khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

Nhớ nhạc sĩ Vô Thuờng, một thời vô thường - Tác giả Lê Giang Trần

 

Vô Thường ơi,
Vậy là Tết Nhứt lại đến nữa rồi... lẹ hơn cái chong chóng...
Nhớ lại, năm nào cuối năm ông cũng cúng chiều 30 Tết, mâm cúng chiều 30 thế nào cũng có món canh khổ qua dồn thịt, mà, ông luôn nói với bạn bè đây là món mẹ ông rất thích, không thể thiếu; còn bánh chưng xanh là tục lệ ông bà mình, cũng không thiếu được... Rồi ông với cái tánh khôi hài kỳ cục, thế nào cũng huyên thuyên khều mấy cái chuyện đời ngộ nghĩnh ở Bolsa mà “Kim Thánh Thán” cho bạn bè cười lăn lộn... Cái tài khôi hài châm biếm đó, đã một lần thể hiện qua bài viết “Nước mắt chảy xuôi, dòng đời lội ngược” ký là Thượng Cầu Công Tử, vì “Thượng Cầu” nói lái là “Cậu Thường”, bài viết đó đã đăng trên báo Người Việt hồi trước, Nguyễn Khắc Nhân mỗi lần gặp ông vẫn khen, thường hay nhắc lại.
Cuối năm nào cũng vậy, chiều 30 Tết nhà Vô Thường là nơi tập họp của những con chim lạc đàn lẻ bạn mồ côi. Từng năm rồi từng năm qua, từ cái thời Kim Furniture tới cái thời nhạc sĩ Vô Thường, một cái vụt dòm lại, đã hơn 20 cái cuối năm trên xứ người..
Tôi nhớ lại, lúc đó ông đã đờn được khoảng năm bảy cuốn cassette, cuốn đầu tiên là liên khúc nhạc Trịnh Công Sơn, tiếng đàn nghe ma quái và buồn khó tả. Hồi đó, ông có cái máy cassette xách tay mà trên đó có gắn một keyboard có thể set một nhịp điệu nào đó, Slow, Rumba, Chacha, Tango v.v.. vậy là buồn buồn khi vắng khách ở tiệm bán bàn ghế trên đường số 5, ông lại vặn lên rồi tửng tửng đàn theo, đổi tông thì vói tay nhận nút rồi đàn tiếp. Nhiều khi xe chạy ồn quá, ông lại rê cái máy vô bath room rồi vô trỏng ngồi đờn thu cho nó êm... Vậy mà lai rai cũng đờn thu được bộn. Cứ mỗi chiều về, đàn chim tụ lại, những bạn bè hảo tửu, những tay có khiếu khôi hài nói dóc, bạn buôn bán, mấy thằng bạn văn thơ, vài người bạn nhạc sĩ trẻ như Phạm Hoàng Dũng, Trần Đại, Jimmy Long... ôi thôi đủ mặt, tề tựu là cuộc nhậu bắt đầu, rồi hát xướng, cười đùa, đọc thơ, hát nhạc mới sáng tác, đọc bài mới viết, rồi ông đờn hay hát những bản nhạc ông vừa sáng tác xong trong tiệm bàn ghế...
Bạn bè nghe những cuốn băng ông đờn, thấy cũng “ma quái” là lạ, ngọt ngào, có vẻ “ăn tiền” bèn xúi ông ra băng nhạc. Cái ngày đầu tiên ông đem băng ông đờn đi mời bán thì mới tức cười. Đến tiệm ông Tỷ đài truyền hình, ổng hỏi ai đờn, nói tui đờn, trời!! ông mà đờn??? ai mua?? sao bán được?? thì cứ lấy thử, có trả tiền liền đâu, coi như tui gởi bán, chừng nào bán hết lấy nữa thì trả tiền đợt trước. Ừa... thôi lấy 5 cuốn thử coi... Ông buồn thiu, trong lòng đã nản chí anh hùng, lầm bầm chửi mấy thằng bạn mắc toi, xúi tao đờn bán, in một đống mà bán hông được thì thấy mẹ tao... Nhưng ông cũng gắng gượng ghé vô Tú Quỳnh, Thạnh với Yến là bạn thân tình nên sẵn sàng. Bước thêm mấy bước qua Continental, làm bộ hỏi thăm lả lơi với mấy em bán hàng cho có trớn dễ ăn nói, rồi gạ gạ anh gửi ít băng nhạc hòa tấu anh đờn guitar, tụi em bán thử dùm, 20 cuốn trước ha, hết gọi anh đem tiếp, lấy tiền sau, ráng quảng cáo dùm anh nghe em cưng.
Lái xe trên đường về, ông vừa hồi hộp vừa giận mấy thằng quỷ Lữ Mộc Sinh, Lê Giang Trần, cả ông bạn cùng tuổi Phạm Công Cúc Hoa (Phạm Công Thiện hay tự xưng) xúi ông, khen ông... Ông mà không bán được ông chửi cho tắt bếp, gạt ông, dụ ông... ôi thôi thì là mà cơn tam bành lục tặc trong lòng khác nào như hỏa diệm bị quạt Ba Tiêu quạt bốc lửa...
Lầm bầm mở cửa tiệm, bụng bảo thôi thà để ông bán bàn ghế kiếm lời sướng hơn bán tiếng đờn, chắc ăn hơn. Nói vậy chớ bước vô thì đi thắp nhang ông Địa trước nhứt, vái rằng “Ông Địa ơi, lỡ tốn tiền in hết 500 băng rồi, Thổ Địa phù hộ cho bán được sẽ cúng đại tiệc, hổng lèo tèo vài trái bôm nho cam quít nữa” Rồi sực nhớ đến thằng bạn Đông Duy của ông, ông cũng đổ thừa cho một trận, tại mày ỷ có nhà in rồi in bìa cho tao Free, bìa in còn bỏ dấu sai lỗi chính tả nữa, tình cũ mà nó chơi trên chữ cu dấu hỏi tỉnh bơ. Cái tựa “Ru Khúc Mộng Thường” cũng nó bày ra, mình nghe theo, in xong thì nó níu lại hỏi nhỏ “mày biết ru khúc mộng thường là gì không?” cái thằng Bắc kỳ đểu, thấy mình ngớ ra thì nó ré lên cười rồi kêu nói lái lại xem sao? thì ra!!! ru khúc là rút ku... còn mộng thường là.... thiệt hết nói nổi!!! Vậy mà Đông Duy còn bỏ nhỏ “cuốn sau sẽ là ‘Mộng Hà’...” Trời Đất!!! thiệt là bạn bè quỷ quái, mình xuất quân mà chúng nó thì coi là trò đùa. Nhưng dù sao thì cũng đỡ cắc cớ hơn Lâm Tường Dũ đặt cái tựa sách là “Cây Thù Lá Oán”
Điện thoại reo “Anh Kim hả? Gấp! Gấp! Gấp!! Em ở Continental đây, anh đem liền 50 cuốn Ru Khúc Mộng Thường ra liền, khách họ đứng đợi nè, 20 cuốn anh đưa hồi nãy hết rồi, mang ra lẹ liền nghe anh, khách họ đang chờ đó!!!” Ối trời!! thiệt hôn?
Đó là niềm vui đầu tiên mà ông đã kể cho cho bạn bè nghe chiều hôm đó. Bỗng dưng Thượng Cầu Công Tử mặt mày sáng rỡ, cười nói líu lo, rượu Tây rót thoải mái. Nỗi lo âu ban sáng đã được thay bằng những ly rượu chúc mừng của bằng hữu.
Từ sau ngày hôm đó, tất cả các tiệm nào có bán băng nhạc đều thi đua mở nhạc Vô Thường đờn guitar, hành hạ ỏm tỏi con phố Bolsa một thời gian không ngắn. rồi thì không biết bao nhiêu bài viết về tiếng đàn vô thường. À, còn cái tên nữa, Võ Thường mà Đông Duy nhà ta bỏ dấu mờ ảo sao đó mà khi Phạm Công Thiện cầm lên đọc ra Vô Thường, rồi kêu để luôn thành Vô Thường cho vô thường một chút. Ông tò mò thắc mắc hạch hỏi người Phạm Công Thiện về ý nghĩa hai chữ vô thường. Cao Xuân Huy khi biết tên ông là Võ Văn Thường, giở giọng Bắc kỳ phê bình “văn cũng xoàng mà võ cũng xoàng”, lý do chàng họ Cao ức vì bỗng một hôm phát giác ra thằng bạn võ văn xoàng của mình lại là “thần tượng” của bà vợ “yêu vấu” của mình cộng thêm cái list dài sọc trong family. Vô Thường bỗng trở thành một hiện tượng, trở thành người bày trò ra mắt băng nhạc. Những buổi ra mắt bán băng nhạc ấy được tổ chức nhiều nơi, nhiều bang và tất cả số tiền thu được, ông đã gửi đến các em bé mồ côi trong trại tị nạn. Không biết bây giờ, có em bé mồ côi tị nạn nào biết điều này không, để khi có dịp ghé đến thủ đô tị nạn Little Saigon, tìm đến nấm mộ của người nhạc sĩ có lòng nhân ái này, thắp cho ông một nén hương lòng hay đặt trên ngôi mộ ấy một đóa hoa dại còn tươi thắm để tỏ chút tình mến mộ người nhạc sĩ vắn số.
Rồi tờ báo Register xin đến phỏng vấn ông, một trang báo với hình ảnh trang trọng dành cho ông. Rồi theo thời gian khi ông nổi danh, tên ông đã được đưa vào những quyển ghi tên những người nổi danh, ông có tên trong danh mục những nghệ sĩ tài danh của Pháp. Và cái lạ nhất, ông là người nghệ sĩ nhận được thư khen tặng, cảm ơn của những thính giả ngoại quốc nhiều nhất, hằng ngàn bức thư gửi đến ông qua đường bưu điện từ khắp thế giới. Hầu hết những thính giả này sau khi nghe tiếng đàn của ông đều hồi âm bằng một lá thư khen ngợi thật cảm động, là niềm vui mà thỉnh thoảng ông mang ra khoe cùng bạn bè thân. Vài tháng sau khi ông mất, một tối tôi nghe tiếng người ngoại quốc bên nhà Vô Thường, thì ra là một cặp vợ chồng Bác Sĩ người Phi, mua CD của ông đều đặn, rất ái mộ ông, hay tin ông mất, đã ghé đến viếng linh vị của ông và mua thêm rất nhiều CD để dành tặng cho bạn bè họ. Ông thường cho biết, người ngoại quốc khi mua, đa số đều mua một loạt toàn bộ những CD nhạc ngoại quốc ông đàn.
Có người sẽ hỏi “Vô Thường thu nhạc ra sao?” Tôi nhớ có lần ông kể, một nhạc sĩ tài ba nào đó, gặp ông và phê bình là ông đàn không đúng kỹ thuật. Ông trả lời rằng có kỹ thuật đâu mà đúng với sai, đàn đại thôi!! Tôi thì biết là ông chán cái kiểu tra tấn ấy nên nói gạt qua bên cho xong câu chuyện. Ngón đàn thuộc về thiên tư, cũng mấy ngón tay như vậy bấm vào dây đàn, nhưng khi bấm bấm nhẹ, bấm nghiêng, bấm láy, bấm nhá, bấm nhún, bấm đẩy, bấm thẳng, bấm giữa đầu ngón, bấm mé ngón... âm thanh phát ra đều khác nhau trên ngăn phím bấm ấy, chưa kể nội tâm mình đặt vào, sự hào hứng vui tươi hay muộn phiền buồn bã đang truyền vào cái búng của dây cùng với cái bấm trên phím tạo nên cái rung phát âm thanh của tiếng đàn lúc ấy có một đặc thù, tải truyền sự réo rắt truyền cảm mà khó có thể ở những lần đàn khác, diễn tả y hệt như vậy được. Bởi vậy mỗi cầm thủ có một ngón đàn riêng, không ai giống ai, nhưng phải là cái riêng cái khác chứ không đồng dạng “đúng kỹ thuật”, kỹ thuật giống nhau chỉ là một thứ photocopy, thợ đờn chứ không mang tính cách độc đáo riêng biệt của một nghệ sĩ thả hồn nhập vào dây tơ. The Venture ngón riêng, Shadow ngón riêng, Santana ngón riêng, mười ngón tay vàng Trung Nghĩa ngón riêng, Jimmy Long ngón riêng, Triều Thanh ngón riêng...
Vô Thường với ngón đàn tay trái và không đổi dây, bắt buộc phải sử dụng cách vuốt dây đổi nốt, trong cái khoảng mà âm thanh của một nốt nhạc bị chuồi tuột uốn éo ấy, tạo ra nét đặc thù của ngón đàn tay trái. Ông đã từng là một tay đàn Mandoline nổi tiếng, từng đàn trên đài phát thanh; ông cũng từng là một guitarist chơi trong ban nhạc cho Câu Lạc Bộ Mỹ ở Nha Trang. Ông kể thời còn bé, ông có một người anh bà con đàn guitar rất giỏi, làm cho bao cô gái trong xóm mê mệt tiếng đàn ấy. Yếu tố con gái mê tiếng đàn đã khiến ông nhìn ông anh họ như một thần tượng và phát lòng muốn trở thành một cầm thủ. Và đó là cây đàn đầu tiên trong đời của ông mỗi khi thỉnh thoảng mượn được ra ngồi ngoài đường rầy xe lửa để tập đờn lưng tưng. Xui là chỉ có hai thanh sắt đường rầy lắng nghe ông đàn, gió mây trời đất cây cỏ lắng nghe chứ không có cô gái thơ mộng nào chịu khó lắng nghe một anh nhóc tì ôm đàn chập chửng tập dợt mì fa sol la cả. Sau đó ông lại có khiếu về Măng cầm, có thể thời đó phong trào đàn Mandoline còn thịnh nên ông chuyên tập hơn. Cũng nhờ vậy, ngón đàn rung dây của ông cũng là một nét độc đáo để phối hợp cùng những tiếng nhấn láy và vuốt dây đổi nốt của Vô Thường. Nếu ai có nghe bài Giọt Mưa Thu do Vô Thường đàn, sẽ thấy khó có ai đàn nghe buồn và diễn tả hay như vậy.
Tôi đã biết mỗi khi ông muốn đàn thì làm sao. Thường thì cũng phải những bản ông thích trước đã, có khi bỏ không biết bao nhiêu thì giờ để đàn dợt bản nhạc ấy. Chừng nào thấy có một hôm chàng khóa cửa không tiếp khách, và suốt ngày hôm đó Vô Thường ngồi miệt mài đàn. Đó là những lúc chàng nổi hứng, có hứng, nhập tâm với những bản chàng ta khoái, miệt mài đàn thu vào CD master. Có khi đàn một lèo mấy ngày, tính ra hai ba đĩa. Có khi một hai tháng chưa thấy ông cầm cây đàn lên, hỏi thì bảo chưa hứng, lúc này đi nhậu nhiều, bỏ bê đàn địch.
À, còn cây đàn nữa chứ, cây đàn ông đàn đã được đi theo ông theo lời trăn trối, ông cắc cớ thiệt, nhứt định không để lại cây đàn, nhứt định không muốn có truyền thừa, không muốn có tiếng đàn nào giống tiếng đàn ma quái của ông. Ông mua năm bảy cây, hiệu này hiệu nọ, dây sắt dây nylon, để rồi cuối cùng thì cũng chỉ đàn được có cây đàn đầu tiên, chỉ cây này mới thể hết những gì ông muốn hiện ra trong tiếng đàn, rồi khi chết lại vật bất lìa thân; kiểu này, xuống dưới kia hay lên trên ấy, tiếng đàn của Vô Thường còn “onion summer” hành hạ thiên tiên hay địa quỷ một thời nữa bà con cô bác ơi... Mai kia ở Bolsa bỗng xuất hiện nhiều quỷ thần thánh ma đến tị nạn vì tiếng đàn Vô Thường thì đừng ai ngạc nhiên, tị nạn nào cũng tị nạn thôi.
Sau khi ông thấy mình đã đờn hầu hết những bản nhạc Việt quen thuộc, thì ông bắt đầu lo. Từ đó, ông sưu tầm lại những bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng đối với thính giả Việt xưa nay, và bằng tự tin vào ngón đàn của mình, ông lại làm phiền hà lỗ tai người ngoại quốc. Như vậy mà không biết bao nhiêu cánh thư ái mộ như bươm bướm bay về từng đàn, khen ngợi tiếng đàn lạ lẫm của ông mới lạ chứ, càng làm ông tự tin và nghiêng qua đàn nhiều hơn các sáng tác ngoại. Nhờ vậy mà ông không lúng túng khi thị trường giá cả băng đĩa nhạc của Việt Nam xuống thấp đến mức thê thảm do lạm phát. Đĩa Vô Thường vẫn đều đặn và lặng lẽ phát hành. Vậy đó, số dĩa Vô Thường đàn đã bán ra thị trường lên đến trên 150 đĩa. Ông còn giựt luôn cái nghề lay out của tôi, tự trình bày lấy tất cả mặt bìa mặt dĩa. Đàn thì đàn dĩa Karaoke, thu thì mua máy thu tại nhà tửng tửng. Kết luận theo danh từ trong nước là ông “ăn trọn gói”.
Khi ông về thăm quê hương, phát hiện trong nước có nhiều tay làm băng đĩa giả từ CD của ông, ông về Cali cười ha hả kể với bạn bè “tui phải đi mua đĩa của tui đờn, nó biết tui mà nhứt định hổng bớt giá ông ơi, còn ngang nhiên đề chữ to tổ bố ‘Đại Lý Độc Quyền’ nữa chứ!! tui bèn hết ý kiến luôn!!” Ngày ông mất, trên tuyến du lịch đến Phan Rang, Thúy, cô hướng dẫn viên, như là một người em của ông, đã từng gặp khi ông về Việt, cho phát những đĩa nhạc ông đàn và buồn bã loan tin hôm nay 27 tháng 4 năm 2003, chúng ta mất mát người nhạc Sĩ Vô Thường quê quán ở Phan Rang, một địa danh mà lát nữa đây chúng ta sẽ đặt chân đến...
Từ khi những búng máu tươi tràn ra miệng, ông dứt khoát không đàn nữa. Có hôm, sáng ông qua trước nhà tôi ngồi phơi nắng cho dịu những cơn ho vật vã. Tôi muốn gợi lại cho ông đờn, xách cây đàn mà ông tặng cho sinh nhật tôi 1989, ngồi trước mặt thợ múa rìu. Len lén nhìn qua gương mặt ông để đón dò tâm trạng, thấy ông đang thả hồn theo tiếng nhạc, nhưng có một cái gì đó như đau đớn, như chia lìa với tiếng đàn, như mất hút người yêu dấu, như chới với muốn chụp cái gì mà không chụp được. Một nỗi buồn vô cùng toát ra. Tôi ngưng đàn. Ông bảo đàn nữa đi, bữa nay sao đàn hay vậy? Ông có biết đâu, tiếng đàn mà ông nghe, là tiếng oằn oại của một kẻ sắp mất bạn, tiếng của đè nén đau đớn chia lìa, của buồn uất định mệnh tàn khốc. Của một điều muốn khóc mà không khóc được.
Tháng Tư đối với người Việt tị nạn là tháng đau thương buồn thảm, còn gọi là Tháng Tư Đen và nhiều tên gọi khác. Cứ trong cái tháng ấy, tôi cảm thấy mình giống như một con chó xà mâu què nổi điên, tiếc là không tru hú được như con sói rừng. Năm tháng trôi qua, lòng nguôi phai im lặng nhưng với tôi đó vẫn là cái tháng gương soi để nhìn ngắm lại mình một cách nghiêm túc. Nói chung là cái tháng buồn thấy mẹ vậy mà ông lại chọn cái tháng năm xưa ra đi làm tháng cuối đời trở về, trở về đất trở về nước hay trở về đâu? Dù sao thì cũng không mang ông ra biển, chỉ mang ông về đất vào đúng cái ngày 30 tháng 4 nghiệt ngã thê lương.
Tết năm nay, chắc có lẽ bài thơ phổ nhạc “Mâm Cúng Chiều Ba Mươi” của ông sẽ không còn được đăng lại hằng năm như đã liên tục dai dẵng đăng trên báo của Lâm Tường Dũ hay Mai của Hoài Điệp Tử. Cái chuyện cúng chiều 30 Tết khi “nhìn khói lên trời, nước mắt con tuôn” ở khoảng thời gian mà quê hương Việt Nam chỉ như là một xứ thần tiên đầy kỷ niệm, như là thổ ngơi Atlantic đã chìm sâu mất tích dưới lòng đại dương... đối với những người Việt sống xa quê nhớ nước, trước khi Việt Nam mở cửa đón những “khúc ruột nối dài” vào năm 1989 mà trước kia bị gán cho một danh hiệu là “những kẻ phản quốc”; khoảng thời gian ấy nghĩ lại, vậy mà thơ mộng, dù nước mắt rơi mỗi khi Xuân về, buồn thúi ruột, nhưng quê hương rõ ràng là hình ảnh như một người yêu cách biệt phương trời khiến đem lòng tương tư nhớ tưởng khôn nguôi, mơ ước sum vầy ở một ngày tươi sáng... Tất cả, đã tạo cảm xúc cho ông, nhất là cụ thể bằng tấm lòng trang trọng đối với mâm cúng ông bà chiều cuối năm, đã thành hình một bài thơ rồi cũng ông, ông phổ thành nhạc để sau vài ly rượu ấm lòng trong bữa tiệc cuối năm đón giao thừa chung quanh đầy bạn hữu, những người bạn thiếu tình gia đình, không thân nhân, sống lang bạt kỳ hồ, cùng chia sẻ chung một tâm trạng xa nhớ quê hương, ông dạo lên tiếng đàn và hát lên nỗi niềm của mình, của những tâm trạng như vậy... Không khí ồn ào của bàn nhậu chợt im lìm, một cái gì nằng nặng trong lòng ngực, một cái gì mơ hồ buồn bã chợt phủ trùm không gian... nhìn lên cái chỗ bày biện cúng kiến thắp nhang trưng hoa quả, ngọn đèn cầy yếu ớt lung linh và khói nhang đang phảng phất nhẹ nhàng tỏa lên không trung, lòng tôi chợ mông lung mong ước có sự thiêng liêng hiện diện thật sự của tổ tiên ông bà đất nước ở trong nhang khói ấy để chứng giám thương cảm cho những tâm hồn khắc khoải thương nhớ quê hương, đang thả hồn hồi niệm về quê cha đất tổ, nơi mình sinh thành rồi lớn lên trong chiến tranh, rồi sống sót sau cuộc chiến, rồi may mắn vượt thoát qua trùng dương bao la để giờ đây sống “một thời” tha hương trên xứ người...
Ông còn nhớ, khoảng thời gian này còn Phở Ngon, ông thường chọc quê là quán tên “phở ngon” nhưng chỉ có “bia ngon” thôi. Nhà văn Cao Xuân Huy thì “câu đối” hơn: “quán hông ngon, dám đặt tên Ngon, ngon thiệt!” rồi lôi tờ báo của Mũ Đỏ Võ Thị Vui ra làm đề đối lại “báo đọc hông vui mà đặt tên Vui, vui thiệt!”. Quán rộng rãi, trang trí vài ba túp lều tranh, có cầu bắc ngang hòn non bộ nước chảy róc rách, treo những bức tranh nhiếp ảnh về quê hương, tạo nên một khung cảnh rất Việt Nam, khách bước vào cảm thấy ấm cúng đỡ nhớ nhà. Quán bán khuya đến 3 giờ sáng nên cuối tuần thường là điểm hẹn về khuya của những tửu hữu, những cặp tình nhân tìm chút thức ăn ấm lòng sau khi rời khỏi vũ trường. Đến đây có nghĩa là chín phần mười sẽ gặp bạn bè, có thêm ít thời gian vui đùa, mời nhau ly rượu trước khi trở về lại căn nhà thuê hay phòng trọ vắng lạnh của kiếp sống. Quán có một sân khấu nhỏ, đặt một Piano và giàn trống, anh Lưu thổi kèn kiêm đại hồ cầm, anh Tâm múa dương cầm, Accordeon và Vũ Công Lý tình nguyện nhịp trống, dù chỉ là một sân khấu khiêm tốn, nhưng là nơi chia sẻ tình thân qua những bản nhạc hát cho nhau nghe.
Nhưng nhớ đến thời của Phở Ngon không chỉ vỏn vẹn có thế, anh Cao Thy, ông chủ nhà hàng (cũng đã nằm xuống) mỗi năm đều tổ chức đón giao thừa. Trước cửa nhà hàng có dựng Nêu, một cành tre cao nghệu treo liểng đỏ viết câu đối và xâu pháo giả, bên trong trước sân khấu dựng bàn thờ tổ quốc với bộ lư hương to, cặp chân đèn cũng to tướng sáng ngời cùng hoa tươi ngũ quả tươm tất, lá quốc kỳ Việt Nam được làm nền trang trọng sau bàn thờ. Phần ăn đón giao thừa được tính tượng trưng 5 đô gồm miếng bánh chưng, nhúm dưa món và ly nước ngọt hay chai bia. Giờ giao thừa được điểm bằng một hồi trống, vài bô lão đại diện lên nhang đèn và khấn nguyện, rồi bài quốc ca được trổi lên, mọi người đứng nghiêm trang chào quốc kỳ và cùng hát. Một phút mặc niệm cho những người hy sinh vì tổ quốc và những thuyền nhân đi tìm tự do bỏ mình trên biển cả. Tôi lúc bấy giờ bỗng lồng ngực nghẹn cứng và nước mắt tuôn trào không kềm hãm được, liếc qua bạn bè chung quanh thì cũng như mình thôi, người nào đôi mắt cũng ướt nhem, cái mặt buồn thê thảm... ôi... quê hương... sao mà xa vời mơ hồ mất hút đến thế...
Ông thì bao giờ cũng ho xù xụ, khò khạc luôn mồm vì cái mũi hành hạ quanh năm, ngồi nhậu thì kế bên là một đụn giấy đầy vun do chàng hỉ mũi; bởi vậy, tôi khi làm bài lục bát diễn tả về ông, mới có câu “thổ ra máu nhạc, khạc vào âm thanh” mà ông lại rất khoái. Nhưng không ngờ, rồi thì ông thổ ra máu thật sự. Đó là khoảng 4 tháng trước khi ông chịu vào nhà thương. Không biết ông có linh cảm gì trước đó hay không, hồ sơ bảo lãnh vợ con còn kẹt lại Việt Nam thì ông đã làm từ khi sang đây, trước khi có quốc tịch, mỗi tháng thì đều đặn gửi về cho “3 mẹ con nó” 300 đô. Mẹ con Diễm Khanh sau bao lần vượt biên không thành, người vợ ông đã quyết định thôi, không đi, ở lại, và sau này cũng không muốn đi dù được thư báo của Sở Di Trú cho biết đang có hồ sơ bảo lãnh. Bỗng dưng, bên kia, bé Út Khanh lúc đó đã 22 tuổi, quyết liệt muốn sang Mỹ để tìm “Già” (là danh gọi thương yêu dành cho ba) nên khiếu nại xin lập lại hồ sơ đoàn tụ. Bé Khanh lúc ông ra đi chỉ vừa lên 3 tuổi, không nhớ bất cứ gì về Ba mình, lớn lên chỉ biết Già qua hình ảnh thư từ, đón nhận cái nghĩa tình của người cha qua số tiền gửi về đều đặn mỗi tháng hay lâu lâu những món quà được đóng thùng gửi về Việt. Khi bé Khanh sang đây rồi, kể lại cái ý muốn quyết liệt ấy và sẵn sàng nếu sang Mỹ mà Già không thương, không nhận thì Khanh trở về lại Việt Nam sống với mẹ. Nhưng nhứt định phải qua Mỹ gặp tận mặt người cha mình, người cha không biết mặt mũi thật sự ra sao và đã ra đi khi mình vừa mới lên ba. Diễm chị không đi, ở lại kề cận mẹ, xem là hy sinh cho em Khanh.
Bỗng dưng bên này ông cũng mở lại hồ sơ, mong muốn sum họp cùng hai con gái, “lo cho tụi nó yên bề gia thất, giấy tờ ổn định rồi muốn ở hay về gì thì tự do, mình làm xong bổn phận đã...” Cuối cùng hai cô con gái đã sum hiệp người cha già. Trong ngày cưới của Khanh, ông đã ngậm sâm, cố đè nén cơn ho tức ngực và những bụm máu luôn tràn theo những cơn ho ấy, hôm đó trên sân khấu để nói lên lời cảm tạ quan khách và thân bằng quyến thuộc, ông đã xuất thần, thật bình tĩnh, pha chút dí dỏm, và những gì nói lên, gần như gói ghém kín đáo lời từ biệt thân ái với mọi người. Máu đã dịu dàng nén lại dưới lồng ngực. Giọng khàn không ra tiếng bỗng trở lại bình thường ấm áp. Chữ nghĩa bỗng về thốt ra duyên dáng và đầm thắm... Đó là lần xuất hiện cuối cùng của nhạc sĩ Vô Thường trên sân khấu.
Tôi bỗng nhớ lại ông kể về chuyện “lấy vợ” cho bạn bè nghe, ông kể một bữa tui ra Nha Trang chơi, ghé nhà bà dì thì thấy một cô gái tóc dài, nước da trắng bóc, mà tui hể thấy con gái có nước da trắng thì “hẩu” liền nên trong bụng kết ngay, hỏi dò bà dì thì biết cô gái này đang ở đây nên bèn tìm cách ở lại chơi ít bữa. Rồi hổng biết tui ghẹo làm sao mà cổ chịu tui, rồi tui tìm cách ngủ cho được với cô, khám phá ra cô còn trinh tiết, mình là kẻ đầu tiên, bèn hối hận và cảm động nên nói với cổ là em về nhà em đi, anh sẽ tới nhà hỏi cưới em. Rồi tui trở vô Sàigòn vì lúc đó làm nghề thu băng nhạc bán, có căn gác ở đường Catina, thỉnh thoảng mới về Phan Rang mang tiền về cho bà già. Tui quên bẵng cô gái này cho tới vài tháng sau, một hôm sực nhớ, chết mẹ, mình lỡ hứa với người ta, với lại người ta trong trắng trao thân cho mình, vậy là mình trách nhiệm, phải về Nha Trang tìm rồi tính. Vậy là hôm sau tui vọt ra Nha Trang, khổ nổi, có biết nhà cổ ở đâu, hỏi bà Dì thì không dám, tui chạy chiếc lambretta vòng vòng vô mấy cái xóm hỏi thăm may ra gặp. Mãi đến chiều tối, tui chán nản vì đã lục lạo cùng khắp mà chả ai biết nhà cô Thuận, tui an ủi trong bụng đã cố gắng hết sức rồi mà không gặp thì chắc ông Trời hổng trách đâu, thôi thì đảo thêm một vòng rồi mai về lại Sàigòn. Nhưng có lẽ duyên nợ ông Trời đã tính rồi, chạy không khỏi, tui quay xe sắp sửa ra khỏi xóm thì thấy có một cô tóc dài đang quét lá ngoài sân trông dáng người giông giống, trời sụp tối nhìn không rõ nên tui rề đại vô coi thử phải Thuận không. Vậy mà phải ông ơi!!! Tui thở dài, trong bụng bảo ý trời.
Tui và Thuận vô nhà, Thuận đang ở với bà Dì. Tui thưa với bà dì là tui xin cưới Thuận vì hai đứa thương nhau. Bà dì biểu ra chợ mua mấy chai xá xị đem về, rồi thắp nhang lên bàn thờ mẹ của Thuận, coi như là xong thủ tục cưới vợ. Sau khi hai đứa lạy bàn thờ xong, bà dì nói bây giờ thì con có quyền dắt vợ con về nhà. Sáng hôm sau, tui đưa Thuận về trình diện mẹ tui ở Phan Rang. Bước vô cửa gặp mẹ, tui nói “Mẹ, đây là vợ con” Bả chưng hửng, nhìn Thuận từ trên xuống dưới, im lặng một hồi rồi nói “con đã quyết định rồi thì mẹ chấp nhận thôi”, rồi quay qua gọi Thuận bằng con. Vậy là từ đó tui có vợ. Để vợ ở với bà già ngoài Phan Rang, tui lại vọt vô Sài Gòn lo làm ăn kiếm tiền, được một mớ, lại chạy về Phan Rang mở cái quán cà phê cho vợ, lúc đó vợ tui sanh xong bé gái đầu lòng được 1 tuổi, tui đặt tên Diễm và lấy tên Diễm cho quán cà phê.
Tui sợ có thêm đứa nữa, nên từ khi vợ sanh xong, tui hổng dám hó hé, về thăm nhà thì kiếm chuyện đi nhậu với bè bạn rồi khuya về vác ghế bố ra ngủ ngoài sân, viện cớ “cho nó mát”. Rồi trở vô Sài Gòn ở miết tới hai năm sau, cũng y tuồng cũ, nhưng trúng đêm đó trời mưa to quá, nhậu khá say sợ ngủ ngoài trời trúng gió chết bất tử nên mò vô nhà. Ông biết hông, mò vô có một đêm đó mà lòi thêm bé Khanh.
Bạn bè nghe ông dí dỏm kể “lịch sử lấy vợ” mà bò lăn ra cười. Lữ Mộc Sinh phán “cho bỏ cái tội trăng hoa! Trắng hẩu hén! cho bỏ cái tội trắng hẩu!”
Diễm lên 6, Khanh lên 3 thì 1975, ông lên tàu vượt thoát. Rồi sau hơn 20 năm được sum họp hai con trên xứ người không bao lâu thì ông bỏ ra đi nữa. Chuyến này thì vĩnh viễn ra đi, đi về phương trời viễn mộng thần tiên nào đó, bỏ lại con phố Bolsa, bỏ lại bạn bè, bỏ lại hai đứa con mà ông coi như làm xong bổn phận.
Năm nay là Tết con khỉ. Ông thường hay khôi hài tự ví mình là khỉ vì cái “nhan sắc” mà ông tự hào rằng ở phố Bolsa này chỉ có hai người đẹp trai nhứt là Đinh Hiển và Vô Thường đẹp ngang nhau, còn lại là đồ bỏ... hay vì ám ảnh bởi bài thơ ngày xưa của LMS “Mai này tớ thấy ở Bolsa, cảnh trí buồn thiu đám khỉ già...” mà ông nhứt định không muốn trở thành con khỉ già “chống gậy ngu ngơ hồn lú lẩn, nói cười như thể sắp ra ma”, nên nhứt định giũ áo ra đi sớm, bỏ Tề Thiên Đại Thánh ở lại chịu trận một mình với cây thiết bảng đánh đuổi yêu mị, dành lại con Phố Bolsa của một thời vui vầy tình nghĩa....?? Tôi thì thời gian cũng sắp biến tôi thành con khỉ già mất rồi, chỉ ao ước một ngày.... có Bồ Tát Quán Âm đi ngang thấy vậy thương tình, đến gỡ bỏ cái Ngũ Hành Sơn đè bẹp chú khỉ ngang tàng mấy chục năm nay, rồi dịu dàng đặt lên đầu khỉ cái vòng Kim Cô, hể khỉ còn cứng đầu thì nàng niệm chú cho lăn lộn đau đớn, khi nào đầu hàng chịu thua nàng, tình nguyện làm thằng sen ngoan ngoãn thì nàng thôi niệm phạt, vậy cho yên đời, “vợ kêu phải dạ, thưa nàng, sen đây”, vậy nghe ông.
Phạm Công Thiện trở qua Mỹ sau ba tháng ông ra đi. Mỗi đêm ngồi sau bếp nhà tôi ngó qua nhà ông, bên chai rượu và kinh kệ ngổn ngang, ngồi uống rượu im lặng nghe đi nghe lại những CD ông đàn, nhất là đàn nhạc Trịnh Công Sơn. Vì thích bài “Chiều nay tôi ra phố về, thấy đời mình là những chuyến xe..” nên vừa dứt bài thì la lên “Vô Thường, đàn lại cho tui nghe” rồi nhấn nút trở lại đầu bản nhạc. Tui cũng làm sao ngủ được, ra bếp uống nước, anh Thiện kéo lại, nói “Trịnh Công Sơn bạn tao, chết; Vô Thường bạn tao, cũng lại chết, cuộc đời sao hiu hắt tận cùng đến thế...” Rồi đổi giọng “Hông, Vô Thường nó đang ngồi đây với tao, đang nhậu với tao, đang đờn cho tao nghe” rồi huyên thuyên về cái tài đàn của ông mà có lần ảnh kể cho ông nghe chuyện cầm mấy cái CD ông cho mang về Úc khoe với má ảnh là của Vô Thường tặng, Má ảnh hỏi “Mày là bạn Vô Thường thiệt à?” rồi ảnh ha hả cười giải thích với ông, ý bà già muốn nói là mày mà được quen với Vô Thường sao? Ông (VT) thấy không, tên ông còn lớn hơn tui nhiều, làm tui chợt thấy ông vĩ đại thiệt. Anh Thiện thì hay nghịch ngợm chữ “vĩ đại”.
Với tôi, hình ảnh Phạm Công Thiện ngồi hiu quạnh hắt hiu nghe hết ngày này sang đêm nọ chồng đĩa nhạc VT vài chục cái, rồi kêu ông đàn lại cho nghe như là ông còn đang sống; Và những ly rượu liên tục, những điếu Pall Mall đỏ không đầu lọc cũng liên tục rực cháy theo tiếng đàn văng vẵng giữa đêm khuya trong một xóm nhỏ nghèo nàn vắng lạnh như thế, không những làm tui buồn theo đứt ruột... ở đó, tôi còn thấy tận cùng của nỗi đau mất mát tình thân, của nỗi cô độc không can thiệp được của những con thú, mà, ai về Việt, có thể cảm nhận được, khi cảm thấy mình giống như mấy con khủng long sắp tiệt chủng, đang cô độc hoang liêu hiu hắt lẻ loi tận cùng giữa Sài Gòn Hoa Lệ Ước...
Nhớ đêm trước ngày ông mất, chiếc Toyota Van của ông bỗng Alarm kêu inh ỏi lúc 1 giờ sáng, tôi có linh tính chuyện chẳng lành. Khi ông nhắm mắt 3 giờ 15 chiều hôm sau, tôi thầm nghĩ đêm qua ông về cho hú alarm inh ỏi để từ giã cái xóm mobile home nghèo nàn này, từ giã thằng bạn thân thương ngang mặt nhà là tôi. Rồi mươi hôm sau khi an táng ông xong, 7 giờ sáng thì ông về thăm tôi, giờ đó ai vô nhà? tiếng chân ông đi tôi nghe là biết liền, ông nhẹ nhàng đi đến trước phòng tôi ngủ, im một hồi rồi những bước chân nhẹ nhàng trở ra phòng khách, rồi lại trở vô lại đến trước cửa phòng tôi ngủ dừng lại. Tôi ngủ mơ màng nhưng nghe, bụng nói Vô Thường sao mò qua sớm vậy, bộ bên nhà hết cà phê sao, qua lục kiếm cà phê chớ gì. Quên mất là Vô Thường đã chết rồi. Trưa tôi hỏi thì không ai vô nhà hồi sớm, vậy là ông còn thương thằng bạn nghèo, ghé về thăm tôi.
Vô Thường, tôi viết lá thư này cho ông, một phần vì nhớ những mâm cúng chiều Ba Mươi năm nào ông cũng cúng kiến, rồi kêu réo bạn bè đến để gặp nhau an ủi chia sẻ trong ngày cuối năm, cùng nhau bên ly rượu nhắc nhớ lại những kỷ niệm một thời, những xa tít bên kia bờ đại dương. Một thời, nghe mà buồn. Mâm cúng chiều Ba Mươi cuối cùng của ông tại căn mobile home, có ấm áp tình ruột thịt 3 cha con, nhưng người vợ da trắng tóc dài năm xưa thì nhất định không chịu qua cùng con, ở lại bên nhà, trói mình vào một tâm trạng hy sinh và đau khổ, cô độc khủng hoảng tận cùng trong tuổi già bóng xế. Chồng ra đi, bỏ lại ba mẹ con, rồi nuôi con đến khôn lớn trưởng thành lại một lần nữa, bứt núm ruột của mình, hy sinh cho hai con ra đi tìm sum họp với cha già. Ngày nghe tin hai con báo về Già đã mất, bà đã im lặng một lúc, rồi thở dài dặn dò hai con lo Tang lễ cho tròn chữ hiếu với cha. Thà Già con chết đi còn hơn sống trong sự oằn oại đau đớn bởi những con ung thư rút rỉa thân xác còn trơ xương. Vô Thường ơi, hình ảnh của ông trong những ngày tháng cuối cùng đã ám ảnh tôi thật nặng nề. Khi đó, tôi lại phải đi về Việt Nam, ông nhứt định kêu bé Khanh đưa chú Trần 200 đồng, rồi nắm tay tôi buồn bã “Không biết khi ông trở qua thì tôi còn sống hay không, thôi thì đi về ráng lo cho xong chuyện vợ con, cầu chúc cho ông sẽ có một cuộc sống mới, hạnh phúc trong tuổi già mai sau. Lúc này mà ông lại đi, anh Danh bên kia, Tùng cũng về Việt, anh Thiện thì Úc, Sinh thì Texas, tôi cảm thấy thật buồn... mà biết sao giờ...”
Chuyến về Việt đó, khi tôi trao tặng CD của ông cho bạn bè bên kia, bảo giữ như là kỷ niệm cuối cùng của VT, VT có lẽ không qua khỏi, chỉ ngày tháng thôi. Rồi những khi bước vào nhà hàng sang trọng hay ngồi lê quán cốc, nghe văng vẵng nhạc Vô Thường, lòng tôi lại chùng xuống, cảm thấy chưa bao giờ mình bị đau đớn và bất lực trước tình trạng của một người bạn đến như thế. Tôi chỉ còn biết niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, mong ngài đến rước Vô Thường đi thật nhẹ nhàng. Nguyễn Tất Nhiên và Cao Đông Khánh chết bất thình lình, tiếc thương đau buồn có, nhưng nó không tàn nhẫn như phải nhìn thấy mỗi ngày người bạn mình trơ xương ra, và cái chịu đựng đau đớn của bạn mình, chấp nhận và chờ đợi sự ra đi từng ngày một. Tôi đã không đủ can đảm mỗi ngày nhìn thấy hình ảnh của ông như vậy, hai ba hôm mới chạy sang thăm ông một lần. Cái nỗi đau lòng của ông về bạn bè thân thiết trong giây phút sắp lìa đời, làm sao tôi không hiểu được. Cơm canh làm sao ngon, giấc ngủ làm sao nhẹ nhàng, tâm trí làm sao có thể bình thản khi trước mắt cảnh lưỡi hái tử thần mỗi ngày cướp đi thêm một chút thịt da trên thân hình còm cõi của người bạn thân gần gũi chia sẻ bao ngọt bùi cay đắng suốt gần 20 năm sống kề cận gần nhau. Những ngày gần cuối, qua thăm ông, chỉ còn biết khuyên ông niệm Phật, ông nhìn tôi, trong đôi mắt ấy gần như chán chường và dửng dưng với tất cả, ông thều thào “Trần ơi, chỉ còn 10% thôi, 90% xong rồi. Ông ở lại mạnh giỏi, ráng nghe...”
Mâm cúng chiều Ba Mươi ở hai mươi mốt năm sau, cũng là mâm cúng cuối năm cuối cùng của ông. Lúc đó ông vì mang chứng bệnh nguy ngập không muốn có sự thăm viếng tấp nập nên lặng lẽ ẩn mình nơi nhà một người em họ, nhưng cúng ông bà cuối năm thì dù thế nào cũng không thể bỏ lệ nên Mộ Dung và Diễm, Khanh đã rước ông về trước là cúng đưa ông bà, sau là ăn Tết ở nhà mình, tránh cho người em mang tiếng năm mới mà phải chứa người đau kẻ bịnh; hơn nữa có chị Bạch Yến từ Pháp sang, muốn chia sẻ cùng ông cái Tết không vui này. Những ngày Xuân không còn là ngày Xuân nữa, cửa nhà ông đóng im lìm thì trong nhà tôi cũng lạnh ngắt vắng tanh...
Kể từ ngày tôi biết ông, bạn bè “một thời” ấy, đến Tết con Dê hôm đó hiện diện chỉ còn tôi, Mộ Dung và Phương Lùn bên cạnh ông. Tản lạc, nằm xuống, xa cách... khá nhiều. Nguyễn Tất Nhiên, Hoàng Linh Duy, Lộc Lê Uyên Phương, Cao Đông Khánh, những người anh, những bạn bè mày tao thân thương gắn bó một thời, đã vĩnh viễn bỏ tụi mình, còn lại thì xa rời tản lạc. Tôi đến mãi giờ vẫn chưa thể viết được điều gì cho những thân thương ấy từ khi nằm xuống, ngoại trừ một bài thơ; vậy mà tới phiên ông, tôi lại muốn gửi ông một lá thư, vì ngoài cái một phần mâm cúng kia, còn có một phần khác nữa. Một hôm, tôi lục số điện thoại để tìm một người bạn chở về dùm vì đi bỏ sửa chiếc xe. Tôi đã không gọi được ai. Bấy giờ tôi chết lặng. Mình không còn bằng hữu sao? Mười năm dừng bước giang hồ, sống im lặng trong cõi sống lặng im của mình, đến sở, về nhà, chấm hết, chỉ còn có ông gọi là bên cạnh để nhờ vã. Bạn bè đâu hết rồi? thật sao? mình sống tệ đến vậy sao? mình trở thành bóng ma trong cõi đìu hiu này sao? sống như vậy để làm gì? tại sao mình có quê hương mà không sống ở quê hương được? Ôi, biết bao câu tự vấn... Nhớ lại bài thơ đã làm khá lâu:
có cha mẹ mà mồ côi
có con cái đã xa rời sống xa
vợ thì đã vợ người ta
anh em ruột thịt đã là người dưng
người kia bỗng hóa người rừng
.....
Tết năm nay, có một người rừng nhớ bạn, lá thư này gửi thăm ông, cho ông có chút ấm lòng trong ngày cuối năm. Cây đàn ông đem theo ấy, nhớ mang ra đàn cho mọi người chỗ ông đang ở, nghe cho biết tiếng đàn một thời ở Bolsa. Một thời, ôi, nên nhớ... hay nên quên?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét