khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

Sự Tử Tế Của Người Nam Hàn - Tác giả Nguyễn Hưng Quốc


Ấn tượng lớn nhất của tôi về người Nam Hàn, ngoài sự lễ phép, là sự tử tế.

Ở đây, xin nói ngay hai việc.
Thứ nhất, trước khi sang Hàn Quốc, tôi không biết gì về người Đại Hàn cả. Trong các lớp tôi dạy ở Victoria University, thỉnh thoảng có vài du học sinh người Đại Hàn, tất cả đều để lại trong tôi những ấn tượng tốt về sự hiền lành, chăm chỉ và lễ phép. Nhưng thời gian học trong lớp rất giới hạn, tôi không biết được là họ có tử tế hay không. Những ấn tượng mà tôi có được, đậm và mạnh nhất, là từ sách báo Việt Nam, liên quan đến việc những người đàn ông Đại Hàn sang Việt Nam tìm vợ. Thú thực, hình ảnh những gã đàn ông ngồi chễm chệ trên ghế bành trong một khách sạn nào đó ở Sài Gòn, mắt hau háu nhìn hàng chục cô gái Việt Nam, phần lớn từ quê lên, lượn qua lượn lại trước mặt, để săm soi lựa chọn… không làm tôi có thiện cảm lắm. Sau đó là những bản tin liên quan đến việc hành hạ, đánh đập, thậm chí, giết chết người vợ quê mùa và lạc lõng ấy càng khiến tôi phẫn nộ.
Thứ hai, tôi tin ở đâu cũng có sự tử tế. Ở những nơi tôi sống hoặc đi qua, tôi đều gặp vô số người tử tế. Sự khác biệt, ở đây, chỉ là mức độ: Có nơi nó phổ biến và có nơi dường như nó chỉ là một sự hoạ hoằn.
Ở Hàn Quốc, ít nhất là ở thành phố Seoul, nơi tôi chỉ ghé lại có một tuần, tôi gặp nhiều người tử tế đến độ tôi có cảm tưởng đó là một nét chung của một nền văn hoá và một xã hội.
Chỉ xin nêu một ví dụ nhỏ: việc hỏi đường.
Ở Seoul, tôi tận dụng thời gian ít ỏi để đi thăm viếng thật nhiều nơi. Thường đi bằng các phương tiện giao thông công cộng. Phải thừa nhận là phương tiện giao thông công cộng ở Seoul cực tốt. Tốt hơn Úc và Mỹ, đã đành. Có lẽ nó cũng tốt hơn cả London ở Anh và Paris ở Pháp nữa. Ở hai thành phố vừa kể, hệ thống xe điện ngầm thì tốt nhưng hệ thống xe buýt thì yếu. Ở Seoul có cả hai. Cả xe buýt lẫn xe điện ngầm đều chằng chịt, lan toả khắp nơi. Lại rất nhanh, đúng giờ và rẻ. Riêng hệ thống xe điện ngầm thì có một ưu điểm tôi chưa thấy ở Tây phương: bao giờ cũng có một bức tường làm bằng kính dày ngăn cách giữa nơi hành khách đứng chờ và đường ray xe lửa. Đến lúc xe lửa tới, cửa mở, cửa bức tường kính ấy mới mở ra. Bởi vậy, sẽ không có cảnh hành khách, do vô ý, có thể bị té xuống đường ray lúc xe lửa đang phóng tới (Cách đây mấy năm, ở Úc, xảy ra một trường hợp gây chấn động dư luận khi chiếc xe đẩy trẻ em bị trượt xuống đường ray trước cặp mắt hãi hùng và bất lực của người mẹ và vô số hành khách khác. Lúc ấy, chiếc xe lửa cũng vừa trờ tới, chà lên chiếc xe đẩy. May, do một nhiệm mầu nào đó, em bé sống sót!)
Dù tôi đã khá quen thuộc với việc sử dụng các phương tiện chuyên chở công cộng ở Pháp và Anh, đến Seoul, nhất là mấy ngày đầu, tôi cũng rất ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng về đường xá. Ngỡ ngàng về phương hướng. Ngỡ ngàng về quy trình và lộ trình giao thông. Nhưng ngỡ ngàng nhất là vấn đề ngôn ngữ. Ở các trạm xe buýt cũng như các ga xe điện ngầm đều có cả tiếng Hàn lẫn tiếng Anh. Nhưng phần tiếng Anh tương đối hiếm và có lúc không nhất quán. Ví dụ, chỉ đơn giản là con đường từ ga điện ngầm lên mặt đất, thoạt đầu có bảng chỉ tiếng Anh (exit/way out), nhưng đi một lát, ở ngay giữa các nhánh rẽ khá phức tạp với ba bốn lối khác nhau thì chẳng còn thấy bảng chỉ dẫn bằng tiếng Anh nào cả. Chỉ toàn tiếng Hàn. Mà tiếng Hàn thì tôi không biết. Cũng không thể đoán được.
Bởi vậy, ra đường, hầu như lúc nào tôi cũng hỏi. Một ngày hỏi năm ba lần. Và lần nào cũng được giúp đỡ một cách tận tình. Có lúc tận tình đến mức ngoài tưởng tượng.
Hỏi đường các thanh niên là tiện nhất. Một phần, đó là giới tương đối biết tiếng Anh nhiều nhất. Trong số mười người trẻ tôi hỏi đường thì có lẽ đến chín người có phản ứng giống nhau: dừng lại, móc điện thoại di động ra, vào Google, kiếm bản đồ; nếu bản đồ vẫn chưa đủ, tìm bảng chỉ dẫn phương hướng. Nhiều lúc Google không cung cấp đủ thông tin, họ bấm điện thoại gọi đến một người bạn nào đó để hỏi giúp. Cho đến lúc xong việc thì mới thôi.
Một buổi chiều tôi đi xe buýt từ trường Korea University ở khu Seongbuk-gu về khách sạn ở Jongno-gu. Nhưng tôi lại không biết trạm xuống. Buổi sáng, lúc đi, trời mưa tầm tã, tôi không thể nhận diện được khung cảnh chung quanh nơi tôi xuất phát và cũng là nơi tôi sẽ trở lại (bên kia đường). Chỉ đếm số trạm dừng. Nhưng đếm số trạm xe buýt là một điều đầy phiêu lưu. Bởi không phải trạm nào xe buýt cũng dừng lại. Bởi vậy, trên đường về, tôi rất lúng túng. Hỏi một thanh niên bên cạnh, khoảng 19 hay 20 tuổi gì đó. Cậu ấy cũng không biết. Rất sốt sắng, cậu ấy đứng lên, dí mắt vào khung cửa kính để tìm trạm xuống. Đến một nơi, cậu bảo tôi là chắc đúng. Tôi hỏi: “Chắc không?” Cậu gật đầu, không lấy gì làm cương quyết lắm. Nhưng cậu cũng kéo tôi xuống xe. Rồi dáo dác nhìn quanh. Không tìm ra địa điểm khách sạn (không phải nằm trên tuyến đường có xe buýt). Cậu hỏi tôi số điện thoại khách sạn, rồi lấy di động gọi thẳng cho nhân viên ở đó hỏi đường. Có điều, cậu lại không thể diễn tả nơi chúng tôi đang đứng là chỗ nào. Nhân viên khách sạn chịu thua. Cậu lại lăng xăng chạy hỏi người này người kia trên đường. Cuối cùng, ít nhất là mười lăm, hai mươi phút sau, cậu cũng dẫn tôi về tận khách sạn. Tôi hỏi nhà cậu có gần đây không. Cậu đáp: Đi thêm khoảng chín, mười trạm nữa. Lúc đó, tôi mới biết cậu xuống xe là vì sợ tôi lạc đường. Sau đó, cậu quay lại trạm, lên xe buýt đi tiếp về nhà. Tôi cảm động hết sức.
Chuyện như vậy, tôi gặp khá nhiều lần. Ít nhất cũng bốn năm lần, người được hỏi không hề biết tiếng Anh. Tôi dùng bản đồ, chỉ chỏ nơi mình muốn tìm. Họ hiểu. Nhưng không giải thích được. Bèn ra dấu cho tôi đi theo. Loành quành từ đường này qua đường khác. Đến chỗ tôi muốn đến, họ lấy tay chỉ. Nếu là chờ xe buýt, họ đứng đợi. Đến lúc xe buýt đến, họ ra hiệu cho tôi lên, sau đó mới quay lưng đi. Trước khi đi, còn cúi mình chào.
Ngày cuối cùng ở Seoul, khi đi xe điện ngầm, rồi sau đó, xe lửa đến phi trường Incheon, tôi gặp một người đàn ông trung niên ăn mặc rất lịch sự. Ông đến gần, xổ một tràng tiếng Hàn, tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi xin lỗi, hỏi ông có nói tiếng Anh không. Ông có vẻ không hiểu. Nhưng ông biết là tôi đang trên đường ra phi trường. Từ đó, ông cứ chỉ dẫn tôi từng li từng tí, dù thứ nhất, tôi không hề yêu cầu, và thứ hai, thực tình, tôi cũng không cần lắm. Lúc ấy, đã ở Seoul đúng một tuần, tôi đã quen thuộc với việc sử dụng các phương tiện giao thông công cộng. Nhưng ông vẫn giúp. Đến nơi chuyển từ xe điện ngầm sang xe lửa ra phi trường, ông cứ đi chầm chậm phía trước, lâu lâu quay lại dòm, như sợ tôi đi lạc. Cứ thế, liên tục. Đến lúc ông xuống, khoảng hai ga trước khi đến phi trường, ông còn ra dấu bằng tay để tôi hiểu là còn hai ga nữa. Xuống xe, ông đứng lại, chờ xe lửa chạy mới quay lưng đi. Trước khi đi, lại cúi mình chào.
Xin nhắc lại: tôi không hề hỏi đường ông.
Những con người như thế và những chuyện như thế nếu không xoá tan thì cũng làm nhạt đi rất nhiều trong tôi cái ấn tượng về những gã đàn ông Đại Hàn đến Việt Nam kiếm vợ. Rồi hành hạ, đánh đập, thậm chí, giết chết vợ. Như báo chí thỉnh thoảng tường thuật, đây đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét