khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2020

Trích: Cicero & tiểu luận De Senectute Về Tuổi Già - Tác giả Người Lính Già Ỏegon

 

Cicero viết tiểu luận Về Tuổi già lúc tuổi 62 (như vậy là già rồi vào thời đại của ông), giữa những xâu xé chính trị của nền Cộng Hòa Rome và sự lo âu cho chính bản thân. Ông gửi tặng người bạn thân thiết nhất, Titus Pomponius Atticus, lớn hơn ông ba tuổi (109-32BC), một “đại gia”, một đồ đệ của Khoái Lạc chủ nghĩa –chủ nghĩa mà Cicero không mặn mà với– để nâng đỡ tinh thần bạn mình trước tuổi già và cái chết, nghĩa là qua đó tự an ủi chính mình. Ngoài ra, chính trong thời gian sống khủng hoảng và sợ hãi này, Cicero đã viết đa số những tác phẩm triết lý với tinh thần tự do, phóng khoáng, tao nhã và cao thượng.


De Senectute là tiểu luận được viết, cũng như De Amicitia, dưới thể đối thoại –mà văn chương thời đó, tại Athènes hay Rome, rất ưa chuộng cùng với kịch nghệ. Ba nhân vật trong cuộc đối thoại tưởng tượng này, về tuổi già, là hai người bạn trẻ tên Lélius và Scipion, và Cato Maior (Marcus Porcius Cato, còn gọi là Caton l’Ancien, 234-149BC), lúc ấy 84 tuổi, đã biết thế nào là kiếp già. Xin trích và dịch một đoạn nhỏ trong phần mở đầu:

I. "O Tite, si quid ego adiuero curamue leuasso, quae nunc te coquit et uersat in pectore fixa, ecquid erit praemi? [...] Et tamen te suspicor eisdem rebus quibus me ipsum interdum grauius commoueri, quarum consolatio et maior est et in aliud tempus differenda. Nunc autem uisum est mihi de senectute aliquid ad te conscribere. Hoc enim onere, quod mihi commune tecum est, aut iam urgentis aut certe aduentantis senectutis et te et me etiam ipsum leuari uolo; etsi te quidem id modice ac sapienter, sicut omnia, et ferre et laturum esse certo scio. Sed mihi, cum de senectute uellem aliquid scribere, tu occurrebas dignus eo munere, quo uterque nostrum communiter uteretur. Mihi quidem ita iucunda huius libri confecto fuit, ut non modo omnis absterserit senectutis molestias, sed effecerit mollem etiam et iucundam senectutem. Numquam igitur satis digne laudari philosophia poterit, cui qui pareat, omne tempus aetatis sine molestia possit degere. Sed de ceteris et diximus multa et saepe dicemus; hunc librum ad te de senectute misimus” [...]
“Titus ơi, nếu tôi đến giúp bạn và đánh tan những lo âu đang làm lòng bạn giao động, bạn sẽ thưởng công tôi như thế nào? [...]Tuy nhiên có những điều buồn mà tôi tưởng tượng cũng làm bạn thở than như tôi; hàn gắn những vết thương như thế không phải là một việc dễ mà tôi muốn nhận làm hôm nay. Bây giờ tôi chỉ tự nguyện bàn với bạn về tuổi già thôi. Tôi muốn cả hai chúng ta trút đi gánh nặng chung của tuổi già đang đe dọa hoặc đã thúc bách chúng ta; mặc dù tôi biết bạn chịu đựng gánh nặng đó, giống như tất cả những người khác, một cách khoáng đạt và không buồn phiền, và bạn luôn luôn có sự khôn ngoan đó: nhưng vì tự nguyện viết về tuổi già và tìm xem ai là người xứng đáng để tặng một công trình mà chúng ta có thể hưởng được kết quả chung, thì chính hình ảnh bạn đã hiện ra trong trí tôi. Bố cục của quyển sách này đối với tôi là điều thích thú đến nỗi không những nó làm tan biến trước mắt tôi những phiền toái của tuổi già mà còn cho tôi thấy tuổi già dễ thương và dịu dàng. Không bao giờ người ta có thể ca ngợi đủ một triết lý nào mà, đối với người nghe, chịu bỏ đi tất cả những cay đắng của mọi tuổi trong đời. Tôi đã nói nhiều và sẽ còn nói nhiều hơn nữa khi có dịp về những tuổi khác: tuổi già là đề tài của quyển sách tôi gửi cho bạn [...]”

Dĩ nhiên, trong một bài điểm sách ngắn ngủi, tiện nhân không thể dịch hết một tiểu luận dài 40 trang gồm 23 đoạn (sẽ mất cả hơn một tháng ròng), mà chỉ xin tóm lược ý chính. Thực ra, đây không hẳn là một cuộc đối thoại, mà đúng hơn, là mẩu độc thoại của Cato  –những người khác chỉ được dùng như cái cớ, hoặc bệ phóng, để Cato, và qua Cato, chính tác giả Cicero, có dịp trình bày quan niệm của mình về tuổi già. Cato l’Ancien là một nhân vật lịch sử của Rome được giới trẻ ngưỡng mộ và tin cậy như thần tượng.

Tựu trung, đối với nhân vật Cato, tức Cicero, có bốn vấn đề mà cổ nhân đã và sẽ luôn luôn trách cứ và than phiền về tuổi già –điều mà Cato cho là tầm bậy, vô căn cứ, và phản bác lại, dựa trên kinh nghiệm cá nhân và những bài học triết lý, phong tục của Rome và đời sống của nhiều người Romains trước đó, bắt đầu với Appius Claudius, và kết thúc với hai triết gia Hy Lạp Socrate và Platon.

1) Tuổi già làm con người xa lánh công việc (VI, A rebus gerendis senectus abstrahit): Về lời trách cứ này, Cato trả lời ngay: Nếu không đủ sức đảm đang công việc của người trẻ thì người già cũng có thể nhận nhiệm vụ khác, có khi quan trọng hơn. Gia đình và chính quyền cần sự thận trọng, khôn ngoan của tuổi già. Tất cả mọi việc cần được giải quyết bởi những lời khuyên bảo đúng đắn, và cái gì làm một người già trở thành cố vấn tốt, nếu không phải là sự chín chắn của tuổi? Vả lại, ngay cả khi không tham gia việc công, một ông / bà già cũng không thiếu cơ hội hoạt động tích cực, đó là học hỏi cho cá nhân và bắt trí óc làm việc, như Solon [NLGO ghi chú: một luật gia Hy Lạp đã sửa đổi hiến pháp Athènes để chính quyền có căn bản rộng rãi và công bằng hơn]  ‒là một người yêu thích học thêm mỗi ngày trong tuổi già.

Lời bàn của NLGO: Người già nên hoạt động bằng trí óc. Chí lý thay! Làm thơ, viết văn, hoặc thiện nguyện giúp đỡ cộng đồng, nhà thờ, nhà chùa, học đường v.v..., hoặc mỗi ngày mở emails, đọc và làm ơn trả lời, dù chỉ một lời không đáng chi. Tất cả, để khỏi bị sa vào tay hung thần thời đại, có tên là Alzheimer, tức bệnh lú lẫn. Cũng vậy, những văn nhân, thi sĩ nổi tiếng thường viết sách, làm thơ trong thời gian rời khỏi thế sự. Lấy ví dụ tiêu biểu: Montaigne (1533-1592), văn sĩ Pháp thời Phục Hưng, tác giả ba tập Les Essais, trong đó ông ghi chép những cảm nghĩ cá nhân sau khi đọc những tác phẩm của nhiều văn gia, đặc biệt của Cicero, Platon, Socrate. Trong những lúc tuyệt vọng và cô đơn tại lâu đài, nơi ông lui về ở ẩn, ông nhận thấy viết là một nhu cầu cấp bách và lấy đề tài, nhân vật từ chính ông (cf. Essais, II, 8). Cùng thời với Montaigne, bên ta, có Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với Bạch Vân am tập, gồm những bài thơ Nôm, ca tụng chữ nhàn và phong hoa tuyết nguyệt: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ / Người khôn người đến chốn lao xao là vì vậy. Còn hàng trăm văn thi nhân khác trên thế giới, ở mỗi thời đại, cũng vui thú hưởng tuổi già như thế. Trong số phải kể Victor Hugo (1802-1885), nhà văn, nhà thơ vĩ đại của nền văn chương Pháp, cho đến gần cuối đời vẫn yêu, vẫn viết, vẫn hoạt động chính trị.                  

Về sự khôn ngoan của tuổi già, điều đó hiển nhiên, không chối cãi. Bây giờ, ở các cộng đồng, người trẻ thường tình nguyện đứng ra gánh vác việc chung, ăn cơm nhà vác ngà voi, thay cho người già yếu sức. Rất tốt. Tuy nhiên cũng có một số người trẻ, mắc bệnh tự phụ, đôi khi coi thường, rẻ rúng người già, cho là lỗi thời, cố chấp, thủ cựu, lẩm cẩm, thậm chí nhà quê, và ngược lại, một số người già cho người trẻ là kiêu căng, hỗn láo, thiếu kinh nghiệm. Mâu thuẫn giữa già và trẻ, che giấu hay công khai, trong các cộng đồng hải ngoại là có, ta đừng lẩn tránh sự thật. Ví dụ, Ban Chấp Hành lựa vài ông già làm cố vấn cho có lệ, nhưng lờ đi ý kiến của họ, khiến họ thấy bất mãn, buông xuôi, âm thầm chịu đựng vì sợ nói ra, người trẻ buồn bỏ việc, sẽ không kiếm ai lo cho cộng đồng. Ví dụ nữa, ở một vài cộng đồng khác, các ông già, đa số là cựu quân nhân, đề nghị nên lấy danh xưng Cộng đồng người Việt tỵ nạn (Vietnamese Refugees), thay cho Cộng đồng người Việt gốc Mỹ (Vietnamese-Americans), để tuyên dương lý tưởng quốc gia cao cả, lòng yêu chuộng tự do của người Việt tỵ nạn, khác với những cộng đồng thiểu số khác đến Mỹ vì muốn tìm miếng cơm manh áo. Nhưng khi biều quyết, những người trẻ, sinh trưởng hoặc lớn lên tại ngoại quốc, không chịu hiểu như vậy, không cho điều đó quan trọng, đã bác bỏ. Vân vân...

2) Tuổi già lấy mất sức lực của một người (IX, Ne nunc quidem uires desidero adulescentis...): Cato trả lời rằng, đúng thế, tuổi già làm giảm đi sức lực thể xác, nhưng ông không bao giờ thấy nó làm hư hại sức lực tinh thần. Tập thể dục không thích hợp với các cụ ông, cụ bà, và luật pháp cũng như phong tục không bắt họ biểu dương sức mạnh thể xác. Nhưng nếu khi còn trẻ ta không làm hao mòn sức khoẻ do trụy lạc, thì vào tuổi xế bóng ta vẫn còn tìm thấy đủ nghị lực để góp ý kiến, lo cho việc nhà, việc nước, và nhất là soi sáng và hướng dẫn những người trẻ –là một việc tốt đẹp nhất của một lão gia. Không ai chối cãi thời gian cuối đời là một sự tàn suy về thể xác cũng như tinh thần; nhưng phải chiến đấu với nó để khỏi bị đè bẹp bởi điều mà người ta cứ tưởng là gánh nặng thời gian –chỉ thấy trên đôi vai gầy của những kẻ yếu đuối.

Lời bàn: Lặp lại một phần ý #1 trên. Vào thời Cicero, dĩ nhiên, không có những trung tâm thể dục, La Fitness hay Cascade, với những máy đi bộ, xe đạp tại chỗ, treadmill, v.v... như bây giờ. Không có bác sĩ bắt bệnh nhân tập thể dục cho hạ cholesterol, hạ đường, tiêu mỡ, không có những bệnh gây nên bởi thực phẩm “văn minh” đầy hóa chất, đặc biệt ma-dzê in China, mà ai cũng kinh sợ. Mà chỉ có những nơi tập luyện cho cơ thể cứng cáp, cường tráng, vai u thịt bắp, thích hợp với thanh niên, lính tráng, nhất là ở Rome, một đế quốc chuyên đi chinh phục thiên hạ và rất mê đấu trường (harena) và những trận giác đấu (gladiatores). Cho nên, Cicero mới có lời khuyên các cụ không nên tập thể dục trong nghĩa trên, sợ bị tẩu hỏa nhập ma. Chứ nếu tập cho khỏe, tùy theo sức lực, tuổi tác thì có sao đâu?

3) Tuổi già tước đoạt sự khoái lạc (XII, Sequitur tertia uituperatio senectutis, quod eam carere dicunt uoluptatibus): Nếu đó là khoái lạc thể xác (uoluptatem corporis), thì chúng ta, Cato nói, nên cám ơn tuổi già, thay vì kết án nó. Vì sao?  Vì nó giải phóng ta khỏi ách độc tài tàn ác của đam mê  –làm tàn suy tâm hồn, đui chột tinh thần, ném ta vào những dày vò khổ nhục. Để thay thế, còn có những cách hưởng (khoái) lạc một cách yên tĩnh, nhẹ nhàng, tuyệt diệu mà tuổi già có thể tìm thấy. Cato không sống như một lão gia buồn khổ trên đất đai miền Sabine của ông. Ông hưởng niềm vui và tự tạo những lạc thú mà dân dã đã biết trước khi có nền văn minh tinh tế, mà người ta gọi là lạc thú đơn giản của thời xưa. Vả lại, ông khẳng định vẻ quê mùa của ông không phải là cổ lỗ, thiếu lịch sự. Nhưng đối với ông, còn có những khoái lạc cao hơn tất cả những khoái lạc, mà tuổi trẻ quan tâm, và thuộc về mọi lứa tuổi. Đó là khoái lạc tinh thần, càng gây thú vị hơn khi càng được hưởng nhiều hơn. Chúng ta, ông nói, cũng đừng quên số đông dân quê đang sống trên đồng nội và sự hấp dẫn của một cuộc sống xa rời vòng danh lợi ồn ào, để chiêm ngưỡng những kỳ quan của thiên nhiên, bận rộn và chu đáo, tâm hồn bình an, không bị chi phối bởi nỗi phiền lo nào.

Lời bàn:  Ta nên hiểu “khoái lạc” mà Cicero nói người già bị “tước đoạt” trong nghĩa xác thịt, tức nhục dục. Montaigne, tự về hưu và cho mình già lúc mới 37 tuổi, vào năm 1570, còn sung sức, đã phản đối mạnh mẽ ý kiến của Cicero, theo nghĩa xác thịt ấy, thì cũng dễ hiểu thôi. Montaigne viết: “C’est injustice d’excuser la jeunesse de suivre ses plaisirs et défendre à la vieillesse d’en chercher” (Essais, II, 9: "Thật là bất công khi dung thứ cho tuổi trẻ theo đuổi khoái lạc nhưng lại cấm tuổi già đi tìm nó”). Tuy nhiên, Cicero rất đúng khi cho rằng “tuổi già tước đoạt sự khoái lạc”, vào thời của ông. Nghĩa là, ông hàm ý, theo định luật sinh lý tự nhiên, tình yêu và đòi hỏi xác thịt giữa đôi nam nữ rất cao khi còn trẻ, vì có vậy, loài người mới được tồn tại. Về già, ham muốn nhục dục giảm đi, teo dần, cho đến khi không còn gì hết. Lão ông nào cũng than phiền về vấn đề “trên bảo dưới không nghe”, trơ gan cùng tuế nguyệt, còn lão bà thì sợ chuyện ấy như sợ... chuột cống.

Đến đây thì Cicero không đúng nữa. Vì vào thời hiện đại, có thần dược Viagra, cứu tinh của hàng triệu cụ ông. Tuy nhiên, theo các bác sĩ, người ta thường hiểu lầm về công dụng của Viagra và dòng họ cường dương của nó. Thuốc này không có tác dụng kích thích sự ham muốn nơi đàn ông từ tuổi sồn sồn, mà chỉ làm sự ham muốn kích thích ấy, nếu có, khi đã tiến lên “thời kỳ quá độ” như xã hội chủ nghĩa, được bền bỉ, theo tên gọi của nó. Thế thôi. Kích thích hay không cũng còn “tùy người đối diện”. Đàn ông, già hay trẻ, luôn thèm cái mới, do “vũ khí” được thiết kế riêng, hướng ngoại, lúc nào cũng trong thế biểu dương lực lượng, rất “hoành tráng”, sẵn sàng tấn công, nhất là đối với “tàu lạ” (cf. ca dao bình dân: “Trai [hay ông già] thấy [tàu / của] lạ như quạ thấy gà con”). Cho nên, cổ nhân ta có câu châm ngôn để đời: “Văn mình, vợ người”. Diễn nôm: ai cũng tự khen thơ văn của mình, dù dở ẹc, tự mê, tự sướng, tự phong là số một. Còn vợ mình, trẻ đẹp không cần biết, nhưng bởi cái tội quá quen đường xưa lối cũ, như ngựa, quá nhàm như cơm bữa, luôn luôn thua vợ của thằng cha hàng xóm. Ông chồng nào mà bỗng dưng đem vợ mình ra khen nức nở, thề sống thề chết rằng dù mưa, dù nắng, dù bão tố, “anh vẫn chỉ yêu em” là xạo, là có “ý đồ” gì đó, hoặc something wrong trong não bộ. Các cụ ta nói gì ít khi, hoặc không bao giờ, sai. Chả thế mà trong Thánh Kinh, quyển Exodus (và phim The Ten Commandments, 1956, do Cecil B. DeMille đạo diễn với tài tử Charlton Heston và Yul Brynner), kể việc dân Do Thái sau khi thoát khỏi gông cùm nô lệ từ Ai Cập được Moïse dẫn về miến đất hứa, Chúa đã hiện ra trên núi Sinaï, ban bố cho dân Mười Điều Răn phải giữ, và điều thứ 9 là: “You shall not covet your neighbor’s wife” (dịch nguyên văn: “Ngươi không được ham muốn vợ của người hàng xóm”, không phải câu “Chớ muốn vợ chồng người”, như lời kinh của những ông cố đạo Tây dịch ẩu dành cho bổn đạo An Nam đọc thường ngày). Rõ ràng, Chúa chỉ cảnh cáo đám đực rựa, mà lờ đi các bà các cô. Vì sao? Do hệ thống tâm sinh lý có tính cách phòng thủ, kín đáo, phụ nữ có chồng nói chung –dĩ nhiên, trừ những luật trừ– thường xem tình yêu, tình nghĩa là quan trọng và hấp dẫn hơn nhu cầu thể xác, và không dễ gì mê và muốn ngả vào vòng tay của anh hàng xóm, dù đẹp trai, giàu có cách mấy, đừng tưởng bở. Theo lời của một số phụ nữ quen với tiện nhân, nếu có một thằng chồng tốt mã, nhưng thô bạo, thất học, say xỉn, lười biếng, thì các bà cũng chỉ tủi thân, so sánh với anh chồng hiền lành, chịu làm ăn, lịch sự, chân chỉ hạt bột của chị hàng xóm tốt phước mà thôi, và điều đó không hẳn là có ý ngoại tình, dù là trong tư tưởng. Lục trong kho tàng cách ngôn, châm ngôn Việt Nam ta, không có câu nào dính líu đến cái vụ “chồng người” với nghĩa thèm muốn tình dục. Chỉ có câu: Ông ăn chả bà ăn nem, nhưng trong cảnh huống khác (tại ông “gây sự” trước). Ngoài ra, thì: Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc người, hoặc: Không thương dù có đeo vàng / Bằng thương chiếc áo vá quàng cũng thương.

Cách đây vài năm, tiện nhân được đọc trên Mạng bài của một ông tu-bíp, có lẽ ế khách, hoặc về hưu, rảnh quá, ngồi kể chuyện hai vợ chồng già trên tám bó mà vẫn làm yêu dài dài, và khỏi cần thuốc Minh Mạng, hay Viag-ra, Viag-vô gì ráo trọi. Lúc ấy và ngay bây giờ, tiện nhân không tin, không phải vì ông cụ mất khả năng tác xạ, trái lại thế, nhưng không tin vì địch quân không phải “tàu lạ”, mà chính là bà cụ, tàu quen, đã sống với nhau bao năm qua rồi mà bây giờ vẫn đêm bảy ngày ba, vô ra không kể, như hồi còn mơn mởn đào tơ, thì quả là quá xạo, hoặc họ là một cặp vợ chồng già over-heat hay over hot, một cách bệnh hoạn, pathologiquement, chăng ?

Nhân việc này, tôi nhớ một ông bạn chuyên nghiên cứu về khả năng tình dục của các cụ khứa lão, có kể chuyện dùng thuốc Viagra của hai người quen, một ông cỡ tuổi 78 của Joe Bi Đen: một hôm, Trời thương cho vớ được một tàu lạ, một em bò lạc trẻ đẹp tựa Thúy Kiều, bèn nốc vào 2 viên cho chắc ăn. Ba phút sau, ông ta nằm ngay đơ cán cuốc và ngáy ầm ĩ, lại còn mớ nữa. Cũng vậy, một ông khác, già hơn Bi Đen 2 tuổi, chỉ mới nuốt vào một viên thôi, mà đã sùi bóp mép, mắt trợn ngược, hai tay bắt chuồn chuồn, khiến tàu lạ hốt hoảng gọi 911, và thành thật khai báo với một nhân viên cứu thương, người An Nam: “Dạ, em chưa làm gì gáo (ráo), mà lão ta đã lăn đùng ra, sùi bọt mép, làm em gun (run) quá...”  

Trở lại với các cụ ta ngày xưa. Cũng như những văn nhân tài tử về già khác, cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) trên bảy bó vẫn còn đi hát ả đào. Và còn cưới vợ lúc 73 (cf. giai thoại: khi bị vợ hỏi tuổi, cụ trả lời ỡm ờ, bằng câu thơ chữ Hán: “Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam”, nghĩa là “năm mươi năm trước, anh hai mươi ba”). Hoặc trước đó, cụ Nguyễn Trãi (1380-1442) về hưu rồi, còn cưới nàng Thị Lộ “xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ” làm thiếp. Bây giờ, thấy chung quanh, qua sách báo và trên thực tế, nhan nhản biết bao cụ Việt Kiều lãnh tiền già, tiền bệnh, tiền khùng giả, welfare, food stamps, hùng dũng hồi hương, viện cớ thèm chùm khế ngọt quê hương, hoặc xây mộ cho cha mẹ, ông bà, nhưng thực ra chỉ muốn trả thù dân tộc (mà Phạm Duy là một, đã thú nhận sáng tác bài Thiên Duyên Tiền Định, khi nằm trong khách sạn với một em chân dài), nghĩa là cặp kè, ôm ấp những cô đáng tuổi con tuổi cháu, khiến thiên hạ đàm tiếu, chế nhạo, không sai, là “trâu già gặm cỏ non”. Về kỹ thuật, chuyện “gặm cỏ non” ấy có thể thực hiện (trừ những cụ máy móc hư hại nặng, vô phương recycle) và một lần nữa chứng minh lời của tiện nhân: đàn ông già mà còn ham muốn xác thịt hay không, làm yêu có “chất lượng” hay không, là tùy “người đối diện”. Về mặt đạo lý, chê bỏ “cỏ già”, tìm gặm “cỏ non” lại là một chuyện khác.

Ngoài ra, lời cảnh cáo của Cicero có lý lắm: thú vui nhục dục có tác hại trên sức khỏe của đàn ông nói chung, bất kể hạng tuổi, và đặc biệt các cụ ông nói riêng. Kìa xem, các vua chúa ngày xưa ham mê sắc dục quá độ, ông nào không chết sớm thì cũng trở thành “ngọa triều”, dù được hỗ trợ bởi thần dược. Thú vui, triết gia Latin gợi ý, mà tuổi già cần tận hưởng, đó là hưởng nhàn, thú vui tao nhã, sống đời bình dị của dân quê, viết văn, làm thơ, vui cùng trăng nước. Như hầu hết các cụ của ta ngày xưa đã làm theo.

4) Tuổi già là dấu hiệu tiên phong của cái chết (XIX, Quarta restat causa, quae maxime angere atque sollicitam habere nostram aetatem uidetur, adpropinquatio mortis, quae certe a senectute non potest esse longe): Cuối cùng, tuổi già không phải sợ cái chết, nhưng đó là lúc phải nhìn và thấy nó gần hơn, và nếu được đánh giá đúng, cái chết sẽ là chặng cuối cùng mơ ước của một cuộc hành trình lâu dài và khổ sở. Ở tuổi hoa niên, người ta không có điều gì chắc về cuộc đời cho bằng khi bước vào thời kỳ xế bóng: Cái chết của một người già sẽ tự nhiên hơn và êm đềm hơn [i.e. hơn cái chết của một người trẻ]: tuổi già như một trái cây chín rụng, rất nhẹ nhàng, thanh thản. Phải chăng tất cả mọi sự đều đi đến kết thúc đó ư và có phải chết là một điều tốt đẹp khi sự no đầy, chín muồi đã đến? Tuy nhiên điều đã tăng nghị lực cho con người để trực diện cái chết mà không sợ hãi, đó là hy vọng vào sự bất tử [ở đời sau]. Cato cho những bạn trẻ của mình thấy rằng tất cả những tâm hồn cao thượng đều đã linh cảm về sự bất tử và gặp được nó bên trên những nấm mồ; ông nhắc lại những lập luận của những triết gia phái Socrate và tất cả những chứng cớ hay nhất mà trong thời cổ đại người ta đưa ra để chứng minh chân lý cao cả –đưọc dạy bởi Platon và ông thầy siêu việt của mình. Cato nói: “Ôi đẹp thay cái ngày mà tôi sẽ được đi dự buổi gặp gỡ nơi thiên đình, buổi họp thần linh của các tâm hồn, sẽ được giải thoát khỏi sự chung đụng bẩn thỉu với đám người hèn hạ. Tôi sẽ được sum họp với tất cả những vĩ nhân mà tôi đã nói đến, và giữa họ, đứa con trai yêu quý của tôi, là người tốt nhất, nhân đức nhất trên đời.” (O praeclarum diem, cum in illud diuinum animorum concilium coetumque proficiscar cumque ex hac turba et conluuione discedam! Proficiscar enim non ad eos solum uiros, de quibus ante dixi, uerum etiam ad Catonem meum, quo nemo uir melior natus est, nemo pietate praestantior...) Tuổi già là gì, nếu không phải là bình minh của một ngày vĩnh cửu?

Lời bàn: Khác với Cicero, Montaigne đã dành nhiều đoạn dài để bàn về sự chết. Điều làm ông quan tâm không phải là tranh luận về câu hỏi chúng ta sẽ ra sao sau khi chết, mà là thái độ ta phải có trước khi cái chết xảy đến. Như vậy ông sống trong trạng thái phi thời gian: sống từng ngày và đợi cái chết từng ngày, biết chắc rằng mình không bất tử. Ông viết: “Le plus long de mes desseins n’a pas un an d’étendue: je ne pense désormais qu’à finir; je me défais de toutes nouvelles espérances et entreprises; je prends mon dernier congé de tous les lieux que je laisse, et me dépossède tous les jours de ce que j’ai” (Essais, II, 28, 29 “Kế hoạch dài nhất của tôi sẽ không đầy một năm: từ nay tôi sẽ chỉ nghĩ thực hiện nó cho xong; tôi cởi bỏ những hy vọng mới và công việc mới; tôi từ giã lần cuối những nơi tôi bỏ lại, và mỗi ngày tôi tự tháo gỡ những gì tôi đang có”).

Montaigne chống quan niệm của phái Khắc Kỷ, mà triết gia Latin Sénèque (4BC-AD65, thầy dạy của Néron, sau bị hôn quân ép tự tử) là một tín đồ trung thành, rất thịnh hành vào cuối thời Trung Cổ, theo đó công việc duy nhất của một người già là cam phận, chuẩn bị chết như thế nào (Essais III, 12). Cũng như Cicero, Montaigne không sợ chết, trái lại xem cái chết như một biến cố tự nhiên. Điều làm ông sợ nhất là cái mà ông gọi “le masque de la mort” (Essais, I, 20, “mặt nạ của sự chết”), tức là những nghi thức, lễ lạt chung quanh người chết, tiếng gào khóc của mẹ, vợ, con cái, sự thăm viếng của bạn bè, người thân, một căn phòng thiếu ánh sáng, hàng nến thắp, bác sĩ và những vị tu hành; “Somme toute horreur et tout effroi autour de nous. Nous voilà déjà ensevelis et enterrés” (cf sđd. “Tóm lại, thật là khiếp sợ và kinh khủng chung quanh chúng ta. Xem kìa, chúng ta đã bị tẩm liệm và chôn cất rồi”).

Thời Montaigne chưa có vụ phủ cờ. Đây là một vấn đề “thời sự” vô cùng tế nhị, nhậy cảm. Trên Mạng và báo giấy, có nhiều tranh cãi gay gắt về việc này, và tiện nhân thấy bên nào cũng có lý. Phủ, hay không phủ cờ, là sự quyết định tối hậu, lúc nào cũng đúng, của người sắp lìa đời hoặc tang gia, mà ta phải tôn trọng. Riêng tiện nhân, tự nhận mình không bao giờ xứng đáng với vinh dự cao quý ấy mà tổ quốc dành cho, càng không xứng đáng khi đã không làm tròn nhiệm vụ đối với đất nước (như hai câu thơ não lòng của thi sĩ Hà Huyền Chi: “Mẹ ơi con mẹ đã già / Giữ quê quê mất giữ nhà nhà tan”), dù có biện minh cách nào chăng nữa. Và nếu muốn (như một cô còn trẻ chưa bao giờ là quân nhân phát biểu trên diễn đàn) có một lá cờ trên hoặc trong quan tài để biểu lộ lý tưởng quốc gia và tình yêu đất nước, tiện nhân sẽ yêu cầu gia đình tự tay thực hiện điều ấy trong vòng riêng tư, không dám làm phiền toán chung sự hải ngoại, gồm những đồng đội sĩ quan rất oai hùng trước đây.
 
B. Tiểu luận được kết thúc, phần XXIII, bởi những câu như sau mà tiện nhân xin trích dịch nguyên văn:

“Quod si non sumus inmortales futuri, tamen exstingui homini suo tempore optabile est. Nam habet natura, ut aliarum omnium rerum, sic uiuendi modum. Senectus autem aetatis est peractio tamquam fabulae, cuius defatigationem fugere debemus, praesertim adiuncta satietate. Haec habui, de senectute quae dicerem, ad quam utinam perueniatis, ut ea, quae ex me audistis, re experti probare possitis”.

(“Cho dù chúng ta không bất tử, nhưng đó luôn luôn sẽ là một ân huệ cho con người được an nghỉ đúng thời điểm. Tất cả do sự tính toán bởi thiên nhiên, tất cả phải kết thúc, ngày tháng của con người cũng như tất cả những cái khác. Tuổi già là hồi kết của tuổi đời cũng như của một vở kịch, mà nếu kéo quá dài sẽ làm ta mệt, phải bỏ sân khấu, đi trốn sự chán chê. Đó là điều mà tôi muốn nói với các bạn về tuổi già. Cầu mong các bạn một ngày sẽ đến giai đoạn đó và kinh nghiệm của các bạn sẽ chứng minh điều tôi mới nói”).

Lời bàn: Cicero đã nói quá rõ, và quá đúng, về tuổi già cũng như cái chết. Những triết gia thời cổ đại Hy Lạp và sau này các nhà thần học Công giáo từ Trung Cổ thường ví đời sống là một cuộc hành trình, không hơn không kém, trên cõi trần gian tạm bợ. Triết lý của Cicero không khác gì, chỉ thêm ẩn dụ độc đáo của một nhà hùng biện: đời là một vở kịch lớn, mà tuổi già là màn kết thúc, cần phải được chấm dứt bằng sự rút lui khỏi sân khấu hoặc cái chết, đúng thời điểm, của nhân vật trước khi khán giả bắt đầu thấy chán ngán, hoặc trước khi những em-xi đám cưới chuyên nghiệp vô duyên lải nhải “xin quý vị cho hai họ nhà trai nhà gái một tràng pháo tay thật lớn ạ...”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét