Trong lịch sử Việt Nam thời hiện đại, có những khuất khúc mà cứ theo như công bố của nhà cầm quyền thì người ta chỉ thấy được phần bên ngoài, hoàn toàn khác xa với nội dung, tức là sự thật lịch sử.
Điều đáng buồn, nếu đó chỉ là những tuyên truyền, thông tin vụ lợi nhằm mục đích bảo vệ sự cai trị thì đã đi một nhẽ, đằng này họ coi đó là chính sử, ép mọi người phải tin theo, nhồi vào đầu óc những thế hệ sau sự mập mờ, méo mó, lừa đảo. Và cũng đáng buồn nữa ở chỗ những nhà chép sử không có ai mang tinh thần của người làm sử chân chính, cam chịu để cường quyền bôi ma bôi mèo, xuyên tạc lịch sử nước nhà.
Thế hệ tôi, sinh giữa thập niên 1950 được chứng kiến, mắt thấy tai nghe, thậm chí trải qua cụ thể nhiều sự kiện lịch sử bị ém theo kiểu khuất khúc ấy.
Trong loạt bài này, tôi chỉ đề cập tới “sự tự nguyện” chấm dứt, giải thể, “hoàn thành nhiệm vụ” một số tổ chức, đoàn thể, cơ quan mà tôi đã biết.
Nhiều người đã biết, sau cuộc cách mạng tháng 8.1945, thể chế chính trị xứ ta vẫn là đa đảng mặc dù đảng cộng sản đã nắm quyền. Người chủ trương đa đảng, kêu gọi đoàn kết dân tộc, không ai khác, chính là cụ Hồ. Tuy cộng sản đã tìm mọi cách triệt hạ Quốc dân đảng, coi như kẻ thù, kẻ đối địch một mất một còn, nhưng với một số đảng khác, cộng sản vẫn chấp nhận cùng tồn tại, mà tiêu biểu nhất là đảng Dân chủ và đảng Xã hội, 2 đảng trước kia đã từng kề vai sát cánh với đảng cộng sản, chia lửa, chia sẻ khó khăn, cùng hướng tới mục đích giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do.
Đảng Dân chủ là tổ chức chính trị của tầng lớp tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trí thức, do những trí thức yêu nước cầm đầu. Những tên tuổi nổi tiếng của đảng này như Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Văn Cao, Hoàng Minh Chính, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hòe, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt… Cũng như mọi chính đảng, đảng Dân chủ có điều lệ, chính cương, đường lối, đảng kỳ, cơ quan ngôn luận (báo Độc Lập). Do người đứng đầu là những trí thức yêu nước, có trình độ, có tâm với nước với dân, đảng Dân chủ đã từng một thời là nét son trong đời sống chính trị Việt Nam. Về sau, một số thành viên của đảng, hoặc là do cộng sản cài vào, hoặc được bạn tù cộng sản “giác ngộ”, hoặc cơ hội, đã nhảy sang đảng cộng sản, như Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tôn Quang Phiệt, Ca Văn Thỉnh, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Tấn Gi Trọng.
Ấn tượng rõ nhất của tôi về đảng Dân chủ là ở hai người. Trước hết là ông Nghiêm Xuân Yêm. Ông Yêm làm Tổng thư ký của đảng giai đoạn giữa. Hồi tôi thiếu nhi và thanh niên, để ý thấy cứ mọi cuộc hội họp, lễ lạt, trên mọi bài báo, cứ nhắc tới đảng dân chủ là có ngay ông Nghiêm Xuân Yêm, bên cạnh ông yêm là ông Nguyễn Xiển, Tổng thư ký đảng Xã hội. Thày tôi bảo ông Yêm là vị trí thức đáng kính, kỹ sư canh nông, ông được cụ Hồ trọng dụng cắt cử làm bộ trưởng Bộ Nông nghiệp để phát huy hết sở học đóng góp cho đất nước. Người thứ 2 là ông Hoàng Minh Chính. Thời tôi sinh viên, năm 1973, tôi nghe anh Bùi Trọng Cường, một bậc đàn anh, bảo rằng “ông Chính ghê lắm”. Hỏi ghê làm sao, anh thì thầm ông ấy dám chống lại cả đảng, chống ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ. Bị đảng vu cho là xét lại chống đảng (ông Chính vốn vào đảng cộng sản từ năm 1939), ông Chính bị đi tù. Nói xong, anh Cường bảo nhưng đó mới là con người đáng ngưỡng mộ, tao phục ông ấy. Những anh dám chống cả trời, coi thân mình nhẹ như hạt bụi đều đáng kính phục.
Ông Chính tù tây tù ta đủ cả, nhưng bản lĩnh khí phách hơn người. Chế độ này hết giam lại thả, thả lại giam, lôi ông ra tòa biết bao lần nhưng con người Hoàng Minh Chính vẫn hiên ngang bất khuất, vẫn “hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ” (trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ). Thời thế nếu có đổi thay, thì thành phố Hà Nội nên có con đường thật đẹp mang tên Hoàng Minh Chính.
Cùng số phận với đảng Dân chủ là đảng Xã hội, cũng kết cục “tự nguyện chấm dứt”, “hoàn thành nhiệm vụ” vào năm 1988. Bao nhiêu công lao, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng khi chim đã hết, thỏ đã không còn thì cung bị bẻ, chim ưng bị giết, thứ quy luật tàn bạo ấy tưởng bị chôn vùi vào mồ ma phong kiến, ai ngờ nó vẫn duy trì trong một xã hội được coi là dân chủ, tự do.
Đảng Xã hội thành lập sau cách mạng tháng 8, cụ thể năm 1946, tới khi tôi biết thì chỉ nghe tên ông Nguyễn Xiển, chứ trước đó, cùng thời với ông Xiển là một loạt những tên tuổi hiển hách, như ông Phan Tư Nghĩa (Tổng thư ký đầu tiên), Hoàng Minh Giám, Nguyễn Văn Huyên, Võ Nguyên Giáp, Phan Anh… Sở dĩ có cả đảng viên cộng sản tham gia bởi thời điểm đó đảng cộng sản đã mưu mẹo dùng chước thoát xác “tự giải tán”. Đảng Xã hội tập hợp những trí thức đáng kính, cũng như đảng Dân chủ, lấy mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, dân chủ làm đích hoạt động. Nó đã sát cánh cùng đảng cộng sản và các chính đảng khác, cùng đông đảo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
Hòa bình lập lại, với chủ trương đa đảng, tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước, cụ Hồ vẫn chấp nhận các đảng ngoài cộng sản, chia ghế cho lãnh tụ các đảng. Dù thừa hiểu, chức tước, địa vị này nọ cũng chỉ cốt tô vẽ cho đảng cộng sản thôi nhưng dẫu sao nhà cai trị vẫn ít nhiều có sự tôn trọng những đảng chính trị khác tư tưởng quan điểm học thuyết với mình.
Đọc báo hay nghe đài, tôi luôn được biết ông Nghiêm Xuân Yêm – Tổng thư ký đảng Dân chủ, ông Nguyễn Xiển – Tổng thư ký đảng Xã hội (hai đảng này thủ lĩnh cao nhất là chức Tổng thư ký) đều giữ chức Phó chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch là ông Trường Chinh. Người lớn thời ấy vẫn đùa với nhau, hai ông phó này chỉ có nhiệm vụ long trọng viên, ngồi cho vui thôi, chứ quốc hội vốn đã chả có vai trò gì, vả lại ông Trường Chinh cầm trịch thì phó hay không phó cũng vậy.
Năm 1988, khối các nước xã hội chủ nghĩa bị lung lay dữ dội, nguy cơ tan rã không tránh khỏi. Bắt đầu từ Ba Lan với công đoàn Đoàn kết (một tổ chức chính trị đối lập đàng cộng sản) đầu thập niên 80, sau đó lan rộng sang các nước Tiệp Khắc, Hungary, Romania, Đức, các nước vùng Baltic thuộc Liên Xô, sau nữa là chính Liên Xô. Sự độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản bị đe dọa, xã hội đa đảng ngày càng thắng thế, dân chúng càng chán đảng cộng sản và hướng niềm tin, niềm hy vọng sang các chính đảng khác, huyệt mộ đào sẵn để chôn đảng độc tôn ngày càng nhiều. Và như chúng ta đã chứng kiến, đảng cộng sản bị hất thẳng cánh ra khỏi vũ đài chính trị, ném vào sọt rác lịch sử. Có nơi nó bị cấm tiệt, lôi ra ngoài vòng pháp luật, có nơi nó cố hắt hơi thở tàn trong cơn hấp hối dai dẳng. Dù gì đi chăng nữa, nó đã chấm dứt vai trò lịch sử, sau nhiều năm làm mưa làm gió, gây nhiều tội ác, kéo lui lịch sử loài người.
Ở xứ ta những năm ấy, nhà cai trị, tức đảng cộng sản giật mình. Trông người lại ngẫm đến ta, “thấy người nằm đó biết sau thế nào”, họ liền vội ra tay, quyết không để sự đa đảng là mối đe dọa, là mầm gây họa. Nhìn qua nhìn lại, thấy kẻ nguy hại cụ thể nhất là đảng Dân chủ và đảng Xã hội. Dùng biện pháp cấm đoán, giải tán, tiêu diệt thì kể cũng kỳ, khó tránh khỏi lời ra tiếng vào. Với mưu mô đầy mình, các lãnh tụ cộng sản, những ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ trước đó, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười… về sau, đã dùng kế bàn tay sắt bọc nhung, đánh không để lại dấu tích. Họ yêu cầu lãnh tụ các đảng, thì những ông Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển chứ ai, phải ra bản tuyên bố tự giải thể sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Buồn cười là hai đảng cùng “tự nguyện” một lúc, cùng hoàn thành nhiệm vụ. Thực ra không tự nguyện cũng không được, nếu không muốn mất mạng, tù tội như ông Hoàng Minh Chính sau này.
Trong cái kết bi hài ấy, có chi tiết đáng ghi nhận. Tôi khi vào đại học, được nghe các thầy tôi kể ông Nguyễn Xiển “tự nguyện” xong thì được gợi ý làm đơn xin gia nhập đảng cộng sản. Cụ Xiển, vị giám đốc tài giỏi lừng lẫy của đài thiên văn Phù Liễn (Kiến An) quê tôi thời Pháp, nhất quyết không vào. Đó là sự tự trọng, nhân cách của kẻ sĩ gặp thời buổi nhố nhăng
Các đảng chính trị như đảng Dân chủ và đảng Xã hội, do gặp buổi nhiễu nhương, lại trúng lúc đảng cộng sản chỉ muốn độc quyền lãnh đạo, muốn là lực lượng chính trị duy nhất nên bị ép phải ra tuyên bố “tự nguyện” giải tán, sau khi đã “hoàn thành nhiệm vụ”, là điều không tránh khỏi. Trong 2 kỳ trước của loạt bài “Tự nguyện hoàn thành nhiệm vụ”, tôi đã đề cập tới 2 chính đảng từng tồn tại trong đời sống chính trị-xã hội nước này và cuối cùng bị buộc phải “tự nguyện” giải tán sau khi đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Bao nhiêu công lao, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng khi hươu nai đã hết, thỏ không còn thì cung bị bẻ, chim ưng bị giết, thứ quy luật tàn bạo ấy tưởng bị chôn vùi theo mồ ma phong kiến, ai ngờ nó vẫn duy trì trong một xã hội được coi là dân chủ, tự do. Thôi thì lịch sử sau này nếu có cuộc thay đổi “bãi bể nương dâu” sẽ ghi nhận lại những công tích của hai đảng ấy, chứ không phải chỉ được nhắc tới như một cánh tay nối dài, một thứ vệ tinh, một trò mưu mẹo nhất thời của người cộng sản như người ta đang ghi trong “chính sử” hiện thời.
Không phải cộng sản thì bị giải tán đã đi một nhẽ, nhưng ngay trong tổ chức cộng sản, có những lực lượng được chính họ lập ra, đóng vai trò nhất định, vậy khi cuộc chơi kết thúc cũng chịu cảnh phụ bạc phũ phàng. Trong bài này, tôi không nhắc tới những “cá nhân tiêu biểu” như tướng Chu Văn Tấn, tướng Trần Văn Trà, ông Ung Văn Khiêm, ông Nguyễn Văn Trấn, ông Trịnh Đình Thảo, ông Trần Độ, ông Nguyễn Hữu Đang, ông Vũ Đình Huỳnh… mà chỉ đề cập tới một tổ chức từng lừng lẫy kéo dài hơn chục năm tới khi cuộc chiến kết thúc. Đó là Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, sau đó là Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, những con đẻ của đảng cộng sản, cánh tay nối dài của đảng vào tận miền Nam, cuối cùng cũng chịu chung số phận, kết thúc với công thức bi kịch giống như hai đảng trên. Nó đã biến mất khỏi đời sống xã hội Việt Nam lúc nào, rất nhiều người không biết. Người xưa có câu “lai vô ảnh, khứ vô hình” (đến và đi không để lại hình ảnh, hình dáng gì), nhưng với mặt trận và chính phủ lâm thời, khi “lai” chẳng những không hề vô ảnh mà rất ồn ào, chỉ đúng vế sau “khứ vô hình”, sau khi nó “tự nguyện hoàn thành nhiệm vụ”, tức là chết bất đắc kỳ tử, không còn ai nhắc tới nữa, may ra chỉ có ít dòng trong sách giáo khoa lịch sử.
Hôm 15.4.2019 vừa rồi, ở thủ đô Paris nước Pháp xảy ra trận hỏa hoạn kinh thiên động địa, cháy nhà thờ Đức Bà – Notre Dame de Paris nổi tiếng. Vụ cháy gây choáng đối với biết bao nhiêu người trên địa cầu, trong đó không ít người Việt Nam. Báo chí xứ ta thông tin dày đặc, căn tính từng giờ để có những tin tức mới nhất, lạ nhất. Và tôi thực sự choáng bởi cái nội dung lần đầu được biết, có nhẽ cũng rất nhiều người Việt mới biết lần đầu như tôi. Các báo biên rõ, kèm theo cả hình ảnh: Lá cờ nửa đỏ nửa xanh sao vàng năm cánh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được treo tít trên đỉnh tháp nhà thờ Đức Bà Paris vào ngày 19.1.1969, một ngày sau phiên họp đầu tiên của Hội nghị Paris đàm phán hòa bình cho Việt Nam. Và hãi nhất là “sau khi bí mật treo cờ Việt Nam trên đỉnh nhà thờ Đức Bà Paris trong đêm, người treo cờ đã... cưa thang để không ai có thể leo lên gỡ xuống”. Cũng chưa rõ ai, tổ chức nào đã treo cờ, là người Việt Nam hay nước nào khác, nhưng để thực hiện được hành vi đậm màu sắc chính trị ấy, đương sự treo cờ đã làm một việc rất đáng lên án: “cưa thang”, đã đối xử với công trình kiến trúc lịch sử vô giá hơn 800 tuổi của nhân loại bằng hành vi cực kỳ vô văn hóa, thậm chí có thể coi là phá hoại. Thời bấy giờ, do thông tin bị bưng bít, hạn chế phương tiện truyền thông nên nhân loại ít biết sự vụ này, chứ nếu bây giờ, việc như thế sẽ bị lên án ngay lập tức, bị coi là khủng bố, phá hoại, không có thứ chính trị nào có thể bào chữa, bênh vực được.
Tôi sực nhớ tới Mặt trận bởi hồi đầu năm nay (2019) đọc báo thấy vào ngày 1.2, ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới thăm và chúc tết bà Nguyễn Thị Bình. Bà Bình là nhân vật lịch sử đương đại nổi tiếng. Người phụ nữ giỏi giang này là cháu ngoại cụ Phan Chu Trinh, khi thành đạt nhất đã lên tới chức Phó chủ tịch nước. Năm 1960, đảng cộng sản từ Hà Nội chỉ đạo thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, bà Bình được điều từ Bắc vào làm ủy viên trung ương. Chủ tịch mặt trận là ông Nguyễn Hữu Thọ, luật sư. Khi nâng cấp thêm bước nữa thành Chính phủ cách mạng lâm thời, bà Bình được đặt vào ghế Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ này. Năm 1968, bà Bình làm trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận tại hội nghị Paris, tới năm 1969 giữ cương vị trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ cách mạng lâm thời. Nói chung, bộ máy tuyên truyền của cộng sản đã rất thành công khi vẽ nên một nữ thủ lĩnh cách mạng tài giỏi, thông minh, khôn khéo, bản lĩnh, một ngôi sao sáng trên bàn đàm phán. Tôi không hề có ý gì hạ thấp bà Bình, chê bai gì bà, bởi thực ra bà là người có đạo đức, có tài, nhưng tôi không thích nghiệp vụ hội họa của bộ máy cộng sản. Họ mà đã khen ai thì người ấy chỉ kém thánh thần, toàn thiện toàn mỹ, như đấng toàn năng, như ngọc quý không tì vết. Lứa chúng tôi, sống trong thời kỳ lịch sử đó, mặc dù chỉ có thông tin một chiều nhưng hầu như ai cũng tự hiểu được rằng mặt trận hay chính phủ lâm thời cũng chỉ là những bình phong, là những bù nhìn của người cộng sản. Chúng tôi thời ấy theo dõi tin tức thời sự hội nghị Paris và hiểu dù tài giỏi nhưng bà Bình hay ông Xuân Thủy, ông Nguyễn Duy Trinh (hai vị bộ trưởng Ngoại giao, trưởng đoàn đàm phán của Bắc Việt) cũng chỉ múa may cho sinh động, chứ quyền hành, quyền quyết định, tiếng nói trọng lượng đều do ông Lê Đức Thọ nắm hết, quyết hết. Phía sau ông Thọ là ông Duẩn, là đảng, còn Mặt trận cũng như Chính phủ lâm thời không là cái đinh gì.
Khó mà trách đảng được bởi Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời do họ đặt ra thì họ cũng có quyền giải tán. Giá như họ cứ chẻ hoe, thẳng băng nói như vậy, nếu có mất lòng tí chút cũng chỉ thời gian đầu, đằng này đảng vẫn chủ trương sách lược: miệng thì nói về sự tôn trọng, về quyền tự quyết, nhưng tay thì bóp chặt, siết lại, ghé tai gằn giọng buộc con nhà người ta phải tự tuyên bố đã hoàn thành nhiệm vụ.
Cuối phần 3 (hồi trang FB này chưa bị thế lực thù địch đóng hơn 2 tháng) có nhắc tới việc đảng và nhà nước chính thức chấm dứt hoạt động của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Họ lập ra đẻ ra thì họ có quyền chấm dứt, bóp mũi, chả có gì lạ. Chỉ không bình thường ở chỗ, trong biên chép sử quốc doanh, trong sách giáo khoa, trong hoạt động tuyên giáo tuyên truyền, họ làm thiên hạ nghĩ rằng đó là của riêng người miền Nam, sản phẩm của sự uất ức, vùng lên tự giải phóng của người dân miền Nam. Nghe cái tên cũng rất dễ nhầm lẫn, bởi cả mặt trận lẫn chính phủ đều có yếu tố “miền Nam”, cứ như miền Bắc và cộng sản vô can.
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thực chất là tổ chức của đảng cộng sản, của miền Bắc. Một thứ cánh tay nối dài của chế độ miền Bắc. Phải khẳng định rằng, không có cộng sản miền Bắc tiếp tay, mặt trận không thể ra đời. Chính những công văn, chỉ thị, chỉ đạo, sử sách của nhà nước cũng không giấu diếm chuyện này. Những người lãnh đạo mặt trận, nòng cốt của mặt trận đều là đảng viên cộng sản, được gấp rút đưa từ miền Bắc vào, hoặc cộng sản nằm vùng, như Nguyễn Hữu Thọ, Trần Nam Trung, Phan Văn Đáng, Trần Bạch Đằng, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Văn Linh, Huỳnh Tấn Phát… Những nhân sĩ, trí thức, đại diện tôn giáo sống ở miền Nam, nhất là ở Sài Gòn, Huế, nếu có tham gia mặt trận thì do chủ yếu được “giác ngộ cách mạng”, được rủ rê vào, có tác dụng làm hoa lá cành, cho có vẻ dân chủ, rộng rãi, tập hợp đông đảo quần chúng cách mạng miền Nam, kiểu như Ngô Bá Thành, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Phước Đại, hòa thượng Thích Thiện Hào, Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi, mục sư Ibi Aleo... Số này về sau phần lớn vỡ mộng bởi “ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Ngay cả những thanh niên tham gia phong trào sinh viên học sinh như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Lê Công Giàu, Lê Hiếu Đằng, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập, Lê Tự Quảng… từng vào tù ra tội, từng làm chức nọ kia trong bộ máy chính quyền mới, cuối cùng phần lớn phải chua chát thốt lên mình đã nhầm. Tôi có nhiều năm cùng cơ quan với anh Lê Tự Quảng, một người tù bị cấm cố ngoài chuồng cọp Côn Đảo nhiều năm. Hai anh em thường trò chuyện khi rảnh rỗi. Anh vẫn nói với tôi “chúng nó đã chà đạp lên cái lý tưởng mà trước kia chúng dùng để lôi kéo bọn anh vào”. Anh thất vọng hoàn toàn về “chúng”, nói như kiểu thi sĩ Bùi Minh Quốc “Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt/Lại đúc nên chính cỗ máy này”. Anh Quảng vừa mất hồi cuối năm Canh Tý, ngoài xứ Quảng, tôi chỉ biết từ xa khấn cho anh được thanh thản trong cõi vô cùng.
Thế hệ chúng tôi được nghe nhiều, biết nhiều về Mặt trận Dân tộc giải phóng. Biết nó ra đời năm 1960, sau này danh sách những ngày kỷ niệm lịch sử trong năm luôn có dòng “20.12.1960, ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”, trước đó là ngày 19.12 Toàn quốc kháng chiến, sau nữa là ngày 22.12 thành lập quân đội. Sách giáo khoa in nhiều bài về mặt trận, chẳng hạn lớp 4 có bài thơ “Lá cờ giải phóng” tới giờ tôi vẫn thuộc: “Bà con ơi, xóm làng ơi/Sáu năm mới thấy mặt trời hôm nay/Lá cờ yêu quý tung bay/Bốt đồn tan nát lũy dày vỡ tung/Cờ bay nắng tỏa mênh mông/Em ơi dụi mắt mà trông mà mừng/Nửa cờ sắc đỏ tưng bừng/Đỏ màu cách mạng không ngừng đấu tranh/Nửa cờ mát rượi màu xanh/Hòa bình vốn giấc mộng lành chúng ta/Sao vàng năm cánh xòe hoa/Giữa cờ rọi hướng đường xa cho mình”… Ấy, nó cứ kể lể nôm na lẩn thẩn vậy, thế mà thuộc mới khiếp. Lớp 5 có bài “Em bé Thừa Thiên” sống chết với lá cờ mặt trận “Chúng giơ súng bắt em/Xé cờ trước mặt chúng/Ung dung em cuốn cờ vào bụng/Chỉ vào mũi súng/Chúng mày/Muốn xé cờ/Hãy xé xác tao đây/Mười ngón tay em/Như tia sáng mặt trời mới mọc”…, đẹp còn hơn cả thần thánh. Về sau, nghe người nhớn bảo với nhau rằng bịa cả đấy, các nhà thơ miền Bắc rất giỏi bịa, giỏi vẽ vời xây dựng hình ảnh tuyên truyền.
Mặt trận tồn tại tới năm 1969 thì trở thành nòng cốt của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong chính phủ có cả Liên minh các lực lượng dân chủ của ông Trịnh Đình Thảo. Nói cho cùng, mặt trận hay chính phủ cách mạng thì cũng vẫn chỉ mang tính biểu trưng để người cộng sản lợi dụng, che giấu hành động. Một mặt thì họ điều khiển từng hành vi, cử chỉ, mặt khác cứ hô lên đó là chính quyền cách mạng của người dân miền Nam vùng dậy dưới ách áp bức Mỹ ngụy. Ngay cả tại hội nghị Paris họ cũng phải đòi cho bằng được một ghế của đại diện miền Nam trong các bên hội đàm. Nhiều người cứ khen bà Nguyễn Thị Bình giỏi giang xuất sắc trên trường ngoại giao Paris chứ thực ra phải nói thế này: bà Bình giỏi thì giỏi thực, con người và phẩm chất rất đáng kính trọng, nhưng trong đàm phán Paris chắc chắn bà chẳng thể tự quyết được điều gì, bày tỏ được chủ kiến gì, bởi bà chỉ có nhiệm vụ nói lại những chỉ đạo của chính quyền Hà Nội, của các ông Xuân Thủy, Lê Đức Thọ mà thôi. Ngay cả mặt trận, cả chính phủ lâm thời còn chẳng là gì thì một cá nhân như bà Bình lại càng không là gì sất.
Tháng 4.1975, người cộng sản chiến thắng bằng vũ lực. Cuộc tương tàn nồi da xáo thịt chấm dứt sau 21 năm. Tới lúc này thì “bên thắng cuộc” rất thực dụng và mưu mẹo nhận thấy rằng chẳng cần tay nối dài nối ngắn hoặc tổ chức ngoại vi làm gì nữa cho vướng víu. Cũng không cần che đậy nó là của ai. Họ chính thức cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cả Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ, chấm dứt vai trò lịch sử. Một số người chủ chốt của mặt trận và chính phủ lâm thời được đưa vào guồng máy mới, như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát… nhưng chủ yếu là những ghế hữu danh vô thực, như chủ tịch hội đồng nhà nước (chủ tịch nước), như phó chủ tịch quốc hội, chủ tịch mặt trận tổ quốc. Hồi đầu thập niên 70, đám chúng tôi còn được nghe kể rằng ông Trịnh Đình Thảo rất “liều”, trong khu đất biệt thự rộng mênh mông của ông ở Sài Gòn, ông còn đặt tên lối đi trong vườn là đường Hồ Chí Minh, treo biển đàng hoàng, nhà chức việc chính quyền Sài Gòn tới yêu cầu ông gỡ bỏ, ông quyết không tháo, mà chính quyền cũng phải chịu (nói phỉ phui cái miệng, ông Thảo mà gặp chính quyền cách mạng xử lý việc đó, chắc chỉ trong vòng 3 nốt nhạc, đường mất, tật mang). Đứa nào nghe sự liều của ông Thảo cũng lè lưỡi khâm phục. Sau tháng 4.1975, ông Phó chủ tịch Hội đồng Cố vấn của Chính phủ lâm thời, tức ông Thảo, rời R về lại Sài Gòn thì chứng kiến cảnh bị mất nhà, nơi mà ông nổi tiếng với tên đường Hồ Chí Minh giữa đất Sài thành, do cách mạng tịch thu nhà… vắng chủ. Đòi mãi chả ăn thua, dù ông là yếu nhân của Chính phủ cách mạng lâm thời. Ông đã “hoàn thành nhiệm vụ” rồi thì ai cần tới nữa. Tôi có nghe nói tới khi chết ông vẫn không đòi được nhà, và hình như tới giờ vụ ấy đã trôi vào dĩ vãng
Những biên chép cuối của loạt bài này, tôi dành cho báo Tin Sáng. Xin nhớ là Tin Sáng chứ không phải Tia Sáng – phụ bản của báo “Khoa học và Phát triển” thuộc Bộ Khoa học – Công nghệ bây giờ. Nói đến tờ Tin Sáng, lớp trẻ hiện nay gần như hoàn toàn không biết, không có ý niệm gì về nó, nhưng với thế hệ đã trưởng thành trước thập niên 80 sống ở miền Nam, nhất là Sài Gòn - mảnh đất màu mỡ nhất cho báo chí cả xưa lẫn nay, thì ký ức về nó khó phai nhòa. Tin Sáng giờ chỉ còn trong hoài niệm bởi nó đã bị bức tử cách nay 40 năm, năm 1981, sau khi nhà cai trị buộc nó tự tuyên bố đã “hoàn thành nhiệm vụ”.
Phải nói thế này, trong một xã hội dân chủ và văn minh, không thể thiếu báo chí, các cơ quan ngôn luận. Báo chí thậm chí còn được ngầm xem như quyền lực thứ 4, sau lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhờ có báo chí, bộ mặt xã hội mới được phơi bày, những ẩn khuất che giấu mới được phát lộ, quyền của con người mới được bảo vệ. Ấy là đang nói tới thứ báo chí tự do, chứ báo chí mậu dịch, báo quốc doanh, báo định hướng thì chả kể. Thời nay, báo nhiều thì nhiều thật nhưng cũng chỉ như con khỉ Tôn Ngộ Không múa may với cái vòng kim cô trên đầu. Thiên hạ cười bảo nhau, cả gần nghìn cơ quan báo chí truyền thông cũng chỉ có chung một tổng biên tập là trưởng ban tuyên giáo. Nếu “tổng biên tập” là người hiểu biết, tử tế, cởi mở, khoáng đạt thì còn may, ít nhất cũng như các ông Trần Độ, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Hoàn, Hữu Thọ, chứ “ngoan” như chú Thưởng, hoặc ông thượng tướng thủ lĩnh đội AK47 thì báo chí chỉ còn biết ngậm ngùi, ngoài việc tung hô, tán tụng.
Trong chế độ cộng sản, để giữ uy tín, và cũng là cách chứng minh có tự do báo chí, nhà cai trị ít khi ban lệnh đóng cửa tờ báo, chỉ trừ những trường hợp đặc biệt. Báo “Trăm Hoa” của nhóm nhà thơ Nguyễn Bính hồi cuối thập niên 50 chỉ ra được vài chục số là chết đứ đự, có người bảo do lỗ vốn, hết tiền, nhưng cũng nhiều người khẳng định do nó đi ngược lại chỉ đạo của đảng nên sự thổi kèn đám ma là không tránh khỏi. Những “báo” như tạp chí “Giai phẩm mùa xuân, Giai phẩm mùa thu, Giai phẩm mùa đông” và báo Nhân văn cùng của nhóm Nhân văn (còn được gọi là Nhân văn - Giai phẩm) thoi thóp được vài số cũng bị lên đoạn đầu đài. Súng đẻ ra chính quyền, nên báo chí chả là cái đinh gì trong bàn tay sắt chuyên chính vô sản. Đầu thập niên 60, khi tôi bắt đầu đi học lớp vỡ lòng, thấy thày tôi còn cất giữ mấy tờ Giai phẩm và Trăm hoa trong tủ bán hàng, tít ngăn dưới cùng, lẫn vào đám sách chữ nho và chữ Pháp. Không hiểu sao sống ở nông thôn mà thày tôi lại có được thứ ấy, có thể do anh họ tôi làm việc ngoài Phòng đem về cho chú đọc, về sau chả biết chúng bị lạc đi đâu, thật tiếc. Nhiều tờ báo bị đóng cửa một cách khéo léo, như tờ “Độc lập” của đảng Dân chủ, tờ “Tổ quốc” của đảng Xã hội, vào năm 1988 khi 2 đảng bị giải tán do tự nguyện “hoàn thành nhiệm vụ” thì đương nhiên rắn mất đầu, không thể tồn tại. Tôi có chút kỷ niệm với 2 báo này. Hồi năm 1975, tập tọng làm thơ, tôi được đàn anh sừng sỏ có nhiều thơ đăng báo, kể cả báo Nhân Dân, báo Văn nghệ, là anh Bùi Trọng Cường vốn chơi thân với đám thi nhân Trần Hòa Bình, Bùi Quang Thanh, Đỗ Minh Tuấn…, dắt tới báo Độc lập (hình như trên đường Tràng Thi) và báo Tổ quốc gửi bài. Không biết trời đi vắng thế nào, được đăng 2 bài trên 2 báo, một bài về… bác Hồ, hì hì, một bài về bãi biển Đồng Châu, Thái Bình (thu hoạch sau chuyến đi thực tế), nhuận bút 18 đồng/bài, bằng cả tháng học bổng. Gần chục năm trước, tờ báo in “Sài Gòn tiếp thị” đang hồi tràn đầy sinh lực nhưng sau một số bài gây khó chịu cho chế độ, nó được đưa vào tầm tiêu diệt và chẳng bao lâu đã phải sáp nhập với báo khác, nói cho vuông là đội ngũ tan tác, danh tiếng chìm nghỉm, “than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu”. Đó cũng là cách đình bản, cấm cửa, bắt hoàn thành nhiệm vụ, diệt một tờ báo. Gần nhất, hồi tháng 11 năm ngoái (2020), tạp chí “Văn hóa Nghệ An”, tờ “báo” tỉnh lẻ nhưng cực kỳ chất lượng đã phải nói lời từ biệt bạn đọc sau 15 năm vang bóng; cả tờ báo kinh tế lừng lẫy “Thời báo kinh tế Việt Nam” cũng vậy, lý do chính là bị quy hoạch, không cho tồn tại như nó từng phục vụ bạn đọc.
Nếu người ta nói tới tự do báo chí ở xứ này, xin các vị đừng vội tin, đừng thấy gần 1.000 cơ quan báo chí truyền thông đang hoạt động mà ngây thơ cho rằng tự do là sự thật. So với thời Pháp thuộc, với thời chế độ Việt Nam cộng hòa ở miền Nam trước năm 1975, tự do báo chí thời nay chỉ là con số 0, chỉ tự do dưới cái vỏ mỹ miều, giả tạo.
Lại nói về báo Tin Sáng. Nó đã tung hoành trước năm 1975, tới sau ngày 30.4 năm ấy thì bị đình bản. Cả một chế độ còn bị khai tử bởi súng và xe tăng, huống chi tờ báo mỏng manh. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không cho phép báo tư nhân tồn tại, sau khi tờ “Trăm hoa” của thi sĩ Nguyễn Bính, tờ báo tư nhân cuối cùng trong chế độ mới, bị diệt. Mấy chủ báo, chủ bút ở Sài Gòn thậm chí nhiều anh còn được đặc cách đi… cải tạo, một kiểu nói văn vẻ, giảm nhẹ về việc đi tù. Nhưng mấy anh cộng sản vốn rất mưu mẹo, khôn lỏi. Chuyện lớn ích quốc lợi dân thì họ mù mờ chứ việc “tiểu nhân” thì cực thạo. Miền Nam mới được “giải phóng”, cần lợi dụng sự ngây thơ của dân chúng để tô điểm cho bộ mặt, họ bàn bạc cho phép ra đời vài tờ báo tư nhân. Tờ Tin Sáng của nhóm nhân sĩ trí thức (được lòng dân) Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Lan… tái sinh là vậy. Đó là những người làm báo giỏi. Nói chung, giới làm báo miền Nam giỏi hơn giới báo bắc, người làm báo chế độ cũ (Việt Nam cộng hòa) giỏi hơn đội ngũ báo cách mạng. Ai đã sống ở Sài Gòn những năm cuối thập niên 70, và 80 sẽ nhận ra điều này.
Thời tờ Tin Sáng còn sống, tôi đã nhiều lần mò mẫm tới trụ sở báo. Làm nghề dạy học nhưng tôi thích viết. Còng lưng đạp xe từ Chợ Lớn tới đường Bùi Thị Xuân quận 1, tòa soạn Tin Sáng nằm trong tòa nhà góc đường Bùi Thị Xuân - Tôn Thất Tùng. Chỗ này vốn là cơ sở trường học do nhà thờ Huyện Sĩ quản lý, gồm cả khu nhà rộng lớn là trường Bùi Thị Xuân bây giờ, còn tòa soạn báo Tin Sáng là chỗ Bệnh viện Phụ sản quốc tế bây giờ. Tôi rụt rè nộp bài, được các ông phụ trách báo đón tiếp niềm nở, vài lần nhìn thấy cả ông Ngô Công Đức, ông Hồ Ngọc Nhuận, ông Nguyễn Ngọc Lan. Các ông mặc lịch sự, ăn nói nhỏ nhẹ, khác hẳn bên thắng cuộc đôi khi tôi thấy bên tờ “Sài Gòn giải phóng” rất hách dịch. Tôi cũng được đăng vài ba bài trên Tin Sáng, về nhà thơ Maiakovski, về mùa xuân tươi đẹp ở miền Bắc, về thơ Tố Hữu, về chiến tranh cách mạng…, nghĩa là những thứ bây giờ có cho kẹo cũng không dám viết bởi chả ai đọc. Nhưng Tin Sáng lại cần thứ đó, ít nhất cũng giúp nó chứng tỏ đang đi đúng hướng chỉ đạo của các anh từ trong rừng (R) ra.
Có lần tôi được gặp ông Nhuận tại nhà anh ông, ông Hồ Ngọc Chiếu, trên đường Huỳnh Khương Ninh quận 1. Con ông Chiếu là cô Hồ Ngọc Thúy học lớp do tôi chủ nhiệm, vì lý do chi đó định nghỉ học, tôi và thầy hiệu trưởng bạn của ông Chiếu tới nói ông bố thuyết phục con đừng nghỉ. Cuối cùng thì cô vẫn học dự bị đại học và vào đại học chính thức. Trong nhà ông Chiếu, tôi nhớ bên dãy số chẵn, đối diện với Trường Huỳnh Khương Ninh hiện tại, nghe nói cũng gần căn nhà ông Lê Duẩn từng ở khi lén ở lại miền Nam sau hiệp định Geneve, tôi đã gặp cả mấy anh em họ Hồ Ngọc nổi tiếng: ông Chiếu, ông Nhuận, ông Cứ (Hồ Ngọc Cứ). Nghe họ nói chuyện, ngắm phong cách của họ, tôi hiểu rằng những nhân sĩ, trí thức Sài Gòn làm việc cho chính quyền cũ không phải là “ngụy”, không giống như những gì mà cộng sản đã tuyên truyền. Tôi cũng từng làm chung cơ quan với cô Nguyễn Ngọc Lan Chi, con cụ nhà báo-linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Cha thế nào thì con thế ấy, thông minh, nhỏ nhẹ, khiêm tốn, dịu dàng. Sài Gòn cũ đã tạo ra tầng lớp trí thức giỏi và tử tế, như thời trước người Pháp cũng sinh ra những con người như vậy.
Tin Sáng là tờ báo bán rất chạy. Nó chỉ bị cạnh tranh khốc liệt khi báo Tuổi Trẻ đã trở nên cứng cáp. Hầu như dân không mấy ai đọc báo “Sài Gòn giải phóng” (báo này chỉ dành chủ yếu cho cán bộ, đảng viên), họ chỉ mua báo Tin Sáng. Sự đời, nhiều khi con ếch chết bởi tiếng kêu quá vang. Nổi tiếng quá, lại của tư nhân, lại thỉnh thoảng bóng gió này nọ, lại nhất là sinh bất phùng thời, khi đang diễn ra cuộc “ai thắng ai” rất nguy hiểm cho cộng sản, nên tới giữa năm 1981, nhà cai trị sau khi đã bọc bông vào nắm tay, thụi cho Tin Sáng một quả chí tử, bắt nó phải công khai lên tiếng tự nhận đã “hoàn thành nhiệm vụ” trước bàn dân thiên hạ. Hồi đó, dư luận thắc mắc xôn xao ghê lắm, nhưng Tin Sáng đã tắc tử, tử bất cập ngáp. Những ông làm báo có sạn trong đầu như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung… được phen vỡ mộng. "Nhưng mộng mà thôi, mộng đấy thôi/Hoa tàn rượu ế ấy tình tôi/Bây giờ tôi hiểu thì tôi đã/Lầm lỡ tình duyên cũ mất rồi". Vỡ thì vỡ, làm gì được nhau. Làm báo cộng sản chỉ thế thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét