Người” trong bài Viết ở Rừng Phong này là “Người Tù.”
Từ năm 1980 một số người viết của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia bị diệt năm 1975, thoát ra được nước ngoài – Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Anh, Ðức – đã viết và ấn hành nhiều tác phẩm Hồi Ký tố cáo chính sách đàn áp, bỏ tù nhân dân tàn bạo của những người cộng sản Việt Nam; những hồi ký tù đày viết bằng máu và nước mắt từng làm xúc động người đọc, liên tiếp ra đời trong mười năm – 1980-1990 – Nhà Tù, Trại Tập Trung của Duyên Anh, Ðại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Ðáy Ðịa Ngục của Tạ Tỵ.. Thật nhiều, tôi không được đọc hết, không thể kể hết. Những hồi ký tù đày của những người viết Quốc Gia VNCH chỉ viết về những người tù VNCH.
Ngày tháng trôi đi, cuộc sống tiếp tục… Từ năm 1990 những người viết miền bắc Xã Hội Chủ Nghĩa thế chân những người viết VNCH viết chuyện ngục tù cộng sản, tố cáo tội ác cộng sản. Ðây là những tội ác bọn cộng sản làm với những người dân miền Bắc XHCN: 1992 Bùi Tín, sau khi ra khỏi nước, viết Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật, 1998 Vũ Thư Hiên xuất hiện ở hải ngoại với Ðêm Giữa Ban Ngày, 2000 Bùi Ngọc Tấn từ Hà Nội gửi ra hải ngoại Chuyện Tình năm 2000, năm 2001 Nguyễn Chí Thiện đến Hoa Kỳ năm 1995, cho ấn hành tập truyện Hỏa Lò.
Năm 1979 Nguyễn Chí Thiện, sau nhiều năm tù đầy ở miền Bắc XHCN, đã làm một hành động trước anh, sau anh, không một văn nghệ sĩ nào sống trong chế độ cộng sản — trên toàn thế giới, không phải chỉ riêng ở nước CS Việt Bắc Kỳ — dám làm hay nghĩ đến chuyện làm: “chạy vào Tòa Ðại Sứ Anh Quốc trao tập thơ, nhờ họ đưa ra nước ngoài.” Ðó là tập thơ Tù Cộng Sản giá trị nhất, tập thơ được ấn hành ở Hoa Kỳ có hai tên “Bản Chúc Thư của Một Người Việt Nam” và “Tiếng Vọng từ đáy vực.” Theo tôi, đây là những “Tiếng Kêu từ đáy vực,” không phải “tiếng vọng.”
Những năm 76, 77, ở Sài Gòn, có lần tôi đọc một bài viết sau 1975 của Nguyễn Tuân. Nói đến cái đèn dầu của nông dân Nam Bộ, bầu đựng dầu có hình thù giống cái trứng vịt nên nhân dân gọi là đèn hột vịt, Nguyễn Tuân tấm tắc khen: “Sao nhân dân ta giỏi đặt tên đồ vật đến như thế..v..v..” Nguyễn Tuân cũng như đa số những người viết miền Bắc XHCN thường ca tụng nhân dân, nông dân hết lời, họ luôn luôn nhận vơ, danh từ của họ là “vơ vào”, nhân dân là của họ, nhân dân đứng về phe họ. Tôi nghĩ: “Dân thành thị đặt tên đồ vật còn hay hơn: đồng hồ quả quít, mũ nồi, mũ chào mào, mũ lưỡi trai, áo đuôi tôm, nhà Hỏa Lò..vv..”
Những năm mới mười tuổi đời tôi đã nghe tiếng Nhà Hỏa Lò, rất ít người nói Nhà Tù, Nhà Pha Hà Nội, người ta chỉ nói Nhà Hỏa Lò. Và nói Nhà Hỏa Lò là nhiều người biết đó là nhà tù ở Hà Nội, những góc tường của nhà tù có những vọng gác nhô lên, trông như cái hỏa lò, nhân dân gọi là Nhà Hỏa Lò, tất cả mọi người đều nhận cái tên đặt ấy. Nguyễn Chí Thiện đã sống trong nhà Hỏa Lò sáu năm trong lần bị bắt thứ hai của anh, ngay sau khi anh từ Tòa Ðại Sứ Anh Quốc ở Hà Nội trở ra, sự việc xẩy ra năm 1979. Ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh, mười mấy năm sau ngày sống sót ra khỏi Hỏa Lò, ở Hoa Kỳ Nguyễn Chí Thiện nhớ lại và viết về cuộc sống cùng tâm trạng của một số tù nhân Hỏa Lò.
Tôi không viết bài này như một bài phê bình hay giới thiệu sách, vì Nguyễn Chí Thiện sống sáu năm trong Nhà Tù Hỏa Lò, tôi sống năm năm trong Nhà Tù Chí Hòa, nhân đọc Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện, tôi so sánh Nhà Tù Hỏa Lò Hà Nội với Nhà Tù Chí Hòa Sài Gòn – so sánh từ hình thể đến những luật lệ áp dụng cho tù nhân trong hai nhà tù nổi tiếng nhất của đất nước, đối chiếu đời sống của tù nhân trong hai nhà tù.
Những chuyện rất thường trong nhà tù, quá thường với những người không bị tù, những người chưa từng sống ngày nào trong ngục tù cộng sản, nhưng lại rất quan trọng với người tù Việt Nam trong những nhà tù cộng sản, chẳng hạn như tù nhân Hỏa Lò bị cấm không được hút thuốc lào, thuốc lá, bị bắt có thuốc lào, thuốc lá là bị phạt nằm xà-lim, cùm chân, tù nhân Chí Hòa hút thuốc tự do, đồ căng-tin do cán bộ cai tù Chí Hòa bán cho tù để kiếm lời có thuốc lào, thuốc rê. Tù có tiền nhà gửi vào là tha hồ mua thuốc hút. Ðây là một đoạn tác giả Hỏa Lò Nguyễn Chí Thiện tả về chuyện thuốc lào ở trong Nhà Tù Hỏa Lò:
Hỏa Lò, trg 49 – Trích:
Lão già đứng nhìn, lắc đầu. Tên quản giáo vẫn ngồi uống trà, phì phèo điếu thuốc trên miệng, chưa buồn ngó tới lão. Lão vứt cái bị cói xuống thềm, uể oải ngồi xuống. Mấy tên tự giác đứng canh bọn tù ngồi ăn, đợi lệnh. Lão già chẳng bao giờ để ý tới bọn quản giáo. Nhiều năm ở tù rồi, lão thấy bọn chúng: dù trẻ, dù trung niên, dù già, dù gầy, dù béo, dù cao, dù thấp, dù da trắng, da ngăm ngăm, dù mắt lồi, mắt sâu, mắt sếch, mắt lươn, mắt lé… đa số đều có một điểm chung là nhìn bọn tù lừ lừ, khinh miệt, thù hận, mê muội..
— Thằng nào vừa gặp gia đình?
Tiếng tên quản giáo, hỗng hách, đầy quyền uy.
— Thưa ông, cháu.
Một tên tù đương ăn vội vã đứng lên, lụng bụng đáp lại. Tên quản giáo hất hàm cho mấy tên tự giác:
— Khám.
Hai tên tự giác xăm xăm tới.
— Cởi áo ra!
Hai bàn tay gã tù lở loét, bê bết xôi, nhầy nhụa mỡ thịt, loay hoay cởi khuy. Một tên tự giác sờ nắn, rũ rũ cái áo. tên tự giác khác bắt tên tù dơ hai tay lên cao, quay trước, quay sau.
— Cởi quần ra!
Gã tù trút bỏ chiếc quần ni-lông ra. Lại sờ nắn, rũ rũ.
— Báo cáo ông, không có gì.
Tên quản giáo nhăn mặt, nhíu mũi khi nhìn thân hình ghẻ lở, loang lổ máu. Thấy dáng điệu gã tù có vẻ hồi hộp, hắn quát:
— Cởi quần đùi ra!
Gã tù lom khom cởi nốt cái quần đùi, mặt tái nhợt, hai tay úp che hạ bộ.
— Bắt nó chổng mông lên! Nhìn lỗ đít nó xem có cái gì không?
Hai tên tự giác ấn gã tù chổng mông. Rồi một tên ngồi xuống, lấy hai tay vạch hậu môn, nhìn vào. Phát hiện thấy có vật gì trong đó, hắn quát:
— Rặn mạnh ra!
Loay hoay một lúc, hắn lôi ra một cucï ni-lông tròn, dài.
— Báo cáo ông.. thuốc lào.
Tên quản giáo đắc ý:
— Mày qua mắt ông nội mày thế nào được! Con muỗi bay qua, ông cũng phân biệt được con đưc, con cái. Nhìn cái điệu của mày, ông đã biết thế nào cũng có vấn đề. Mày ở ngoài là nhà báo, mày không đọc được nội quy sao?
— Thưa ông, giải quyết thằng này thế nào?
Một tên tự giác khúm núm hỏi.
— Tịch thu toàn bộ quà. Bắt nó nuốt chỗ thuốc lào ấy! Mày nhét vào lỗ đít, tưởng qua mắt nổi ông. Bây giờ ông nhét vào lỗ mồm mày.
CTHĐ: Chuyện kể tự nó nói lên những gì nó cần nói, những gì nó mang trong nó, tôi sẽ không phụ đề Việt ngữ gì nhiều về những chuyện Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện. Như chuyện trên đây, không cần tôi viết gì thêm đọc chuyện bạn cũng thấy tính cách ác độc khủng khiếp, ác độc đến không thể ngờ được, của bọn Cai Tù CS đối với đồng bào của chúngï – đồng bào ruột thịt..! – Nếu bạn may mắn chưa từng nếm mùi tù đầy cộng sản, tôi nghĩ đọc những hồi ký tù đày do chúng tôi viết bạn sẽ thông cảm và bạn sẽ biết vì sao những cựu tù nhân chính trị nạn nhân cộng sản chúng tôi không sao có thể nguôi được lòng căm thù chế độ cộng sản ở quê nhà, chúng tôi không sao có thể thỏa hiệp, dù là giai đoạn, với những người cộng sản. Chúng tôi đã bị hành hạ tàn nhẫn, chúng tôi thoát chết nhưng nhiều anh em chúng tôi chết thê thảm, chúng tôi đau, chúng tôi thương, chúng tôi không thể quên được.
Năm 1981, ba người chúng tôi cùng ở tù về gặp lại nhau: Dương Hùng Cường, Vương Quốc Cường và tôi. Cường Vương là thẩm phán, từng làm chánh án Quảng Ngãi năm 1974-1975, đi tù ở ngoài Bắc, Cường Dương và tôi chỉ tù ở trong Nam, tôi nghe Cường Vương kể:
— Bọn tù ngoài ấy phải gọi bọn cai tù là ông, bà, xưng con. Tôi thấy cảnh mấy con mụ cai tù nó trói các em tù vào cột, nó đánh bằng roi mây, các em lậy van thảm thiết: “Con lậy bà.. Con xin chừa.. Bà tha cho con..”
Hai bạn tôi, Dương Hùng Cường, Vương Quốc Cường, đều đã qua đời, Dương Hùng Cường, bị bắt lần thứ hai năm 1984, chết thảm năm 1987 trong xà-lim Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, Vương Quốc Cường mất tích trong một chuyến đi vượt biên; anh là người đi không đến đích, một ra đi là không đến nơi, và khơng trở về, tôi chắc anh đã chết trên biển. Cũng rất có thể anh bị bọn lưu manh đưa anh đi chui đã giết anh trong đêm ở bãi biển vắng nào đĩ để lấy vàng, lấy đô-la của anh. Chúng giết anh rồi vùi xác anh đâu đó. Trong những năm 1980 có nhiều người miền Nam đi chui bị giết như thế. Có vụ do chính bọn công an quận, xã chủ mưu.
Tù chính trị VNCH chúng tôi chỉ phải gọi cai tù là cán bộ, xưng tôi. Lên trại tù khổ sai Z 30 A tôi nghe thêm tiếng: “Thưa ban..” lạ tai, “ban” đây là “ban lãnh đạo”, nếu nói cả câu là “Thưa cán bộ ban lãnh đạo..”, vắn tắt là: “Thưa ban..”, tiếng “ban” dùng để gọi mấy anh Trại Phó, Trại Trưởng, để phân biệt mấy anh với bọn cai tù tầm thường. Tiếng “..Thưa ban..” từ những ngục tù miền Bắc đi vào những ngục tù VNCH.
Năm 1973 khi dịch The First Circle của Alexandre Solzhenytsin – Tầng Ðầu Ðịa Ngục — tôi đã thấy Solzhenytsin viết: “Tù cộng sản ghê sợ nhất là cái đói..” Tác giả kể có lần bọn tù khổ sai ở Sibéria đào được xác một con khủng long chết đã 5000 năm nhưng nằm sâu trong tuyết nên thịt vẫn còn tươi. Chỉ một thoáng sau đám tù đói đã ăn hết thịt con khủng long, khoa học mất một dịp hiếm có để tìm hiểu về đời sống trên trái đất thời tiền sử.
Ðó là chuyện CS Nga bỏ đói tù nhân Nga ở tận cuối trời xa, đây là chuyện CSVN bỏ đói tù nhân ở trong cái gọi là bệnh xá Nhà Hỏa Lò, thủ đô nước Việt Nam Cộng Sản:
Hỏa Lò. Nguyễn Chí Thiên, Trang 42. Trích:
— Cháu tới giường thằng đau tim. Ðịnh khuyên nó viết thư về nhờ bố mẹ bán cái xe đạp của nó đi, tiếp tế cho nó. Nó có cái đồng hồ, cái bút máy, lúc nhập trại phải gửi quản giáo. Coi như mất. Có ai lúc vội vã đi trại, đòi lại được những vật gửi. Nó nằm chùm chăn kín đầu. Cháu mở chăn ra. Nó đã chết. Mắt trợn trừng, trắng dã. Mồm méo sệch. Cháu toan gọi báo. Thằng bạn ho lao đã dậy, ngăn lại, thì thầm:
— Báo bây giờ, nhà bếp cắt cơm nó. Ðể chia cơm xong, hãy báo.
Cháu tán thành ý kiến của nó. Bọn kiết lỵ, tháo tỏng vẫn ngồi chùm chăn, ôm nhau, chưa biết gì. Như vậy, ba thằng ho lao chúng cháu sẽ được ăn bốn suất cơm…
…Ba thằng ho lao chúng cháu ngồi quây lấy xác chết. Bốn suất cơm để trước mặt. Cháu vốn tin con người có linh hồn, nên lâm râm khấn mời tên chết về dùng cơm, và tha tội cho chúng cháu. Suất cơm gian lận được chia đều. Ấm bụng hơn một chút. Ông chú chưa bị đói triền miên bao giờ, nên không thể hiểu nổi tầm quan trọng của thìa cơm trong cảnh tù tội. Phạng nhau vỡ sọ cũng vì nó. Ðến trưa, cháu muốn gọi báo gã đau tim chết. Thằng bạn ho lao tham lam, muốn tối mới báo. Làm thêm một suất cơm chiều nữa. Cháu cương quyết không nghe. Cháu sợ nhỡ bị phát hiện, quản giáo mang cùm vào, cùm chân lại. Ở bệnh xá, mọi vi phạm nội quy, như hút thuốc lào chẳng hạn, đều bị cùm hàng tuần, kể cả đang ốm nặng. Có thằng đã chết trong cùm.
Nhà Tù Chí Hòa không cấm tù nhân hút thuốc nhưng chỉ cho hút trong giờ làm việc, tức từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa, từ 2 giờ trưa đến 5 giờ chiều. Vào giờ này có tù ra làm lao động – ra hành lang quét dọn, hầu bọn Cai Tù trà nước, phát cơm cho tù — những anh tù này được gọi là ra làm lao động, các anh cho lửa cho tù trong phòng giam hút thuốc. Sự cho phép và cấm đoán ấy hết sức vô lý và ngớ ngẩn với những người nghiện thuốc. Trên luật thì như thế nhưng thực tế tù trong các phòng tù Chí Hòa vẫn tự chế lấy lửa hút thuốc. Cai Tù Chí Hòa cấm tù nhân giữ diêm, chế lửa, viện cớ ở những phòng tù hình sự thường xẩy ra chuyện những chú tù lép vế bị bọn đại bàng – ở Hỏa Lò là bọn đầu gấu — áp chế, bóc lột, đánh đập, mấy chú tù bị áp chế này lén bỏ những miếng ni-lông vào lon sữa bò, dùng ni-lông cuốn lại châm lửa đốt, nấu cho ni-lông trong lon chẩy ra thành nươc – gọi là hỏa tốc — cầm cả lon hắt vào mặt đại bàng. Nhiều vụ trả thù như thế đã xẩy ra, thường là bọn đại bàng đang nằm phây phây ngủ, không đề phòng, bị tạt hỏa tốc vào mặt, la rú khủng khiếp. Cả Chí Hòa nghe tiếng la rú rợn người. Mặt người bị tạt hỏa tốc như mặt quỉ, đỏ loét, bị phỏng mất mũi, trơ xương má, mù mắt.. vv. Vì cái nạn tạt hỏa tốc Cai Tù Chí Hòa ra luật cấm tù nhân không được giữ diêm, cấm tù tự chế lửa, ai tự chế lửa hay giữ diêm, giữ lon sữa bò, bị bắt, bị nằm xà-lim, cùm chân bẩy ngày. Tù chính trị Chí Hòa ở riêng một khu, không bao giờ giết nhau, chỉ dùng hỏa tốc để nấu chút nước sôi pha trà, ăn mì, cũng bị cấm không được giữ diêm, tự chế lửa.
Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Trung Tâm Thẩm Vấn Tù của Sở Công An Thành phố Hồ chí Minh, cho người tù hút thuốc, giữ diêm thoải mái.
Tù Chí Hòa, tù Hỏa Lò cùng có cách tự chế lửa như nhau mà không cần diêm, không cần bật lửa. Năm 1985 tôi vào Nhà Tù Chí Hòa, thấy anh em dùng cái “chẹc” chế lửa, tôi thán phục quá xáù. Ai là người nghĩ ra cách chế lửa tài tình như thế? Người dùng “chec” thấy đơn giản thôi, nhưng phải có người nghĩ ra. Tôi chắc người nghĩ ra cái chẹc để chế lửa trong nhà tù phải nhớ chuyện ông cha ta ngày xưa dùng hai cục đá đập mạnh vào nhau mà cũng chế được ra lửa. Ở ngoài đời, tức ở ngoài nhà tù. thông thường khi bật lửa hết xăng, người có cái bật lửa đó chịu không sao có lửa. Trong tù, tù nhân tự chế ra lửa bằng cách lấy cái cán bàn chải đánh răng cắt ngang, dùi một lỗ, nhét viên đá lửa vào đó, để sẵn miếng giấy kẹp dúm bông gòn ở đầu, dùng mảnh thủy tinh, xiết lên cái chẹc, lưỡi thủy tinh sắc xiết trên cục đá lửa, làm bắn ra đốm lửa, đốm lửa bắn vaò bông gòn, dúm bông gòn bùng cháy, lửa bắt vào miếng giấy kẹp bông. Và thế là phòng tù có lửa hút thuốc lào. Hút thuốc lá dễ có lửa hơn, vì có thể truyền lửa từ điếu thuốc đang hút cho nhau, hút thuốc lào phải có lửa cháy. Không dùng chẹc người tù hút thuốc lào cũng dễ có lửa bằng cách vò nát tờ giấy, vo tròn, châm lửa thuốc lá, thổi vào chỗ bị cháy cho lửa bùng lên. Người tù khó dấu diêm, bật lửa nhưng dễ dấu những viên đá lửa. Khi bị xét phòng chỉ cần vứt cái chẹc, mảnh thủy tinh đi là xong, thiệt hại không bao nhiêu. Xét phòng xong chỉ năm phút sau là có cái chẹc khác. Chỉ cần 10 viên đá lửa là cả phòng có lửa thoải mái trong cả mấy tháng. Những mảnh thủy tinh lấy từ những lọ chao. Bông gòn có thể do người nhà gửi vào, hay giặt thật sạch những miếng mền len, xé tơi, dùng làm bông. Bông tự chế phải thật sạch, thật khô, thật tơi mới dễ bắt lửa.
Hỏa Lò. Nguyễn Chí Thiện. Trg 56 – Trong phòng, vào giờ hành chính, mấy trăm tù ngồi bó gối, xếp hàng đầy cả hai bên sàn nằm.
Tù Hỏa Lò phải mặc quần áo chỉnh tề, ngồi ngay ngắn trong giờ hành chính, tức tù Hỏa Lò phải ngồi trên sàn phòng tù 8 tiếng một ngày. Tù Chí Hòa, Tù Số 4 Phan đăng Lưu, suốt ngày đêm ở trần, quần sà lỏn, nằm ngồi thoải mái, đánh đô-mi-nô, cờ tướng thả dàn. Cai tù đến cửa gọi anh nào đi làm việc, tức đi lấy khẩu cung, đi chịu thẩm vấn, anh ấy bận quần áo ra khỏi phòng, tù toàn phòng tỉnh bơ. Mức độ tàn ác của Cai Tù Việt Cộng giảm đi nhiều khi họ vào đến Nhà Tù Chí Hòa ở thủ đô Quốc gia VNCH.
Ðây là hình ảnh một Nàng Kiều XHCN trong Hỏa Lò Hà Nội:
Hỏa Lò. Nguyễn Chí Thiện, trg 56 – Trích:
Ðột nhiên, “bóng hồng nhác thấy nẻo xa”. Những thằng tù no tiếp tế gia đình, ngừng ăn, trố mắt. Một cô gái tuổi chừng đôi mươi, đương đi tới. Theo sau cô mươi thước là một mụ quản giáo, dáng dấp như một tên du côn. Cô gái trông mảnh mai, nét mặt trái soan, xanh nhợt, ủ ê, nhưng khá đẹp. Một tên tự giác đứng cạnh đám tù ngồi ăn, khi cô gái đi tới gần, gã nhe răng, nhăn nhở:
— Em làm nghề “lấy lỗ làm lãi,” phải không?
Một tên tù khác, mắt hấp háy, toe toét:
— Trông thơm quá. Cho anh yêu một cái đi!
Cô gái đi ngang qua chỗ lão già ngồi ăn, làm lão ọe một cái, nôn ra một ít bánh mì. Một mùi tanh tưởi, tệ hơn mùi chuột chết, từ đũng quần cô gái, ập vào mũi lão.
Tên tù trực phòng cười hềnh hệch:
— Loại “phò” này mà sốc nách, nhấc bổng lên, lắc mạnh mấy cái, là rơi xuống đầy một sọt “gậy gộc”!
Cô gái lẳng lặng đi. Thoáng thấy mấy lá bánh chưng còn dính vài cục bánh con con, cô nhào tới rãnh nước, nhặt lên, đưa vào mồm, liếm lấy, liếm để.
Mụ quản giáo the thé:
— Con nhà thổ. Bà sẽ cùm mày lại!
Mụ chạy xốc tới, nắm mớ tóc bù xù của cô gái, giật mạnh, tát tới tấp. Cô gái lí nhí kêu lậy.
Hỏa Lò. Nguyễn Chí Thiện. Trg 66.
Trưởng phòng lau mồ hôi nhễ nhại, nhìn chiếc quạt trần cao chót vót lừ đừ quay, như hết hơi.
— Treo cái quạt này làm đéo gì. Ð…mẹ chúng nó, chơi khăm thật! Cùng ở Hỏa Lò cả, mà quạt ở các buồng quản giáo thì vù vù như vũ bão.
Phòng tù tập thể Nhà Tù Hỏa Lò có gắn quạt trần? Không biết những quạt trần này được gắn ở đấy từ thời nào? Phòng tù Chí Hòa thoáng mát vì chỉ có ba bức tường, một mặt là song sắt nhìn ra hành lang, rồi một hàng song sắt nữa là tới trời. So với Hỏa Lò, kiến trúc Nhà Tù Chí Hòa văn minh, hiện đại hơn rất nhiều. Không biết đích xác Hỏøa Lò được xây xong tháng nào, năm nào, cứ cho là Hỏa Lò có mặt ở Hà Nội năm 1900, Nhà Tù Chí Hòa ra đời sau Hỏa Lò năm mươi năm.
Theo hiểu biết không được chính xác của tôi Nhà Tù Chí Hòa được Pháp khởi xây vào khoảng năm 1942, 1943, được hoàn thành khoảng năm 1946, bắt đầu tiếp khách năm 1947. Từ 1985 đến 1989 tôi sống trong Nhà Tù Chí Hòa, nhiều lần tôi có ý định khi được ra khỏi Chí Hòa tôi sẽ viết về Nhà Tù Chí Hòa, tôi sẽ tìm tài liệu đích xác ai là kiến trúc sư vẽ kiểu Nhà Tù Chí Hòa, xây năm nào, năm nào hoàn thành, tốn phí bao nhiêu..?? Năm 1990 ra khỏi tù, tôi quên ý định viết về Nhà Tù Chí Hòa. Ra ngoài tôi nghĩ những người từng ngồi tù Chí Hòa chẳng ai muốn đọc chuyện viết về Nhà Tù Chí Hòa, nhiều người tù Chí Hòa còn biết về Nhà Tù Chí Hòa nhiều hơn tôi, những người chưa từng ở tù Chí Hòa chẳng ai đọc chuyện nhà tù Chí Hòa làm quái gì, chẳng có ai théc méc chuyện nhà tù Chí Hòa do kiến trúc sư nào vẽ kiểu, được xây năm nào…vv
Tháng 5, 1975 tôi thấy anh Huỳnh tấn Phát trên màn ảnh TiVi. Lúc ấy anh là Thủ Tướng cái gọi là Chính phủ Lâm Thời Miền Nam VN. Anh được phỏng vấn. Rõ ràng là anh quá sướng, sướng vì không ngờ anh vào được Dinh Ðộc Lập. Mặt mũi anh phớn phở, anh không biết nói gì cả. Chưa đầy một năm sau, Lê Duẩn phóng tay dẹp Mặt Trận GPMN và chính phủ miền Nam. Huỳnh tấn Phát biến mất từ đó. Hai mươi mấy mùa lá rụng sau tôi gặp lại họ Huỳnh trong Hỏa Lò.
Hỏa Lò. Nguyễn Chí Thiện. Trg 127 – Trích
Gã thanh niên cười:
— Mai em về rồi, cần gì quà.
— Mừng cho mày. Nhưng sao biết trước. Ðược báo à?
— Nói thật với ông anh. Ông anh biết nhà thơ Nguyễn xuân Sanh không?
— Ông ta, trước năm 45, ở trong nhóm Xuân Thu, cùng với Ðoàn phú Tứ. Tao có đọc thơ ông ta, biết tiếng ông ta thôi, chưa gặp mặt bao giờ. Xem nào, tao còn nhớ câu thơ: “Ðáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”. Thơ ông ta đấy.
— Em là con ông ấùy đấy.
— A, thế mày là con ông ấy à? Tiêu chuẩn mày là được đi Nga, đi Tiệp học. Sao lại vào nằm đây?
— Học hành quái gì! Máu em thích ăn chơi sả lán. Cách đây hai tháng, em “đánh quả” ở nột sứ quán, bị chộp.
Gã giáo viên, vẻ nghi ngại:
— Tội này ít ra cũng mười năm tù. Mày có chắc mày về không?
— Chắc như đinh đóng cột. Ông cụ đã cứu em nhiều lần. Ông cụ bảo lần này là lần chót.
Gã thanh niên hạ giọng, nói nhỏ:
— Ông cụ làm việc cho công an đấy.
— À, tao hiểu. nhưng tao khuyên mày dừng lại ở đây. Ông cụ không xin mãi cho mày được đâu. Gia đình mày có túng thiếu gì mà phải…
— Ông anh không biết. Chúng em đập phá mạnh lắm. Gia đình nào cung cấp xuể. Ngay thằng con ông Huỳnh tấn Phát cũng phải xách súng đi ăn cướp. Bố nó xin cho nó nhiều lần rồi. Nó có chừa được đâu. Nó ở phòng 12…
Ðây là một cảnh tù đói ở ngoài Nhà Hỏa Lò:Hỏa Lò. Nguyễn Chí Thiện, Trg 182. Trích:
Lão không nói gì, đứng dậy quay nhìn về phía bên kia sân. Lão kinh hoàng trố mắt. Cách lão chùng ba nươi thước thôi, một cảnh tượng suốt đời không thể phái mờ đối với lão. Trong nắng chiều vàng ủng như nghệ, hàng trăm tên tù trần truồng, sám xịt, lủng củng xương da, đứa nằm, đứa ngồi, đang bốc cơm ăn. Có những tên không còn cầm nổi cái bát, cơm rơi đổ cả xuống đất, lẩy bẩy bò xuống, vốc nhặt đưa lên miệng. Tất cả diễn ra im lìm, như một màn kịch câm. Như những bóng ma. Hai bóng ma, đầu trọc lốc, mắt sâu hoắm, đờ đẫn, ngồi đối diện nhau. Bốn bàn tay bám vào bát men đựng cơm, giơ lên, run run, từ từ đưa đi, đưa lại. Phải nhìn một lúc, lão mới hiểu là hai đứa đương giành nhau bát cơm của một tên nằm gục bên cạnh, không ăn nổi. Chúng không còn sức để nói, để chửi, để giằng mạnh. Một chiếc xe bò lọc cọc đi vào. Hai tên tù tự giác vào phòng, lần lượt khiêng năm xác chết trần truồng, đặt lên xe, kéo đi. Những tên tù ăn xong, đứng lên, máu mủ từ hậu môn rỏ xuống…
Nhạc Trịnh Công Sơn được nhắc đến trong Hỏa Lò,Trg 243.Trích:
— Rận rệp là bạn đồng hành của tù. Không cách nào trừ nổi. Viết xong thư cho em chưa?
— Xong rồi. Yêu đương trong này chỉ để tiêu sầu thôi. Rồi ra, mỗi người một ngả.
Gã đầu gấu hát ong ỏng:
— Ngày chủ nhật buồn, còn ai, còn ai. Môi em nồng nàn..
Phó Nhòm chửi:
— Ð…mẹ chúng nó. Ðương lúc chiến tranh, chết chóc như thế mà lúc nào cũng môi em với vai em. Ðúng là nhạc phản chiến. Không hiểu chúng nó là cái giống gì?
Hỏa Lò, trg 249. Trích:
Lão tới các buồng nữ, cảm ơn những người cho lão quà mừng sinh nhâät. Lão cho cô ca sĩ, cô diễn viên kịch nói, gã đầu gấu mỗi người một bao thuốc lá. Tới buồng bà Sàigòn, lão đưa cho bà một bao:
— Chị không nghiện. nhưng mỗi ngày, sau bữa cơm, hút một điếu cho thơm. Không hại gì đâu.
Có lần tôi nghe Nguyễn chí Thiện nói:— Trong truyện Anh phải sống, Khái Hưng cho chị vợ anh lái đò nói với chồng trước khi buông tay trôi theo giòng nước, để anh chồng có thể cứu được đứa con của anh chị: “Anh phải sống..” Ðấy là lời Khái Hưng nói chứ không phải lời chị lái đò. Chị lái đò không thể nói câu “Anh phải sống” đó..
Theo tôi câu nói của lão tù trong Khu xà lim Hỏa Lò Hà Nội: “Không nghiện.. Sau bữa cơm, hút một điếu cho thơm.. Không hại gì..” là lời Nguyễn chí Thiện. Anh hút thuốc lá khá nặng. Tôi từng hút mỗi ngày 60 điếu Lucky, Philip, Pall Mall ròng rã trong ba mươi năm, tôi bỏ hút đã được 10 năm; tôi thấy người hút Nguyễn chí Thiện đã rất chủ quan khi nói như thế về thuốc lá. Những người không nghiện thuốc không thú vị gì với khói thuốc lá. Với những người không nghiên thuốc lá, khói thuốc chỉ làm họ khó chịu, nhức đầu, khản cổ, ho, hôi miệng. Ngày nào Nguyễn chí Thiện bỏ thuốc lá, có thể anh sẽ ngửi thấy mùi khói thiu thiu, tanh tanh, trong lỗ mũi của người đàn bà nào đó nghiện thuốc lá. Khi bỏ thuốc rồi, tôi mới biết trong ba mươi năm tôi đã can tội hành hạ vài ba người đàn bà bằng mùi khói thuốc thiu thiu, tanh tanh trong hai lỗ mũi tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét