộ phận đầy màu sắc và ảnh hưởng phân hóa của bối cảnh. Thường được liệt kê trong số đó, nhưng hoàn toàn không liên quan đến những hoạt động tâm linh, là lực lượng Bình Xuyên vốn trong nhiều năm đã bóc lột hoạt động giao thương trên sông Sài Gòn và lúc này đã mua đứt những nhượng địa từ tay cảnh sát [Pháp] ở Sài Gòn với giá bốn mươi triệu piastres.

Lê Văn Viễn, hay Bảy Viễn, như cách gọi đại chúng dành cho thủ lãnh Bình Xuyên này, đã hợp tác với Nhật trong Thế chiến II, và những binh lính mặc đồ xanh của ông đã nhiều lần tấn công dữ dội vào người Pháp ở Sài Gòn hồi tháng Chín 1945. Điều này mở ra một liên minh với VM kéo dài trong hai năm nhiều khó chịu. Tuy nhiên, qua việc từ chối ám sát những trí thức VN bị VM kết án tử hình, Bảy Viễn đã giành được tình cảm kéo dài ở một số khu vực Sài Gòn, cách xa khu ổ chuột Chợ Lớn và các sòng bạc và nhà thổ đã lấp đầy kho bạc của ông trong một thời gian dài, ông cũng phải chịu sự thù địch của VM.
Sau một thời gian làm phó chỉ huy lực lượng VM ở Nam Kỳ, Bảy Viễn đã cắt đứt quan hệ với họ vào năm 1947, khi Mặt trận Thống nhất Quốc gia, một nhóm theo chủ nghĩa dân tộc hoạt động ở Thượng Hải, cử một trong những thủ lãnh của họ đến liên lạc với những người chống Cộng bất đồng chính kiến ở VN với mục đích thành lập một liên minh vốn có thể góp phần lật đổ cả người Pháp và VM.
Người đại diện của Mặt trận này, một luật sư tên là Trần Văn Tuyên, đã tìm đường đến sở chỉ huy của Bảy Viễn, sâu trong rừng rậm ở Gò Công, cách Sài Gòn khoảng 50 km, và sau một tuần thảo luận với thủ lãnh phiến quân này, đã thuyết phục được ông ta gia nhập Mặt trận Thống nhất. VM mau chóng biết được quyết định này. Vào tháng Năm 1948, họ mời Bảy Viễn đến sở chỉ huy của họ ở Đồng Tháp Mười, nơi mà trong nhiều năm đã là khu an toàn của CS trong vùng đầm lầy cách Sài Gòn hơn trăm cây số về phía tây, để họp với các ủy ban du kích kháng chiến. Ông đã thận trọng mang theo một đội cận vệ khoảng hai trăm người. Cuộc họp vừa mới “bổ nhiệm” Bảy Viễn làm Khu bộ trưởng Chiến khu 7, một trong ba khu vực VM ở Nam Kỳ, thì Bình Xuyên biết được rằng một số cận vệ của ông đã bị bắt. Bảy Viễn liền cùng những người còn lại tẩu thoát, gia nhập chính quyền Nam Kỳ do Pháp bảo trợ, và sau đó, khi Bảo Đại tái xuất hiện trên chính trường, ông trở thành đại tá đầu tiên trong quân đội quốc gia Việt Nam.
Tình bạn của ông với Bảo Đại là một liên minh đôi bên cùng hài lòng. Đến năm 1954, Bảy Viễn đã mở rộng quyền kiểm soát của mình để bao gồm cả cảnh sát Sài Gòn và Chợ Lớn, và các nguồn lợi đáng kể của Bình Xuyên đã nhanh chóng mở rộng ra toàn khu vực tệ nạn của thành phố. Đại Thế giới, một khu cờ bạc lớn ở Chợ Lớn, phục vụ cho bất kỳ ai có vài xu trong túi và thu về hàng triệu đồng mà Bảy Viễn chia sẻ với Bảo Đại. Ông ta mua lại Noveautés Catinat [ngay góc Bonard (Lê Lợi) – Catinat (Tự Do), thời VNCH nó là Phòng thông tin đô thành], cửa hàng bách hóa sang trọng nhất thành phố, hai mươi ngôi nhà, cả trăm cửa hàng, một đội ghe lớn trên sông, và mở hoạt động mại dâm phục vụ lính tráng tại khu nhà thổ lớn nhất châu Á, nổi tiếng với những kiểu phòng ngủ khác thường và ly kỳ, như phòng ngủ toàn gương. Cách trụ sở này một quãng ngắn, lò thuốc phiện của ông ta phục vụ cho các ổ hút mà lực lượng cảnh sát của ông đóng cửa về mặt lý thuyết.
Lớn hơn và mạnh hơn nhiều so với Bình Xuyên, nhưng trụ sở của họ thì ở Tây Ninh cách Sài Gòn độ trăm cây số, là Cao Đài. Họ tuyên bố có hơn một triệu tín đồ và quan trọng hơn nữa là việc họ có một đội quân gồm khoảng 25.000 người.
Đức tin của giáo phái này là sự pha trộn của thuyết duy linh, Phật giáo, Đạo giáo, và nhất là Công giáo vốn có hệ thống giáo phẩm được họ mô phỏng ít nhiều trong Tòa thánh của giáo phái. Giáo phái này được thành lập vào năm 1919 bởi một quan chức cấp tỉnh tùng sự tại Phú Quốc, Ngô Văn Chiêu, vốn đã làm quen với thuyết duy linh và do nhàn hạ vì công việc hành chánh không có gì nhiều, ông khởi sự tu đạo. Ít lâu sau ông được chuyển về Sài Gòn. Tại đây, ông ảnh hưởng đến một nhóm bạn, trong đó có Phạm Công Tắc, hộ pháp cầm quyền năm 1954, để giúp ông tiến hành các buổi cầu cơ. Từ đó xuất hiện Cao Đài, nghĩa đen là Tháp cao, hoặc Đấng Tối cao, được thể hiện qua biểu tượng của giáo phái, thiên nhãn, có dạng một con mắt khổng lồ. Cao Đài được người Nhật bảo trợ và đào tạo trong Thế chiến II. Sau một thời gian ngắn quan hệ với VM sau chiến tranh, họ thỏa hiệp với người Pháp vốn sau đó duy trì và hậu thuẫn quân đội của họ.
Nhóm võ trang quan trọng thứ ba trong khu vực này là giáo phái Hòa Hảo. Hòa Hảo, giống như Cao Đài, có xu hướng chia rẽ và phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ: thủ lãnh có võ trang mạnh nhất là của một người mù chữ có ria mép rậm được gọi là Tướng Trần Văn Soái [tục danh Năm Lửa].
Đây là giáo phái sinh sau đẻ muộn nhất trong số tất cả các phe nhóm. Giáo phái được thành lập vào năm 1939, khi người con trai tóc dài, đau ốm một cách bí ẩn của một người nông dân giàu có sống ở một tỉnh gần biên giới Cambodia đang nằm trên giường bệnh. Bên ngoài, một cơn bão dữ dội đang hoành hành. Bên trong, chàng trai trẻ, Huỳnh Phú Sổ, rơi vào tình trạng vốn được các tín đồ sau này mô tả là cơn phấn khích thần kinh theo cường độ của cơn bão. Khi cơn bão lắng xuống, anh ta tái nhợt và run rẩy nhưng đã hoàn toàn khỏi bệnh. Anh ta đến bàn thờ gia đình, phủ phục, và từ lúc đó trở thành một người chữa bệnh dựa vào đức tin và một nhà lãnh đạo tôn giáo có tiếng tăm đáng kể. Anh đặt tên cho giáo phái của mình theo tên của ngôi làng quê hương.
Ông đi khắp Đồng bằng sông Cửu Long, thu hút hàng ngàn người cải đạo. Ông đặt tay lên người bệnh và người bệnh được chữa khỏi. Người Pháp đưa ông vào dưỡng trí viện, ở đó ông đã cải đạo cho bác sĩ thần kinh người Việt lo việc điều trị cho ông. Trong số những người bạn của ông có Ngô Đình Diệm, người mà ông che giấu khi ông Diệm trốn tránh người Pháp.

Đầu năm 1944, Hòa Hảo thành lập lực lượng quân sự riêng, đội ngũ của họ tăng lên nhờ những người cải đạo có tư tưởng chống Pháp mạnh mẽ mà Huỳnh Phú Sổ thu hút được trong giới nông dân. Người Nhật đã bảo vệ Huỳnh Phú Sổ chống lại chính quyền Pháp, và nhiều nhóm võ trang Hòa Hảo và các đơn vị vệ binh đã xuất hiện ở phía tây nam Sài Gòn. Trong số những người chỉ huy của họ có Trần Văn Soái [Năm Lửa]. Các cuộc thảo luận giữa VM và Hòa Hảo, với mục đích tiến hành cuộc đấu tranh chung chống lại người Pháp, đã không đạt được bất kỳ tiến triển nào, và vào tháng Chín 1945, VM thảm sát hàng trăm tín đồ Hòa Hảo tại Cần Thơ. Năm Lửa đã đáp trả mạnh mẽ, và các cánh đồng lúa xung quanh Cần Thơ đã trở thành hiện trường của cuộc tàn sát. Sự can thiệp của Pháp đã chấm dứt các cuộc giết chóc tái diễn liên tục này, nhưng nó cũng có tác dụng đẩy Hòa Hảo và VM lại gần nhau trong mục tiêu chung. Vào tháng Sáu 1946, dưới sự chỉ huy của Năm Lửa, Hòa Hảo bắt đầu các chiến dịch có tổ chức nhắm vào Quân đoàn viễn chinh Pháp.
Giống như liên minh VM-Bình Xuyên, mối quan hệ đối tác này không tồn tại lâu dài. VM, cực kỳ nghi ngờ Huỳnh Phú Sổ, đã bắt giữ nhà tiên tri này và hành quyết ông vào cuối tháng Tư 1947 [có tài liệu chính thức ghi nhận vụ này xảy ra ngày 22.12. 1947]. Trần Văn Soái ngay lập tức bước sang hàng ngũ của Pháp, mang theo một lực lượng gồm hai ngàn binh lính võ trang. Ông được thu nhận vào Quân đoàn Viễn chinh Pháp với cấp bậc tướng và được giao nhiệm vụ “bình định” các khu vực do ông kiểm soát. Từ đó, quân đội Hòa Hảo có tên trong bảng lương của Pháp.
Với các giáo phái, Diệm không có tư thế của một nhà lãnh đạo quốc gia mà giống như một đối thủ cạnh tranh khó chịu, và có thể gây nguy hiểm nếu không khống chế được. Bảy Viễn hiểu rằng nhân vật Diệm trọng đạo đức này khó mà bị cám dỗ để chấp nhận chia chác nguồn lợi từ 1.200 gái làng chơi đang phục vụ tại những căn phòng toàn gương. Năm Lửa và bộ hạ cũng như phái Cao Đài cũng hiểu rằng cơ hội thọc tay vào nguồn lực tài chánh của Pháp sẽ mau chóng kết thúc và họ sẽ cần phải hành động nhanh để xác lập những yêu sách của mình.
Mặc cho tâm trạng bất an này trong các giáo phái, Diệm vẫn chịu áp lực phải làm việc với họ. Sau khi nội các đầu tiên vắn số của ông sụp đổ, Diệm miễn cưỡng lấp vào những chỗ trống này bằng bốn bộ trưởng từ hai phái Cao Đài và Hòa Hảo. Một người Mỹ vốn có lẽ am hiểu nội tình hơn bất kỳ ai khác, và cũng là người được tiếng là có thiện cảm với Diệm, đã viết về thời này: “Từ tháng Chín, Diệm đã hoàn toàn lệ thuộc vào hậu thuẫn của Mỹ đến nỗi nếu ngày nào đó không có nó hẳn ông ta đã sụp đổ. Tuy vậy ông ta vẫn không tiếp nhận ý kiến cố vấn, không chịu thỏa hiệp. Những việc ông ta làm đều do người Mỹ gợi cảm hứng, người Mỹ hoạch định, và được thi hành với sự hướng dẫn sâu sát của người Mỹ.”
Điều này không có nghĩa là người Mỹ tại chỗ, hoặc ở Washington, bị cuốn theo mặc cảm giống như Đấng cứu thế của Diệm. Nhiều người nghĩ rằng ông ta gần như vô vọng. Nhưng khi nhìn vào các giải pháp thay thế, họ lại càng nản. Một thí nghiệm khác với Bảo Đại ư? Cầu Chúa ngăn chuyện đó! Một Bảy Viễn giang hồ, chủ nhà chứa, và mù chữ ư? Không thể nào. Tướng Năm Lửa, cũng mù chữ, lãnh đạo Hòa Hảo ư? Không. Không. Hộ pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài ư? Vô lý. Chỉ có Diệm, và phải là Diệm thôi.
Nhưng không ai vui về điều đó. Tướng Lawton Collins, người vừa tiếp nhận Đại sứ quán Mỹ, đã khuyên nên bỏ rơi Diệm càng sớm càng tốt. Binh lính VN đã đổi phe và gia nhập Việt Minh, hoặc đào ngũ. Quân đội dưới sự lãnh đạo của tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng, đã bị phân hóa. Vào thời điểm này, Diệm chỉ có thể trông cậy vào lòng trung thành của không quá hai tiểu đoàn.
Về mặt chính trị và cơ sở vật chất, đất nước đang trong tình trạng khốn khổ. Kênh đào, đường bộ, đường sắt, dịch vụ điện thoại và điện tín đã bị phá hủy hoặc rơi vào tình trạng hư hỏng. Đường bộ và cầu đường sắt đã bị đánh bom. Một số vùng của đất nước đã nằm trong tay của VM trong chín năm và bây giờ chỉ có thể tiếp cận bằng trực thăng.
Chính quyền chỉ còn trên danh nghĩa. Cao Đài kiểm soát vùng nông thôn phía tây Sài Gòn. Hòa Hảo rất mạnh ở đồng bằng Nam Kỳ. Bình Xuyên nắm Sài Gòn. Ở những nơi khác, Việt Minh đã chỉ huy. Diệm không có gì để thực thi quyền lực của mình. Với hai bên Pháp và Việt Nam luôn lăm le xung đột, guồng máy công chức, như hiện có, đã tan rã. Các viên chức VN, ngay cả những người làm việc trong Sở Mật thám, cũng chẳng buồn giả vờ hợp tác với người Pháp nữa. Ví dụ, có lần tôi rất muốn tìm một người bạn từ Hà Nội vốn đã mất tích trong dòng người tị nạn. Tôi đã hỏi thăm thông qua Nguyễn Văn Hương [?], người từng đứng đầu Sở Mật thám ở Bắc Việt và hiện có một chức vụ nhỏ ở Sài Gòn.
“Người Pháp đã ra lệnh bắt giữ ông ấy", Hương nói. “Nếu tôi biết ông ta ở đâu thì tôi phải bắt giữ.” Ông ta ngập ngừng chốc lát rồi nói thêm, “Nhưng nếu ông đến địa chỉ này ở Chợ Lớn và nói tôi phái ông đến, tôi chắc rằng ông sẽ tìm thấy ông ta.”
Một trong những hành động tích cực đầu tiên của Diệm là yêu cầu người Mỹ trợ giúp di chuyển những người tị nạn từ miền Bắc. Lời kêu gọi của ông gởi tới Washington và những người Công giáo ở Bắc Việt đều thành công như nhau. Đột nhiên, một làn sóng người tị nạn đổ về Sài Gòn. Theo lời khuyên của các linh mục, hàng trăm ngàn người Công giáo miền Bắc đã từ bỏ mọi thứ, nhà cửa, trâu bò, và đồng ruộng của họ, và không có gì hơn những món họ có thể mang vác theo, họ đổ xuống các con tàu của Mỹ và Pháp tại cảng Hải Phòng. VM vốn nhìn thấy cuộc di cư này là một sự mất thể diện trầm trọng, đã cố gắng ngăn chặn làn sóng này bằng các biện pháp cản trở hợp pháp và cả sự tàn bạo nữa. Họ chỉ thành công trong việc khiến những người Công giáo càng quyết tâm trốn thoát hơn bao giờ hết. Các số liệu công bố thì khác nhau, nhưng có khoảng 800.000 người tị nạn đã đổ vào các trại tị nạn không đủ tiêu chuẩn và được dựng lên vội vã xung quanh Sài Gòn. Ban đầu tình trạng này tất yếu trở thành nơi sinh sôi của bệnh tật và sự bất mãn, mặc dù việc tái định cư cho số dân này sau cùng phải được xem như một trong những thành tựu lớn của Diệm, cho dù điều đó không nhất thiết khiến ông giành được thiện cảm hơn của người dân miền Nam vốn đôi khi có vẻ coi đám dân tị nạn này như những “người xa lạ” được ưu đãi.

Với một chính quyền có năng lực và tổ chức tốt nhất, giai đoạn này hẳn vẫn là vô cùng khó khăn. Đối với Diệm, việc có được một chính quyền như thế thì gần như bất khả. Ông tỏ ra bối rối trước quy mô của những vấn đề mà ông phải đối mặt. Việc thiếu hành động kịp thời của ông đã tạo thuận lợi cho những người muốn miêu tả ông chỉ như một thủ lãnh giáo phái khác. Chỉ trong lời cầu nguyện và sự hướng dẫn của gia đình, ông mới tìm được sức mạnh thực sự. Và thậm chí một số anh em của ông cũng cảm thấy hoài nghi. Giám mục Thục, cùng nhiều người khác, đã khuyên ông từ bỏ nhiệm vụ dường như vô vọng của mình.
Đến lúc cần đưa ra quyết định quan trọng, Diệm đã gác bỏ lời khuyên từ chức đầy thiện chí này. Thay vào đó, ông đã gây ra cuộc khủng hoảng đầu tiên trong một loạt các cuộc khủng hoảng dài bằng cách điều động Tướng Hinh, tham mưu trưởng thiếu trung thành của mình, đi công cán ở Pháp. Đây là Diệm, một viên quan, sử dụng quyền lực mà không có quyền lực. Hinh là một chàng trai trẻ với cái nhìn lạc quan về cuộc sống đặc trưng của một người từng là sĩ quan Không quân Pháp. Ông không có tham vọng thực sự nào về quyền lực chính trị, và rõ ràng là ông bối rối về vị trí của mình đối với Bảo Đại nếu ông ta thực sự cố gắng đảo chính. Tuy nhiên, trong một tuần hoặc hơn, trong khi Mỹ đang quyết định xem có nên ủng hộ Diệm hay không, Hinh đã có cơ hội. Diệm đã đưa một đội cận vệ được tăng cường và trung thành từ Huế vào, nhưng họ chắc không phải là đối thủ của lực lượng Hinh.
Khi cuộc khủng hoảng này qua đi, Diệm đã loại bỏ được Hinh nhưng gần như hoàn toàn bị cô lập. Chỉ có gia đình và sự ủng hộ miễn cưỡng của người Mỹ mới giữ được ông khỏi bị sụp đổ. Với Bình Xuyên làm chủ xướng, các giáo phái đã gần như nổi loạn. Tuy nhiên, khi đến cao điểm, không có sự thống nhất nào trong phe đối lập, hoặc có lẽ Cao Đài và các nhà lãnh đạo Hòa Hảo thực sự đã vạch ra giới hạn không chịu phục vụ dưới quyền một chủ nhà chứa mù chữ.
Trong thời gian này, lực lượng VM ở miền Nam đã tập hợp lại và một phần đã ra Bắc. Trong khi ở Bắc Kỳ, VM đã chuẩn bị đầy đủ và có được cả bộ máy hành chánh và công cụ kiểm soát để tiếp quản các vùng “giải phóng”, Diệm không có gì cả. Ông không có thời gian và phương tiện để tổ chức bất kỳ loại sắp xếp bí mật nào ở miền Bắc cũng như không có khả năng tiêu diệt lực lượng ngầm của VM ở miền Nam. Mọi thứ đều có lợi cho Hồ: mọi thứ đều chống lại Diệm. Các nhóm Công giáo ở lại miền Bắc có thể trở thành một đạo quân nội gián lý tưởng, nhưng chỉ trong những hoàn cảnh hoàn toàn khác. Trong tình hình này, Diệm không có khả năng khởi xướng hay ngăn chặn, mà chỉ có thể sống sót.
Sự may mắn, người Mỹ, và lòng dũng cảm kiên cường của chính ông, là những yếu tố chủ yếu giúp ông sống sót. Đôi khi ông có vẻ choáng váng nhưng vẫn không muốn chấp nhận sự hướng dẫn. Các đại sứ cố gắng đề đạt ý kiến tư vấn và thấy ý kiến của họ bị coi thường. Tổng ủy viên Anh tại Đông Nam Á, Malcolm Macdonald, người đang hậu thuẫn các yêu sách của Bác sĩ Phan Huy Quát, một thành viên của Đảng Đại Việt cực hữu từ Bắc Việt, đã ra về trong tình trạng kiệt sức sau một phiên họp với Diệm. “Ông ta là thủ tướng tệ nhất mà tôi từng thấy”, ông nói.
Cuộc khủng hoảng lớn thứ hai của chế độ Diệm xảy ra vào đầu năm 1955 khi người Pháp tuyên bố rằng họ dự định ngừng trợ cấp cho các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài. Bảy Viễn, bực bội vì việc đóng cửa các nhượng quyền cờ bạc của mình, một lần nữa trở thành đồng minh hăng hái của hai giáo phái trên để đối đầu sống mái với Diệm. Tuy nhiên, trước khi liên minh của họ kịp hình thành, hàng ngũ của họ đã bị chia rẽ. Diệm đã thu phục được người đổi phe thực sự đầu tiên, Tướng Trịnh Minh Thế, nhân vật phản diện bản xứ trong “The Quiet American” (Người Mỹ trầm lặng) của Graham Greene, đã tập hợp lực lượng và với một khoản mua chuộc hậu hĩnh đã đồng ý trung thành với Diệm.
Ba nhà lãnh đạo giáo phái yêu cầu Diệm phải thành lập một chính phủ thống nhất quốc gia. Nhiều người tin rằng ông ta phải chấp thuận. Họ nhấn mạnh rằng sự thống nhất là điều cần thiết vào thời điểm này. Quan điểm của Diệm là ông phải chứng minh được sự vượt trội của mình so với các giáo phái hoặc mãi mãi phải phục tùng họ. Ông không hề cố gắng điều đình với các thành viên của các giáo phái trong Nội các. Ngược lại, ông cố tình coi thường họ trong khi công khai vận động để giành được sự ủng hộ của các nhóm bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ của họ. Ông sử dụng lời hứa về sự hòa nhập vào quân đội quốc gia như một võ khí chính trị, và với đôi mắt mở to bám sát tình hình, đầu tiên là kích động các giáo phái đi tới một tối hậu thư và cuối cùng là cho cuộc chiến nổ ra vào ngày 29 tháng Ba, và bùng nổ một lần nữa một tháng sau đó.
Ông cũng phá vỡ những nỗ lực của người Pháp và Bảo Đại nhằm lật đổ ông. Khi cuộc xung đột đang tiếp diễn, và lực lượng Bình Xuyên sụp đổ mau chóng trước sự ngạc nhiên của nhiều người Việt và nước ngoài, Diệm nhận được công điện của Bảo Đại ra lệnh cho ông đến Cannes để trao đổi ý kiến. Ông được chỉ thị đi cùng Lê Văn Tỵ, người được ông bổ nhiệm làm tham mưu trưởng quân đội quốc gia, và bàn giao quân đội cho tướng Nguyễn Văn Vỹ, một người của Bảo Đại [được Bảo Đại phong làm quyền Tổng tham mưu trưởng tháng Mười một 1954]. Tại Paris, người Pháp liên kết với Bảo Đại để chống Diệm, và mệnh lệnh điều Diệm đến Cannes được nối tiếp bằng một tuyên bố của Edgar Faure, thủ tướng Pháp, rằng chính phủ của Diệm không đủ khả năng gánh vác nhiệm vụ.

Diệm trả lời bằng một công điện nói rằng việc ông rời khỏi Sài Gòn lúc này sẽ gây hại cho lợi ích quốc gia, và, mặc cho áp lực mạnh nhất của Pháp, Randolph Kidder, lúc đó là đại biện lâm thời của Mỹ trong thời gian vắng mặt tướng Collins, đã hết sức hậu thuẫn Diệm. Kidder công khai bất đồng với tướng Ely, tổng tư lệnh lực lượng Pháp, vốn vừa muốn đẩy Diệm đi Cannes vừa muốn dàn xếp việc ngưng bắn.
Tuy nhiên, tình cảnh với Diệm có vẻ vô vọng. Lần này, ông thoát nạn nhờ vợ chồng em trai Ngô Đình Nhu. Nhu, người rất chống Cộng và hiểu biết về chiến thuật của CS đến mức ông thường dùng phương pháp CS trong các hoạt động chính trị của mình, đã tập hợp một hội đồng gồm những người mà ông gọi là “lực lượng cách mạng dân chủ quốc gia”. Những tiền sự trước đó đều được bỏ qua. Bất kỳ ai chống lại Bảo Đại và chống lại người Pháp đều được chào đón. Do không có bất kỳ thẩm quyền hiến định nào, hội đồng tồn tại trong thời gian ngắn này dưới sự chỉ đạo của Nhu đã tự tiến hành các thủ tục pháp lý, chỉ định một Ủy ban Cách mạng, ủy ban này lại yêu cầu hội đồng chấp thuận các biện pháp mà Nhu cảm thấy Diệm cần thực thi trong cuộc đấu một-chống-ba với Bảo Đại, người Pháp, và các giáo phái.
Vì hai thành viên của Ủy ban Cách mạng từng là chính ủy Việt Minh, nên không có gì ngạc nhiên khi Sài Gòn trong một khoảnh khắc tự hỏi liệu Hồ Chí Minh có sắp tiếp quản [miền Nam] trước thời hạn hay không. Tuy nhiên, Nhu đã nắm chắc vấn đề trong tay. Tôi đã đến gặp ông trong dinh tổng thống để hỏi về những thành viên đáng ngờ này của ủy ban. Nhu nói rằng họ “năng động và cách mạng”, và đổ lỗi cho người Pháp đã tung tin đồn về họ. “Vấn đề với tất cả các đại sứ quán ở đây là họ chỉ bảo trợ cho các chính quyền trong quá khứ và không có cái nhìn rõ ràng về tình hình hiện tại,” ông nói với tôi. “Chúng tôi đã chia tay với những xác chết chính trị đó cùng những ý tưởng lỗi thời của chúng. Người Mỹ nên ghi nhớ mục tiêu chính, đó là chống lại CS.” Nhu có phương pháp chiến đấu riêng của mình. Năm 1962, khi theo lệnh của ông, Nguyễn Bảo Toàn, cựu chủ tịch Hội đồng Nhân dân Cách mạng và là một người quốc gia, đã bị thủ tiêu.
Dưới những chiếc đèn chùm lấp lánh của Dinh Độc Lập, Diệm và hai tướng lãnh đã họp để nghe yêu cầu của Tướng Vỹ rằng ông phải tiếp quản quân đội theo lệnh của Bảo Đại. Ủy ban Cách mạng, nóng nảy và phấn khích sau khi ném bức ảnh của Bảo Đại ra khỏi cửa sổ Tòa Đô chánh, đã đợi ở một phòng chờ trong khi các cuộc đàm phán diễn ra. Vỹ từ phòng họp bước ra với nụ cười đắc thắng để rồi bị một thành viên của Ủy ban Cách mạng chặn lại, chĩa súng lục vào ông ta và nói, “Ông đã bị bắt.”
Vỹ quay lại phòng họp, nơi Tỵ và Diệm đang nói chuyện. Ủy ban Cách mạng đuổi theo ông ta. Trước mặt Diệm, họ lột huy hiệu cấp bậc [nay thường gọi là quân hàm] của Vỹ, và một trong những thành viên ủy ban xin được kết liễu ông ta. Nhưng Diệm, như câu chuyện kể lại, phản đối rằng ông không muốn máu đổ trên lớp thảm Trung Hoa. Khi Vỹ bị đe dọa hạ sát thì có lời hăm dọa tấn công của binh lính nhảy dù nhắm vào Diệm nếu Tướng Vỹ bị hại. Ông được thả sau khi tuyên bố đồng ý từ bỏ Bảo Đại.
Một giờ sau, thoát khỏi mũi súng của ủy ban, Vỹ nỗ lực lần cuối cùng để giành quyền lực. Người Pháp đã bật đèn xanh cho Ngự lâm quân của Bảo Đại, và Vỹ, tại một cuộc họp báo, thông báo rằng tuyên bố của ông ta vào tối hôm trước đã được đưa ra dưới sự ép buộc và rằng, nhân danh Bảo Đại và với sự ủng hộ trung thành của 90% quân đội, ông ta hiện giành lại quyền kiểm soát chính phủ.
Tuy nhiên, ngay sau khi ông đưa ra tuyên bố này, Tướng Tỵ đã tập hợp Đại tá Dương Văn Minh, chỉ huy lực lượng bảo vệ thủ đô, và Đại tá Trần Văn Đôn, thường được coi là quân nhân giỏi nhất của Nam VN, về phe Diệm. Vào buổi chiều, Vỹ chạy lên Đà Lạt và sau đó đến Paris. Tướng Hinh, vội vã từ Cannes về để tăng cường cho cuộc lật đổ, đã dừng lại ở Phnom Penh, thủ đô Cambodia.
Diệm, lúc này đang thắng thế, chính thức yêu cầu Tướng Ely giải tỏa mọi rào chắn, và lực lượng chính phủ vượt các con kinh tiến vào lãnh thổ Bình Xuyên và đẩy Bảy Viễn bị thương lui về vùng đầm lầy và cứ địa trong rừng.
Trận kháng cự cuối cùng với xuồng máy và một đại đội của ông ta đã làm chết Tướng Trình Minh Thế. Năm Lửa tăng viện lấy lệ với 200 quân như một cách bày tỏ tình đoàn kết giữa các giáo phái, mặc dù toán quân này không tham chiến, và Hộ pháp Tòa thánh Tây Ninh [Phạm Công Tắc] từ chối thực hiện nghi lễ an táng cho thi hài Trình Minh Thế [họ kết tội ông đã hợp tác với Diệm] khi đám rước đưa xác di chuyển từ Sài Gòn về tới Tây Ninh.

Mấy trăm cây số vuông của Chợ Lớn, đô thị sinh đôi của Sài Gòn, rơi vào cảnh hoang tàn. Nhiều đám cháy bùng lên vì đạn pháo, và khi quân Bình Xuyên rút sang bên kia Kinh Tàu Hủ, cứ địa của Bảy Viễn, họ đã phóng hỏa dãy nhà gỗ chen chúc hai bên bờ kinh và lửa lan ra cả cây số trên những nhánh đường phụ dẫn tới đường Galliéni [sau 1955 đổi thành Trần Hưng Đạo]. Cả khu vực này bốc cháy. Những người tị nạn từng chạy trốn VM ở Bắc Kỳ và tái định cư ở đây đã mất tất cả những gì họ dành dụm được. Sài Gòn đã đủ bi thảm trước đây, nhưng lúc này, đường phố lại tràn ngập những nhóm người tị nạn mới, họ trú dưới mái hiên khách sạn và cửa hàng vào ban đêm. Phân người rải kín quảng trường trước Khách sạn Continental, và mùi hôi của rác rưởi tỏa suốt đường Catinat.
Hàng ngàn ngôi nhà, cửa hàng, và ngành tiểu thủ công nghiệp bị phá hủy, cùng với vô số thường dân vô danh. Một ước tính sơ bộ cho thấy số người thiệt mạng là 500 và số người bị thương là một ngàn. Con số này có thể còn cao hơn nhiều lần. Ở Sài Gòn, hàng chục người có gia đình ở Chợ Lớn không còn gặp lại hoặc nghe được tin tức về họ nữa. Hy vọng rằng họ đã chạy trốn về quê khi cuộc giao tranh bắt đầu dịu đi từng ngày. Trong đống tro tàn của Chợ Lớn có rất nhiều thứ từng là xương thịt con người. Một đồng nghiệp của tôi đã hỏi một nhóm người đào bới rằng họ hy vọng tìm thấy cái gì. “Xác… hay là tiền,” họ đáp.
Cứ địa Bình Xuyên rơi vào đổ nát. Bảy Viễn nuôi nhiều thú ở đây. Cá sấu sống trong hào nước giữa nơi ông ăn ở và nơi ông làm việc. Một con báo đã trưởng thành bị xích đứng canh gác bên ngoài cửa phòng ngủ của ông. Một con trăn quấn mình quanh các cột nhà chính, và một con cọp cái nằm trong một cái chuồng gần đó. Tất cả đều đã chết vì đạn cối hoặc đại bác. Để tăng thêm phần ly kỳ và rùng rợn, Trần Văn Khiêm, anh trai của Bà Nhu, lúc đó đang làm sĩ quan báo chí cho Diệm, đã thông báo rằng người ta tìm thấy xương người và các mảnh quân phục Việt Nam trong chuồng của con cọp cái.
Diệm truy đuổi các nhóm bất đồng chính kiến vào tới đồng bằng sông Cửu Long và về phía tây hướng tới biên giới Cambodia, nơi tướng Hinh hiện đã hợp lực với tướng Vỹ và Hòa Hảo. Cuộc kháng cự ở đây không kéo dài được lâu. Nó dằng dai thêm vài tháng nữa ở đồng bằng phía nam, nơi một thủ lãnh Hòa Hảo tên là Lê Quang Vinh [biệt danh Ba Cụt], vốn từng phê phán Diệm là “quá thụ động” trước Hiệp định Genève, vẫn giữ được cứ địa. Thị trấn Cái Vồn ven sông Hậu là trụ sở của Ba Cụt. Tại đây, ông ta sống với người vợ thứ, Cao Thị Nguyệt. Lúc 17 tuổi, vị thủ lãnh trẻ này đã chặt đứt một ngón tay của mình để tự nhắc nhở phải luôn chống Pháp. Khi Hiệp định Genève trao Bắc Việt cho VM, ông ta đã thề không bao giờ cắt tóc cho đến khi Việt Nam thống nhất. Một năm sau, Diệm cắt nó cho ông ta bằng máy chém.
Bảo Đại rối trí khi không có mặt trong nước. Bị gia đình hướng dẫn và tác động, Diệm đã truy đuổi ráo riết những đối thủ của mình. Vào ngày 23.10.1955, ông tổ chức trưng cầu dân ý, yêu cầu người dân Nam VN lựa chọn giữa Bảo Đại và ông ta. Mặc dù mọi người đã đến các thùng phiếu và bỏ phiếu, và ở một số khu vực bầu cử, số phiếu bầu đã vượt xa số người trong danh sách cử tri, nhưng cuộc trưng cầu dân ý không phải là, và không được dự trù là, một đợt thực tập về các thủ tục dân chủ. Giống như cuộc bầu cử tổng thống và Quốc hội sau đó của Diệm, nó được dự định là một cuộc bày tỏ tập thể về lòng trung thành với guồng máy cầm quyền. Hiểu như vậy thì đó là một thành công to lớn. Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa với ông ta là Tổng thống. Như ông đã nói, “Giấc mơ của cuộc đời tôi đã thành toàn.”
Trong một chương trình phát thanh với người dân Việt Nam vào ngày 16.7.1955, ông đã bác bỏ ý tưởng bầu cử thống nhất với VM. “Chúng ta không ký Hiệp định Genève”, ông nói. “Chúng ta không bị ràng buộc theo bất kỳ cách nào bởi những thỏa thuận được ký kết trái với ý muốn của người dân Việt Nam.... Chúng ta sẽ không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào cho phép thống nhất quê hương của chúng ta trong tự do, nhưng chúng ta không thể xem xét bất kỳ đề xuất nào từ VM nếu không có bằng chứng cho thấy họ đặt lợi ích tối thượng của cộng đồng quốc gia cao hơn lợi ích của chủ nghĩa cộng sản.” Cuộc thử thách thực sự sắp bắt đầu.
Diệm bị chỉ trích rất nhiều vì những hành động của mình trong thời gian này. Những người chỉ trích ông, đặc biệt là người Anh và người Pháp, cảm thấy rằng năng lượng mà ông dành cho cuộc chiến với Bình Xuyên tốt hơn nên được dành cho việc thu phục tình giao hảo và sự ủng hộ của họ trong một liên minh thực sự của các lực lượng phi Cộng sản. Nhưng, như chính Diệm đã nêu câu hỏi vào tháng Năm 1955, khi Bình Xuyên bị đánh đuổi khỏi Sài Gòn, “Nếu trong năm 1954 Tướng de Gaulle, tại Paris đã được giải phóng, đối mặt với băng nhóm võ trang giống như Bình Xuyên vốn duy trì lực lượng biệt kích bằng nguồn tiền lấy từ các sòng bạc và tiệm hút hợp pháp và sẵn sàng gây nội chiến để bảo vệ những đặc quyền lãnh chúa của họ thì tướng quân sẽ áp dụng chính sách nào?”
Diệm nói đúng. Bình Xuyên phải bị xóa sổ thôi.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét