khktmd 2015
Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020
Kỷ Niệm Với Nhạc Sĩ Lam Phương- Tác giả Hòang Oanh
Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020
Hiện Trạng Dân Trí, Quan Trí Và Dân Khí Của Người Việt- Tác giả Trần Văn Chánh
Một ngày nọ, tôi có dịp vào một hiệu sách nhỏ (chủ yếu bán theo phương thức online) ở quận Bình Thạnh (TP. HCM), tình cờ gặp một em sinh viên đang học khoảng năm thứ III khoa Sử. Em tìm mua quyển Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (bản dịch của Ban Tu thư Đại học Huế trước 1975) đã được tái bản vài năm gần đây. Em cho biết nhà đã có bản in cũ (trước 1975), giờ muốn mua thêm bản mới. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao chịu tốn tiền vô ích vậy, thay vì dùng bản cũ thậm chí còn tốt hơn (vì là ấn bản quý hiếm), thì được em cho biết, đại khái: Cháu đã có bản cũ nhưng không dám dùng nó để trích dẫn trong các bài viết, vì sợ bị “đánh giá” đã dùng cuốn sách liên quan tới chế độ cũ, trong khi lý lịch gia đình cháu không được tốt (hiểu là cha chú có dính tới ngụy quân ngụy quyền sao đó). Tôi ngạc nhiên thở dài nói với em đó: “Em là sinh viên thuộc lớp trẻ, đại diện cho tương lai của đất nước, mà nhát vậy sao?”. Rồi thôi, không tiếp tục câu chuyện nữa, sợ em buồn, hoặc nói thêm nữa có lẽ cũng không hiểu hết ý, vì em đã “định kiến” như vậy rồi. Thật tội nghiệp!
Về nhà, tôi hỏi lại một bạn trẻ khác đã từng dạy đại học khoa Sử, rằng câu chuyện về em sinh viên kể trên là cá biệt hay có tính phổ biến, thì người bạn cho biết: Hiện tượng đó là có thật, nhưng cũng có phần nào cá biệt.
Tôi ngẫm nghĩ: Tuy không phổ biến, nhưng có thật, và phần nào cá biệt, như thế cũng đủ rầu lắm rồi. Sinh viên là thành phần trí thức trẻ, mà nhếch nhác như vậy, thì còn trông mong gì! Và dân khí (chí khí của dân) tệ hại, là do đâu? Em sinh viên kể trên, nhờ thông qua bậc đại học, có thể phát triển tri thức khá, nhưng có tri thức mà chí khí tầm thường nhếch nhác quá thì phỏng có thể đóng góp được gì cho xã hội? Khi ra đời làm việc, em có dám phát biểu chính kiến thật của mình về một vấn đề gì đó không? Hay cũng giống như mấy ông cán bộ CS có chức có quyền?
Giới trẻ Việt
Lại nói về “quan trí”. Hai chữ này tra trong từ điển tiếng Hán và tiếng Việt đều không có. Đây là một từ mới (có ý nghĩa hơi tếu) đặt ra gần đây để chỉ trình độ tri thức, hay còn gọi cái tầm nhìn, của giới quan lại, tức các cán bộ đảng viên CS giữ chức vụ từ tương đối cao đến rất cao trong bộ máy nhà nước. Quan trí Việt
Tôi có ông bạn nhà báo, kể lại, anh ta gặp một ông đã nguyên là Thường trực Ban Bí thư trung ương. Trong lúc hàn huyên, bạn tôi hỏi ông này có theo dõi thông tin trên các mạng xã hội không, thì ông cho biết hằng ngày chỉ đọc báo Nhân Dân và xem tivi thôi. Tôi nghe vậy kêu trời, luận rằng nếu ông ta nói thật thì có nghĩa ông quá kém, trong thời đại bùng nổ thông tin mà ông kém năng động như vậy thì làm sao đủ kiến thức để điều khiển các cấp dưới và quản lý điều hành xã hội (vốn từng bước thay đổi, diễn biến rất nhanh); còn nếu như ông ta nói dối (có đọc báo mạng mà giấu) thì lại là quá hèn! (cần gì phải nói dối?). Lúc đó, vừa xảy ra vụ Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) chừng vài tuần, công an huy động đại quân tấn công vào cánh đồng Sênh giết chết cụ Lê Đình Kình làm xôn xao dư luận, hỏi ông có nhận định thế nào không thì ông giơ hai tay lên nói: “Cho tôi xin”. Có nghĩa là ông “mũ ni che tay”, vô cảm và vô trách nhiệm, tuyệt đối tuân thủ theo chủ nghĩa sống chết mặc bây, hay còn gọi là “mặc kệ nó” (mackeno). Ông là đại thần trong triều, mà quan trí và quan khí của ông như vậy, thử hỏi những kẻ cấp dưới làm việc xung quanh ông lúc ông còn đang cầm quyền là thế nào?
Một lần khác, có dịp trò chuyện với một cô có bằng tiến sĩ, giữ chức Phó giám đốc một nhà xuất bản (hiện đã lên Giám đốc), cô hỏi tôi đạo Cao Đài có khác với đạo Hòa Hảo không. Một anh Tổng biên tập một nhà xuất bản khác, khi người ta đưa tập bản thảo có tên là “Đạo uyển” tới để duyệt xin giấy phép xuất bản, anh ta hỏi một nhân viên cấp dưới “Đạo uyển là đạo gì?”, vì tưởng “Uyển” là tên của một tôn giáo! (như đạo Khoai, đạo Dừa…).
Tôi không có thói quen hoặc lấy làm hứng khởi biếm nhẽ chỗ dốt của người khác, dù người đó là ai, trái lại hết sức thông cảm với họ, vì cho rằng hiện trạng quan trí-quan khí kém cỏi như vài thí dụ kể trên không phải do chính bản thân họ, mà chủ yếu do thể chế chính trị độc tài toàn trị mang tính giáo điều và chính sách ngu dân tạo nên. Nó có gốc tận từ bên Liên Xô (cũ) và nhất là bên Tàu, mà các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam đã có thời kỳ cho du nhập vào để làm phương tiện trị dân theo đường lối tập thể hóa trấn áp dân chủ và quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Như chúng ta đều biết, trong suốt thời kỳ Mao Trạch Đông cầm quyền, lời nói của Mao luôn được coi là thiên kinh địa nghĩa. Trong thời kỳ Đại cách mạng văn hóa, ở Trung Quốc lưu hành rộng rãi một cuốn sách nhỏ loại bỏ túi, gọi là Mao Chủ tịch ngữ lục, mà cán bộ tuyên huấn hoặc các chính trị viên Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh cũng có người dùng làm sách cẩm nang, coi là khuôn vàng thước ngọc phải noi theo.
Để hiểu thế nào là chủ nghĩa giáo điều, tưởng cũng nên nhắc lại một định nghĩa lấy từ trong bộ từ điển triết học cũ của Liên Xô (cũ), được biên soạn đồng thời với thời kỳ Mao Trạch Đông làm cách mạng văn hóa, ở mục GIÁO ĐIỀU, CHỦ NGHĨA GIÁO ĐIỀU: “Giáo điều là một nguyên lý mà người ta tiếp thu một cách mù quáng, bằng sự tín ngưỡng, không có phê phán, không chú ý đến những điều kiện ứng dụng nó. Chủ nghĩa giáo điều là đặc điểm của tất cả những hệ thống lý luận bảo vệ cái lỗi thời, cũ kỹ, phản động và chống lại cái mới, cái tiến bộ…” (Từ điển triết học, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1960, tr. 312). Nếu hiểu theo nghĩa này, thì Việt
Chí khí hèn kém của dân cộng với chí khí bại hoại của quan, hợp chung lại thành “dân khí” Việt
Muốn thay đổi hiện trạng dân trí và dân khí để xây dựng đất nước hiệu quả hơn, thiết nghĩ, cái công thức “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” (Mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, chú trọng dân sinh) do cụ Phan Châu Trinh phát biểu một thế kỷ trước đây vẫn còn thích hợp để đem ra áp dụng.
Đại khái, cần bãi bỏ chính sách ngu dân qua việc ép buộc phải học phổ biến chủ nghĩa Mác-Lênin trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp (chỉ giữ lại bộ phận triết học Mác-Lênin như một phần của bộ môn lịch sử triết học thế giới). Phê phán chủ nghĩa giáo điều kiểu Liên Xô cũ và kiểu Mao Trạch Đông. Chống tệ sùng bái cá nhân và “giải thiêng” một vài nhân vật chính trị thuộc thế hệ tiền bối.
Về đường lối xây dựng chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội, cần bãi bỏ phương pháp lãnh đạo-chỉ đạo bằng các bản nghị quyết và các bản kế hoạch 5 năm đầy tính giáo điều, rập khuôn theo kiểu Liên Xô, Trung Quốc, trên thực tế là chưa bao giờ được thực hành đúng, và vì những thứ này trước nay đều làm cho sự vận hành của bộ máy hành chính trở nên xơ cứng không đạt hiệu quả thiết thực. Thay vào đó, chỉ cần những chính sách lớn cơ bản đúng là được, linh động thay đổi tùy theo tình hình thực tế của mỗi lúc mỗi thời.
Bãi bỏ một số đoàn thể vô dụng và có hại cho dân trí-dân khí như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… Thay vào đó là những tổ chức có tính định hướng và giáo dục, tương tự như hiệu đoàn nhà trường hoặc tổ chức Hướng đạo trước đây.
Thực hiện một cách thực chất dân chủ hóa rộng rãi đời sống xã hội như những điều đã được ghi trong Hiến pháp Việt Nam 2013, đặc biệt về các quyền tự do dân chủ, như tự do bầu cử ứng cử, tự do báo chí, lập hội, biểu tình… Cho phép thành lập báo chí và nhà xuất bản tư nhân hoạt động trong khuôn khổ của Luật Báo chí và Luật Xuất bản (có sửa đổi, bổ sung theo hướng tiến bộ hơn). Khuyến khích xuất bản nhiều loại sách trong tủ sách tinh hoa nhân loại về chính trị, văn hóa… (như phần nhiều các sách của nhà xuất bản Tri Thức trong thời kỳ ông Chu Hảo làm giám đốc).
Với sự phân tích khách quan về dân trí, quan trí và dân khí cùng vài gợi ý đề nghị sơ lược như trên, các nhà đương cuộc có trách nhiệm hiện nay tất yếu đang phải đứng trước một trong hai lựa chọn quyết định mang tính lịch sử: Hoặc quý vị cứ tiếp tục ngu dân và làm thui chột dân khí bằng tất cả những gì cũ kỹ đã làm từ trước tới nay (như trấn áp dân chủ…) để tiếp tục giữ được chính quyền nhưng dân tộc thì bị lụn bại; hoặc quyết tâm chuyển hướng sang phương châm “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, mà trong tình hình hiện nay, “chấn dân khí” là vô cùng quan trọng, để đất nước Việt Nam trở nên hùng cường có thể sánh vai cùng các bè bạn năm châu trên thế giới.
Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020
Bánh Phồng- Tác giả Anh Tú
Sai Một Ly Đi Một Dặm !
Rất nhiều ca khúc nhạc Việt khi đối chiếu lời ca phổ biến qua thu âm, thu hình của ca sĩ hiện nay với văn bản gốc có sự khác biệt. Đáng nói là sự sai lời này làm sai lệch ý nghĩa mà tác giả diễn đạt qua từ ngữ tiếng Việt như những dẫn chứng sau đây.
Ca khúc làm thay đổi số phận của nhạc sĩ Lam Phương, "Thành phố buồn", lâu nay người ta vẫn hát: "Rồi từ đó, chốn phong ba, em làm dâu nhà người", liệu có đúng?
"Chốn phong ba", nghe cũng có lý, nghĩa là nơi nhà chồng cô ấy sắp về làm dâu ("phong ba bão táp"), vì thế mới "âm thầm anh tiếc thương đời". Nhưng chẳng phải vậy, ở đây, tác giả dùng từ "trốn" (trốn chạy/ trốn tránh) khỏi cuộc tình lắm phong ba để yên bề gia thất, "làm dâu nhà người" nhằm kết thúc cuộc tình đó, khiến cho "anh" đau buồn sững sờ, ngay cả "Tiếng chuông chùa chầm chậm thê lương, tiễn đưa người quên núi đồi, quên cả tình yêu". Ta thấy rõ "em" chủ động trong sự chia tay này, vì thế cung bậc cảm xúc của Lam Phương mới đớn đau, da diết tiếc nuối đến vậy.
Tương tự, "Bài thánh ca buồn" của nhạc sĩ Nguyễn Vũ có câu mà nhiều ca sĩ hát: "Rồi một ngày áo trắng phai màu", tất nhiên, theo cách hiểu theo năm tháng trôi đi, chiếc áo nhuốm màu thời gian không còn trắng như xưa. Thật ra, chính xác phải là "thay" chứ không phải "phai". Nếu "phai" sẽ không ăn nhập gì với câu kế tiếp: "Em qua cầu xác pháo theo sau". Nghĩa là cô gái mà tác giả yêu say đắm nay đi lấy chồng (hình ảnh tượng trưng qua cụm từ "xác pháo"). "Thay" ở đây không chỉ nhằm nói lên sắc màu của áo sử dụng trong ngày "lên xe hoa", mà còn nằm trong chuỗi từ "thay lòng đổi dạ" nữa. Ngụ ý sâu xa là thế.
Văn bản ca khúc “Thành phố buồn”, xuất bản 1973
Với sự cân nhắc có chủ đích, người nhạc sĩ đã gửi gắm dù chỉ trong một từ nhiều ẩn ý của mình, vì vậy khó có thể thay đổi. Điều này còn thấy qua "Bông bí vàng" của Bắc Sơn, có một câu mà nhiều người đã hát: "Hái bông bí em trồng, anh đem luộc cầu xin". Ai đời, đi hỏi con gái người ta mà lại hái bông bí đem luộc làm quà sính lễ?
Vậy, đúng là "anh đem lụa cầu xin"? Cho dù anh nghèo ("Nhà anh, dậu đổ bìm leo") nhưng cũng không vì thế mà không có quà sính lễ tương xứng với em là "lụa". Từ "lụa" rất đắc địa khi nó còn là hình ảnh để nói về người thiếu nữ như ca dao có câu: "Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai". Thì nay, em vào tay anh đấy, ngụ ý qua hành động "anh đem lụa cầu xin". Ấy là ý tại ngôn ngoại.
Khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: "Thành phố hoang vu như một lần qua cuộc tình", ta hiểu rằng khi tác giả trải qua cuộc tình - cuộc tình đó đã xa, đã trở thành quá khứ thì ngay cả thành phố, chốn phồn hoa đô hội đó cũng trở nên hoang vu, vì rằng cảm giác này thuộc về tâm lý: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Truyện Kiều). Chỉ "một lần" đó thôi mà đã thấy "thành phố hoang vu", thế mới buồn xiết bao, tâm tư xiết bao. Thế nhưng có người lại hát: "Thành phố hoang vu như đời mình trong cuộc tình". Như thế là nói vống lên, không sát thực tế, hoàn toàn không thể xảy ra, thành phố ăn nhập gì với "đời mình trong cuộc tình" mà nó trở nên hoang vu? Nó chỉ hoang vu khi chính mình cảm nhận bằng cảm giác và so sánh "như một lần qua cuộc tình". Chỉ "một lần đó" mà thôi. Còn nếu thành phố hoang vu như đời mình, suốt cả đời mình thì không thể.
Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020
Người Ở Lại Rừng Phong- Tác giả Nguyễn văn Tới
Năm 2020 là một năm đầy sóng gió, chết chóc, và tang thương cho toàn thế giới với nạn dịch Covid-19. Nước Mỹ yêu dấu của tôi cũng chịu chung một số phận, nạn dịch khiến nhiều gia đình mất đi những người mình yêu thương. Ngoài nạn dịch, cộng đồng người Việt vừa mất đi 2 khuôn mặt nghệ sĩ nổi tiếng, 2 cây đại thụ, một là danh ca Mai Hương và người kia là một văn, nhà báo, thi sĩ kiêm phóng tác gia nổi tiếng Hoàng Hải Thủy. Hai nghệ sĩ mất cách nhau đúng 7 ngày. Ca sĩ Mai Hương ra đi ngày 29 tháng 11, 2020, để lại trong lòng người yêu âm nhạc một giọng ca “dệt nên sợi tơ vàng” trong nền tân nhạc Việt Nam. Nhà văn Hoàng Hải Thủy, ra đi ngày 6 tháng 12, 2020, để lại một kho tàng đồ sộ văn chương, thi phú, phóng tác, và đủ các thể loại khác nhau.
Thông thường những người viết về những kỷ niệm của họ với các người nổi tiếng vừa mới ra đi trong cộng đồng người Việt hải ngoại là những người đồng niên đồng tuế, những người bạn tâm giao hay những người bạn văn nghệ sĩ vì họ cùng thời với nhau, có cùng một đam mê, một nhân sinh quan, và một thời sinh hoạt với nhau trên các văn thi đàn hay sân khấu. Tôi chỉ là một người thuộc thế hệ sau, xa lắc xa lơ, một đứa con nít, lại không phải là một văn nghệ sĩ, dù chỉ là một văn nghệ sĩ quèn không ai biết tên. Nhưng tôi có may mắn được gặp và sống gần ông, rất gần, trong một thời gian dài, không phải cuộc sống ngoài đời tươi đẹp mà ở trong phòng 10 khu ED, khám Chí Hòa.
Ai cũng biết sau tháng 4 năm 1975, toàn miền Nam sống trong một nhà tù to lớn như sống trong một trại súc vật với những con vật bình đẳng như nhau, trong đó có những con vật bình đẳng với nhau hơn những con khác. Những người dân bị tù chính trị đều không xa lạ với những trại giam T 30 thường được gọi là khám lớn Chí Hòa, hay trại số 4 Phan Đăng Lưu, những trại giam mà khi nghe tên người tù biết mình sẽ phải ở đó một thời gian rất lâu không biết ngày trở về. Ngày đó, tất cả văn nghệ sĩ miền Nam “chưa được bồi dưỡng chính trị” hầu hết không vào tù thì cũng bị cấm viết. Tôi gặp nhà văn Hoàng Hải Thủy trong hoàn cảnh đó.
Từ khu biệt giam, tên công an cai tù dẫn tôi ra phòng tập thể số 10 khu ED. Tiếng cánh cửa phòng và ổ khóa loảng xoảng mở ra, tên tù gầy nhom như bộ xương biết đi bị đẩy vào trong. Còn ngỡ ngàng chưa quen với một số quá đông người trong phòng, hơi nóng, mùi mồ hôi cơ thể nhiều ngày không tắm xộc vào mũi làm tôi nghẹt thở. Trong phòng biệt giam, tuy đói ăn và buồn thê thảm nhưng yên tĩnh, chỉ có mùi hôi riêng của mình đã quen, không làm cho tôi dội ngược như trong lúc này. Anh trưởng phòng dẫn tôi đến chỗ nằm mới, kế bên cái cầu tiêu và thùng nước sinh hoạt chung cho cả phòng. Nhiều cặp mắt chăm chú nhìn tôi dò xét. Tôi cũng kín đáo đưa mắt quan sát chung quanh để đánh giá tình hình. Hình như mình là một trong vài tù nhân trẻ nhất trong phòng.
Chiều hôm đó, sau khi sinh hoạt, kiểm điểm, và điểm danh số người trong phòng, anh trưởng phòng giới thiệu tên tôi với mọi người, đọc nội quy phòng, và hỏi tôi có thắc mắc gì không, sau đó ai nấy trở về chỗ mình nằm. Người thì trò chuyện với nhau, người thì ngồi trầm tư một mình, có những người khác xếp bằng ngồi thiền hoặc đọc kinh, mạnh ai nấy lo chuyện riêng tư của mình. Tôi ngồi một mình một góc, đầu óc hỗn độn hoang mang suy nghĩ lung tung. Vài bạn tù trạc tuổi tôi đến hỏi thăm và cho tôi một vài điếu thuốc rê, tiện dịp hỏi thăm tôi vào tù vì tội gì. Vì cảnh giác trong thời cộng sản nên tôi chỉ trả lời vô thưởng vô phạt khiến họ thất vọng và trở về chỗ cũ.
Trời tối một lúc lâu, anh trưởng phòng vỗ tay vài tiếng, yêu cầu mọi người im lặng, đã tới giờ “chiếu phim”. Các phòng kế bên là phòng 9, 11, và 12 cũng lên tiếng xin mọi người im lặng để nghe “phim”. Ở một góc phòng, một người đàn ông tóc bạc trắng như bạch kim, tuổi khoảng trên 50, rất đẹp lão, ngồi dựa lưng vào tường, đang phì phà điếu thuốc rê, nhả khói mù mịt, ông đằng hắng lấy giọng giới thiệu cuốn phim hôm nay mang tựa đề “Như truyện thần tiên”. Khán thính giả vỗ tay ào ào. Giọng ông cất lên sang sảng, trong veo, và mạnh mẽ khác thường, tiếng kể chuyện vang xa qua các phòng kế bên. Tôi thầm phục sao ông ta lại có một giọng kể đầy nội lực, lôi cuốn và hấp dẫn đến thế.
Nhắm mắt lại, nghe giọng đọc truyền cảm và lôi cuốn, tôi tưởng như trước mặt tôi là một màn ảnh lớn, cuộn phim được chiếu lên với các tài tử diễn viên thật. Nhân vật chính đang nằm ngửa thả trôi trên biển vắng, nhìn lên bầu trời xám xịt, không xa là chiếc du thuyền đang chìm dần. Cứ như thế, ông già đầu bạc đưa người nghe say mê vào câu chuyện như đang ngồi trong rạp xi nê trước màn ảnh lớn. Cả phòng im lặng để nghe cho rõ từng câu từng chữ, say mê và hồi hộp.
Từ ngày miền Nam mất vào tay cộng sản, tôi không còn được coi một phim nào có giá trị nghệ thuật xưa. Mọi người trong phòng thả hồn theo giọng kể của ông một cách say sưa, không ai dám đi lại hay gây một tiếng động nào, sợ sẽ đánh mất đi những đoạn hồi hộp trong phim. Một anh bộ đội người ngoài miền Bắc bị tù vì tội cắp của công đem bán chợ trời, ngồi há hốc mồm, chảy cả nước dãi, ngồi nghe mải miết quên cả hút thuốc lào sợ tiếng động làm cuốn phim đứt mạch. Đến khi “người chiếu phim” tạm ngưng và hẹn sẽ được tiếp tục chiếu vào lần kế tiếp, mọi người đều ngẩn ngơ tiếc nuối nhưng vì nội quy phòng, nên ai nấy phải giữ im lặng và đi ngủ.
Tôi hỏi người bạn tù kế bên ông ấy là ai mà kể chuyện hay quá như một nhà văn chuyên nghiệp. Anh ta cười trả lời: “Thì nhà văn Hoàng Hải Thủy đó chứ ai”. Tôi đã nghe và biết tiếng nhà văn Hoàng Hải Thủy trước năm 1975, và sau ngày thua cuộc, khi còn ở ngoài đời, qua báo chí của chính quyền cộng sản. Trong tờ Tuổi Trẻ, tôi có theo dõi bài viết của Huỳnh Bá Thành, một tên họa sĩ nằm vùng, giờ là
giờ là tổng biên tập tờ báo công an thành Hồ, hắn và đồng bọn viết bài “Những tên biệt kích cầm bút” để nói xấu văn nghệ sĩ miền Nam. Vụ án này xôn xao cả nước lúc bấy giờ. Tôi đọc để coi bọn chúng viết láo đến chừng nào vì lý lẽ của kẻ mạnh lúc nào cũng đúng. La raison du plus fort est toujours la meilleure (LaFontaine). Người dân miền Nam thừa biết là chúng đặt chuyện để tiêu diệt tất cả nền văn hóa miền Nam mà chúng cho là chưa “quán triệt đường lối” của nhà nước.
Bản thân tôi rất cảm phục sự cam đảm những người văn nghệ sĩ chân chính này. Họ bị gán ghép là biệt kích văn nghệ, luôn điên cuồng chống phá cách mạng, nhưng hầu hết người miền Nam đều hiểu ngầm và hiểu ngược lại những gì cộng sản viết. Chính quyền cộng sản càng nói xấu văn nghệ sĩ thì người dân càng yêu mến họ hơn nhưng không ai dám để lộ ra tình cảm của mình. Nay bị ở tù, tôi mới được gặp một người trong nhóm là nhà văn Hoàng Hải Thủy mà tôi chỉ hình dung qua sách vở báo chí. Sau này tôi mới biết tất cả nhóm “biệt kích” nổi tiếng và đáng kính này gồm 8 người mà tôi còn nhớ tên đến bây giờ: Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (RIP), Dương Hùng Cường (RIP), Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự, và 2 người nữ là Lý Thụy Ý và cô Nguyễn thị Nhạn, nhân viên bưu điện, người đã giúp gởi các bài viết ra nước ngoài, tố cáo sự đàn áp của cộng sản.
Cái cơ duyên đưa đẩy tôi vào nhóm ăn chung với ông sau khi tôi đánh nhau với một người tù chính trị trong phòng mà tôi xin dấu tên, tạm gọi là anh PB, anh này trạc 40 tuổi, người hơi mập và to lớn hơn nhiều so với cái thân thể gầy nhom ốm yếu của tôi. Anh làm “ăng ten” hay bí mật báo cáo với cai tù những sinh hoạt của anh em tù trong phòng. Mọi người trong phòng âm thầm điều tra và dò hỏi 1 anh tù trật tự, anh này cho hay chính anh PB là thủ phạm. Trong phòng, hầu hết là tù chính trị, vài người tội kinh tế và ai nấy cũng đều khá lớn tuổi, nên dù biết rõ tên PB, nhưng không ai muốn dây dưa với hắn. Tôi là người tù trẻ nhất, lý tưởng, đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, nhưng hơi ngu, tôi chịu không nổi thái độ hèn hạ đó nên tôi tìm cách cho hắn một bài học theo kiểu Lục Vân Tiên thấy chuyện bất bình không ra tay không phải trượng phu.
Một hôm, sau giờ điểm danh sáng, khi cai tù đã đi xuống lầu, mọi người còn ngồi họp, anh trưởng phòng nói xa gần, xin anh em nên ý thức đừng để cán bộ biết những gì anh em làm trong phòng như cất dấu tài liệu học tiếng Anh, hâm đồ ăn bằng hỏa tốc, đánh lửa để hút thuốc, thậm chí làm rượu bằng chuối chín và thuốc Aspirin. Những chuyện này không đáng để anh em phải vào biệt giam, và làm khó anh trưởng phòng. Những mẹo nhỏ như vậy chỉ giúp cho cuộc sống của tù nhân dễ dàng hơn một chút mà thôi. Tên PB biết mọi người ám chỉ hắn nên hắn ta sừng sổ chửi thề, vẻ xấc xược vì biết cai tù sẽ bênh vực hắn. Tôi lên tiếng: “Có tịch thì rục rịch, phải không?”. Hắn tiến đến trước mặt tôi đang ngồi xếp bằng trên nền xi măng tiếp tục chửi thề, hắn nghĩ tôi là ma mới, cô độc một mình, dễ ăn hiếp. Tôi cao giọng: “Anh mà chửi nữa, tôi không để yên”. Hắn lại chửi thề: “Rồi mày làm con c… gì tao?”.
Chỉ chờ có thế, tôi bật dậy thật nhanh, tống vào miệng hắn một trái đấm làm lung lay 2 cái răng, tay tôi rướm máu. Tôi và hắn lao vào nhau vật lộn, chỉ sau 1 phút, tôi dộng đầu hắn xuống nền phòng, hắn phải buông tôi ra. Anh em trong phòng, lúc này mới giả bộ nhào vô can cho có lệ. Tôi đứng lên chuẩn bị đồ đạc cá nhân để vào biệt giam một tuần về tội đánh nhau. Ra khỏi biệt giam, tôi được thày Bảy trong nhóm ăn chung với nhà văn Hoàng Hải Thủy, thương tôi không thăm nuôi, kéo vào ăn chung. Thày Bảy là một tu sĩ công giáo và cũng là thày dạy học tôi trước năm 1975, khi mới vào phòng, tôi đã nhận ra thày nhưng vì tế nhị không dám nhận quen. Lúc này thày mới cho hay cũng đã nhận ra đứa học trò ngày xưa. Thày là người tù chính trị được cả phòng thương mến nhất và kính phục vì tính tình nho nhã, điềm đạm, hay giúp đỡ bạn tù, và rất khiêm nhường.
Từ đó tôi lo việc lãnh cơm và chuẩn bị đồ ăn cho cả nhóm, nói nôm na là lo điếu đóm, tôi chính thức gia nhập gia đình “Bát Tiên ông” gồm 7 người lớn tuổi và 1 đứa con nít là tôi. Tôi gọi nhà văn Hoàng Hải Thủy là bố, ông cũng nhận tôi là con. Trong nhóm có hai ông thày tu, thày Trí Siêu, Lê Mạnh Thát, vụ án chùa Già Lam, thày Bảy, tu sĩ công giáo, tội in ấn tài liệu công giáo và giữ bản thảo “Đồi Fanta” của nhà văn Duyên Anh; sau này chính quyền cộng sản mới cho thày chịu chức linh mục khi tuổi thày đã cao, còn lại là các bậc đàn anh sĩ quan VNCH khác. Lúc này tôi kiêm luôn việc quấn thuốc rê cho bố Thủy mỗi khi ông “chiếu phim”. Tôi thắc mắc hỏi sao bố hút thuốc như ống khói tàu mà giọng kể vẫn cứ mạnh mẽ oang oang và chẳng bao giờ ông bị ho. Sau này khi gặp lại nhau trên đất Mỹ, hai bố con đều bỏ được thuốc lá như một phép lạ.
Trích đoạn bài viết từ Rừng Phong của bố Thủy viết về thằng con dzởm là tôi, gặp lại ông bố dzởm HHT:
“Một hôm tôi đọc được lời Lâm Tới gửi đến Blog hoanghaithuy.com:
“Con là Tới, ở Phòng 10 với Bố. Số phone của con.. .. Bố phone cho con.”
Tôi phone cho Tới, và anh Con Dzởm với ông Bố Dzởm gặp nhau trên đất Kỳ Hoa. Tôi théc méc không hiểu bằng cách nào năm 1987 ở Phòng 10 ED Nhà Tù Chí Hoà, tên Tù Lâm Tới chỉ biết có hai tiếng Yes, No. Hai mươi năm sau gặp lại Nó ở xứ người – Bố Dzởm Tám Bó, Con Dzởm Năm Bó Gặp – Nó là chuyên viên về Máy Bay Không Người Lái của Không Quân Mỹ. Lâm Tới và vợ đến Virginia thăm vợ chồng tôi. Nó là đứa Con Dzởm duy nhất tôi gặp lại ở Kỳ Hoa Đất Trích.”(1)
Sống gần bố Thủy mới biết ông là người dễ mến, hiền lành,dễ gần gũi, thẳng tính, vui vẻ hòa đồng với mọi người và nhất là rất đời thường không kênh kiệu. Ông không bao giờ nói xấu ai bao giờ. Kẻ nào đến ông kể chuyện xấu về người tù khác, ông kiếm cách đổi đề tài ngay lập tức. Ông hay tâm sự rằng ông cũng nhát hít, sợ chết lắm, nhất là sợ bọn công an cộng sản. Ông hiểu cộng sản, nếu giết được nhóm văn nghệ sĩ của ông, họ sẽ không ngần ngại, nhưng nhờ thời thế lúc này đã khác với những ngày xưa trong thập niên 40; nhờ có sự can thiệp của mấy hội Ân Xá quốc tế, Amnesty International, và hội Văn Bút quốc tế, Pen International can thiệp nên chúng mới còn để nhóm ông sống.
Lần nào khi thăm nuôi gặp mặt gia đình trở vào, ông hay dựa lưng vào tường trầm tư cả buổi. Đến tối, bố con ngồi bên nhau hút thuốc, ông tâm sự: “Được gặp mặt gia đình thì vui, nhưng khi đi trở vào thì buồn quá. Nhất là con gái bố, Kiều Giang, nó phải đẩy xe đi bán bánh bao”. Tôi chỉ ngồi nghe mà không biết nói gì. Rồi bố lại than thở: “Gia đình cứ khuyên bố phải can đảm lên, cố lên đừng nản lòng vì các hội đoàn quốc tế đang lên tiếng về vụ việc của bố”. Ông thở dài não nuột: “Bố ở tù chứ gia đình có ở tù đâu nên người nhà đâu có hiểu”.
Để giết thời gian trong tù, chúng tôi hay học lén lút tiếng Anh bằng nhiều cách để qua mặt bọn cai tù. Thời gian đó, chính quyền cộng sản Việt Nam cho nhập về cuốn nguyệt san Sputnik của Nga, bắt chước theo cuốn Reader’s Digest của Mỹ, cùng một kích thước, và được viết bằng Anh ngữ để tuyên truyền về sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản. Nhờ tù trật tự mua dùm lén đem vô phòng, chúng tôi xé cuốn sách ra thành nhiều phần, mỗi người dấu một phần, nếu bị tịch thu chỉ mất phần đó mà thôi. Thày Trí Siêu dạy “học trò” môn này, thày rất khó tính, bắt mọi người phải tự đọc trước và dịch ra tiếng Việt cho đến khi nhuần nhuyễn mới đến trả bài, chữ nào sai, thày sửa; nếu vấp váp, thày bắt dừng ngay và về chỗ tự học lại. Nhiều người không vui vì ngoài đời, họ cũng là dược sĩ, bác sĩ, kỹ sư…nên họ tự ái, nhưng nếu không học thày Trí Siêu thì học ai. Thày tuyên bố chỉ dạy những người đã biết tiếng Anh chứ không dạy người mới học vỡ lòng.
Tôi biết thân phận nên không dám xin học thày, nhưng lòng thì không vui vì tôi vốn ham học lắm. Tôi xin bố Thủy dạy cho tôi. Bố khiêm nhường bảo: “Bố làm sao bằng thày Thát được, thày ấy là tiến sĩ học ở Mỹ về”. Năn nỉ riết, bố đồng ý dạy một mình tôi. 15 năm sống trong chế độ cộng sản, tôi không được đi học một ngày nào, nhất là tiếng Anh, khi tôi cầm cuốn Sputnik lên, những giòng chữ nhảy múa, tôi như đi lạc giữa rừng già. Vậy mà học với bố một thời gian, tôi bắt kịp các đàn anh “học trò” thày Thát. Nhờ vậy thời gian cũng qua mau và vốn liếng cóp nhặt đó giúp tôi rất nhiều khi qua đến Mỹ.
Mấy năm sống trong phòng cùng bố Thủy và anh em bạn tù đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi nghề nghiệp, tôi học được nhiều điều hay từ các bậc đàn anh, cha chú ngày xưa từng làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi học được từ bố cách sống ở đời trong những hoàn cảnh trớ trêu như nơi tù tội. Hơn nữa, bố là người thày Anh ngữ đầu tiên của tôi. Một xã hội thu nhỏ trong căn phòng tù cũng nhỏ xíu, tôi mới thấy được nhiều gương mặt, nhiều tính cách mà trong tận cùng đau khổ, con người ta khó mà dấu được. Bố Thủy của tôi vẫn sống rất thật với con người và bản chất của một văn nghệ sĩ chân chính nhưng không kém phần lãng mạn.
Có lần bố ưu tư không biết bố có còn sống để thấy chủ nghĩa cộng sản sụp đổ trên quê hương mình hay không? Rồi cũng chính bố tự an ủi mình: Sẽ có một ngày đẹp trời, cộng sản Việt Nam sẽ phải chịu chung số phận với bọn đàn anh chúng. Cộng sản Nga và Đông Âu đã sụp đổ từ gốc rễ, mấy cành mục rỗng ở Việt Nam rồi cũng phải chết theo cây như một định luật tự nhiên. Khi ở Mỹ rồi, bố kể tôi nghe về tên trùm cộng sản Đông Đức Eric Honecker trốn chạy và chết nhục nhã ở Chile; vợ chồng tên bí thư cộng sản Romania, Nicolae Ceausescu, bị chính quân đội của hắn xử bắn như thế nào khi ngày tàn của chúng đến Rồi giòng đời đẩy đưa tôi trôi dạt qua đất Mỹ khi tuổi đời đã hơn lứa tuổi “tam thập nhi lập”. Tôi chỉ ước ao kiếm được một việc làm tay chân để nuôi bản thân. Tôi quên quá khứ, quên gia đình, bè bạn, quên cả giao tiếp với cộng đồng người Việt, ngày đêm chăm chỉ học hành và làm việc. Khi toàn thế giới đã bắt đầu xài internet, tôi đọc tin tức Việt Nam, thấy hình thày Thát ngồi với tên bí thư cộng sản Đỗ Mười trong dịp lễ Vesak, những hình ảnh cũ tràn về, tôi lần kiếm tin tức về nhà văn Hoàng Hải Thủy (2).
Năm 2013, khi gặp lại bố ở Virginia, tôi hỏi sao bố không về California có nắng ấm, có bạn bè, có đồ ăn Việt Nam. “Bố thích cỏ xanh, thích nhìn rừng Phong thay lá, và đặc biệt bố yêu thích Virginia vì nó là vùng đất của những người yêu nhau. Virginia is the land for Lovers”. Bố trả lời với một nụ cười thật tươi trên gương mặt giờ đây đã nhuốm màu thời gian qua những vết chân chim bên khóe mắt.
Bây giờ bố đã bỏ Rừng Phong lại sau lưng để đi về nơi miên viễn cùng với má. Bố và má, những người yêu nhau ở Rừng Phong, Virginia; khi về miền đất miên viễn, bố và má vẫn mãi mãi là những người yêu nhau. Đại văn hào Mark Twain có câu: Cuộc sống là trò chơi mà không người nào thắng. Life is a game, which no man wins. Con người, ai rồi cũng phải trước sau, bước lên chuyến tàu cuộc đời để đi về miền đất thênh thang, bố đã sống một cuộc đời bi hùng nhưng đẹp đẽ, giữ được khí tiết của người viết văn. Sự ra đi của bố nhẹ nhàng thanh thản, như cây đèn dầu cạn dần được cất đi để chờ đón ánh bình minh đang ngự đến. Bố ơi, hãy ngủ yên trên vùng đất của những người yêu nhau.
NGUYỄN VĂN TỚI. 12-2020. Nhớ về nhà văn Hoàng Hải Thủy.
REFERENCES:
- Chú thích riêng của tác giả: Sở dĩ bố Thủy gọi tôi là Lâm Tới vì thời đó ở Việt Nam, nhà nước cộng sản chiếu phim “Đường về quê mẹ” trong đó diễn viên nam đóng vai “thằng Núi” tên là Lâm Tới. Trong phòng đều gọi tôi là Lâm Tới kể từ đó.
- Xin đọc thêm trang web của nhà văn Hoàng Hải Thủy, tiểu sử, sự nghiệp và một kho tàng văn chương với đủ thể loại: https://hoanghaithuy.wordpress.com
Tổng kết cuối năm: Việt Nam Nhìn Từ Bên Trong- Tác giả Quách Hạo Nhiên
Nhìn từ bên trong là nhìn với tinh thần tự vấn, tự soi rọi chính mình. Nhìn từ bên trong vì thế, đòi hỏi sự dũng cảm để dám trung thực với bản thân và cộng đồng, dân tộc. Một quốc gia, một dân tộc, một xã hội mà “hệ điều hành”, vận hành không dựa trên những giá trị nền tảng có tính chuẩn mực, phổ quát; trái lại, chỉ thừa mứa sự giả dối và ảo tưởng đó là dấu hiệu của sự tha hóa và suy đồi. Quốc gia, dân tộc như thế khó có thể nói đang phát triển ổn định hay bền vững cho dù những chỉ số tăng trưởng thuần túy về kinh tế có thuộc tốp đầu thế giới.
1. Đại hội Đảng các cấp, vi rút Vũ Hán và bão lũ miền Trung
Để chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ XIII (dự kiến cuối tháng 01 đến nửa đầu tháng 02/2021), gần như cả năm 2020, Đảng ta đã tập trung mọi nguồn lực để chuẩn bị trong bối cảnh con vi rút Vũ Hán càn quét toàn cầu. Ngoài ra, trong khoảng 2 tháng cuối năm (từ tháng 10 đến đầu tháng 12), khúc ruột miền Trung còn hứng chịu thêm một đợt bão lũ rất nghiêm trọng.
Nếu như việc tập trung đối phó với con vi rút Vũ Hán bằng những bước đi căn cơ và hiệu quả, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ, thì ngược lại, hình ảnh cờ hoa tràn ngập trong vô số Đại hội Đảng các cấp đã phơi bày một nghịch lý đáng suy ngẫm: Đảng bao giờ và lúc nào cũng quang vinh, “đi trước”, hưởng trước còn đại bộ phân dân chúng, nhìn chung, vẫn nghèo xơ xác và lũ lượt theo sau.
Chưa có một thống kê nào về tổng chi phí (cờ, hoa, băng rôn, khẩu hiệu, in ấn tài liệu, quà tặng đại biểu…) dành cho cuộc tổng tập dượt này nhưng có một điều chắc chắn kinh phí ấy là tiền thuế của hơn 90 triệu đồng bào trong và ngoài nước góp vào. Tiêu pha cho những việc hình thức như thế có đáng không chắc chắn là một câu hỏi bức thiết về khoa học thống kê nhưng sẽ không cần thiết với đại bộ phận dân chúng đang rất cần có miếng bỏ vào mồm trong bối cảnh đại dịch và bão càn, lũ quét.
Thế nên, như thường lệ, truyền thông chính thống vẫn luôn làm tốt chức năng tuyên truyền và định hướng của mình. Tinh thần tương thân, tương ái; lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát – một truyền thống quý báu của dân tộc mấy ngàn năm nghèo đói - đương nhiên là “món ăn tinh thần” ngon, bổ, rẻ trong bối cảnh buộc phải phong tỏa, cách ly toàn xã hội. Dân chúng phần vì sợ chết, phần vì đã quen chịu đựng nên nhìn chung là ngoan ngoãn ngồi nhà đọc báo điện tử, chia sẻ cách rửa tay phòng chống dịch; số khác thức thời hơn thì lên mạng xã hội chém gió để bán khẩu trang dỏm và nước sát khuẩn không rõ nguồn gốc; hoặc không thì kiếm tiền bằng những câu chuyện nóng, sốt, giật gân…
Ngoài ra, để tạo hiệu ứng tuyên truyền trong bối cảnh dân chúng không thể đi đâu ngoài việc ở nhà cầm điện thoại lướt mạng thì việc tạo ra những anh hùng xuất chúng có công dẫn dắt dân tộc qua cơn bĩ cực là phương pháp dễ thực hiện. Thế nên, ngài Phó thủ tướng trực tiếp chỉ huy trận địa phong chống Covid, các nhà tư bản sắm vai Mạnh Thường Quân, các “anh hùng ATM gạo” hay về sau là cô ca sĩ nọ ngay lập tức trở thành những vị anh hùng hay bà tiên giáng trần để cứu nhân độ thế.
Có ơn phải trả (lại một truyền thống quý báu nữa) nên thơ và nhạc là hai món tủ, món ruột không thể thiếu để dân chúng thay phiên nhau thể hiện lòng biết ơn của mình trước Đảng, Chính phủ cũng như cô ca sĩ có tấm lòng Bồ Tát trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội.
Tóm lại, năm 2020, dù buộc phải phong tỏa toàn xã hội để đối phó với vi rút Vũ Hán (đợt 1) và bão lũ càn quét các tỉnh miền Trung trong hai tháng cuối năm nhưng Đại hội đại biểu các cấp toàn quốc của Đảng ta vẫn diễn ra đúng tiến độ và thành công mĩ mãn. Sự thành công này một lần nữa cho thấy sự tài tình và sáng suốt của toàn hệ thống chính trị.
Dẫu vậy, nếu đặt sự tài tình và sáng suốt ấy bên cạnh bức tranh về sự xác xơ của một bộ phận dân chúng khi phải xếp hàng nhận gạo, mắm, muối từ các nhà từ thiện; sự trần trụi, tang thương của đồng bào miền Trung trong cơn bão lũ sẽ cho thấy một Việt Nam ẩn sâu bên trong là những mảng lở loét, bầy nhầy, nham nhở…
Nói khác đi, đó là bức tranh tổng thể về sự tương phản rất giống với bức tranh trong “Sở kiến hành” (Những điều trông thấy trên đường) mà cụ Nguyễn Du đã vẽ cách đây mấy trăm năm. Hóa ra, cuộc sống của quan và dân ở xứ sở này từ bấy đến nay về cơ bản vẫn không có gì thay đổi: Quan đương nhiên cao sang, quyền quý, xa hoa ăn trên ngồi trước; còn dân đương nhiên vất vả, cùng cực, chịu đựng và mang ơn…
2. Tầng lớp trí thức nhìn từ sự cố sách giáo khoa lớp 1
Bàn về vai trò và trách nhiệm của người trí thức trong xã hội, học giả Nguyễn Văn Trung có một định nghĩa rất hay:
“Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hoặc sau đại học, mà là người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra, điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức, mà là thái độ trí thức đối với các vốn ấy và, nhất là, đối với những vấn đề cuộc sống trước mặt đặt ra.”
Nhà văn hóa Cao Huy Thuần cũng có cái nhìn và cách nói rất độc đáo:
“Ai đánh thức không cho xã hội ngủ người ấy là trí thức, bất kể họ là ai. Bởi vì trí thức không có vai trò nào khác, họ là và chỉ là lương tâm của thời đại.”
Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện. Trong xu thế toàn cầu hóa về tri thức và văn hóa, theo tôi, đây là một chủ trương đúng và cần thiết.
Có người nói vấn đề quan trọng nhất của cuộc đổi mới lần này là phải xác định và đề ra triết lý giáo dục rồi mới bắt tay vào làm các khâu còn lại trong đó có vấn đề biên soạn sách giáo khoa phổ thông các cấp. Quan điểm này, theo tôi là không sai. Tuy vậy, từ thực tế về bối cảnh và điều kiện của Việt Nam hôm nay, tôi nghĩ việc lựa chọn những người “cầm trịch” để lèo lái con thuyền giáo dục mới là yếu tố mang tính quyết định nhất. Triết lý giáo dục đương nhiên cần thiết vì là kim chỉ nam có tính định hướng chung. Nhưng triết lý cũng do chính con người nghĩ ra nên quyết định nhất vẫn là yếu tố con người. Cho dù có xác lập một triết lý hay ho đến đâu đi nữa nhưng vẫn sử dụng những con người cũ để triển khai thì cũng khó tạo nên những đột phá theo hướng tích cực, tiến bộ. Sự cố về bộ sách Tiếng Việt lớp 1 của nhóm Cánh Diều thời gian qua đã ít nhiều cho thấy điều đó.
Hay nói khác đi, qua sự cố này đã cho thấy sai lầm lớn nhất của việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay là vẫn không/chưa thể tập hợp được hết những cá nhân ưu tú và tử tế nhất của đất nước để cùng chung tay gánh vác sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Ngoài ra, nhìn vào thái độ của các “cây đa cây đề” liên quan trực và gián tiếp đến những sai sót trong sách lớp khoa lớp 1 nhóm Cánh Diều (cả những người biên soạn lẫn Hội đồng thẩm định) cho thấy văn hóa, giáo dục và xã hội Việt Nam còn lâu mới có thể phát triển theo hướng văn minh và tiến bộ.
Việc các “cây đa cây đề” với vai trò đầu tàu, dẫn dắt nhưng luôn ngụy biện, bao biện không thừa nhận những sai lầm của mình đã phơi bày bản chất thật rất đáng hổ thẹn của họ trước “những vấn đề cuộc sống đặt ra”. Không hổ thẹn sao được khi mà chính họ luôn mạnh miệng chỉ trích các quan chức trong bộ máy chính quyền khi những người này mắc sai phạm nhưng đến lượt mình gây ra lỗi lầm thì không có dũng khí của một kẻ sĩ chân chính. Đã vậy, khi làm giáo dục họ đặt mục tiêu phải làm sao hình thành phẩm chất trung thực, tư duy độc lập, phản biện cho thế hệ trẻ nhưng chính họ chứ không phải ai khác lại là những người bảo thủ, định kiến và hẹp hòi nhất khi không chịu thừa nhận những điều trên từ người khác.
Không dừng lại ở đó, lâu nay những “cây đa, cây đề” này vốn là thần tượng của rất nhiều người trong xã hội. Đặc biệt, vây quanh họ là những cá nhân với mối quan hệ cộng sinh về danh lợi trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và truyền thông báo chí (đồng nghiệp, bè bạn, học trò qua các thế hệ…). Vì mối quan hệ cộng sinh về danh lợi này nên khi các “cây đa cây đề” phạm phải sai lầm chẳng mấy người dám lên tiếng đối thoại bằng tinh thần trách nhiệm và nhất là “lương tâm thời đại” của kẻ sĩ chân chính. Ở giác độ văn hóa, đây là sự cộng sinh suy đồi vì nó nhân danh sự “tương kính”, “tôn sự trọng đạo” hay “kính lão đắc thọ” giả hiệu mà bất chấp hậu quả cùng những hệ lụy lâu dài về sau.
Cuối cùng, một vấn đề quan trọng nhưng hiếm người đề cập đó là nhìn chung, lâu nay hầu hết các dự án, đề án liên quan đến kinh tế, văn hóa, giáo dục mang tầm quốc sách đều do các nhân sĩ, trí thức phía Bắc chủ trì, chi phối và đưa ra các quyết định cuối cùng. Các nhân sĩ, trí thức phía Nam rất ít khi (có cơ hội) tham gia vào các ban bệ, hội nhóm này. Đây là một thực tế từ khi nước nhà thống nhất đến nay. Thực tế này phản ánh rất rõ “năng lực” và “truyền thống lý luận”, sự khôn lõi của nhân sĩ, trí thức phía Bắc đồng thời cho thấy tính thụ động, thờ ơ, không chấp, không quan tâm của nhân sĩ, trí thức phía Nam.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Thiệp – một nhà văn phía Bắc đã khái quát về nhân sĩ, “trí thức Bắc Hà” rất sinh động và trần trụi trong truyện ngắn “Kiếm sắc” cách đây hơn 30 năm. Đoạn đối thoại giữa nhân vật vua Gia Long - Nguyễn Ánh với nhân vật Đặng Phú Lân trong “Kiếm sắc” là cái nhìn phản tỉnh cao độ rất đáng trân trọng của Nguyễn Huy Thiệp nhưng tiếc thay, mọi chuyện đến nay vẫn không có gì chuyển biến:
“Ánh hỏi: "Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc Hà, sao ngươi tái mặt?" Lân tâu: "Lân là người Bắc Hà nên tủi phận mình sợ cho mình".
Ánh bảo: "Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện, xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả".
Lân bảo: "Ða số như thế, chôn cũng đáng. Chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công". Ánh bảo: "Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm…".
Nhờ có “truyền thống lý luận” hay nói nôm na là sự khôn lõi, bẻm mép nên nhìn chung, nhân sĩ trí thức phía Bắc có đời sống vật chất sống sung túc và giàu có hơn nhân sĩ, trí thức phía Nam. Tuy vậy, nhìn sâu vào bên trong lại thấy họ có vẻ “nghèo”, và hời hợt, khổ sở hơn về phương diện đời sống tinh thần. Đó phải chăng cũng là lý do mà, các nhân sĩ, trí thức phía Nam về cuối đời hiếm khi phải ăn năn, sám hối như không ít trí thức, nhân sĩ phía Bắc (trước khi mất thường viết hồi ký để thanh minh và “nói lại” kiểu như Nguyễn Khải, Nguyễn Đăng Mạnh…- rất khác so với Sơn Nam hay Trang Thế Hy…)? Âu cũng là quả báo và hệ lụy tất yếu bởi “bút sa gà chết”. Nếu anh không kiểm soát tốt những suy nghĩ và cảm xúc nhất thời của bản thân anh hôm nay; đặc biệt nếu anh không trung thực và tự trọng mà bẽ cong ngòi bút; và một khi đã cụ thể hóa những suy nghĩ và cảm xúc ấy thành ra giấy trắng mực đen thì chắc chắn đó sẽ là bằng chứng mà hậu thế sẽ soi vào, đánh giá.
Rồi đây, những Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Đỗ Ngọc Thống…hôm nay sẽ được hậu thế đánh giá một cách công bằng và thỏa đáng nhất là về thái độ trí thức và tầm vóc văn hóa trên cơ sở những gì họ viết ra.
Nhưng thôi, dẫu sao đó cũng là chuyện của tương lai, hiện tại chúng ta hãy cứ hy vọng vì vẫn còn những Bùi Văn Nam Sơn, Cao Huy Thuần, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương…- những nhân sĩ, trí thức đáng kính đang cần mẫn cống hiến trong âm thầm, lặng lẽ chứ không ồn ào, náo nhiệt, xu thời…
3. Bầu Tổng thống xứ cờ hoa/ Mà sao dân Việt chúng ta rần rần
Người viết bài này từng nhận định, người Việt nếu soi kỹ, nhìn kỹ vào bên trong là một dân tộc rời rạc, đầy sân hận và thiếu đoàn kết. Chỉ khi nào cả dân tộc bị đẩy đến bước đường cùng (bị xâm lược bởi ngoại bang hoặc thiên tai tàn khốc…) thì mới biết yêu thương và đùm bọc nhau. Đó phải chăng là lý do mà suốt chiều dài lịch sử, cả dân tộc phải quay cuồng trong các cuộc chiến tranh, đánh đấm triền miên? Hết đánh đuổi các thế lực ngoại bang xâm lược lại quay về “gà nhà bôi mặt đá nhau”. Cũng chính vì say sưa “đá nhau” nên lại tiếp tục bị ngoại bang lợi dụng. Cứ thế, mấy ngàn năm không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của bạo lực, đánh đấm (không chỉ bạo lực về vũ trang mà còn về tinh thần).
Đáng tiếc là “truyền thống” chia rẽ, “mất đoàn kết nội” này hiếm khi được các sử gia và các chuyên gia văn hóa lên tiếng để cảnh tỉnh, thức tỉnh hậu thế. Trái lại, sử sách chỉ réo rắt, tụng ca một chiều về niềm tự hào hay sự gan dạ, dũng cảm, anh hùng của dân tộc khi sơn hà nguy biến.
Tuy cũng không quá bất ngờ về sự ham gây gỗ và “máu me chiến trận” của người Việt nhưng phải nói rằng tôi thật sự kinh khiếp về độ hung hãn của đồng bào mình trong lúc tranh cãi về sự kiện bầu cử Tổng thống Huê Kỳ trên mạng xã hội vừa qua. Tưởng rằng, với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, sẽ mở ra nhiều cơ hội để người Việt tự học, tự rèn luyện nhằm nâng cao nhận thức bản thân. Thế nhưng, về cơ bản đa phần vẫn cứ mông muội, hoang dã và man rợ trong hành xử, ứng xử như thường.
“Việc nhà biếng nhác, việc chú bác làm siêng”. Đại hội Đảng các cấp ở xứ mình băng rôn khẩu hiệu giăng mắc đầy đường nhưng chẳng mấy ai quan tâm còn bầu cử nơi xứ người thì mỗi giây, mỗi phút ai nấy lại hùng hổ chứng tỏ sự thông tuệ, hiểu biết mang tầm “bách khoa toàn thư” và quốc tế.
Thật lạ lùng làm sao, chỉ vì ủng hộ hay không ủng ông Trăm, ông Đen mà từ thường dân cho đến trí thức sẵn sàng lao vào nhau nhất là xem nhau như kẻ thù không đội trời chung.
Chỉ vì ẩn ức và khát khao thoát khỏi sự kìm kẹp của tập đoàn chính trị Tập Cận Bình mà cả dân tộc lại tự bộ lộc và chứng minh cho cả thế giới thấy sự rời rạc và sân hận không thể tin nổi.
Không tự giải quyết vấn đề của chính mình trái lại còn muốn “mượn gió bẻ măng” cho thấy tâm lý nhược tiểu và yếm thế của một dân tộc chưa trưởng thành dù có bề dày lịch lập quốc mấy nghìn năm. Một dân tộc như thế, thử hỏi làm sao có tương lai nếu không tự nhìn lại và thay đổi ngay từ bây giờ?
Thay lời kết
Về cơ bản, Đại hội Đảng là cơ hội để nhìn lại những gì đã làm được và chưa/không làm được; trên cơ sở đó chỉ ra nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục. Tiếp theo là vạch ra lộ trình, đường hướng và mục tiêu cho chặng đường mới.
Được biết, lần này Đảng ta đặt mục tiêu đến giữa thế kỷ 21 Việt Nam “sẽ trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bỏ qua cái đuôi “định hướng…”, cứ tạm xem mục tiêu như thế là vừa tầm. Vấn đề là làm sao để đạt được mục tiêu ấy khi những nền tảng văn hóa tối quan trọng cấu thành “nội lực quốc gia” đã đang rệu rã hay thậm chí mục ruỗng?
Đồng bằng sông Cửu Long – xương sống về kinh tế nông nghiệp của cả nước đang đứng trước nguy cơ tan rã; “rừng vàng biển bạc” ở những vùng miền còn lại cũng không còn là thế mạnh; nhân sĩ trí thức thì đa phần đang quay cuồng trong hai chữ lợi danh; dân chúng bình dân thì mạnh ai nấy sống; tham nhũng thì đã thành quốc nạn… Trong khi đó, quan trọng nhất là cái “hệ điều hành” chung của quốc gia đã quá cũ kỹ, lỗi thời đã vậy còn rơi vào khủng hoảng (nhân sự cấp cao) thì cơ sở nào để hứa hẹn trong tương lai sẽ lập nên kỳ tích?
Thế nên, nhìn lại và nhìn sâu vào bên trong để hiểu và nhận ra mình đang là ai, đang ở đâu và làm gì là thao tác nhận thức quan trọng nhất lúc này. Nếu không mọi hứa hẹn sẽ chỉ là hoang tưởng và ảo vọng.
Cách đây mấy mươi năm Lưu Quang Vũ từng nói:
“Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng áp phích trên tường bằng những lời đanh thép
Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn
Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh
Những bàn tay dám làm, những tấm lòng dám thật
Cuộc đời chẳng dừng chân một phút
Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp
Đến nay thành không đủ nữa rồi
Những người tốt tự bằng lòng với hôm nay
Mai sẽ là kẻ xấu…!”
Liệu rằng, đến giữa thế kỷ 21 ai sẽ dũng cảm tự nhận mình là người tốt hay kẻ xấu trước quốc dân đồng bào?