Mở màn năm Mậu Dần 1998 mà biểu tượng là con cọp, vốn là một đề tài mà thiên hạ đã nói đi nói lại nhiều lần, nay tôi xin nói sang một đề tài khác, nhưng vẫn có nhiều liên hệ với mùa xuân và với Tết ta, đặc biệt là Tết của miền Trung Nam nước Việt. Đó là cây mai vòi hoa vàng, dáng điệu mảnh khảnh thường mọc trên đồi cao hoặc dưới chân đèo hẻo lánh và cheo leo, mà nhà thờ Tôn Thọ Tường (1825-1877) đã khéo léo mô tả trong bài thơ tiên khởi sau đây:
Cảm vịnh cây mai nơi chùa Cây Mai
Đau đớn thân mai cách dưới đèo
Mười phần trong sạch phận cheo leo
Sương in tuyết đóng cành thưa thớt
Xuân tới thu về cảnh quạnh hiu
Lặng lẽ chuông quen con bóng xế
Tò le kèn lạ mặt trời chiều
Những tay rượu thánh thơ thần cũ
Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.
Từ thời ấy tức là thời Đông Tây giáp mặt trong sự giận hờn chinh chiến, khói lửa khắp nơi, rồi tiếp theo là một sự hợp tác rất e dè vả cưỡng bách, khiến cho Tôn Thọ Tường phải trải bày tâm sự chát chua trên thi đàn cho thiên hạ thấu hiểu và mặc sức luận bàn vòi nhiều cay đắng.
Thi bá Đông Hồ Lâm Tấn Phác (l906-1969) đã từng phê bình bài thơ trên với những lời lẽ chính xác và sâu sắc như sau:
"Thơ này thuộc về thơ vừa cảm cựu vừa thuật hoài, vừa than tiếc nhớ thương người xưa cảnh cũ, vừa cảm nghĩ thân thế, vừa ký thác tâm sự mình. Lời thơ vừa tả cảnh, tả tình, vịnh vật mà thật là ngụ ý. Tác giả Tôn Thọ Tường làm bài thơ này kể được là đúng thể thức tỉ như phú của Kinnh Thi. Thơ lại được xây dựng có phép tắc vững vàng, có nghệ thuật điêu luyện. Thi tứ thì thê nhiên mà bút thế thì linh động, thuộc về văn chương đại nhã, không phải là văn chương tiểu xảo".
Rồi nhà thơ Đông Hồ, như muốn biểu lộ lòng quảng đại của mình đối với người xưa cảnh cũ đang ở trong thế kẹt của một thời đại nhiễu nhương, đã thốt đôi lời bàn thêm:
Y như hễ nói tới nhà thơ Tôn Thọ Tường thì tôi nhớ đến bài thơ Tôn phu nhân qui Hán, nó có một giọng đỏng đảnh. chanh chua đáng ghét. Trái lại thơ Từ Thứ qui Tào, cũng như Chùa Cây Mai này thì lại dễ khiến cho người ta tha thứ. Tha thứ vì chút liên tài liên mạng".
Riêng về thắng cảnh lịch sử chùa Cây Mai, nhà thơ không ngớt khen ngợi với những lời vô cùng tốt đẹp:
"Nghĩ như: danh thắng trong thiên hạ, không thiếu chi những cao sơn đại xuyên, thì một gò đất con con ở đồn Cây Mai trong Phú Lâm, gần gặn giữa thủ đô kinh hoa này, phỏng có thủy tú sơn kỳ chi đó mà khách du xuân phải nhọc công tìm đến ngoạn thưởng ngâm đề. Nhưng chúng ta ai mà chẳng nhớ:
Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc tinh".
(Núi có danh đó, há phải vì núi cao vòi vọi, mà vì núi có thần tiên lai vãng. Nước có thiêng đó, há phải vì nước sâu thẳm mà vì nước có giao long tàng ẩn).
Suy nghĩ như vậy, nhà thơ Đông Hồ đã cám cảnh sinh tình, họa lại bài thơ vần "eo" rất khó của Tôn Thọ Tường bằng một bài thơ tuyệt diệu, sẵn có bút pháp tinh vi, rồng bay phượng múa:
Lọ thẳm khơi sông chót vót đèo
Rồng thiêng tiên náu bước xuân leo
Giang Nam mộng cũ xuân man mác
Thi xã hồn xưa gió hắt hiu
Cốt cách thẹn thò băng ngọc tối
Phong tao e ấp tuyết sương chiều
Năm ba hồi nở năm ba nụ
Tâm sự ngày xưa chút bấy nhiêu.
Theo sách Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức (1765-1825), đồn Cây Mai chính là trung tâm điểm của thành Prey Nkor (Sài Gòn) ngày xưa. Nguyên là trên gò Cây Mai (mai khâu) có môt ngôi chùa, ở địa phận thôn Phú Giao; huyện Tân Long (Tân An) có bảy cây mai, bóng ngã lơ thơ, nùi hương phảng phất, rất thích ý cho những người tìm phương du ngoạn. Sau nhiều cuộc binh đao, trên gò này chỉ còn lại một cây bạch mai mà thôi!
Có một điều thắc mắc mà chúng ta nên nêu ra đây là cây mai ở dưới đèo trong bài thơ của Tôn Thọ Tường và cây mai còn sót lại trên đồn Cây Mai có phải là một giống, một loài hay không? Có thắc mắc chăng là cây mai dưới đèo: mai này là mai vàng hay mai trắng? Nếu là mai vàng thì nó thuộc loại Ochna Harmandii, họ ochmacée, đúng như BS Trần Văn Tích viết trong bài "Mai không phải là Mai" đăng trong Làng Văn số 156, tháng 8/1997 vừa qua.
Tôi xin thêm: sở dĩ tên khoa học của loài hoa này có chữ Harmandii vì người phát giác ra nó là giáo sư bác sĩ hải quân Harmand (l845-l921), vốn là một nhà nhân loại học (anthropologiste) và một nhà thiên nhiên học (naturaliste) danh tiếng. Ông là người Âu châu đầu tiên đi xuyên qua cao nguyên Bolovens trong năm 1877, sau khi đã khảo sát tường tận những bộ lạc Kha, tức là Kha Lơ (Cà Lơ), xuyên qua rừng núi và cao nguyên Ai Lao (vùng Trấn Ninh) cho thấu sông Tchépone mà ông đã đi ngược lên tới đèo Ai Lao chia đôi Lào Việt. Rồi ông xuyên dãy Trường Sơn đi về phía Quảng Trị, rồi đi về hướng nam cho tới Huế. Chính trong cuộc thám hiểm gian lao này, ông đã tìm ra rất nhiều kỳ hoa dị thảo mà sau này sẽ được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi nhà thảo vật học danh tiếng Louis Pierre, sáng lập viên của Thảo Cầm Viên Sài Gòn.
Sau đó BS Harmand được chính phủ Pháp giao cho trọng trách toàn quyền Đông Dương với nhiệm vụ đặc biệt thương thuyết với chính phủ Nam Triều ở Huế mà đại diện là các cụ Hiệp Biện hưu trí Trần Đình Túc làm khâm sai toàn quyền, và thượng thơ Nguyễn Trọng Hợp. Cụ Trần Đình Túc quê quán làng Hà Trung, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; còn cụ Nguyễn Trọng Hợp là tiên tổ của thi sĩ Lệ Vân (tức Tôn Thất Thiện phu nhân), tác giả sách "Bóng Dáng Giai Nhân Trên Đường Bắc Tiến và Nam Tiến". Cả hai cụ lương đống triều đình đã hết lòng phò vua giúp nước, nhưng gặp phải thời thế cực kỳ khó khăn mà phải cắn răng ký kết Hiệp Ước Quí Mùi 1883, mà lịch sử quen gọi là hiệp ước Harmand-Nguyễn Trọng Hợp, có mang thêm chữ ký của cụ Trần Đình Túc và ông de Campeaux, Trú Sứ ở Huế. Hiệp ước này gồm có 27 điều khoản trong đó có mấy khoản bắt ép nước Nam phải chịu đo hộ Pháp và chịu thu hẹp từ tỉnh Khánh Hòa ra tới Đèo Ngang mà thôi.
Trở lại vấn đề cây mai, nếu nó là mai trắng mà thân cao lớn (arborcscent), đó là Nam Mai, tên khoa học là Orchrocarpus Siamensis Odoratissimus, cùng giống Callophyllum, thuộc họ Guttifères. Trong Nam cũng có nơi gọi là Mai Mù U. Mai rất thơm, hoa có bốn cánh dày và mịn như sáp, cho nên cũng gọi là Lạp Mai. Đó là cây mai mà thời tiền chiến chúng tôi gồm có các bạn Bùi Quang Tung, Lê Ngọc Trụ và Nguyễn Triệu đã quan chiêm lúc viếng thăm đồn Cây Mai, dưới sự hướng dẫn của sử gia Phạm Văn Sơn, thiếu tá Quân Lực VNCH, tác giả nhiều bộ sử dân sự vả quân sự Việt-Nam.
Giống mai trắng nào có trái hình bầu dục, to bằng quả trứng gà so, lúc chín rụng xuống đất, người ta lượm chôn để mọc thêm trong vườn cho có bóng mát và sau nảy được thưởng thức mùi hương thơm vào mùa xuân. Rồi chờ đầu hạ, người ta sẽ đem chiếu ra trải dưới gốc cây để lượm những cánh hoa rơi rụng mà ướp với trà, để dành vào những lọ kẽm, chờ bạn tri âm đến thì pha ra mà uống cho thấm giọng, lên mấy câu vọng cổ!
Đây là trường hợp của nhà thơ Đông Hồ ở Hà Tiên, cứ vào dịp Tết thì người nhà lên núi Lăng có nhiều bạch mai thơm phức bao quanh những ngôi cổ mộ của giòng tổng binh Mạc Cửu, tìm cắt mấy nhánh hoa xinh đẹp mang lên Sài Gòn tặng nhà thơ. Thế là tiên sinh trịnh trọng và nâng niu đem cắm vào các độc bình quí từ Long Môn (Quảng Đông, Nam Việt) do tổ tiên mang sang từ cuối thế kỷ 17, rồi tiên sinh chờ qua ngày mồng Một Tết trang trọng mời một số thân hữu về nơi vương giả hương đình thưởng thức trà Bạch Mai do chính tiên sinh chế biến với một nghệ thuật siêu thần. Từ ấm trà Lưu Bội, Mạnh Thần, tiên sinh rót vào chén Tống (tướng), rồi chuyển nhẹ sang chén quân đều tay, cùng một màu sắc, vàng óng như mật ong lóng lánh, tiên sinh nâng chén mời bạn hiền thưởng trà xuân, điểm xuyết bằng những câu chuyện văn hoa tế nhị rút từ văn hóa đông tây, kim cổ.
Vào một dịp Tết thời vàng son ấy, tôi nhớ đã đến tận Yễm Yễm Thư Quán, 72-Đ, đường Trần Văn Thạch Sài Gòn rước nhà thơ Đông Hồ và nhà cổ học Vương Hồng Sển cùng đi vào Phú Lâm, Phú Thọ, xem các chùa Phụng Sơn Tự (Chùa Gò), cũng có tên là chùa Bàu Chuông, xưa kia của người Chân Lạp, rồi đi xa hơn nữa để viếng cảnh chùa Giác Viên. Cả hai chùa đều có trồng bạch mai cao lớn, mỗi nơi có tới bốn năm cây sum suê hoa lá, thân hình thẳng tắp và trơn tru, không cong queo, khúc khuỷu, u nần như cây mù u, cùng giống Callophyllum. Lại còn một số khác biệt nữa là trái mù u thì tròn mà nhỏ thua trái bạch mai, vốn hình thuẩn. Cả hai thứ đều có thể ép ra dầu để gia dụng.
Trên đường về Sài Gòn chúng tôi có đi qua đồn Cây Mai. Xưa kia trên đồi có chùa An Tôn, tương truyền và ghi theo "Đại Nam nhất thống chí - Tỉnh Gia Định", năm Gia Long thứ 15 (l816) nhà sư trụ trì, khi tu bổ chùa có đào được ba phiến vàng lá, mỗi phiến nặng ba đồng cân, trên mặt khắc Phật cỡi voi. Ngưòi ta cho đấy là vật trấn áp cây tháp (stupa) của vị Hồ tăng ngày trước. Chỗ này là thắng địa của phương Nam. Nhưng cảnh chùa có lúc thạnh lúc suy, cây mai có lúc tươi lúc tàn, sự việc ấy như là ám hợp với nhau. Mỗi khi hoa mai rụng bay đi chỗ nào không biết thi cảnh chùa như buồn tẻ nhớ nhung, tăng đồ vắng vẻ. Đến lúc cảnh chùa trở lại vui vẻ thì hoa mai từ trên không bay về không ngớt, như chùa với hoa tương ứng, có hẹn hò với nhau, cùng suy cùng thịnh!
Trước kia không ai để ý, từ khi dựng chùa đến nay, sự suy thịnh đã trở đi trở lại nhiều lân. Có phải Thiên nữ tán hoa chăng? Hay là như cây quỳnh ở Dương Châu (Đông Việt) chăng? Ngày trước một thi nhân đi qua đây có để bài thơ rằng:
Thiền môn hà xứ phỏng mai hoa
Tạm yết chính an thuyết phạm gia
Hương nhập trà bình yên chí noãn
Nhất sinh trần tự bán tiêu ma
tạm dịch:
Cửa thiền nào hỏi chốn mai hoa
Tạm nghỉ chinh an thuyết Phật gia
Hương đượm bình chè vừa bốc khói
Một đời niềm tục nửa tiêu ma!
Tra kỹ "Từ Nguyên" chúng ta được biết: Dương Châu là địa danh, quỳnh thụ là cây hoa quỳnh, thuộc bộ Cactacées. Xưa kia bên Tàu ở Dương Châu có một cây quỳnh trồng từ đời Đường, qua đòi Tống có xây quán Phồn Ly và đình Võ Song ở bên cây quỳnh. Vua Nhân Tông đến quán ấy bứng cây quỳnh về trồng trong cấm uyển, chẳng bao lâu cây quỳnh khô héo vi bất hạp thủy thổ. Vua bèn cho bứng đem trả lại nơi Dương Châu thì tự nhiên cây quỳnh sống lại tươi tốt muôn phần.
Theo Petrus Ký, tác giả bài thuyết trình "Souvenirs historiquess sur Saign et ses Environs" tại Collège des Interprètes năm 1885, soái tướng Nguyễn Tri Phương và thượng thơ Phan Thanh Giản lúc vào Nam đương đầu với Pháp, có xây trên đồn Cây Mai một vọng lâu để nhìn xa thấy rộng...
Trên kia chúng ta đã nói về những giống mai ở miền Trung và Nam Việt-Nam, tựu trung thuộc hai loại Ochna và Ochrocarpus. Trong loại Ochna cũng có thứ màu trắng nhưng hiếm hoi lắm. Chúng tôi đã có cơ hội mua được một cây mai trồng chậu, gốc là mai vàng, nhưng có ghép thi hai cành mai trắng (cung loại Ochna Harmandii, Pierre) nơi chợ Bình Tây (Quách Đàm), Chợ Lớn. Đồng thời chúng tôi cũng đã phát giác được một cây bạch mai (loại Ochna) tại nhà GS Lê Thọ Xuân, chuyên khảo lịch sử và phong tục miền Nam, trước kia hay viết trên tạp chí Tri Tân thời tiền chiến.
Lạ hơn nữa là trong chuyến Mỹ du vào Tết Đinh Sửu 1997 đáp lời mời của nguyệt san Thế Giới ở Houston, của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Bắc Cali và của hội Văn Nghệ Sĩ Tự Do Miền Đông Hoa Kỳ, chúng tôi rất vui mừng tìm ra trong một khách sạn của người Việt một chậu hoa trồng cây hồng mai, chính tông loại Ochna Harmandii, khiến cho tôi vui mừng hết sức, như là tìm ra một .khối vàng vô giá, ngày nào cũng tìm tới nơi mà chiêm ngưỡng không chán, khiến cho ông bạn quí Hà Bỉnh Trung và thi sĩ Vĩnh Liêm vô cùng ngạc nhiên!
Trở về với các giống mai ở Bắc Việt và Trung Quốc thì đúng như nhận xét của BS Trần Văn Tích, đó là những giống mai mơ đào (prunus) thuộc họ Rosacées, tên khoa học đầy đủ là Prunus armeniaca Lin., do nhà thảo mộc học Carl Von Linné (l707-l778) gốc Thụy Điển định danh.
Theo "Quảng Sự Loại" thì mai bên Tàu có năm loại: hồng mai, bạch mai, hoàng mai, lục mai và lạp mai. Theo "Từ Nguyên", ở đông nam huyện Lư Giang, tỉnh An Huy, cách ba mươi dặm có núi Mai Sơn (núi mai, mai đây là mai chua) tục truyền xưa kia Tào Tháo hành quân tới đây chỉ trông thấy mai mơ mà chảy nước miếng và hết khát!
Riêng về chuyện Lục Khải ở Giang Nam gởi một cành mai cho Phạm Ngạc ở Trường An với bài thơ:
Chiết mai phùng dịch sứ
Ký dữ lủng đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liễu tặng nhất chi xuân
thì đã có một nhà thơ dịch thơ ngũ ngôn; rất ngắn gọn mà lại đầy đủ ý nghĩa:
Bẻ mai gặp sứ trạm
Gởi cho người bạn thân
Giang Nam không vật lạ
Kính tặng một cành xuân
Vương Tăng đời Tống, vịnh mai xuân có câu:
Trong đời chưa nói việc hòa canh
Đã đến đầu trăm hoa mà nở trước
Câu thơ trên này do Vương Tăng đưa cho Lữ Mông Chính xem. Chính đoán trước rằng Tăng sẽ thi đậu trạng nguyên và sẽ làm tể tướng. Sau quả nhiên thành sự thật.
Ngày xưa những người chăn dân dựng nước ưa nói hai chữ điều canh, có nghĩa là hòa canh, nghĩa là nấu canh, thêm mắm muối tiêu hành cho ngon lành, Tây nói là assaisonner la soupe. Đó là cả một nghệ thuật cao siêu không khác chi việc chăn dân dựng nước!
Tích này xuất từ Kinh Thi, khi nhắc đến vua Cao Tông nhà Thương nói với tể tướng Phó Duyệt rằng: nhược tác hòa canh, nhi duy diêm mai! Ý dặn dò Phó Duyệt thay vua chăn dân thì phải hành sự như nấu canh, muốn cho ngon ngọt thì phải nhớ thêm muối và quả mơ vào cho hòa tăng chất vị. Từ đấy về sau hai chữ điều canh có nghĩa là tể tướng.
Côn thi bá Lý Bạch vịnh mai mùa hạ như sau:
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc dịch
Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa
dịch nghĩa:
Tiếng sáo thổi trong lầu Hoàng Hạc
Tháng năm mai rụng chốn Giang thành
So sánh thứ lớp các loại boa, các cụ nhà ta ngày xưa sắp xếp như sau:
Lan vị vương giả chi hương
Cúc đồng ẩn dật chi sĩ
Quốc sắc thiên hương nãi mẫu đơn chi phú quí
Băng cơ ngọc cốt nãi mai ngạc chi thành kỳ!
Như thế là giống hoa mai vẫn xếp vào hàng đầu, là vì, ngoài hương sắc thanh kỳ trang trọng, còn đượm tình thương nhớ quê hương!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét